intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Thực trạng lạm phát từ năm 2008 đến nay

Chia sẻ: NGUYEN VAN DO | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:17

422
lượt xem
66
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chúng ta biết rằng mức lạm phát cao sẽ ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế, tăng trưởng và lạm phát là hai chỉ số vĩ mô cơ bản của mỗi nền kinh tế nhưng chúng lại biến thiên theo xu hướng ngược chiều nhau khiến các chính phủ thường phải đánh đổi một trong hai hoặc cân bằng hài hòa giữa chúng mỗi khi đưa ra các chính sách phát triển kinh tế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Thực trạng lạm phát từ năm 2008 đến nay

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH KHOA KẾ TOÁN-KIỂM TOÁN LỚP 111_T08 TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ THỰC TRẠNG LẠM PHÁT TỪ NĂM 2008 ĐẾN NAY NHÓM 9 Trần Thị Ngọc Bích Nguyễn Thành Đạt Nguyễn Văn Đô Nguyễn Thị Mỹ Hường Nguyễn Thị Hồng Nhung Lê Thị Thu Thảo GVHD: Trần Mạnh Kiên TP. Hồ Chí Minh, 11/2011 1. MỞ ĐÂU ̀ Việt nam đang trên tiến trình hội nhập kinh tế để phát triển, chúng ta cũng giống như phần lớn các quốc gia trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi từ mô hình kinh tế chỉ huy sang mô hình kinh tế thị trường đều trải qua lạm phát cao. Lạm phát là một hiện tượng kinh tế vĩ mô phổ biến và có ảnh hưởng r ộng l ớn đ ến các mặt của đời sống hiện đại. James Tobin là một nhà kinh tế học người Hoa Kỳ theo trường phái kinh tế học Keynes đã từng được trao giải nobel kinh tế năm 1981, ông đưa ra quan điểm: khi tỷ lệ lạm phát mang giá trị dương vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế và thuật ngữ “dầu bôi trơn” được ông dùng để miêu tả những tác động tích cực của lạm phát. Theo James Tobin mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí thực tế mà nhà sản xuất phải chịu để mua đầu vào sản xuất giảm đi, điều này sẽ khuy ến khích họ đầu tư mở rộng sản xuất, việc làm cũng được tạo thêm góp phần vào tăng trưởng của đất nước đồng thời hạn chế được thất nghiệp. theo kinh tế học hiện đại khi tỷ lệ lạm phát xảy ra ở mức cao ( trên 9%) sẽ làm ảnh hưởng tiêu cực đ ến toàn nền kinh tế. Những tác động chủ yếu bao gồm: giá cả tăng mạnh sẽ làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ở cả hai thị trường trong và ngoài nước (mức độ tùy thuộc vào độ mở của nền kinh tế, càng nghiêm trọng khi độ mở càng lớn và ngược lại) dẫn tới giảm khả năng cạnh tranh
  2. của toàn nền kinh tế. Lạm phát cao làm giảm giá trị đồng tiền trong nước. Khi các mức giá cả trong tương lai khó dự đoán hơn thì các kế hoạch chi tiêu và ti ết ki ệm hợp lý sẽ trở nên khó thực hiện hơn. Người dân ngày càng lo ngại về việc s ức mua trong tương lai của họ giảm xuống và mức sống của họ cũng vì vậy mà kém đi ngay từ hiện tại. Lạm phát cao khuyến khích các hoạt động đầu tư mang tính đầu cơ trục lợi hơn là vào các hoạt động sản xuất khiến kinh tế tăng trưởng chậm lại, thất nghiệp tăng, phúc lợi xã hội vì thế sẽ giảm. Chúng ta biết rằng mức lạm phát cao sẽ ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế, tăng trưởng và lạm phát là hai chỉ số vĩ mô cơ bản của mỗi nền kinh tế nhưng chúng l ại biến thiên theo xu hướng ngược chiều nhau khiến các chính phủ thường phải đánh đổi một trong hai hoặc cân bằng hài hòa giữa chúng mỗi khi đưa ra các chính sách phát triển kinh tế. Lạm phát có nhiều nguyên nhân, để kiểm soát tình trạng l ạm phát trước hết chúng ta phải hiểu rõ về nguyên nhân của lạm phát. Từ đó phân tích nguyên nhân nào là nguyên nhân chính yếu để giúp chính phủ đưa ra những chính sách phát triển kinh tế phù hập và đây cũng là mục đích bài tiểu luận của nhóm chúng tôi.
  3. 2. THỰC TRANG VÀ NGUYÊN NHÂN LAM PHAT ̣ ̣ ́ 2.1. Khái niệm lam phat ̣ ́ Lạm phát dùng để chỉ sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung hầu hết các hàng hóa, dịch vụ so với thời điểm một năm trước đó trong một thời gian nhất đ ịnh. Tức là khi giá trị của hàng hóa dịch vụ tăng lên đồng nghĩa với sức mua của đồng tiền giảm đi cùng với một số tiền nhất định. Có thể nói lạm phát là sự tăng lên liên t ục của mức giá. Nói một cách cụ thể hơn,lạm phát là hiện tượng giảm mãi lực của đồng tiền. Điều này cũng đồng nghĩa với “vật giá leo thang”, giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng cao khiến với cùng một số lượng tiền, người tiêu thụ mua được ít hàng hóa hơn hoặc phải trả một giá cao hơn để hưởng cùng một dịch vụ. 2.1.1. Các chỉ số đo lường lạm phát: Mức giá chung của nền kinh tế được nhìn nhận theo 2 cách. Chúng ta coi mức giá là giá của một giỏ hàng hóa và dịch vụ. Khi mức giá tăng mọi người phải tr ả nhiều tiền hơn cho những hàng hóa dịch vụ mà họ mua. Chúng ta có thể coi mức giá cũng như là giá trị của tiền. Sự gia tăng mức giá có nghĩa là giá trị của tiền giảm bởi vì mỗi đồng tiền bỏ ra lúc này mua được ít hàng hóa hơn trước. Mức giá chung được tính bằng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) hoặc chỉ số điều chỉnh (GDP). Chỉ số giá bao gồm một số loại như sau: • Chỉ số giá bán lẻ - CPI – Consumer Price Index • Chỉ số giảm phát GDP (GDP Deflator) • Chỉ số giá bán buôn – WPI - Wholesale Price Index • Chỉ số giá sản xuất – PPI – Producer Price Index,... 2.1.2. Phân loại lạm phát: • Dựa vào định lượng: Lạm phát vừa phải: lạm phát dưới 2 chữ số Lạm phát phi mã: lạm phát từ 2-3 con số Siêu lạm phát: trên 3 chữ số Thực tế, lạm phát nước ta là lạm phát phi mã. • Dựa vào định tính Lạm phát thuần tuý: giá hàng hoá sản xuất và hàng tiêu dùng tăng cùng t ỉ l ệ trong một đơn vị thời gian. Lạm phát cân bằng và không cân bằng: lạm phát tưng cùng tỉ lệ với thu nhập. Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường.
  4. 2.1.3. Nguyên nhân của lạm phát: Có ba nguyên nhân chính gây ra lạm phát: • Lạm phát do cầu kéo. • Lạm phát do chi phí đẩy. • Lạm phát do quán tính. 2.2. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam qua các giai đoạn: 2.2.1. Lạm phát qua các giai đoạn: • Giai đoạn 2007-2008: Năm 2007: Theo Tổng cục Thống kê, giá tiêu dùng tháng 12/2007 tăng tới 2,91%, không những cao nhất so với các tháng trong năm (kể cả tháng 2 là tháng có Tết Nguyên đán cũng chỉ tăng 2,17%). Lạm phát của Việt Nam tăng cao ở mức hai con số 12,63, giá tiêu dùng tăng 12,63%, cao nhất trong 11 năm qua; tốc độ tăng trưởng 8,5% nhờ có nguồn vốn đầu tư nước ngoài khá lớn đã chảy vào nước ta. Theo các số liệu đưa ra trong báo cáo, các dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam trong năm 2007 có thể đạt 5,7 tỷ USD (8,1% GDP), còn các dòng vốn khác có thể đạt khoảng 8,9 tỷ USD (12,7% GDP). Cùng với đó, tăng trưởng tín dụng trong năm 2007 đạt mức 54%, thị trường chứng khoán cũng phát triển bùng nổ... Ở các nước châu Á khác, giá lương thực - thực phẩm tăng cao là nguyên nhân chính gây lạm phát, nhưng ở Việt Nam, giá cả các mặt hàng phi lương thực cũng tăng tới trên 10% so với cùng kỳ năm ngoái do tăng trưởng kinh tế cao, nhu cầu cao và thanh khoản dồi dào. Tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay được coi là một ví dụ về “cú sốc” lạm phát. Một số ví dụ khác bao gồm Trung Quốc hồi mùa xuân năm 2004 và mùa thu năm 2007, Ấn Độ đầu 2008, Indonesia mùa hè 2005… Đi đôi với sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng như thế khiến nước ta khó tránh khỏi lạm phát cũng leo thang. Cán cân thương mại năm 2007 thâm hụt lớn, nhập khẩu 62,7 tỷ USD tăng +39.6% so với năm 2006, xuất khẩu 48.6 tỷ USD tăng 21,9%, nhập siêu 14,1 t ỷ USD (năm 2006 nhập siêu 5 tỷ USD), nhập siêu chiếm tỷ lệ rất đáng lo ngại 19,8%GDP (lưu ý việc nhập siêu tăng nhanh có yếu tố giá cả thế giới: xăng dầu, sắt thép, s ợi bông, chất dẻo.. tăng cao do đồng USD yếu), cán cân vãng lai thâm hụt ở tỷ lệ cao trên 6% GDP ở mức đáng lo ngại… Năm 2008: Khép lại với mức lạm phát những 2 con số 19,89% với mức lạm phát gia tăng không ngừng trong 8 tháng đầu năm (đỉnh điểm là vào tháng 2, tháng 5 và tháng 8) do hệ quả của năm 2007 và chủ yếu còn do tác động trực tiếp từ giá LTTP, giá VLXD, giá dầu tăng và kết thúc với sự giảm phát trong những tháng cuối năm vì các kinh tế không còn chịu tác động của giá các mặt hàng trên cùng với tâm lý chờ giá xuống đã thắng tâm lý cầm cự của các nhà DN. Chỉ số giá tháng 9 tăng 0,18%, tháng 10 giảm 0,19%; chỉ số giá tháng 10 so với tháng 12/2007 tăng 21,69%, tháng 11 này âm, tháng 12 đề phòng giáp tết nhu cầu tiêu thụ tăng làm giá hàng hoá có thể lên chút
  5. ít thì con số chắc vào khoảng 22%. Ba tháng cuối năm là thời gian khủng hoảng kinh tế bộc lộ rõ ràng và lan rộng. Chỉ số tăng trưởng GDP hiện nay giảm xuống rất thấp và lạm phát ở mức rất cao (trên 20%). Chỉ số tăng trưởng GDP năm 2008 rất thấp, chỉ còn 6,7% mặc dù tốc độ tăng trưởng của Việt Nam năm 2007 cao nhất trong 10 năm qua. Mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2008 do Quốc hội đề ra từ kỳ họp cuối năm tr ước là 8,5- 9%, Th ủ tướng Chính phủ chỉ đạo phấn đấu đạt trên 9%. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế quý 1/2008 đã chậm lại so với tốc độ của quý 1/2007. Lạm phát vượt qua mức tối đa cho phép 9% và lạm phát năm 2008 tình đến nay là 22,3%. Lạm phát năm 2007 đã ở mức hai chữ số (12,63%), 3 tháng 2008 tiếp t ục lồng lên đến mức 9,19%, cao gấp ba lần cùng kỳ và bằng gần ba phần t ư mức c ả năm 2007, đã vượt qua mức theo mục tiêu đã đề ra cho cả năm 2008; nhập siêu gia tăng cả về kim ngạch tuyệt đối (3.366 triệu USD so với 1.933 triệu USD), cả về tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu (56,5% so với 18,2%)... HÌNH 1: Tốc độ tăng lạm phát ở Việt Nam vào năm 2007 và 2008 (từ tháng 1 năm 2007 đến tháng 10 năm 2008) Nhận xét: Nhìn đồ thị ta thấy giai đoạn 2007-2008, chỉ số giỏ thực phẩm tăng cao và tăng mạnh vào những thỏng 1-2/07 và 1-2/08 và cao nhất khoảng 5-6/08. Qua đây cho ta thấy giỏ thực phẩm tăng mạnh vào những thỏng gần tết khi nhu cầu về hàng hoá gia tăng. Mặt hàng phi thực phẩm cú chỉ số giỏ thấp hơn thực phẩm và chỉ tăng vào 8-9/08.
  6. Nguyên nhân cơ ban: ̉ ­ Sự biến động thị giá cả trên thị trường thế giới tác động đến giá cả của thị trường trong nước, đặc biệt là các mặt hàng: dàu mỏ, lương thực, thực phẩm, các nguyên liệu trong sản xuất công nghiệp. Sự tăng giá các mặt hàng trong nước đã góp phần làm lạm phát bùng phát. ­ Cung tiền quá mức: 11/2007 Việt Nam chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO đã tạo ra nhiều cơ hội và thách thức mới. Nguồn vốn từ nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng lên nhanh chóng.Cụ thể: năm 2007, vốn đầu tư trực tiếp FDI giải ngân lên 8 tỉ USD, năm 2008 lên tới 11,7 tỉ USD chiếm 1/3 lượng vốn đầu tư trong nền kinh tế. Dòng vốn đàu tư gián tiếp FPI cũng tăng mạnh, năm 2007 ước tính có trên 7 tỉ USD từ dòng vốn FPI đổ vào Việt Nam. Vốn viện trợ phát triển ODA hằng năm Việt Nam nhận được 2 tỉ USD ( nhưng năm 2007:2 tỉ USD, năm 2008: 2,2 tỉ USD. Kiều hối chuyển về Việt Nam hằng năm từ 5-7 tỉ USD. Mặc dù Việt Nam luôn bị thâm hụt thương mại cao nhưng khoản thâm hụt này ít hơn so với dòng tiền chuyển vào Việt Nam dẫn đến cán cân tài khoản vãng lai vẫn thặng d ư.D ự trữ ngoại tệ ngân hàng thương mại liên tục tăng cao ( năm 2006: tăng 4,6 t ỉ USD, năm 2007: tăng 10 tỉ USD, năm 2008: tăng 2,4 tỉ USD).Gây những biến động về lãi suất (lãi suất huy động liên tục tăng cao trong cuộc chạy đua về lãi suất) và tỉ giá (diễn biến phức tạp). Dự trữ ngoại tệ của ngân hàng nhà nước tăng đồng nghĩa với một lượng tiền tương ứng VND được bơm vào nền kinh tế. Mặt khác, ngân hàng nhà nước không thực hiện các biện pháp kiểm soát lượng tiền bơm vào nền kinh tế dẫn đến tiền trong nền kinh tế cứ tăng lên. Ngoài ra, năm 2006 và năm 2007, hệ thống các ngân hàng phát triển mạnh mẽ tăng trưởng tín dụng đạt 49.1% năm 2007 và 50.18% năm 2008. Như vậy, tăng trưởng tín dụng cao và dùng tiền mua ngoại tệ của ngân hàng nhà nước đã làm cho cung tiền tăng mạnh  Lạm phát. ­ Sự thiếu hiệu quả đầu tư (Nước ta chỉ số ICOR cao, lớn hơn 40%, gấp 5 lần các nước Đông Á và các quốc gia có cùng trình độ phát triển)  Thâm hụt ngân sách cao thường xuyên. ­ Sử dụng không hiệu quả chính sách tiền tệ: đầu năm 2008, nhà nước thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ thông qua tăng lãi suất gây ra tình trạng kinh tế bị suy thoái. ­ Thị trường chứng khoán, bất động sản bất ổn, tỉ giá diễn biến phức tạp gây ra tâm lí bất ổn các nhà đầu tư và người dân: dẫn đến các hiện t ượng như đầu cơ tích trữ hay rút vốn đầu tư đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
  7. • Giai đoạn 2009-2010: Năm 2009: Kinh tế Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng 5,32%, vượt mục tiêu đề ra và đứng vào hàng các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao của khu vực và trên thế giới. Sản xuất công nghiệp thoát khỏi tình trạng trì trệ những tháng đầu năm và cả năm đã tăng 7,6%. Sản xuất nông nghiệp được mùa với sản lượng lúa cả năm đạt 38,9 triệu tấn, tăng 165.700 tấn so với năm 2008. Cân đối kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định. Mặc dù nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài giảm sút, nhưng đầu tư trong nước đã được khơi thông nên tính chung vốn đầu tư phát triển cả năm đạt 7042000 tỷ đ ồng, tăng 15,3% so với năm 2008. Thu ngân sách đạt dự toán cả năm và bội chi ngân sách bảo đảm được mức Quốc hội đề ra là không vượt quá 7% GDP. Lạm phát đ ược kiềm chế, chỉ số tăng giá tiêu dùng tháng 12 năm 2009 so với tháng 12 năm 2008 tăng 6,52%, thấp hơn mục tiêu 7% Quốc hội thông qua; chỉ số giá bình quân năm 2009 là 6,88%, thấp nhất trong 6 năm gần đây. Với CPI binh quân cả năm đứng ở mức 1 con số (6,88%), năm 2009, kiêm soat ̀ ̉ ́ lam phat được coi là thanh công lớn cua Viêt Nam. Thanh công đó cang ân tượng hơn ̣ ́ ̀ ̉ ̣ ̀ ̀ ́ khi đông hanh với tôc độ tăng trưởng GDP 5,3% và thât nghiêp không ở mức nguy ̀ ̀ ́ ́ ̣ hiêm như dự đoan. ̉ ́ Khủng hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn trong năm 2008 đã đẩy kinh tế thế giới vào tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị trường vốn, thị trường lao động và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội của nước ta. Nhìn một cách khách quan có thể thấy, lạm phát cao năm 2008, cùng với sự đảo chiều của vốn đầu tư nước ngoài và thâm hụt cán cân thương mại đã tác đông đến tâm lí các nhà đầu tư trên thị trường ngoại hối, gây những biến động khó l ường đến tỷ giá. Do thực hiện tôt các chính sách tiền tệ bằng biện pháp hỗ trợ lãi suất đã tác đông tích cực hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sản xuất, làm khởi sắc thị trường ̣ chứng khoán, bất động sản và thị trường tín dụng. Thị trường tiền tệ t ừng bước được ổn định tuy nhiên 6 tháng đầu năm 2009 thị trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi. Các biện pháp chấn chỉnh hoạt động ngoại hối được tăng cường. Cuối năm, thâm hụt cán cân thương mại gia tăng thêm vào đó thâm hụt ngân sách tăng cao, năm 2009 thâm hụt ngân sách ở mức 6,5%.Tỷ giá biến đổi bất lợi. Năm 2010: chỉ số giá tiêu dùng tăng 11,75% so với tháng 12/2009, vượt xa chỉ tiêu lạm phát Quốc hội thông qua đầu năm là không quá 7% trong khi mục tiêu Chính phủ điều chỉnh là không quá 8%. Theo tài liệu họp báo của Chính phủ ngày 02/7/2010, trong 6 tháng đâu năm ̀ 2010, tình hình phát triển kinh tế - xã hội đất nước đã đạt được kết quả khá toàn diện, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế được lạm phát, nền kinh tế tiếp tục phục hồi khá nhanh. Các ngành, lĩnh vực đều đạt tăng trưởng cao hơn cùng kỳ năm trước: GDP 6 tháng đầu năm 2010 đạt khoảng 6,16%; Tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 32,1 tỷ USD, tăng 15,7%; thu ngân sách đạt khá đảm bảo các nhiệm vụ chi từ
  8. NSNN. Trong 6 tháng đầu năm 2010, vốn FDI thực hiện đạt 5,4 tỷ USD, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm 2009. Đặc biệt lạm phát được kiềm chế. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6 so với tháng 5/2010 tăng 0,22%, là mức thấp nhất so với cùng kỳ các năm trước. So với tháng 12/2009, chỉ số giá tiêu dùng tháng 6/2010 tăng 4,87%. Trong đó, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 16,18%, với quyền số 39,93%, nhóm này đã đóng góp vào mức tăng chung của chỉ số CPI khoảng 6,46%, hơn một nửa mức tăng CPI của c ả năm. Tiếp đến là nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt, VLXD, tăng 15,74%, với quy ền số 10,01%, nhóm này góp phần làm tăng chỉ số chung khoảng 1,57%. Nhóm giáo dục có mức tăng cao nhất 19,38%, với quyền số không lớn là 5,72%, nhưng nhóm này đã đóng góp mức tăng khoảng 1,1% vào mức tăng chung của chỉ số CPI. Trong tháng 12, giá vàng và đôla Mỹ không leo thang mạnh như những tháng trước (lần lượt tăng 5,43% và 2,86%). Tuy nhiên, tính chung trong cả năm 2010, giá vàng đã tăng tới 30% trong khi mức tăng của đôla Mỹ là xấp xỉ 10%. Mặc dù năm 2010, bội chi ngân sách đã được kéo xuống còn dưới 6%, nhưng nếu tính cả huy động trái phiếu, thì tỷ lệ vẫn còn ở mức 7%. Đó là mức rất cao, không những là một trong những nguyên nhân của lạm phát cao, mà còn làm gia tăng nợ nần.Nhập siêu năm 2010, so với năm trước và so với kế hoạch trong năm, đã giảm và thấp hơn cả về kim ngạch tuyệt đối cũng như tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu, nhưng nhập siêu liên tục, kéo dài và hiện ở mức khá cao (năm 2007 là 14,2 tỷ USD, năm 2008 là 18,0 tỷ USD, năm 2009 gần 12,9 tỷ USD, năm 2010 khoảng 12 tỷ USD). Điều này đã tác động tiêu cực tới cán cân thanh toán, dự trữ ngoại hối và t ạo s ức ép lên tỷ giá. Giá USD trên thế giới giảm, nhưng ở trong nước vẫn tăng (năm 2008 tăng 6,31%, năm 2009 tăng 10,7%, 11 tháng năm 2010 tăng 6,63%), làm tăng mạnh gánh nặng lạm phát… Báo cáo do Ngân hàng Thế giới (WB) đưa ra ngay 7/12/2010 tại Hội nghị ̀ Nhóm tư vấn các nhà tài trợ (CG-2010), WB nhận định lạm phát cả năm 2010 ở mức 10,5% - cao hơn nhiều so với mục tiêu 8% mà Quốc hội đề ra trước đó. Ngân hàng Thế giới khuyên Việt Nam cần có những chính sách thân thiện với thị trường hơn để đạt mục tiêu bình ổn giá, trong đó bao gồm việc sử dụng nhiều hơn chính sách c ạnh tranh và chính sách tiền tệ. Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam đột ngột dâng cao hơn dự kiến trong tháng 10 và 11. Cụ thể, đến cuối tháng 11, tỷ lệ lạm phát 11 tháng đứng ở mức gần 9,6%. Lạm phát giá lương thực hàng năm lên đến 14,8%, cao nhất kể t ừ tháng 4/2009.
  9. Hình 2: Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 2009 và 11 tháng của năm 2010 (đơn vị: %). Từ biểu đồ chúng ta có thể nhận thấy lạm phát của giai đoạn 2009 –2010 có nhiều nét tương đồng. Cả hai năm này đều có hình dạng của một chiếc cốc, chỉ số CPI vào các tháng đầu năm và cuối năm đều ở mức cao, cụ thể là: CPI ở mức cao nhất vào tháng 2 với CPI của 2 năm lần lượt là 1,17 và 1,96; CPI vào tháng 9 lần lượt là: 0,62 và 1,31, tới cuối năm thì lên tiếp tục lên cao vào tháng 11 với chỉ số CPI l ần lượt là: 1,38 và 1,86 chủ yếu do sức ép cầu lớn. Trái lại ở các tháng còn lại chỉ số CPI lại giảm sụt liên tục và sự tăng trở lại là không đáng kể. Cụ thể vào tháng 3 (năm 2009) chỉ số CPI chỉ ở mức -0,17 cho thấy sự suy giảm của nền kinh tế đã tới mức nghiêm trọng, hay ở tháng 4, tháng 7 trong năm 2010 cũng có dấu hiệu c ủa s ự tăng trưởng kinh tế yếu. Nhưng một điểm đáng chú ý là năm 2009 do tác động của khủng hoảng kinh tế và giảm phát của cuối năm 2008 nên tốc độ lạm phát có phần dịu hơn so với năm 2010 - khi mà nền kinh tế đã bắt đầu phục hồi trở lại. Nhìn chung vấn đề lạm phát của giai đoạn này có thể gói gọn trong cụm từ “diễn biến phức tạp, khó dự báo trước”. Nguyên nhân cơ ban: ̉ ­ Khủng hoảng tài chính của một số nước lớn trong năm 2008 đã đẩy kinh tế thế giới vào tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị trường vốn, thị trường lao động và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế-xã hội khác của nước ta. Lạm phát cao năm 2008, cùng với sự đảo chiều của vốn đầu tư nước ngoài và thâm hụt cán cân thương mại đã tác động mạnh mẽ tâm lí các nhà đầu tư trên thị trường ngoại hối gây những biến động khó lường đến tỉ giá.
  10. ­ Thêm vào đó, giải pháp hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp phục hồi sản xuất, nhiều doanh nghiệp vay VND để mua ngoại tệ cầu mua ngoại tệ tăng mạnh,tâm lí găm giữ ngoại tệ,và gói hỗ trợ lãi suất này còn làm khởi sắc thị trường chứng khoán, bất động sản và tín dụng , gây sức ép tăng lượng tiền trong nền kinh tế, tín dụng tăng cao và giảm gía VND. ­ Thâm hụt ngân sách tăng cao năm 2009 là 6,5% GDP buộc ngân sách phải vay nợ nhiều gây áp lực giảm giá VND. ­ Đến năm 2010 kinh tế thế giới phục hồi, kì vọng sự phục hồi kinh tế khiến giá hàng hoá tăng lên , chi phí đầu vào sản xuất của các doanh nghiệp tăng lên (vì nhập nhiều nguyên, vật liệu, phụ liệu cho sản xuất) đ ẩy giá thành sản phẩm lên cao. ­ Các công cụ chính sách được nhà nước ban hành và không đ ạt đ ược hiệu quả như ý muốn, quản lí giá cả vẫn chưa thực hiện tốt như vàng, USD tăng chủ yếu do tâm lí, đầu cơ, găm giữ. ­ Hiệu quả đầu tư chưa tốt nguồn vốn đầu tư lớn. ­ Ngoài ra do chính sách tự do lãi suất nên các ngân hàng thương mại muốn thu hút vốn nên đẩy lãi suất huy động lên cao lại chay đua lãi suất lãi suất cho vay cao gây cản trợ hoạt động kinh doanh cho các doanh nghiệp, để cho vay được thì các ngân hàng này cấp tín dụng cho các khoản vay đ ầu tư bất động sản, chứng khoán nguồn vốn không vào hoạt động sản xuát kinh doanh mà chuyển vào đầu tư không tạo giá trị gia tăng. • Giai đoạn 2011-2012: Năm 2011: Các chuyên gia nghiên cứu kinh tế nhận định lạm phát năm 2011 là rất phức tạp, khó dự báo trước được. Biểu hiện cụ thể qua việc: Ba lần liên tiếp trong năm nay Chính phủ nới chỉ tiêu về lạm phát. Trong lần điều chỉnh đầu tiên cuối quý 1, chỉ tiêu về lạm phát được điều chỉnh từ 7% lên 11,75%. Lần thứ hai từ 11,75% lên 15% vào cuối tháng 5 và lần thứ ba từ 15% lên 17% tính đ ến thời đi ểm vào cuối tháng 6. So với cuối năm 2010 thì chỉ số giá tiêu dùng tháng 7-2011 tăng 14,61% và tăng 22,16% nếu so với cùng kỳ năm trước.Tỷ lệ lạm phát chung của Việt Nam năm 2011 (so với tháng 12/2010) được dự báo sẽ ở mức khá cao: 18,98%.
  11. Hình 3:Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng chín tháng đầu năm 2011 (nguồn: Tổng cục Thống kê) - Đồ họa: Vĩ cường - Ảnh: H.T.V. Nhận xét: Kinh tế Việt Nam tăng trưởng 6.78% năm 2010 trong khi tỷ lệ l ạm phát là 11,75% Mục tiêu phát kinh tế Việt Nam năm 2011 do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đưa ra và đã được Quốc hội thông qua ngày 08/11/2010 đã nhấn mạnh tới việc tăng cường ổn định vĩ mô và kiềm chế lạm phát nhưng vẫn đề ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2010. Điều này mâu thuẫn với chính các quy luật kinh tế bởi khi mức tăng trưởng cao thì sẽ đi kèm theo lạm phát mặc cho lạm phát đang diễn biến phức tạp, liên tục tăng cao từ những năm 2007, 2008. Nền kinh tế nước ta có độ mở thương mại lớn nên không thể nói là đã hết bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng tài chính thế giới 2008 vẫn còn dai rẳng, đặc biệt là khủng hoảng nợ công hiện tại ở Châu âu sẽ ảnh hưởng không tích cực tới xuất khẩu của đất nước. Tăng tr ưởng ở nước ta cũng phụ thuộc quá nhiều từ đầu tư thế nhưng chỉ số ICOR về hiệu quả đầu tư của Việt Nam luôn cao chứng tỏ hệu quả sử dụng vốn chưa cao. Tổng kết tình hình kinh tế xã hội chín tháng đầu năm 2011 chỉ số giá tiêu dùng CPI v ượt ngưỡng 18% và chưa có xu hương giảm cho nên không có cơ sở nào có thể khẳng định được chính phủ hoàn thành được mục tiêu kểm soát lạm phát dưới 7% như đã đề ra. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 9 tháng ước tính tăng 5,76% so với cùng kì năm 2010. Nhâp siêu là 6,84 tỷ USD bằng 9,77% tổng kinh ngạch xuất khẩu 9 tháng. Theo như dự báo của ủy ban kinh tế mặc dù chúng ta đã thực hiện t ốt ngh ị quyết 11 của chính phủ nhưng từ nay đến cuối năm, áp lực lạm phát có thể sẽ ra tăng , bản tin kinh tế vĩ mô số 5 của Uỷ ban Kinh tế vừa được gửi đến quốc hội cho rằng mục tiêu mới của chính phủ về kiềm giữ CPI dưới 18% của năm nay trở nên rất khó
  12. khăn. Bởi lạm phát tháng 9 có thể coi là đã vượt đỉnh của năm 2011 và l ạm phát tính theo cùng kỳ năm trước của tháng 8 ở mức rất cao 23,02%. Trong khi đó từ nay đến cuối năm, áp lực lạm phát có thể ra tăng do áp lực tăng giá USD so với VND, điều chỉnh tăng giá điện, tăng lương. Sự biến động mạnh c ủa giá vàng lên lạm phát kỳ vọng và áp lực ra tăng nhu cầu đ ầu tư, tiêu dung c ủa người dân vào cuối năm. Trong bốn tháng đầu năm nay lạm phát ở nước ta vẫn ở mức cao và diễn biến khá phức tạp. Tính đến cuối tháng bốn,lạm phát tăng 9,6 % so với tháng 12 năm 2010, tăng 17,51 % so với cùng kì năm 2010. Tới cuối tháng 5: lạm phát của nước ta vẫn ở mức 2 chữ số 19,78 % (so với cùng kì năm ngoái,CPI tăng 2,21 %). Nhờ việc chính phủ đã thông qua nghị quyết 11 về giải pháp chống lạm phát nên tới tháng 6 lạm phát ở nước ta đã được kiềm chế thể hiện ở chỉ số giá tiêu dùng CPI chỉ tăng 1,09 %. Tháng 8 là đỉnh điểm của lạm phát với() thâm hụt thương mại cao với tăng trưởng xuất khẩu xuống còn 21 % cùng kì so với mức tăng trưởng 5,6 % trong tháng 7, nhập khẩu tăng 25,5 % cao hơn tháng 7 với 17,3 %. Cán cân thương mại dịch chuyển từ mức kỉ lục 1,1 tỷ USD sang thâm hụt 800 USD. Theo tin AFP, số liêu cua ̣ ̉ chinh phủ Viêt Nam cho biêt lạm phát Việt Nam trong thang 8/2011 lên mức 23%, ảnh ́ ̣ ́ ́ hưởng không nhỏ đến mục tiêu và nổ lực bình ổn kinh tế vĩ mô mà chính phủ đang nhắm tới. Tổng Cục Thống Kê Việt Nam loan báo mức lạm phát tháng Tám này là 23% so với mức 22% của tháng Bảy. Đây cũng là lần thứ mười hai trong năm mà chỉ số giá tiêu dùng tăng lên. Tính đến tháng 9,chỉ số CPI tăng nhẹ 0,82 % so với tháng trước, giảm xuống còn 22,42% từ 23,02%. Đây là mức tăng khá cao so với các tháng cùng kì c ủa 15 năm gần đây. Trong khi đó nguồn cung tiền còn khá chậm, tổng phương tiện thanh toán M2 chỉ tăng 5 % trong 8 tháng đầu năm 2011 Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, nguyên nhân đẩy giá CPI tiếp tục tăng trong tháng này vẫn là do sự tăng đột biến trong nhóm giáo dục với mức 3,2% do tháng 10 nhu cầu tiêu dùng và sắm sửa đồ dùng học tập cho năm học mới vẫn khá cao. Kế đến là nhóm hàng thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,73%; may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,63%; nhóm hàng đồ uống và thuốc lá tăng 0,49% và nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,45%... Nhóm hàng hàng ăn, dịch vụ ăn uống vốn là tác nhân chính khiến chỉ số CPI tăng vọt trong những tháng trước đây lại có mức tăng khá khiêm tốn chỉ 0khoi,06%. Nguyên nhân chính là do mặt hàng lương thực tháng này ̉ tăng đột biến đến 1,27% và nhóm ăn uống ngoài gia đình tăng 0,67%. Tuy nhiên, đà tăng của nhóm đã bị chặn lại do giá thực phẩm hạ nhiệt, giảm 0,49% so với tháng trước.
  13. Cùng với mặt hàng lương thực, tháng 10 còn ghi nhận thêm sự giảm tốc ở nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng khi giảm 0,03%. Các nhóm giao thông, bưu chính viễn thông cũng tiếp tục giảm lần lượt là 0,13% và 0,17%. Tuy nhiên, tính chung trong 10 tháng, chỉ số CPI hiện vẫn tăng 18,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Còn tính từ đầu năm đến nay, CPI đã tăng 17,05%. , chỉ s ố giá vàng đã giảm 4,22%, trong khi đôla Mỹ tăng 0,39%. Năm 2011 dư âm lạm phát năm 2010 gây tác động vào kì vọng của người dân, họ không tin lạm phát đầu năm 2011 sẽ được kiểm soát. Lãi suất cao không thể giảm do lạm phát cao từ năm 2010 và do đó doanh nghiệp tiếp tục gặp khó khăn trong vấn đề vay vốn ảnh hưởng tới giả cả hàng hoá. Nguyên nhân lạm phát của nước ta trong giai đoạn trên là do : ­ Lạm phát do chi phí đẩy: giá cả biến động… ­ Lạm phát do cầu kéo: do các chính sách điều chỉnh kiểm soát chưa hiệu quả của nhà nước. Và do chưa kiểm soát hiệu quả nguyên nhân này mà nước ta hiện nay có tỉ lệ lạm phát cao nhất Châu Á, nhì thế giới, chỉ sau Venuezuela. ­ Ngoài ra còn có yếu tố khách quan đó là: thiên tai vì nước ta chịu nhiều thiên tai nên cũng gây ảnh hưởng tới giá cả của một số mặt hàng. Năm 2012: Dự báo biến thiên từ 7,9 đến 14,7%. Viện Khoa học xã hội Việt Nam dự báo lạm phát 2012 (so với tháng 12/2011) sẽ giảm mạnh xuống mức 11,3% và thậm chí xuống mức 1 chữ số, Ủy ban Kinh tế cho biết tại bản tin. Mức độ giảm sẽ phụ thuộc chủ yếu vào việc triển khai quyết liệt Nghị quyết 11 đến cuối năm 2012, trong đó đặc biệt là thực hiện hiệu quả cắt giảm đầu tư công, kiềm chế tăng trưởng tín dụng không quá 18% và tổng phương tiện thanh toán dưới 15%, c ộng với tăng mạnh cung lương thực và thực phẩm. Dự báo lạm phát của Việt Nam sẽ biến thiên từ 7,9% tới 14,7% với độ tin cậy 70% năm 2012. Lạm phát cơ bản dự báo sẽ đạt 5,46% so với cuối năm 2011 (biến thiên từ 5,0% tới 5,92% với độ tin cậy 70%). 3. Kêt luân và giai phap ́ ̣ ̉ ́ ́ ̣ 3.1. Kêt luân Có thể khái quát một số đặc điểm cua nên kinh tế vĩ mô củaViệt Nam như ̉ ̀ sau: - Tăng trưởng đạt mức cao so với khu vực, nhưng đang có khuynh hướng chậm lại; đồng thời, tăng trưởng vẫn lệ thuộc nhiều vào mở rộng đầu tư. - Nền kinh tế ngày càng trở nên bất ổn khi hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới (lạm phát dao động mạnh hơn). - Ngân sách thâm hụt triền miên, đi liền với thâm hụt thương mại (thâm hụt kép). - Ngay cả khi được hỗ trợ bởi một dòng kiều hối lớn, cán cân vãng lai vẫn
  14. thâm hụt. - Cán cân tổng thể được hỗ trợ bởi mức thặng dư cao từ cán cân vốn. Tuy nhiên, chịu ảnh hưởng của điều kiện quốc tế, các dòng vốn đang dần có khuynh hướng kém ổn định hơn, dẫn tới khả năng cán cân tổng thể có những dao động lớn, chuyển từ thặng dư sang thâm hụt. Chính sách tỷ giá neo một cách linh hoạt (crawlingpeg) vào đồng USD, nhưng có khuynh hướng đánh giá cao đồng nội tệ. Kiềm chế lạm phát là một vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu trong chính sách kinh tế của các nước nói chung và ở Việt Nam ta nói riêng. Vì vậy việc tìm hiểu bản chất, nguyên nhân gây ra lạm phát là điều hết sức quan trọng và cần thiết. Từ đó ta có thể tìm ra giải pháp tối ưu nhất để khắc phục lạm phát và đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Lạm phát luôn đi kèm với tăng trưởng kinh tế và là kẻ thù của tăng trưởng kinh tế. Nếu chính phủ không cố những chính sách tai chính linh hoạt thì nền ̀ kinh tế sẽ rơi vào tình trạng suy thoái, lạm phát ở mức cao như những năm đầu c ủa thập kỉ 80 ở nước ta. ̉ ́ 3.2. Giai phap Gôm một số điểm như sau : ̀ - Thứ nhât: Đẩy mạnh hơn nữa quá trình chuyển đổi nền kinh tế và cơ chế ́ quản lý kinh tế. Trên cơ sở đó có thể tận dụng tối đa ưu thế của thị trường và khai thác tối ưu tiềm năng của nền sản xuất xã hội. Nhờ vậy mà tăng nhanh số lượng chủng loại và chất lượng hàng hoá cung ứng ra thị trường. - Thứ hai: ổn định giá cả những mặt hàng thiết yếu và những mặt hàng mà nhà nước độc quyền sản xuất kinh doanh. - Thứ ba: Thước đo thông thường nhất của lạm phát là CPI, nhưng việc đo lường CPI không phải luôn chính xác. Vì nó vừa không thể hiện được đầy đủ những biến đổi chất lượng hàng hoá và do nhưng sai sót về mặt kỹ thuất tính toán. - Thứ tư: Cân nhận thức rằng chống và kiềm giữ lạm phát không phải là mục ̀ đích của điều tiết kinh tế vĩ mô, mà chỉ là công cụ, phương tiện, cách thức để tạo môi trường và kích thích tăng trưởng kinh tế. Nghĩa là toàn bộ công cụ, cách thức vĩ mô đều phải hướng tới một mục đích duy nhất là thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Luôn có sự đánh đổi giữa lạm phát và tăng trưởng chính vì vậy khi nhà nước đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế thì không thể nào tránh được lạm phát, chúng ta ch ỉ có thể kiềm chế lạm phát ở một mức độ nào đó nhưng vẫn đảm bảo tăng trưởng kinh tế đó chính là mức lạm phát tôi ưu. Về biện pháp kiềm chế lạm phát mới nhất hiện nay chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24-02-2011 đưa ra bẩy “giải pháp chủ yếu
  15. tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội”. Nội dung nghị quyết có một số tin chính sau đây: ­ Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng. ­ Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nhà nước. ­ Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng. ­ Điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo. ­ Tăng cường bảo đảm an sinh xã hội. ­ Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền. ­ Tổ chức thực hiện. Những biện pháp này được áp dụng với mục tiêu giam tức thời cơn sốt lạm ̉ phát trên cơ sở đó sẽ áp dụng các biện pháp ổn định tiền tệ lâu dài. * Những biện pháp chiến lược Đây là những biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển của nền kinh t ế quốc dân . Tổng hợp các biện pháp này sẽ tạo ra sức mạnh kinh tế lâu dài cho đ ất nước. - Thúc đẩy sự phát triển sản xuất hàng hoá và mở rộng lưu thông hàng hoá. Đây là biện pháp chiến lược hàng đầu để hạn chế lạm phát, duy trì sự ổn định tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân. Sản xuất trong nước càng phát triển thì càng tạo tiền đề vững chắc cho sự ổn định tiền tệ. Chú trọng thu hút ngoại tệ qua việc xuất khẩu hàng hoá, phát triển ngành du lịch. - Kiện toàn bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế quản lý hành chính . Thực hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc giảm chi tiêu thường xuyên của ngân sách do đó giảm bội chi ngân sách nhà nước. - Tăng cường công tác quản lý điều hành ngân sách nhà nước trên cơ sở tăng các khoản thu cho ngân sách một các hợp lý, chống thất thu, đặc biệt là thất thu về thuế, nâng cao hiệu quả của các khoản chi ngân sách nhà nước . Để khắc phục và kiềm chế lạm phát trong giai đoạn hiện nay cần phải thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ như sau: ­ Trước hết phải khống chế tỷ lệ bội chi ngân sách ở dưới mức 5% GDP. Bởi và bội chi ngân sách là một nhân tố quan trọng gâỵ ra sự mất cân đối giữa cung và cầu. ­ Phải nâng cao sản lượng hàng hoá trên cơ sở đẩy mạnh phát triển sản xuất công, nông nghiệp, cụ thể là tạo ra nhiều lương thực, thực phẩm, một số
  16. hàng hoá là tư liệu sản xuất và các loại hàng hoá là nhiên liệu, năng l ượng. Mặt khác cần tiếp tục đổi mới cơ cấu kinh tế và cải tiến công nghệ, c ải tiến kỹ thuật đảm bảo từng bước giảm chi phí sản xuất. Về lĩnh vực ngân hàng với trách nhiệm là một ngành đóng vai trò quan trọng nhất trong việc kiềm chế lạm phát, cần tiến hành các bước sau : ­ Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng trên cơ sở tích cực huy đ ộng vốn và cho vay hiệu quả các dự án. ­ Kiểm soát chặt chẽ cung ứng tiền tệ của ngân hàng nhà nước cho mục tiêu ngoại tệ, ổn định thị trường ngoại tệ và tỷ giá đồng Việt Nam. ­ Nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc. ­ Tăng cường hiệu lực của công tác thanh tra đối với ngân hàng thương mại. ­ Xử lý tôt mối quan hệ với ngân sách nhà nước, phát triển thị trường vốn, đồng thời xúc tiến nhanh việc thiết lập thị trường chứng khoán ở Việt Nam và sự hoà nhập của thị trường này vào cộng đồng kinh tế quốc tế, thu hút nhanh chóng hơn nữa nguồn vốn nước ngoài góp phần phát triển kinh tế đất nước. Ngoài ra cần tổ chức quản lý nợ nước ngoài có kế hoạch và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn vào Việt Nam dưới nhiều hình thức khác nhau như vay vốn của IMF, WB, ADB,.. Tóm lại, trong tình hình hiện nay cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp trong việc thực hiện có hiệu quả về chính sách kinh tế vi mô và vĩ mô của nhà nước (giải quyết tốt vấn đề thâm hụt ngân sách, chấn chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu, điều hành tốt giá cả và lưu thông hàng hoá,..) để đảm bảo vừa tăng trưởng kinh tế vừa kiềm chế lạm phát ở mức tốt nhất.
  17. ̀ ̣ ̉ TAI LIÊU THAM KHAO http://www.sbv.gov.vn http://www.tuoitre.vn/Kinh-te http://www.vef.vn http://www.aascs.com.vn http://www.doimoi.org http://www.vneconomy.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2