intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế

Chia sẻ: Trần Nam | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:31

607
lượt xem
50
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung chính của bài tiểu luận với đề tài "Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế" gồm có 3 chương: Cơ sở lý luận và những vấn đề cơ bản về nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế, thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay trong tiến trình hội nhập,...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế

  1. TIỂU LUẬN Đề tài: Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất   lượng cao của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc   tế. 1
  2. MỞ ĐẦU Chúng ta đều biết rằng,  ở  mỗi quốc gia, dân tộc trong mọi thời đại muốn tồn   tại và phát triển đều rất cần đến con người. “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”  luôn được cha ông nhấn mạnh vì nhân tài chính là nhân tố  cốt lõi của nguồn lực con   người trong mọi thời đại. Hơn nữa chúng ta sống và làm việc trong thời đại mà khoa  học thực sự đã trở thành lực lượng sản xuất vật chất trực tiếp, thời đại mà không còn  khoảng cách về  không gian và thời gian thì chính tiềm lực khoa học ­ công nghệ  và   trình độ dân trí mới là nhân tố quyết định sức mạnh và vị thế của mỗi quốc gia trên thế  giới. Vì thế   ưu tiên phát triển nhân tố  con người, đặc biệt là đầu tư  đào tạo nguồn  nhân lực có chuyên môn, khoa học kỹ thuật không những đáp ứng nhu cầu trong nước  mà còn làm chủ và khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế trong tiến trình hội  nhập của mỗi quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng. Thực tế  hiện nay Đảng và Nhà nước ta đã và đang ngày càng coi trọng nguồn   nhân lực có chất lượng cao, lấy vấn đề  đào tạo và xây dựng nó làm “ quốc sách hàng   đầu” trong chiến lược quốc gia đặc biệt là trong tiến trình hội nhập như hiện nay. Điều này đã được xác định rõ qua từng chủ  trương chính sách phát triển đất   nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ  quá độ  và chiến lược phát triển   kinh tế – xã hội của Đảng đã chỉ rõ: Con người là nguồn lực quan trọng nhất, là nguồn   lực của mọi nguồn lực, quyết định sự  hưng thịnh của đất nước. Đại hội lần thứ  IX   của Đảng đã định hướng cho phát triển nguồn nhân lực Việt Nam là: “Người lao động   có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo bồi dưỡng   và phát triển bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học, công   nghệ hiện đại”. 2
  3. Vậy theo xu hướng khách quan và chủ quan của sự phát triển hiện nay đặc biệt   là theo sự  chỉ  đạo của Đảng và Nhà nước thì hơn bất cứ nguồn lực nào khác, nguồn  nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao phải luôn chiếm một vị  trí trung   tâm và đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong phát triển kinh tế ­ xã hội của đất nước,   nhất là trong giai đoạn hiện nay ­ giai đoạn đẩy mạnh sự hợp tác toàn cầu, hội nhập   quốc tế. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGUỒN  NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO CỦA VIỆT NAM TRONG  TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ 1.1. Khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao 1.1.1. Cơ sở lý luận về nguồn nhân lực chất lượng cao 1.1.1.1. Cơ sở lý luận chung  Từ  thời của Mác, dù chưa đề  cập đến thuật ngữ  “ Nguồn nhân lực chất lượng  cao” nhưng C.Mác đã nêu ra quan niệm có liên quan đến vấn đề này: “ Những con người   có năng lực phát triển toàn diện, đủ  sức tinh thông và nắm nhanh chóng toàn bộ  hệ   thống sản xuất trong thực tiễn” .  Ở  đây, Mác muốn nói đến những con người có trình  độ, có khả năng ứng dụng những thành tựu khoa học ­ kỹ thuật vào sản xuất.  Hiện nay, theo nghiên cứu trên thế giới và thực tiễn, có rất nhiều quan niệm về  Nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong “Đại từ điển kinh tế thị trường” của Trung Quốc  giải thích khái niệm nhân tài: “Là những người, trong điều kiện xã hội nhất định, có tri  thức chuyên môn nhất định, có năng lực và kỹ năng cao, với tính lao động sáng tạo của   bản thân trong điều kiện thực tiễn hoạt động xã hội, có khả năng góp phần cống hiến nào  đó đối với sự phát triển của xã hội, của nhân loại”.  3
  4. Ở nước ta, lần đầu tiên thuật ngữ  nguồn nhân lực chất lượng cao xuất hiện đó  là trong Văn kiện Đảng Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ  X khẳng định “Phát triển  nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là chuyên gia đầu ngành”. Nó đã thể  hiện   rằng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam có những điểm mới, trong   đó tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, xem đó là bước đột phá nhằm  sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, đồng thời tạo sự  phát triển   nhanh, đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế.  Những năm gần đây, các nhà khoa học Việt Nam cũng đã đi sâu vào để tìm hiểu,   nghiên cứu vấn đề này và đưa ra một số quan niệm về nguồn nhân lực chất lượng cao.  Tiêu biểu như:  Trong “Vấn  đề  con người trong sự  nghiệp công nghiệp hóa, hiện  đại hóa”,  GS.VS.TS.Phạm Minh Hạc quan niệm  nguồn nhân lực chất lượng cao  là: Đội ngũ  nhân lực có trình độ  và năng lực cao, là lực lượng xung kích tiếp nhận chuyển giao  công nghệ  tiên tiến, thực hiện có hiệu quả  việc  ứng dụng vào điều kiện nước ta, là  hạt nhân đưa lĩnh vực của mình đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa được mở  rộng   theo kiểu “vết dầu loang”, bằng cách dẫn dắt những bộ phận có trình độ  và năng lực  thấp hơn, đi lên với tốc độ nhanh.  Ở  trên tác giả  nhấn mạnh đến “trình độ  và năng lực” ,chú trọng đến chuyển   giao công nghệ. Còn theo GS.TS.Nguyễn Trọng Chuẩn trong “Nghiên cứu văn hóa con người,   nguồn nhân lực đầu thế  kỷ XXI” đưa ra khái niệm “một nguồn nhân lực mới” để  chỉ  “lực lượng lao động có học vấn, có trình độ  chuyên môn cao và nhất là có khả  năng  thích ứng nhanh với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất”.  Tác giả chỉ  chú trọng đến học vấn và chuyên môn. Nguồn nhân lực chất lượng cao  được TS.Nguyễn Hữu Dũng quan niệm trong  “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại  hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế” là: “Nhân lực chất lượng cao là khái niệm   để  chỉ  một con người, một người lao động cụ  thể  có trình độ  lành nghề  (về  chuyên  môn, kỹ  thuật)  ứng với một ngành nghề  cụ  thể  theo tiêu thức phân loại lao động về  4
  5. chuyên môn, kỹ thuật nhất định (trên đại học, cao đẳng, công nhân lành nghề)” . Ở đây  tác giả lại chú ý đến trình độ lành nghề. Trong tạp chí “Thông tin Chủ  nghĩa xã hội ­ lý luận và thực tiễn”, TS.Bùi Thị  Ngọc Lan cho rằng: Nguồn nhân lực chất lượng cao  là bộ  phận tinh túy nhất của  nguồn nhân lực. Lực lượng này có trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật cao, có kỹ  năng lao động giỏi và có khả  năng thích  ứng nhanh với những biến đổi nhanh chóng   của công nghệ sản xuất, có phẩm chất tốt và có khả năng vận dụng sáng tạo những tri   thức, những kỹ  năng đã được đào tạo vào quá trình lao động sản xuất nhằm đem lại  năng suất, chất lượng, hiệu quả cao. Tác giả đã đưa ra thêm khá nhiều tiêu chí để xác   định hơn. Như  vậy,  nguồn nhân lực chất lượng cao  đã được đưa ra và hiểu dưới nhiều  góc độ  tùy theo nhưng tiêu chí cụ  thể  đặt ra,  ở  góc độ  tổng hợp nhất ta có thể  hiểu  như  sau: Nguồn nhân lực chất lượng cao  là một bộ  phận kết tinh những gì tinh túy  nhất của nguồn nhân lực. Là bộ phận lao động có trình độ học vấn và chuyên môn kỹ  thuật cao hay có kỹ  năng lao động giỏi, có năng lực sáng tạo, phải có tác phong công  nghiệp và đạo đức trong nghề nghiệp. Đặc biệt là khả  năng thích ứng nhanh, đáp ứng  được những yêu cầu của thực tiễn, biết vận dụng tri thức, kỹ năng và kinh nghiệm đã   được đào tạo và tích lũy trong quá trình lao động nhằm đem lại kết quả  sản xuất với   năng suất, chất lượng và hiệu quả cao.  nguồn nhân lực chất lượng cao chính là lực lượng cốt lõi cả trong hai mặt số lượng và   chất lượng của nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực chất lượng cao có lực lượng nòng cốt  là những công nhân lành nghề ­ những người trực tiếp sản xuất hàng hoá và cung ứng   dịch vụ  cho người tiêu dùng cả   ở  trong nước và nước ngoài. Do đó, họ  phải có một  trình độ  trí tuệ  nhất định để  tiếp thu và làm chủ  được công nghệ  tiên tiến. Hơn thế  nữa, với những tri thức khoa học và những kinh nghiệm tích luỹ  được trong quá trình  sản xuất trực tiếp, người công nhân không những sử  dụng các công cụ  lao động hiện  có, mà còn có thể  sáng chế  ra những tư  liệu lao động mới, hoàn thiện kỹ  thuật và  phương pháp sản xuất. Lực lượng lao động “đầu tàu”của nguồn nhân lực chất lượng  cao là đội ngũ trí thức.  Đội ngũ trí thức Đảng ta đã khẳng định: “Trong mọi thời đại,  5
  6. tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo   và truyền bá tri thức”để mở rộng hợp tác quốc tế song phương và đa phương, đặc biệt  với các tổ  chức quốc tế, các tổ  chức nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Luôn mở  rộng hợp tác với các tổ  chức khoa học và công nghệ  trong khu vực và trên thế  giới,  chia sẻ kinh nghiệm, trao đổi thông tin, thu hút nguồn lực, tạo điều kiện thuận lợi cho   trí thức trong nước giao lưu khoa học với thế giới bằng các hình thức phù hợp… 1.1.1.2. Đào tạo, phát triển nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ­ kinh nghiệm   ở một số nước trên thế giới Trong mấy chục năm gần đây, nhìn ra nước ngoài, chúng ta thấy sự  phát triển   rất nhanh chóng của nhiều nước  ở khu vực Đông á bao gồm Nhật Bản, Hàn quốc và  Đài Loan cũng như  tốc độ  tăng trưởng kinh tế  nhanh của nhiều nước công nghiệp  mới,   các   nước   ASEAN  ,  Trung   Quốc  và   ngay   cả   những  nước   rất   phát   triển   như  Mỹ.Tất cả đều phần lớn nhờ vào sự phát triển của nguồn nhân lực có chất lượng cao. Ở  châu Á,  Nhật Bản  là một trong những nước đi đầu trong phát triển nguồn   nhân lực. chúng ta đã biết rằng Nhật – là một nước nghèo tài nguyên thiên nhiên vì vậy   để phát triển họ chỉ có thể trông chờ vào chính mỗi người dân Nhật Bản và Chính phủ  nước này ngay từ  rất lâu đã đặc biệt chú trọng tới tiềm năng của nguồn lực quý giá  này thông qua sự  phát triển của giáo dục đào tạo, thực sự  coi đây là quốc sách hàng  đầu. Cụ thể như  chương trình giáo dục đối với cấp tiểu học và trung học cơ sở là bắt   buộc; tất cả học sinh trong độ tuổi từ 6 đến 15 tuổi được học miễn phí. Kết quả là, tỷ  lệ học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng ở nước này ngày càng nhiều. Nhật  Bản trở thành một trong những cường quốc giáo dục của thế giới. Thực tế hiện nay là  một minh chứng cụ thể nhất. Nhật đã đứng trong top những cường quốc trên thế giới.  Nhật Bản luôn là bài học điển hình về sự thành công cho sự đầu tư  phát triển về con   người để chúng ta học hỏi. Với một thị trường lao động khá năng động, Mỹ  rất coi trọng môi trường sáng  tạo và khuyến khích phát triển nhân tài, bồi dưỡng và thu hút nhân tài trong nhiều lĩnh   vực. Chiến tranh thế giới thứ hai đã mang lại cho Mỹ ­ nước duy nhất trên thế giới, cơ  hội thu hút nguồn chất xám rất lớn, đó là rất nhiều các nhà khoa học, bác học giỏi từ  6
  7. châu Âu và nhiều nước khác trong đó có Việt Nam đã nhập cảnh vào Mỹ. Thực tế này  trả  lời cho câu hỏi, tại sao hiện nay Mỹ là một trong những nước có nhiều nhà khoa   học hàng đầu thế  giới trong nhiều lĩnh vực.Và Mỹ  luôn là cường quốc trong nhiều  thập niên qua.   Trung Quốc  ngay từ những năm 2003 đã đề ra Chiến lược tăng cường hơn nữa  công tác bồi dưỡng, đào tạo nhân tài nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng toàn diện xã  hội khá giả được đề ra trong Đại hội XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nội dung   của chiến lược là: lấy nhân tài chấn hưng đất nước, xây dựng đội ngũ đông đảo nhân   tài có chất lượng cao; kiên quyết quán triệt phương châm tôn trọng lao động, trí thức,  tôn trọng nhân tài và sự  sáng tạo, lấy thúc đẩy phát triển làm xuất phát điểm cơ  bản   của công tác nhân tài, điều chỉnh nhân tài một cách hợp lý, lấy xây dựng năng lực làm   điều cốt lõi, ra sức đẩy mạnh công tác bồi dưỡng nhân tài, kiên trì đổi mới sáng tạo,   nỗ lực hình thành cơ chế đánh giá và sử dụng nhân tài một cách khoa học...Hiện nay sự  phát triển về kinh tế của họ là một minh chứng rõ ràng nữa.Trung Quốc hiện nay phát  triển kinh tế chỉ sau Mỹ. Trong khu vực Đông Nam Á, Xin­ga­po được coi là hình mẫu về phát triển nguồn nhân  lực. Thực tế đã minh chứng, quốc gia nhỏ bé này đã rất thành công trong việc xây dựng  một đất nước có trình độ dân trí cao và và cũng rất đặc biệt đề cao vai trò của giáo dục   mà hiện nay họ đang là một trong những nước có nền giáo dục đứng  trong tốp đầu.  Hệ thống giáo dục của nước này rất linh hoạt và luôn hướng đến khả  năng, sở  thích  cũng như năng khiếu của từng học sinh nhằm giúp các em phát huy cao nhất tiềm năng   của mình. Bên cạnh việc  ứng dụng các tiến bộ  của khoa học ­ công nghệ  mới vào  giảng dạy, chương trình đào tạo của Xin­ga­po luôn chú trọng vào giáo dục nhân cách,  truyền thống văn hóa dân tộc.  Chủ  trương thu hút sinh viên quốc tế  đến học tập, Chính phủ  Xin­ga­po miễn   xét thị thực cho du học sinh quốc tế, không đòi hỏi phải chứng minh tài chính, chi phí  học tập vừa phải, môi trường học tập hiện đại, các ngành nghề đào tạo đa dạng... Nhà  nước Xin­ga­po chỉ đầu tư  vào rất ít trường công lập để  có chất lượng mẫu mực, có   chính sách tín dụng thích hợp để thu hút đào tạo nhân tài. Đối với khối ngoài công lập,   7
  8. Chính phủ tạo điều kiện để phát triển, khuyến khích việc liên thông, liên kết với nước   ngoài, mời gọi các đại học quốc tế đặt chi nhánh... Trên đây là những ví dụ điển hình cho việc coi trọng và phát triển nguồn lực con  người mà đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao đã đem lại thành công và vị  thế  trên trường quốc tế của các quốc gia. 1.1.2. Mối quan hệ    giữa   nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng   cao Với bài tham luận “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ­ Nhu cầu cấp   bách” Tổng Biên tập Báo Sài Gòn Giải Phóng Trần Thế  Tuyển dẫn chứng, cụm từ  “nguồn nhân lực” trên công cụ  tìm kiếm Google, trong 0,1 giây cho ra 65.300.000 kết   quả;  còn  nếu   gõ  cụm  từ   “nguồn   nhân  lực   chất  lượng   cao”,   trong   0,1  giây   cho   ra   29.500.000 kết quả. Những con số đó đã phần nào nói lên tầm quan trọng của nguồn   nhân lực, mà đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời đại khoa học ­ kỹ  thuật phát triển như vũ bão với một quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra một cách   chóng mặt ở mọi ngõ ngách của thế giới như hiện nay. Khi nghiên cứu các đề tài về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực Việt   Nam có rất nhiều học giả, các nhà nguyên cứu đã đưa nhiều quan điểm khác nhau về  nguồn nhân lực. Có thể  hiểu khái niệm nguồn nhân lực một cách ngắn gọn là nguồn  lực con người. Cụ thể,  khái niệm nguồn nhân lực tập trung phản ánh ba vấn đề  sau   đây: Thứ  nhất, xem xét nguồn nhân lực dưới góc độ  nguồn lực con người­yếu tố  quyết định sự phát triển của xã hội. Thứ  hai, nguồn nhân lực bao gồm số  lượng và chất lượng, trong đó mặt chất   lượng thể hiện ở trí lực, nhân cách, phẩm chất đạo đức, lối sống và sự  kết hợp giữa   các yếu tố đó. Thứ  ba, nghiên cứu về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực nhất thiết   phải gắn liền với thời gian và không gian mà nó tồn tại. Từ sự phân tích trên, chúng ta có thể hiểu khái niệm nguồn nhân lực theo nghĩa  rộng là bao gồm những người đủ  15 tuổi trở  lên thực tế  đang làm việc (gồm những   8
  9. người trong độ  tuổi lao động và những người trên độ  tuổi lao động), những người   trong độ tuổi lao động có khả  năng lao động nhưng chưa có việc làm (do thất nghiệp   hoặc đang làm nội trợ  trong gia đình), cộng với nguồn lao động dự  trữ  (những người   đang được đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng, trung cấp và dạy nghề…). Giữa chất lượng nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao có mối quan  hệ  chặt chẽ  với nhau trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Khi đề  cập tới   nguồn lực con người, người ta thường nói tới mặt số lượng và mặt chất lượng của nó.  Số lượng nguồn lực con người chính là lực lượng lao động và khả năng cung cấp lực   lượng lao động cho sự phát triển kinh tế ­ xã hội. Nhưng, yếu tố  quan trọng nhất trong nguồn lực con người không phải là số  lượng, mà là chất lượng nguồn lực con người. Đây mới chính là yếu tố quyết định đối   với sự phát triển kinh tế ­ xã hội. Nói đến chất lượng của nguồn lực con người là nói  đến hàm lượng trí tuệ   ở  trong đó, nói tới “người lao động có trí tuệ  cao, có tay nghề  thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bởi một nền   giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học, công nghệ hiện đại”. Sở  dĩ người ta  nói đến tính vô tận, tính không bị cạn kiệt, tính khai thác không bao giờ hết của nguồn   lực con người chính là nói tới yếu tố trí tuệ. Trí tuệ của con người ngày càng phát triển  và có tác động mạnh mẽ  nhất đối với sự  tiến bộ  và phát triển xã hội. Nhà tương lai  học Mỹ­ Alvin Toffler khẳng định rằng, mọi nguồn lực tự  nhiên đều có thể  bị  khai   thác cạn kiệt, chỉ  có trí tuệ  con người là không bao giờ  cạn kiệt và “tri thức có tính   chất lấy không bao giờ  hết”. Để  khẳng định mình trong một thế giới cạnh tranh đầy  khốc liệt, chất lượng nguồn nhân lực đóng một vai trò sống còn đối với một nền kinh  tế đang trên đà phát triển và hội nhập như Việt Nam Và tổng thể nguồn nhân lực của một quốc gia,  nguồn nhân lực chất lượng cao  chính là bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng, là nhóm tinh tuý nhất, có chất lượng  nhất. Bởi vậy, khi bàn về  nguồn nhân lực chất lượng cao  không thể  không đặt nó  trong tổng thể vấn đề nguồn nhân lực nói chung của một đất nước.  Nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn nhân lực phải đáp ứng được yêu cầu   của thị  trường (yêu cầu của các doanh nghiệp trong và ngoài nước), đó là: có kiến   9
  10. thức: chuyên môn, kinh tế, tin học; có kỹ  năng: kỹ  thuật, tìm và tự  tạo việc làm, làm   việc an toàn, làm việc hợp tác; có thái độ, tác phong làm việc tốt, trách nhiệm với công  việc. Như  vậy,  nguồn nhân lực chất lượng cao  cao phải là những con người phát  triển cả  về trí lực và thể lực, cả  về khả năng lao động, về  tính tích cực chính trị  ­ xã  hội, về  đạo đức, tình cảm trong sáng. Nguồn nhân lực chất lượng cao có thể  không  cần đông về số lượng, nhưng phải đi vào thực chất, chất lượng.  1.2. Yêu cầu của  ngu   ồn nhân lực chất lượng cao  Nguồn nhân lực chất lượng cao không đồng nghĩa với học hàm, học vị  cao,   nghĩa là nếu một người nào đó cho dù có học hàm, học vị cao nhưng lại không có đóng  góp gì thực sự có giá trị  về  mặt khoa học  hay thực tiễn trong suốt quá trình lao động  hoặc nghiên cứu khoa học thì không được gọi là nguồn nhân lực chất lượng cao.   Ngược lại, những người không hề có học hàm, học vị cao, thậm chí chỉ là người công  nhân, kỹ thuật viên, cán bộ  có trình độ  trung cấp, hay kỹ  sư, cử nhân, nhưng nếu họ  lại có tay nghề hay chuyên môn rất giỏi về một lĩnh vực nào đó, đáp ứng tốt nhất yêu  cầu công việc và có những đóng góp thực sự có giá trị cho xã hội thì đó chính là nguồn  nhân lực chất lượng cao. Vì vậy, nguồn nhân lực chất lượng cao là những người có   khả  năng hoàn thành nhiệm vụ  được giao một cách xuất sắc nhất, sáng tạo và hoàn   hảo nhất, có đóng góp thực sự hữu ích cho công việc, cho xã hội. Để  làm rõ hơn khái niệm “nguồn nhân lực chất lượng cao”, cũng như  để  dễ  dàng hơn trong việc thống kê, phân tích và đánh giá lực lượng lao động này, cần thiết  phải xây dựng những tiêu chí xác định nguồn nhân lực chất lượng cao  ở  mức độ  cụ  thể hơn. Có nhiều chỉ  số  để  đánh giá vấn đề  này, chúng ta điểm qua chỉ  số  tổng hợp  chung nhất là Chỉ số phát triển con người (HDI). Đây cũng là chỉ tiêu mà Việt Nam đạt  mức cao và hoàn thành mục tiêu trong Chiến lược dân số  Việt Nam giai đoạn 2001­ 2010. Theo số liệu công bố trong báo cáo phát triển con người của các nước ASEAN,  in trong niên giám thống kê tóm tắt năm 2009 của tổ chức thống kê mới công bố. Chỉ  số  HDI của các  nước  ASEAN  như  sau: Brunây 0,919; Campuchia 0,575; Indonesia   10
  11. 0,726; Lào 0,608; Malaysia 0,823; Myanmar 0,585; Philipine  0,745; Thái Lan 0,786;  Singapore 0,918; Việt Nam 0,718. Như  vậy, mặc dù đạt được nhiều thành tựu trong   lĩnh vực này nhưng ngay trong khối ASEAN chỉ số HDI của chúng ta cũng chỉ cao hơn   3 nước là Lào, Campuchia và Myanmar. Cũng theo số liệu của TĐTDS 2009, tỷ  lệ lao   động được đào tạo có trình độ từ sơ cấp trở lên cũng chỉ đạt 14,9%. Sơ bộ những điều  này cho thấy mặc dù đã đạt nhưng thành tích nhất định nhưng để nâng cao chất lượng   dân số, phát triển được nguồn nhân lực chất lượng cao, tận dụng hiệu quả, thì còn là   một thách thức rất lớn đối với chương trình phát triển kinh tế­xã hội của nước ta trong  giai đoạn tới.  Dưới đây là các chỉ tiêu cụ thể hơn: Thứ  nhất,  nguồn nhân lực chất lượng cao phải là lực lượng lao động có   đạo   đức nghề nghiệp, đó là lòng yêu nghề, say mê với công việc, có tính kỷ luật và có trách  nhiệm với công việc. Cao hơn cả, đạo đức nghề  nghiệp còn thể  hiện  ở  mong muốn   đóng góp tài năng, công sức của mình vào sự  phát triển chung của dân tộc. Đây được  coi là tiêu chí mang lại tính chất nền gốc trong quá trình xây dựng những tiêu chí các  định nguồn nhân lực chất lượng cao. Thứ hai, nguồn nhân lực chất lượng cao phải là lực lượng lao động có  khả năng   thích ứng công nghệ mới và linh hoạt cao trong công việc chuyên môn. Tiêu chí này đòi  hỏi nguồn nhân lực phải có trình độ  chuyên môn, kỹ  thuật cao, để  có khả  năng thích   ứng tốt với những công việc phức tạp và luôn thay đổi trong thời đại ngày nay. Điều   này cũng có nghĩa là nguồn nhân lực chất lượng cao phải có bản lĩnh nghề nghiệp để  không bị  động trước những thay đổi nhanh chóng cả  về  nội dung và cách thức tiến  hành công việc của thời đại toàn cầu hóa vá kinh tế tri thức. Thứ ba, nguồn nhân lực chất lượng cao phải là lực lượng lao động có  khả năng   sáng tạo trong công việc. Sáng tạo bao giờ  cũng là một động lực quan trọng thúc đẩy sự  phát triển. Đặc  biệt trong thời đại ngày nay, những gì là mới và sôi động của ngày hôm qua nhanh   chóng trở thành cũ kỹ và tầm thường trong ngày hôm nay. Nếu không liên tục có những   ý tưởng sáng tạo thì hoạt động của các tổ chức và suy rộng ra là của một dân tộc sẽ bị  11
  12. tê liệt. Vì vậy, tiêu chí này nhằm xác định nguồn nhân lực chất lượng cao nói chung  nhưng đặc biệt nhấn mạnh tới một lực lượng tinh túy nhất, đó là những nhà lãnh đạo,  chủ doanh nghiệp và các nhà khoa học. Họ được gọi chung là nhân tài. Họ, “trước hết  phải là những người có nhân cách, trí tuệ phát triển, có một số phẩm chất nổi bật mà  rất ít người có, đồng thời phải là người giàu tính sáng tạo, có tư  duy độc đáo, giải  quyết các công việc nhanh, chính xác, mang lại hiệu quả rất cao” Và  một yếu tố không thể  thiếu đối với nguồn nhân lực chất lượng cao là  sức   khoẻ. Sức khoẻ ngày nay không chỉ được hiểu là tình trạng không có bệnh tật, mà còn  là sự  hoàn thiện về  mặt thể chất lẫn tinh thần. Mọi người lao động, dù lao động cơ  bắp hay lao động trí óc đều cần có sức vóc thể chất tốt để duy trì và phát triển trí tuệ,  để chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, biến tri thức thành sức mạnh vật chất.   Hơn nữa cần phải có sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, niềm tin và ý chí, khả năng  vận động của trí lực trong những điều kiện khác nhau hết sức khó khăn và khắc   nghiệt. Ngoài ra còn có một số tiêu chí khác như: Nền sản xuất công nghiệp hiện nay còn đòi hỏi  ở  người lao động phải có các   năng lực cần thiết như: có kỷ luật tự giác, biết tiết kiệm nguyên vật liệu và thời gian,   có tinh thần trách nhiệm, có tinh thần hợp tác và tác phong lao động công nghiệp,  lương tâm nghề nghiệp,… nghĩa là phải có văn hóa lao động công nghiệp. Người lao động còn phải có năng lực xử  lý mối quan hệ  giữa truyền thống và   hiện đại, giữa dân tộc và thời đại. Truyền thống được hiểu là: phức hợp những tư  tưởng, tình cảm, những tập quán, thói quen, những phong tục, lối sống, cách ứng xử, ý   chí, v.v. của một cộng đồng người đã hình thành trong lịch sử, đã trở  nên  ổn định và  được truyền từ  thế  hệ  này sang thế  hệ  khác. Như  vậy, truyền thống có cả  mặt tích  cực và tiêu cực dù muốn hay không vẫn để lại dấu ấn vào hiện tại, và ở mức độ nhất  định, có thể còn ảnh hưởng đến sự vận động của tương lai. Quá trình hội nhập đòi hỏi   người lao động vừa biết kế thừa những giá trị truyền thống, vừa biết phát triển những  giá trị đó lên tầm cao hơn, đồng thời tiếp thu những tinh hoá quý giá của văn hoá nhân  12
  13. loại. Nếu không biết kết hợp truyền thống với cách tân để  vượt lên, để  hội nhập, để  tìm mọi cách bước vào xã hội hiện đại thì tương lai chỉ mãi là sự tụt hậu.  1.3. Vai trò nguồn nhân lực chất lượng cao trong tiến trình hội nhập quốc  tế của Việt Nam 1.3.1. Khái niệm về hội nhập quốc tế Khác với toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế  là hành động chủ  quan, có chủ  đích   của con người nhằm khai thác nguồn lực bên ngoài để  tăng cường sức mạnh của đất   nước mình. Hội nhập quốc tế cũng có nghĩa là chấp nhận cạnh tranh với thế giới bên  ngoài; hội nhập nhưng không hoà tan, vẫn bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc mình và  nhất là bảo vệ được nền độc lập dân tộc. Hội nhập quốc tế được hiểu như là quá trình các nước tiến hành các hoạt động  tăng cường sự  gắn kết họ  với nhau dựa trên sự  chia sẻ  về  lợi ích, mục tiêu, giá trị,  nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ  các luật chơi  chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế. 1.3.2. Tác động của hội nhập quốc tế đến nguồn nhân lực chất lượng cao 1.3.2.1. Thách thức Quá trình hội nhập quốc tế diễn ra trên nhiều lĩnh vực.Mỗi một lĩnh vực, một  bộ phận lại chịu sự tác động riêng của quá trình này. Là bộ phận không thể thiếu của  một quốc gia nguồn nhân lực chất lượng cao cũng sẽ  có cơ  hội phát triển cũng như  thách thức khó khăn trong quá trình hội nhập. Quá trình hội nhập sẽ tiếp nhận những công nghệ  mới ­ đặc biệt là công nghệ  máy tính –   làm thay đổi bản chất của công việc, đòi hỏi người lao động nói chung  phải được trang bị  những kỹ  năng tổng hợp thông tin và kỹ  năng tư  duy độc lập, họ  cần có khả năng học tập sâu hơn, phân tích dữ liệu tốt hơn và ứng phó giải quyết các   vấn đề mới nhanh hơn. Nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng có nhiều cơ hội để  nâng cao khả năng cũng như để hoàn thiện mình hơn. Hội nhập và mở cửa làm thay đổi cấu trúc nền kinh tế, cơ cấu giá cả, khả năng  và cách thức tiêu dùng dẫn đến ảnh hưởng tiêu cực đến sinh kế và thu nhập của người  13
  14. dân trong những khu vực chưa theo kịp với tiến trình toàn cầu hoá (việc làm năng suất   thấp, thu nhập thấp do kỹ năng thấp). Đặc biệt là về tiền lương và thưởng phải đảm  bảo thu hút nhân tài luôn là vấn đề nan giải. Lương phải đảm bảo sự khuyến khích và   thỏa mãn những nhu cầu cần thiết  người lao động nói chung, phải đảm bảo cung cấp   điều kiện làm việc phù hợp với năng lực chuyên môn nghề nghiệp của nguồn nhân lực  chất lượng cao nói riêng và đảm bảo sự cạnh tranh về thu hút nhân lực với các nước. Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra nhiều thách thức trong giải quyết việc làm, các  doanh nghiệp có sức cạnh tranh kém, quy mô nhỏ  có nguy cơ  phá sản; mất việc làm,   thiếu việc làm lớn trong khu vực phi chính thức; Phải nhấn mạnh rằng đã tham gia hội   nhập là chúng ta đã phải chịu sự cạnh tranh rất lớn từ nước ngoài. Vì thế vấn đề quản  lý doanh nghiệp, nếu không thích ứng tất yếu sẽ bị loại và dễ dàng dẫn đến tình trạng   chảy máu chất xám và khả năng mất đi nguồn lực chủ chốt này chỉ còn là vấn đề thời  gian ­ thực sự  là một vấn đề hết sức cấp bách hiện nay. Bên cạnh đó thì cạnh tranh về lao động trình độ  cao sẽ  ngày càng gay gắt. Hội   nhập, toàn cầu hoá trở  thành xu thế chung, lao động nước ngoài (đặc biệt là lao động  có kỹ thuật, trình độ quản lý…) tham gia vào thị trường lao động Việt Nam nhiều hơn,   đồng thời lao động của Việt Nam cũng di chuyển ra nước ngoài nhiều hơn. Đòi hỏi   chính sách thu hút nguồn nhân lực có chất lượng càng.Chúng ta thấy rõ điều này qua  Nước Mỹ. Trong số 10 trường Đại học nổi tiếng nhất trên thế giới thì Mỹ chiếm tới 8   trường, như  Havard (lập năm 1636), Yale ,Pennsylvania, Princeton, Colombia, Brown,   Dartmouth, Cornell... Những trường đại học này được dư  luận Mỹ và các nước gọi là  “Nhóm vạn niên thanh”, tức luôn luôn tiếp nhận số lượng lớn sinh viên  ở  Mỹ  và các   nước tới học. Các trường đại học Mỹ chẳng những là nơi cung cấp mà còn là “Đại lý”   tìm kiếm và thu hút nhân tài cho các doanh nghiệp Mỹ. Các nhà kinh tế Mỹ cho rằng nhân tài là nhân tố quan trọng để các doanh nghiệp   Mỹ vươn lên hàng đầu thế giới về phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật. Nhận thức   rõ điều này, nên các đời Chính phủ  nước Mỹ  từ  trước tới nay đã ban hành nhiều đạo   luật giúp doanh nghiệp bồi dưỡng và thu hút nhân tài trên thế giới. Năm 1963, Mỹ ban   hành “Luật giao dục ngành nghề” và năm 1990 được sửa đổi bổ  sung để  thu hút có  14
  15. hiệu quả  cao nhân tài từ  các nước trên thế  giới. Năm 1996, Mỹ  lại thông qua “Luật  giáo dục người lớn tuổi”, trong đó yêu cầu tất cả  doanh nghiệp công hữu và tư  nhân   hàng năm phải chi khoản kinh phí chiếm 1% tổng thu nhập của doanh nghiệp dành cho  huấn luyện đào tạo nâng cao tay nghề cho nhân viên. Ngoài việc phải nâng cao trình độ  chuyên môn kỹ  thuật, mức độ  lành nghề  thì   các yêu cầu khác về  chất lượng nguồn nhân lực đang được đặt ra như  những thách   thức mới trông quá trình hội nhập. Đó là yêu cầu về  ngoại ngữ, tin học, tác phong và   văn hoá  ứng xử  công nghiệp, hiểu biết về  luật pháp và thông lệ  quốc tế… Điều này  đòi hỏi lao động phải nhanh chóng học tập những cái mới, cái ưu việt, nhưng cũng cần   phải loại bỏ  những yếu tố  không phù hợp và đi ngược lại với đạo đức và văn hoá   Việt. Sự dịch chuyển về cơ cấu lao động và di chuyển lao động tự do tới các vùng đô  thị  đang là vấn đề  thu hút sự quan tâm đặc biệt của các cơ quan chức năng, nhiều địa  phương và các nhà nghiên cứu hoạch định chính sách. Khi Việt Nam gia nhập WTO  (năm 2007), thực trạng này còn diễn ra mạnh hơn và kéo theo nhiều tác động với mức   độ  lớn hơn. Hơn nữa, hội nhập kinh tế quốc tế có thể  dẫn tới nguy cơ  tăng khoảng   cách thu nhập của người lao động. Điều này góp phần làm tăng khoảng cách về quyền  lợi và địa vị xã hội giữa các nhóm lao động.Vấn đề là làm sao để hài hòa giữa mức thu  nhập của lao động chất lượng cao và các bộ  phận khác  và vẫn đảm bảo “giữ   chân   người tài”­một thực tế khó khăn. Trên thực tế, tiêu chuẩn lao động của quốc tế mang tính nhân quyền cao như: qui định  các vấn đề  liên quan đến lao động trẻ  em; lao động cưỡng bức; chống phân biệt đối   xử tại nơi làm việc, tự do hiệp hội và thoả ước lao động tập thể… Điều này đang đặt   ra cho nguồn nhân lực các vấn đề  mới cần giải quyết, như chi phí về  nhân công tăng   lên, các điều kiện làm việc cần được đầu tư  và cải thiện tốt hơn, thành lập các hiệp   hội tự do trong các ngành nghề… Và nguồn nhân lực chất lượng cao lại càng được tiêu  chuẩn hóa cao hơn, khắt khe hơn nữa. 1.3.2.2. Cơ hội  15
  16. Mặc dù các nền kinh tế trên thế giới đang gặp khó khăn do khủng hoảng, nhưng   giai đoạn 2006­2010, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế  quốc tế  theo hướng  ổn định,   hợp tác để cùng phát triển tác động mạnh đến sự phát triển của mỗi quốc gia, đặc biệt   là các nước đang phát triển như Việt Nam. Hơn ba năm Việt Nam đã gia nhập Tổ chức   Thương mại Thế  giới (WTO) là cơ  hội tốt để  Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền  kinh tế thế giới, được đối xử bình đẳng trên “sân chơi chung” của thế giới. Hội nhập  đem lại nhiều cơ hội việc làm, đặc biệt là việc làm theo hướng công nghiệp với hàm   lượng vốn, tri thức cao; các rào cản pháp lý về  di chuyển pháp nhân, thể  nhân được   nới lỏng, các quan hệ kinh tế, đối ngoại, lao động… được thiết lập tạo điều kiện cho   lao động Việt Nam đi làm việc  ở  nước ngoài. Đặc biệt quá trình du học của lượng  lượng trí thức ­ bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng cao. Hội nhập quốc tế  tạo điều kiện mở  rộng thị  phần quốc tế  cho các sản phẩm  Việt Nam và thúc đẩy thương mại phát triển. Việt Nam có cơ  hội xuất khẩu những   mặt hàng tiềm năng ra thế  giới nhờ  được hưởng những thành quả  của các vòng đàm  phán giảm thuế  và hàng rào phi thuế. Cơ  hội xuất khẩu bình đẳng có những  ảnh   hưởng tích cực đến hoạt động của các doanh nghiệp trong nước, sản xuất sẽ được mở  rộng và tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Tạo điều kiện để nguồn nhân  lực chất lượng cao  cống hiến tất cả  khả  năng của mình vào sự  nghiệp phát triển   chung của đất nước. Tạo ra cơ  hội gia tăng các giá trị  tài sản vô hình cho bản thân người lao động   trong đó có  lao động chất lượng cao và các doanh nghiệp thông qua các hoạt động hợp   tác, chuyển giao công nghệ với các nước có nền công nghiệp tiên tiến trên thế giới. Đó  là các chuẩn mực, mô hình hệ thống tổ  chức quản lý hiện đại được áp dụng cho các  doanh nghiệp sản xuất… Tạo thêm cơ hội việc làm cho người lao động và nâng cao chất lượng nhân lực   cho lao động của Việt Nam, đặc biệt là lao động kỹ thuật trình độ cao. Việt Nam chủ  động hội nhập sẽ đẩy nhanh hơn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, sẽ  có một lượng lớn lao động nông nghiệp, thanh niên nông thôn nhàn rỗi, thiếu việc làm  tham gia vào hoạt động kinh tế  trong các doanh nghiệp, các hộ  gia đình, đơn vị  kinh   16
  17. doanh cá thể… Điều này đồng nghĩa với mang lại nhiều cơ hội thay đổi công việc và   tăng thu nhập cho một bộ phận lớn lao động nông nghiệp hiện nay. Hơn nữa, sự phát  triển nhanh chóng về công nghệ và thiết bị sản xuất và các hoạt động trao đổi chuyên  gia giữa các nước với Việt Nam sẽ  làm cho trình độ  chuyên môn kỹ  thuật, tăng khả  năng cơ  giới hóa trong nông nghiệp góp phần nâng cao năng suất lao động cũng như  trình độ, nhận thức của nười nông dân. Hợp tác quốc tế  về  lao động có cơ  hội phát   triển, từ đó góp phần nâng cao chất lượng nhân lực, để  có thể làm chủ các công nghệ  và thiết bị tiên tiến trên thế giới. Như hiện nay qua tìm hiểu trên các các kênh thông tin   đại chúng đã có rất nhiều phát minh sáng kiến ra đời mà chủ  nhân của nó không ai xa  lạ chính là từ các bác nông dân được biết đến xưa nay “bán mặt cho đất bán lưng cho  trời”  cải tạo công cụ sản xuất của họ như: máy tuốt gặt liên hoàn, máy bóc ngô, v.v…  Họ cũng chính là một bộ phận không thể thiếu của nguồn nhân lực chất lượng cao. Tạo thêm nguồn lực vật chất cho phát triển nguồn nhân lực. Thông qua các dự  án hợp tác đầu tư của các tập đoàn lớn trên thế giới vào Việt Nam, sẽ tạo ra các nguồn  tài chính dồi dào hơn cho việc đổi mới công nghệ và thiết bị của các ngành kinh tế. Việc hội nhập quốc tế sẽ tạo điều kiện và thúc đẩy việc thiết lập cơ cấu lao   động theo định hướng thị  trường. Đó là những lao động có trình độ  chuyên môn kỹ  thuật cao. Trong khi những lao động không có chuyên môn kỹ  thuật phải được cắt  giảm. Tạo điều kiện cho nhân lực lao động của nước ta tham gia sâu rộng hơn vào  phân công và hợp tác lao động quốc tế. Đặt nền móng cho việc tạo việc làm và phát  triển nguồn nhân lực một cách ổn định và bền vững nhất. 1.3.3. Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao đến quá trình hội nhập Trong truyền thống Việt Nam xác định ''Hiền tài là nguyên khí của quốc gia".  Còn nhà tương lai Mỹ  Avill Toffer nhấn mạnh vai trò của lao động tri thức, theo ông   "Tiền bạc tiêu mãi cũng hết, quyền lực rồi sẽ mất; Chỉ có trí tuệ của con người thì khi  sử dụng không những không mất đi mà còn lớn lên". Nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn lực chính quyết định quá trình tăng  trưởng và phát triển kinh tế ­ xã hội nói chung. Nguồn nhân lực chất lượng cao là bộ  17
  18. phận quan trọng nhất của nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực, nguồn lao động là nhân tố  quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác. Giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật,   khoa học công nghệ v.v… có mối quan hệ  nhân quả  với nhau, nhưng trong đó nguồn  nhân lực được xem là năng lực nội sinh chi phối quá trình phát triển kinh tế  ­ xã hội  của mỗi quốc gia. So với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực với yếu tố hàng đầu là  trí tuệ, chất xám có  ưu thế  nổi bật  ở  chỗ  nó không bị  cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng,   khai thác và sử dụng hợp lý, còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu   tố có hạn và chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực một cách có   hiệu quả. Vì vậy, con người với tư cách là nguồn nhân lực, là chủ thể sáng tạo, là yếu  tố bản thân của quá trình sản xuất, là trung tâm của nội lực, là nguồn lực chính quyết  định quá trình phát triển kinh tế ­ xã hội. Ngày nay một quốc gia có thể  không giàu về  tài nguyên, điều kiện thiên nhiên  không mấy thuận lợi nhưng nền kinh tế  có thể  tăng trưởng nhanh và phát triển bền   vững nếu hội đủ bốn điều kiện:  Quốc gia đó biết đề ra đường lối kinh tế đúng đắn.  Quốc gia đó biết tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó.  Quốc gia đó có đội ngũ công nhân kỹ thuật tay nghề cao và đông đảo.  Quốc gia đó có các nhà doanh nghiệp tài ba. Nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự thành  công của quá trình hội nhập quốc tế nói riêng hiện nay; Khi đất nước ta đang bước vào  giai đoạn chủ động hội nhập quốc tế,  nâng cao và khẳng định  vị thế của mình  , việc  tiếp cận kinh tế tri thức trong điều kiện phát triển kinh tế ­ xã hội còn thấp, do đó yêu   cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự  thành công và phát triển bền vững  của đất nước. Đảng ta đã xác định phải lấy việc   phát huy chất lượng nguồn nhân lực làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền  vững. 18
  19. Nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện để  rút ngắn khoảng cách tụt hậu,  thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh hợp tác giao lưu học hỏi kinh nghiệm với   các nước. Vậy nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Quá  trình hội nhập trình là quá trình lao vào vũ trụ bao la mà người cầm lái chính là  nguồn  nhân lực chất lượng cao. Con tàu chỉ đi đúng hướng khi người cầm lái thực sự  có đủ  khả  năng năng lực để  điều khiển nó. “Khả  năng” này gắn liền với nghĩa vụ  và trách  nhiệm. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO  HIỆN NAY TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP 2.1. Thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao Theo số liệu mới nhất về dân số tính đến năm 2009, Việt Nam có trên 44 triệu  lao động trên tổng số 89 triệu dân và là một nước có nguồn lao động dồi dào so với   nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.Về quy mô dân số, Việt Nam là nước đứng  thứ  2 trong khu vực và đứng thứ  13 trên thế  giới. Trong số 89 triệu dân thì chiếm tới   50% là số người nằm trong độ tuổi lao động và nhóm tuổi từ 15 tới 34 tuổi chiếm hơn   45% tổng số lực lượng lao động. Cũng theo số liệu này thì hàng năm có khoảng từ 1,5  đến 1,7 triệu người nhập vào lực lượng lao động. Nhìn chung, cung lao động tại Việt   19
  20. Nam rất dồi dào và lớn hơn cầu về  lao động. Tuy nhiên, phần lớn lượng cung lao   động này là lao động phổ thông, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo cao và chất lượng lao   động không đồng đều giữa các vùng, miền. Tuy nhiên so với những năm trước đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế  nói chung và sự phát triển của các doanh nghiệp mới nói riêng, nhu cầu về nguồn nhân  lực có chất lượng cao của các ngành dịch vụ và công nghiệp, đặc biệt là đối với lĩnh  vực quản trị doanh nghiệp, công nghệ thông tin, tài chính ngân hàng, điện, điện tử  và   hoá chất ngày càng tăng lên. Cùng với chính sách mở cửa, đổi mới và hội nhập kinh tế  quốc tế  ngày càng sâu, làn sóng đầu tư  trong nước cũng như  đầu tư  trực tiếp nước   ngoài ngày càng tăng lên, các doanh nghiệp trong nước được thành lập mới ngày càng  nhiều đã tạo ra một lượng cầu nhân lực có chất lượng cao ngày càng lớn. Đối với các  doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài thì   các nhà đầu tư  là người nước ngoài thường  ưu tiên tuyển dụng lao động có chất  lượng cao ngay  ở  Việt Nam vì lao động Việt Nam là người   am hiểu khá nhiều lĩnh  vực, tập quán, có nhiều mối quan hệ  và mức lương trả  cho họ  thường thấp hơn so   với lao động từ  nước ngoài và cũng để  cạnh tranh với các doanh nghiệp Việt Nam,   các nhà đầu tư  là người nước ngoài sẵn sàng trả  mức lương cho người lao động cao   hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp Việt Nam. Vì thế, sự  cạnh tranh về  nguồn   nhân lực có chất lượng cao ngày càng gay gắt. Kết quả  cuộc điều tra 63.000 doanh   nghiệp ở 36 tỉnh thành phố trên cả nước do Bộ Kế hoạch và Đầu tư  đã tiến hành năm  2008 cho thấy nguồn nhân lực chất lượng cao có thể  tham gia quản lý tại Việt Nam   cũng mới chỉ đáp ứng khoảng 40% nhu cầu. Đặc biệt những nhân sự cấp cao của Việt   Nam đang đứng trước một nguy cơ  khủng hoảng trầm trọng vì không đủ  khả  năng   bắt kịp sự phát triển của nền kinh tế. Cũng theo như kết quả cuộc điều tra này, tỷ  lệ  giám đốc doanh nghiệp có trình độ  thạc sỹ  chỉ  là 2,99%, đại học là 37,82% và cao  đẳng là 3,56% trong khi đó tỷ  lệ  có trình độ  trung học chuyên nghiệp là 12,33% và  trình độ tốt nghiệp trung học phổ thông trở xuống chiếm tới 43,30%. Về  nhu cầu nguồn nhân lực có chất lượng cao trong ngành tài chính và ngân   hàng cũng đang gặp phải rất nhiều khó khăn. Năm 2007, trước khi xẩy ra khủng   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2