intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận triết học: Tư tưởng triết học phật giáo và sự ảnh hưởng đến đời sống văn hóa tinh thần người Việt Nam

Chia sẻ: Kim Yến | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:30

421
lượt xem
128
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài tập trung nghiên cứu tư tưởng triết học Phật giáo và sự ảnh hưởng đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận triết học: Tư tưởng triết học phật giáo và sự ảnh hưởng đến đời sống văn hóa tinh thần người Việt Nam

  1. KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO VÀ SỰ ẢNH  HƯỞNG ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN  NGƯỜI VIỆT NAM
  2. Năm 2016 MỤC LỤC MỤC LỤC..........................................................................................................................................2 1. Lý do chọn đề tài..........................................................................................................................3 2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài.................................................................................................3 3. Phương pháp nghiên cứu của đề tài...........................................................................................3 Chương 1: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO.........................................................................4 1.1 Sơ lược quá trình hình thành và phát triển Phật giáo...............................................................4 1.2 Nội dung tư tưởng triết học Phật giáo ......................................................................................6 1.2.1 Thế giới quan Phật giáo......................................................................................................6 1.2.2 Nhận thức luận Phật giáo....................................................................................................9 1.2.3 Nhân sinh quan Phật giáo.................................................................................................13 Chương 2: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƯỜI VIỆT NAM............................................................................................17 2.1 Sơ lược sự hình thành và phát triển Phật giáo Việt Nam.......................................................17 2.2 Những ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam.......19 2.2.1 Những ảnh hưởng tích cực...............................................................................................19 2.2.2 Những ảnh hưởng tiêu cực...............................................................................................25 2.3 Kế thừa những gia trị tích cực của Phật giáo trong xây dựng đời sống văn hóa tinh thần người Việt Nam .............................................................................................................................27 KẾT LUẬN......................................................................................................................................29 TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................................30 5. Trần Huy Tạo, 2016, Vài nét về nhận thức luận trong triết học Phật giáo, Tạp chí nghiên cứu Phật học, số 7/2016........................................................................................................................30
  3. 1. Lý do chọn đề tài Tín ngưỡng tôn giáo là một nhu cầu của đời sống văn hóa tinh thần của mỗi con   người, của cộng đồng xã hội. Phật giáo xuất hiện vào cuối thế  kỉ thứ  VI trước Công   nguyên, là một tôn giáo với nội dung cơ bản đề  cập đến việc lý giải căn nguyên của   nỗi khổ và tìm con đường giải thoát con người khỏi nổi khổ triền miên đó. Phật giáo  khởi thủy  ở   Ấn Độ  sau đó truyền đi khắp các xứ  lân cận.Trước hết sang các nước  Trung Á rồi sang Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản và các nước miền Nam Châu Á.   Việt Nam cũng thuộc trong phạm vi ảnh hưởng ấy. Phật giáo ở mỗi nước có một tinh   thần và đặc trưng khác nhau như lịch sử nước ấy. Phật giáo đến với người Việt Nam   từ rất lâu đời, vào khoảng nửa cuối thế kỉ thứ I. Do bản chất từ bi hỉ xã, Phật giáo đã   nhanh chóng tìm được chỗ  đứng  vững chắc trên đất nước ta. Từ  khi vào Việt Nam,  Phật giáo ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam. Vì   các triết lý Phật giáo xuất phát từ tâm tư và nguyện vọng của con người nên số người   theo Phật tăng nhanh. Những  ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo ăn sâu vào đời sống  của đại đa số  người dân Việt Nam không chỉ  từ  trong giai đoạn đầu của lịch sử  dân  tộc mà còn kéo dài đến cuộc sống ngày nay. Vì vậy việc tìm hiểu về  Phật giáo và   những  ảnh hưởng của nó đối với đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam là   hết sức cần thiết. 2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài Đề tài tập trung nghiên cứu tư tưởng triết học Phật giáo và sự ảnh hưởng  đến   đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam 3. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Để làm rõ nội dung nghiên cứu đã đề ra, đề tài dựa trên cơ  sở thế giới quan và  phương pháp luận của chủ  nghĩa duy vật biện chứng và chủ  nghĩa duy vật lịch sử,   đồng thời kết hợp với một số  phương pháp nghiên cứu khoa  học khác như  phương   pháp: Phân tích ­ tổng hợp, đối chiếu ­ so sánh, hệ  thống hoá, diễn dịch, quy nạp...để  nghiên cứu, phân tích và trình bày đề tài.
  4. Chương 1: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO 1.1 Sơ lược quá trình hình thành và phát triển Phật giáo Phật giáo là một trào lưu triết học xuất hiện vào khoảng thế  kỷ  thứ  VI trước   Công nguyên. Người sáng lập ra Phật giáo tên là Siddharta (Tất Đạt Đa), họ là Gôtama,   dòng họ  này thuộc bộ  tộc Sakya. Ông là thái tử  ­  con vua Tịnh Phạn, vua một nước   nhỏ ở Bắc Ấn Độ lúc đó (nay thuộc đất Nepal) sáng lập. Ông sống trong cung điện suốt thời thơ   ấu, nhưng khi thành niên ông đã khám   phá những sự  việc bên ngoài cung thành. Trên đường phố  nọ, ông thấy một người   bệnh, một lão già, và một xác chết, khiến cho ông suy nghĩ về  bản chất khổ  đau của   cuộc đời. Khi nhìn thấy một vị  khất sĩ thong dong tự  tại, ông quán xét đến khả  tính  giải thoát khỏi vòng luân hồi. Và vì vậy, năm hai mươi chín tuổi, ông rời hoàng cung,   rũ bỏ trang phục hoàng gia, và thực hành đời sống của một vị khất sĩ thong dong. Ông đã tham học với các vị đạo sư lớn của thời đại ông và thông đạt những kỹ  thuật thiền định của họ nhưng khám phá ra rằng chúng không đưa tới giải thoát. Trải   qua 6 năm ông thực hành khổ hạnh nghiêm khắc trong rừng, nhưng rồi nhận thấy rằng   sự  hành hạ  thân xác không thuần hóa được tâm, nên ông tu theo con đường trung đạo   giữ  gìn thân thể khỏe mạnh cho lợi ích của việc tu tập tâm linh mà không phóng túng  chạy theo các tiện nghi không cần thiết. Ngồi dưới gốc cây bồ đề nơi mà ngày nay là Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya) tại   Ấn Độ, ông nguyện không đứng dậy cho đến khi đạt thành giác ngộ  viên mãn. Vào   đêm trăng tròn tháng tư âm lịch, ông đã hoàn thành tiến trình tẩy trừ tất cả vô minh và  phát triển tất cả  thiện pháp, và ông đã trở  thành đức Phật giác ngộ  hoàn toàn. Lúc đó 
  5. ông đã 35 tuổi, và 45 năm kế tiếp ông đi giảng dạy giáo pháp mà ông đã chứng ngộ qua   kinh nghiệm tự thân cho những người đến để nghe. Đạo Phật  có  hai nhánh  chính.  Tiểu   thừa  (Hinayana),  hay Cỗ   Xe  Nhỏ,  nhấn   mạnh đến sự  giải thoát cá nhân, trong khi Đại thừa (Mahayana), hay Cỗ Xe Lớn, chú   trọng đến việc tu tập thành một vị Phật toàn giác để phổ độ chúng sinh một cách hoàn  hảo nhất. Mỗi nhánh lại có nhiều phân nhánh. Tuy nhiên, hiện nay, ba hình thức chính  còn tồn tại: một là Tiểu thừa, được biết như  Theravada, ở Đông Nam Á, và hai nhánh  Đại thừa, đó là các truyền thống Phật giáo Trung Quốc và Tây Tạng. Truyền thống Tiểu thừa lan rộng từ   Ấn Độ  đến Tích Lan (Sri Lanka) và Miến   Điện   (Mianma)   vào   thế   kỷ   thứ   ba   trước   Công   Nguyên,   và   từ   đó   đến   Vân   Nam  (Yunnan), phía Tây Nam Trung quốc, Thái Lan, Lào, Cao Miên (Cambodia), miền Nam  Việt Nam  và   Nam Dương  (Indonesia).   Không  lâu sau  đó,  những chiếc  túi  của  các  thương nhân người Ấn Độ theo đạo Phật đã được tìm thấy ở vùng duyên hải Bán Đảo   Ả Rập, và thậm chí xa hơn như Alexandria, Ai Cập. Các hình thức khác của Tiểu thừa   cũng lan đi từ thời đó đến Pakistan, Kashmir, A Phú Hãn (Afghanistan), vùng phía Đông  và duyên hải của Iran, Uzbekistan, Turkmenistan và Tajikistan ngày nay. Đây là những  tiểu bang cổ xưa của Gandhara, Bactria, Parthia và Sogdia. Từ căn cứ này ở vùng Trung   Á, các hình thức đạo Phật Tiểu thừa này lan rộng hơn vào thế  kỷ  thứ  hai sau công   nguyên   đến   phía   Đông   Turkistan   (Xinjiang)   và   xa   hơn   vào   Trung   Quốc,   rồi   đến  Kyrgyzstan và Kazakhstan vào cuối thế  kỷ  thứ  bảy. Các hình thức Tiểu thừa sau đó   được kết hợp với những nét đặc trưng của Đại thừa cũng đến từ Ấn Độ, để cuối cùng  truyền thống Đại thừa trở  thành hình thức chiếm  ưu thế  của Phật giáo tại hầu hết   vùng Trung Á. Hình thức Đại thừa của Trung Quốc sau này lan đến Đại Hàn, Nhật Bản và Bắc  Việt  Nam.   Một  làn  sóng  khác   sớm   hơn  của   Đại  thừa,   kết  hợp   với  các   hình  thức   Shaivite của  Ấn Độ giáo, lan truyền từ  Ấn Độ  đến Nepal, Nam Dương, Mã Lai và các   vùng ở Đông Nam Á, bắt đầu vào khoảng thế kỷ thứ năm. Truyền thống Đại thừa Tây  Tạng, bắt đầu từ thế kỷ thứ bảy, kế thừa toàn bộ lịch sử phát triển của Phật giáo Ấn   Độ,   trải  rộng   khắp   các   vùng  Hy  Mã   Lạp   Sơn   và   đến  Mông   Cổ,   Đông  Turkistan,  
  6. Kyrgyzstan, Kazakhstan, phía Bắc Nội Trung Hoa, Mãn Châu, Siberia và vùng Kalmyk  thuộc Mông Cổ gần biển Caspian, thuộc phần Châu Âu của nước Nga. Sự  lan rộng của đạo Phật  ở  hầu hết Châu Á đã diễn ra một cách an hòa, theo  nhiều cách. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã lập ra tiền lệ. Trước tiên, là một vị  thầy,   ông đã đến các vương quốc lân cận để  chia sẻ  sự  hiểu biết sâu sắc của mình với  những ai có lòng quan tâm và muốn học hỏi. Tương tự như thế, ông chỉ thị các tăng sĩ  của ông đi khắp nơi để  giải thích những giáo huấn của mình. Ông không kêu gọi  người khác chỉ trích và từ  bỏ tôn giáo của họ hay cải đạo theo đạo mới, vì ông không   tìm cách thiết lập tôn giáo riêng của mình. Ông chỉ cố gắng giúp người khác vượt qua   sự bất hạnh và khổ đau mà họ đang tạo ra cho chính mình, vì thiếu sự  hiểu biết. Các   thế hệ môn đồ sau này nhận nguồn cảm hứng từ tấm gương của đức Phật và họ  chia  sẻ với người khác các phương pháp của ông mà họ thấy mang lại lợi lạc cho đời sống  của họ. Đây là cách mà cái được gọi là “đạo Phật” hiện nay đã lan rộng và xa như thế  nào 1.2 Nội dung tư tưởng triết học Phật giáo  1.2.1 Thế giới quan Phật giáo Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo được thể hiện tập trung ở nội dung   của ba phạm trù là: vô thường, duyên và vô ngã.   Vô thường, tiếng Phạn là Anitya, hàm nghĩa sự biến chuyển, thay đổi, không cố  định. Tất cả  mọi sự  vật, hiện tượng trên thế  gian đều vô thường. Nói cách khác, sự  vật không bao giờ đứng yên hoặc mang tính đồng nhất bất biến mà luôn vận động, lưu   chuyển. Từ sơn hà, đại địa cho đến cỏ cây, hạt bụi và cả thân tâm con người luôn biến  đổi, không bao giờ  cố  định và phải chịu sự  tác động của vô thường.  Không chỉ  trong  thế giới vật chất mà ngay cả trong thế giới tâm thức, vô thường vẫn luôn hiện hữu. Con người, theo Phật giáo, là hợp thể của năm uẩn. Trong đó, phần thân thể vật  chất tứ đại (sắc uẩn) thuộc về Sắc và phần tinh thần gồm cảm thọ, tri giác, tư duy và  nhận thức thuộc về Danh. Năm uẩn hay danh­sắc này luôn ở trong trạng thái biến đổi  như một dòng sông chảy mãi không ngừng trong đời sống con người.
  7. Thân thể  con người nếu nhìn thật sâu vào bản chất, nó chỉ  là một trạm trung  chuyển của các yếu tố tứ đại. Đất nước gió lửa từ bên ngoài đi vào thân, sau đó lại đi  ra và vòng tròn đó luân chuyển bất tận.  Nhờ  sự  vận hành  ấy, thân này được nuôi  dưỡng, lớn lên, già đi rồi hoàn trả về cho tứ đại.  Vì thế, khi các yếu tố tứ đại bị  mất  quân bình, bệnh tật xảy ra và khi dòng chảy tứ  đại ngừng luân chuyển, cái chết  ập  đến. Quá trình này, con người chỉ điều khiển được một phần, còn đa phần là mất tự  chủ. Vì thế, chuyện sống chết, còn mất, có không của thân này như  gió thoảng, mây  bay. Về tâm lý của con người cũng vậy, các trạng thái tâm lý luôn thay đổi, chuyển   biến trong từng sát na. Tâm thức con người với muôn ngàn ý niệm tuôn trào, trôi chảy   như thác lũ. Tất cả vui buồn, thương ghét, tha thứ hay hận thù v.v..., luôn hiện khởi và   vận hành trong tâm thức. Tuy vậy, chúng ta cần phải cám  ơn vô thường. Bởi thực tế, nếu không có vô  thường thì sẽ không có sự sống và phát triển. Nếu hạt lúa thường tại thì nó không bao  giờ nảy mầm để trở thành cây lúa cho ra những hạt gạo trắng được.  Nếu sự vật không  vô thường thì lịch sử  tiến hóa của nhân loại sẽ  không phát triển.  Nếu thân thể  không  vô thường thì con người sinh ra không thể lớn lên.  Và nếu không có sự tác động của vô  thường thì chúng ta sẽ  không bao giờ  có hy vọng chuyển hóa, đoạn tận các tập khí   tham ái phiền não đang tiềm ẩn sâu kín trong nội tâm chúng ta. Giáo lý vô thường đem  lại tuệ giác, nhận thức đúng về bản chất của các pháp đồng thời mang lại niềm tin cho  mọi nỗ lực chuyển hóa, sáng tạo và phát triển của con người. Vì thế, vô thường là một  khuôn dấu của Chánh pháp; những giáo lý nào không mang đặc tính của  ấn pháp này   thì không phải là Phật pháp. Quan điểm về  “duyên” (là điều kiện) giúp cho nguyên nhân trở  thành kết quả.  Phật giáo cho rằng, mọi sự  vật hiện tượng trong vũ trụ  từ  cái nhỏ  nhất đến cái lớn  nhất đều không thoát khỏi sự chi phối của nhân duyên: cái nhân(hetu) nhờ có cái duyên   (prattiya) mới sinh ra mà thành quả (phla). Qủa lại do cái duyên mà thành ra nhân khác,   nhân khác lại nhờ có duyên mà thành ra quả  mới… Cứ thế, nối tiếp nhau vô cùng, vô   tận mà thế  giới, vạn vật muôn loài cứ  sinh sinh hóa hóa mãi theo quy luật nhân quả. 
  8. Nhân là năng lực phát sinh, duyên là lực hỗ trợ cho nhân phát sinh. Như cây lúa thì hạt   lúa là nhân, nước, ánh sáng mặt trời, công cày bừa gieo trồng là duyên. Nhân duyên đó   hội họp sinh ra cây lúa. Tất cả  mọi hiện tượng đều nương nhau mà hành động. Nói  nương nhau có nghĩa là sự  vật tác động, kết hợp, chi phối,  ảnh hưởng lẫn nhau mà   thành. Đó là nhân duyên. Nhân nào quả ấy. Con người do nhân duyên kết hợp và được   tạo thành bởi hai thành phần: thể xác và tinh thần. Hai thành phần  ấy là kết quả  hợp  tan của Ngũ Uẩn. Hai thành phần tạo nên Ngũ Uẩn, do nhân duyên hợp thành. Mỗi con   người cụ  thể  có danh sắc(nâma­suna), Duyên hợp Ngũ Uẩn thì là ta, duyên tan Ngũ  Uẩn thì không còn ta, là diệt. Nhưng không phải là mất đi mà trở lại với ngũ uẩn.Ngay   các yếu tố của ngũ uẩn cũng luôn biến hóa theo quy luât nhân quả không ngừng. Vô ngã (Anatma) là giáo lý đặc thù của Phật giáo.  Giáo lý này là hệ quả của quá  trình quan sát một cách sâu sắc nguyên lý duyên khởi. Với quan điểm vô thường, chúng  ta thấy được sự  vận động trong tự  thân của sự  vật và toàn thể. Nếu nhìn sâu hơn  qua lăng kính duyên khởi, ngoài sự  vận động thì bản chất của sự  vật luôn mang tính   không đồng nhất. Mỗi sự vật, hiện tượng đều do các điều kiện, nhân duyên kết hợp,  tương tác lẫn nhau mà tạo thành, do vậy tuyệt nhiên không có tính chủ thể, đồng nhất,  bất biến trong nó. Vì thế, Phật dạy: “Các pháp vô ngã”. Khi   thấy   một   chiếc   lá   vàng   rơi,   bình   thường   ta   chỉ   biết   đó  là chiếc lá   vàng  nhưng nếu nhìn sâu thì trong chiếc lá kia có những khoáng chất của đất, có ánh sáng   mặt trời, có nước từ  những đám mây, có gió của bầu trời… và có cả  một chút bâng  khuâng của lòng người. Như  thế, chiếc lá kia được tạo thành từ  những yếu tố  không  phải là chiếc lá, trong nó có đầy đủ cả vũ trụ. Từ chiếc lá xanh, theo thời gian chuyển  qua lá vàng, đó là sự vận động vô thường, nhưng dù là lá xanh hay vàng thì trong bản  chất của chúng cũng do những yếu tố  không phải lá tạo thành (duyên khởi), chiếc lá  vốn Vô ngã. Con người cũng vậy, là hợp thể ngũ uẩn sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Bản  chất của ngũ uẩn là Không, không chủ thể, Vô ngã. Tuy nhiên, vì nghiệp lực con người  luôn lầm chấp thân năm uẩn này là một hữu thể đồng nhất, có một “linh hồn” trường  cửu, bất biến, không thay đổi. Từ  mê mờ  về  một cái “ngã, tôi” giả  tạo  ấy nên con 
  9. người dễ  dàng sanh ra tâm lý tham đắm, say mê, ôm  ấp, bảo thủ  và chấp chặt vào  những gì thuộc về năm uẩn (cái của tôi). Thế nhưng, mọi sự vật hiện tượng luôn sinh   diệt, chuyển biến trong từng sát na. Sự sinh thành và hoại diệt của năm uẩn là kết quả  của các điều kiện nhân duyên và quá trình sanh già bệnh chết, hay hình thành, tồn tại­ thay đổi, hoại diệt, tiêu hủy luôn là một sự  thật cho mọi con người, mọi loài và mọi  vật.   Vì không nhận thức được tính vô ngã của vạn sự, vạn vật (vô minh) nên chấp  thủ, tham ái phát sanh và đó cũng chính là cội nguồn của mọi tà kiến, khổ  đau.  Quan  điểm vô ngã không những xác quyết tính pháp định của Chánh pháp mà còn mang tính   đặc thù của giáo lý đạo Phật. Như vậy thông qua các phạm trù vô thường, duyên và vô ngã triết học Phật giáo  đã bác bỏ quan điểm duy tâm cho rằng thần Braham sáng tạo ra con người và thế giới.  Phật giáo cho rằng con người và sự vật được cấu thành từ các yếu tố vật chất và tinh  thần , các sự vật của thế giới nằm trong quá trình biến đổi không ngừng. 1.2.2 Nhận thức luận Phật giáo Phật giáo cho rằng, sự nhận thức của con người được hình thành từ sự kết hợp   giữa chủ  thể  nhận thức và đối tượng nhận thức, thiếu một trong hai thứ  này thì sự  nhận thức không thể có được. Trong đó, Phật giáo cho rằng con người có sáu năng lực   nhận biết về  đối tượng, gọi là Lục căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Tương  ứng với   Lục căn là đối tượng trong khách thể  nhận thức (gọi là Cảnh) gồm Lục trần: sắc,   thanh, hương, vị, xúc, pháp. Khi Lục căn gặp Lục trần trong quá trình nhận biết thì   Phật giáo gọi là Lục nhập. Sự  gặp gỡ của Lục căn và Lục trần trong quá trình nhận  biết sinh ra cái biết, gọi là Thức, mà trước hết gồm có Lục thức: Nhãn thức, Nhĩ thức,   Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức và Ý thức. Theo đó: Nhãn căn lấy sắc trần làm đối tượng, có thể phát sinh ra Nhãn thức. Nhĩ căn lấy thính trần làm đối tượng, có thể phát sinh ra Nhĩ thức. Tỷ căn lấy hương trần làm đối tượng, có thể phát sinh ra Tỷ thức. Thiệt căn lấy vị trần làm đối tượng, có thể phát sinh ra Thiệt thức.
  10. Thân căn lấy xúc trần làm đối tượng, có thể phát sinh ra Thân thức. Mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi..., tác dụng thấy, nghe, ngửi ấy là Thức. Mỗi thức   có một tác dụng riêng, thức là một tác dụng vô hình, vô tướng. Thức ở đâu cũng có và   ở đâu có căn và có cảnh thì tác dụng ấy có thể được biểu hiện. Phân biệt thuần tuý của năm thức ấy là một phân biệt bằng trực giác, nên không   phải là một phân biệt có tính cách suy tầm, đắn đo. Phân biệt suy tầm đắn đo là phân   biệt của thức thứ sáu tức ý thức rộng lớn vô cùng. Đối tượng của ý thức là Pháp trần   sinh ra các tư tưởng. Khi thức này hợp tác cùng năm thức trước thì đối tượng tổng hợp   của nó là ngũ trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc). Nếu năm căn trước (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân) có quan năng phát sinh mang hình  chất thì năng lực thứ  sáu (ý) có quan năng phát sinh không mang hình chất gọi là Mạt  na (Mạt na thức). Phân tích các tác dụng của Mạt na, Phật giáo chia ra, Mạt na sinh ra   cái biết (phân biệt) mang tính gián đoạn (biết khi tỉnh, không biết khi ngủ) gọi là Ý  thức, Mạt na có tác dụng chấp ngã, tức chấp có. Mạt na chấp cái biết của bảy năng  lực trên đây và trở thành kho chứa của bảy thức gọi là Alaya thức (Tàng thức). Cái mà thức thứ  bảy (Mạt na) chấp làm bản ngã là một phần của thức Alaya.   Thức này là tất cả, là chỗ  chứa đựng tất cả  các hình  ảnh do bảy thức trước khảm  nhập vào, do đó dường như không để mất đi một hình ảnh nào. Như vậy, khi bàn về lý tám thức sẽ là những căn cứ xuất phát để  đi vào làm rõ   các quan điểm trong nhận thức luận của triết học Phật giáo. Cụ thể thuyết Tam lượng  hình thức cơ bản của nhận thức luận Phật giáo. Lượng là lượng tính, là tính toán và so lường và cũng là sự  phân biệt, cân nhắc  vạn pháp của Tâm thức để hiểu biết. Lượng còn gọi là năng phân biệt. Năng phân biệt  có nghĩa là tâm thức có sức, có lực phân biệt vạn pháp. Nói cách khác, lượng ở đây là   chỉ cho Tâm thức thuộc về chủ thể, có khả năng phân biệt vạn pháp và Tâm thức phân   biệt có tính cách so lường thiệt hơn, cân nhắc lợi hại, phân tích đúng sai để  chọn lựa   tinh tường, sâu sắc cho sự hiểu biết. Tâm thức nhờ phân biệt mới có thể  hiểu biết rõ   tính chất, giá trị và ý nghĩa của mọi vật nên gọi là Lượng.
  11. Trong triết học Phật giáo Hiện lượng được xem là hình thái đầu tiên của quá  trình nhận thức. Hiện lượng nghĩa là hiểu biết trực tiếp những cảnh vật, đối tượng đã   được hiện bày đầu tiên và sự  hiểu biết hiện lượng hoàn toàn không có ý niệm diễn  dịch và suy luận. Tác dụng nhận thức ở đây chỉ thuần tuý trực cảm, trực quan mà chưa  có tính cách phán đoán và suy luận. Năm thức đầu và ALaya thức là hai loại tâm thức   luôn luôn nhận biết bằng Hiện lượng. Hình thái nhận thức thứ  hai là Tỷ  lượng. Trong tiếng Hán, “tỷ” là so sánh, “tỷ  lượng” là nhận thức thông qua sự so sánh. Tỷ lượng cũng là xét đoán, tính toán theo sự  so sánh đúng sai, cân nhắc lợi hại, phân biệt phải quấy, lựa chọn hơn kém... của tâm  thức để hiểu biết. Đây là sự hiểu biết của ý thức (thức thứ sáu). Ý thức hiểu biết vạn   pháp qua  ảnh tử  do năm tâm thức cung cấp. Không giống như  sự  hiểu biết trực tiếp   của năm tâm thức trước, ý thức hiểu biết vạn pháp qua sự suy luận, diễn giải, nghĩa là  ý thức luôn luôn phân biệt được danh xưng, ý nghĩa và tướng trạng từng sự vật một để  nhận biết tính chất cũng như giá trị mỗi loại. Vậy,  Tỷ  lượng và  Hiện lượng có  hai  đối  tượng  nhận  thức  khác  nhau.  Đối  tượng của Hiện lượng là Tự tướng với tính cách là cái riêng, cái đặc thù; trong khi đối   tượng của Tỷ lượng là Cộng tướng với tính cách là cái chung, cái phổ  biến, toàn thể.   Cộng tướng có sự  ngộ  chấp chủ  quan của chủ  thể, sự  phản ánh của Tỷ  lượng về  cộng tướng chỉ là “giả hữu ­ giả có” (ước không, ước có) Nhận thức theo Tỷ lượng có hai loại, đó là Chân tỷ lượng và Tợ tỷ lượng. Chân tỷ  lượng có nghĩa là ý thức hiểu biết chính xác về  tính chất, giá trị  và ý  nghĩa của vạn pháp hiện có mặt trong thế gian bằng sự suy luận và diễn giải. Những  hiện tượng  ảnh tử  do năm thức đầu cung cấp đều phát sinh từ  nơi những sự  vật có  thực chất trong thế  gian nên gọi là chân và ý thức hiểu biết đúng những hiện tượng  ảnh tử đó bằng sự suy luận và diễn giải nên gọi là Chân tỷ lượng. Nếu Chân tỷ lượng là sự hiểu biết chính xác về tính chất, giá trị và ý nghĩa của  ý thức thứ sáu về vạn pháp hiện có mặt trong thế gian bằng sự suy luận và diễn dịch   thì Tợ tỷ lượng là việc ý thức nhớ lại (hồi tưởng) và so sánh những quá trình nghiệm  sống của mình để  hiểu biết tính chất, ý nghĩa và giá trị  từng loại trong cuộc  đời.  
  12. Những quá trình nghiệm sống nói trên đã được đúc kết lại thành những hạt giống và  cũng đã được tàng trữ trong thể thức Alaya. Khi muốn nhớ lại thì ý thức phải nhờ thức   Mạt na mang những hình  ảnh của hạt giống này từ  trong thể  thức Alaya đưa lên để  trình diện cho ý thức thứ sáu so sánh. Sự so sánh này của ý thức để hiểu biết được gọi   là Tợ  tỷ  lượng, vì những hình  ảnh đem so sánh này có phần không thực chất và cũng  không giống những sự vật hiện tượng có mặt trong thế gian. Hình thái nhận thức thứ  ba trong triết học Phật giáo gọi là Phi lượng. Thực ra,   đây không phải là một hình thái nhận thức độc lập với hai hình thái nhận thức trước.   Hiện lượng và Tỷ  lượng có khi đúng và cũng có khi sai, mà mỗi khi sai thì đều là Phi  lượng. Hiện lượng mà sai thì không phải là Chân hiện lượng mà là Tợ hiện lượng. Tỷ  lượng mà sai thì không phải là Chân tỷ  lượng mà là Tợ  tỷ  lượng. Tợ   ở  đây là có vẻ  giống như cái đó nhưng thực ra không phải là cái đó. Chẳng hạn, khi ta đi trong đêm tối  mà nhận lầm sợi dây làm con rắn thì đó là Tợ  hiện lượng; còn khi suy diễn sai một   điều gì chẳng hạn thì đó là Tợ tỷ lượng. Như vậy, Phi lượng là sự xét đoán của Tỷ lượng và Hiện lượng nhưng sai lầm,   không đúng sự  thật. Đây thường là sự  hiểu biết của thức Mạt na, một sự  nhận thức   bằng tưởng tượng, nhận biết mang tính chất so đo, chấp trước. Sự xét đoán, so lường   của Mạt na thức thường chấp trước những  điều không đúng chân giá trị  của hiện  tượng thực tại nên gọi là Phi lượng. Thức Mạt na luôn chấp trước nên khống chế  và   điều khiển ý thức nhận xét mọi việc và thường bóp méo sự  thật. Sự  hiểu biết vạn   pháp của Mạt na thức không được vô tư mà lại hay sai lệch nên gọi là Phi lượng. Việc nêu ra và làm rõ các hình thái của quá trình nhận thức, có thể  xem là một   trong những đóng góp có ý nghĩa tích cực của triết học Phật giáo đối với sự phát triển   của nhận thức luận nói chung. Với ba hình thái của quá trình nhận thức bao gồm: Hiện   lượng, Tỷ lượng và Phi lượng; trong đó Hiện lượng đã có phần nào giống với các hình   thức nhận thức đầu tiên (cảm giác và tri giác) của nhận thức cảm tính, còn Tỷ  lượng   lại bao hàm các hình thức nhận thức lý tính (biểu tượng, khái niệm, phán đoán, suy   luận), trong đó biểu tượng là hình thức giao thoa giữa nhận thức cảm tính và nhận 
  13. thức lý tính. Còn Phi lượng, không có gì khác hơn, đó chính là sự  sai lầm của Hiện  lượng và Tỷ lượng, tức sai lầm của cả nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Mỗi hình thái nhận thức nói trên cũng mang những sắc thái và những chức năng   riêng. Hiện lượng nhận thức một cách trực tiếp, đúng thật; Tỷ  lượng nhận thức một   cách so đo, tính toán, suy diễn, phân biệt; Phi lượng thường mang đến những sự  nhận  thức sai biệt làm cho khác đi so với sự thật. Nếu cái đích mà nhận thức luận Phật giáo   hướng tới  ở đối tượng là thế  giới Tánh cảnh thì ở  các hình thái nhận thức đó phải là   Hiện lượng. Bởi chỉ  với Hiện lượng thì con người mới có thể  nhận thức được thế  giới Tánh cảnh. Với sự ra đời của nhận thức luận là một kết quả tất yếu, do nhu cầu phát triển  nội tại của bản thân triết học. Nó không những có vai trò khá lớn đối với sự phát triển   của triết học Phật giáo nói riêng mà nó còn có  ảnh hưởng đến sự  phát triển của tư  tưởng nhận thức của các trường phái triết học khác nói chung trong lịch sử triết học. Nhận thức luận Phật giáo còn góp phần sáng tỏ và làm phong phú thêm hệ  các   vấn đề  nhận thức nói chung, góp phần tích cực vào sự  phát triển của tư  tưởng loài  người về nhận thức, về hình thức và phương pháp nhận thức, về các cấp độ phát triển   của nhận thức, về  vai trò của nhận thức. Đặc biệt, nhận thức luận Phật giáo đã góp  phần làm sáng tỏ các mục tiêu của nhận thức, chỉ ra vai trò và giá trị của nhận thức đối   với sự rèn luyện, tu dưỡng đời sống đạo đức của con người, đời sống mà trong đó con   người hoàn thiện và làm giàu sinh hoạt tinh thần của mình. 1.2.3 Nhân sinh quan Phật giáo Từ  một vũ trụ  quan căn cứ  trên những thuyết nhân duyên sinh, thuyết sự  vật   duyên khởi,... chúng ta sẽ tìm hiểu về những quan niệm của đạo Phật về vấn đề nhân   sinh quan. Ở đây chúng ta sẽ lần lượt trả lời các câu hỏi: ­   Có   phải   cuộc   sống   chỉ   toàn   là   đau   khổ?   Và   vấn   đề   giải   thoát   trong   đạo Phật là gì? ­ Con người là gì? Từ  đâu mà sinh ra? Chết rồi đi đâu? Vị  trí của con người  trong đạo Phật.
  14. ­ Quan niệm của Phật về các vấn đề: bình đẳng, tự do, dân chủ....? Trước khi trả  lời các câu hỏi trên chúng ta sẽ tìm hiểu và phân tích Tứ  diệu đế vì đây là giáo lý kinh điển của Phật giáo bao quát toàn bộ các vấn đề trên Đầu tiên, thể  hiện trong thuyết Tứ  diệu đế, tư  tưởng giải thoát Phật giáo có   xuất phát điểm từ  nỗi khổ  của cuộc sống con người. Theo quan điểm của Phật giáo,  thì ngay việc con người sinh ra và tồn tại thì con người lại càng rơi vào vô minh, rơi  vào những  ảo tưởng giả tạo. Chính vì thế  nhiệm vụ  và mục đích tối cao của sự giải   thoát chính là xóa bỏ sự vô minh của con người để đạt tới sự giác ngộ với cái tâm sáng  tỏ, có thể nhận ra chân bản tính của mình và thực tướng của vạn vật. Có vậy mới dập   tắt được ngọn lửa ái dục, thoát ra mọi khổ não của cuộc đời để  đạt đến cõi Niết bàn  (Nirvana). Vì vậy, mà đức Phật đã đưa Khổ  đế  thành chân lý thứ  nhất. Triết lý của  đạo Phật khẳng định thực tại nhân sinh là khổ. Phật đã nói trong kinh Chuyển Pháp  Luân rằng: Sinh là khổ, lão là khổ, bệnh là khổ, tử là khổ, oán tăng hội khổ, thụ biệt ly   khổ, thụ ngũ uẩn khổ, sở cầu bất đắc khổ.  1. Sinh khổ: đã có sinh là có khổ vì đã sinh nhất định có diệt, bị luật vô thường  chi phối nên khổ. 2. Lão khổ: người ta mong muốn trẻ  mãi nhưng cái già theo thời gian vẫn cứ  đến. Cái già vào mắt thì mắt bị mờ  đi, cái già vào lỗ  tai thì tai bị  điếc, vào da, xương  tủy thì da nhăn nheo, xương tủy mệt mỏi. Cái già tiến đến đâu thì suy yếu đến ấy làm   cho người ta phiền não. 3. Bệnh khổ: trong cuộc sống, thân thể thường ốm đau, nhất là khi già yếu, thân  thể suy nhược, bệnh tật dễ hoành hành làm cho người ta đau khổ .4. Tử khổ: là cái khổ khi người ta chết. Chứng sinh do nghiệp báo chịu cái thân   nào thì gắn bó với cái thân ấy coi như cái thân duy nhất của mình thì khi chết thì phiền  não vô cùng. 5. Cầu bất đắc khổ (thất vọng): người ta thường chạy theo những điều mình ưa  thích, mong cầu hết cái này đến cái khác. Khi chưa cầu được thì phiền não, khi cầu  được rồi thì phải lo giữ nó, nếu nó mất đi thì lại luyến tiếc. 6. Ái biệt ly khổ: nỗi khổ khi phải chia ly.
  15. 7. Oán tắng hội khổ: những điều mình chán ghét thì nó cứ tiến đến bên mình. 8. Ngũ  ấm xí thịnh khổ: ngũ  ấm  ấy là sắc  ấm, thụ   ấm, tưởng  ấm, hành  ấm,   thức ấm. Ngũ ấm ấy che lấp trí tuệ, phải chịu cái khổ luân hồi trong vô lượng kiếp Như vậy, với Bát Khổ mà đức Phật đưa ra cũng đã khái quát rằng cuộc đời con  người vốn đã là bể khổ.           Thứ hai, trong Tập Đế, Ông đã nêu ra và lý giải căn nguyên của nổi khổ, tức chỉ  ra nguồn gốc, nguyên nhân của mọi nổi khổ. Cũng như ở thuyết “Nhân – Duyên khởi”,  nguyên nhân chính để gây nên nổi khổ của con người chính là lòng ái dục. Nhưng sở dĩ  có ái dục là vì sự vô minh, từ cái mê lầm của con người do không nhận thức được bản   chất của thế  giới. Con người muốn tồn tại mãi nhưng thực tại lại cứ luôn biến dịch,  con người muốn trường tồn nhưng cuộc đời cứ  luân chuyển không ngừng nghĩ theo   quy trình: sinh – lão – bệnh – tử; thành – trụ –hoại –không; sinh – trụ –dị – diệt. Vì thế,  con người mới sinh ra lòng tham, lòng sân, lòng si, chiếm đoạt để  rồi gây nên những  nỗi khổ  triền miên trong đời. Cùng với “Nhân duyên khởi”, đức Phật đưa ra thuyết  “Thập nhị nhân duyên” để giải thích căn nguyên nổi khổ ấy, cùng với đó cũng vạch ra   mối liên hệ của nghiệp từ quá khứ tới hiện tại, rồi từ hiện tại tới tương lai. Mười hai   duyên đó là: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thụ, aí, thủ, hữu, sinh, lão tử.  Mười hai duyên này nối tiếp nhau, chúng liên hệ và chuyển hoá cho nhau, chúng vừa là   “nhân” vừa lại là “quả” của nhân.           Thứ  ba, để  con người có thể  được giải thoát khỏi bể  khổ  thì phải diệt khổ, đó   chính là mục đích tối cao của sự giải thoát. Chân lý tối cao mà đức Phật đưa ra đó là   diệt đế. Phật Tổ  nói rằng: “Đó là sự  xa lánh trọn vẹn, là sự  tận diệt chính cái ái dục   ấy. Đó là sự  rời bỏ, sự  khước từ, sự thoát ly và sự  tách rời ra khỏi tâm ái dục. Đó là   chân lý cao thượng về  sự  diệt khổ” , để  đạt tới trạng thái Niết bàn; Niết bàn được   xem là trạng thái tuyệt đối: trạng thái không tịch, diệt trừ  mọi danh sắc, cảm giác, ý  thức, trạng thái diệt mọi ái dục, vô vi, thanh tịnh, là hoàn thiện, vĩnh hằng, bất tử…   Chính vì thế  mà Long Thọ  Bồ  Tát đã viết: “Niết bàn là ngừng định, ngừng hết tư  tưởng vô và hữu, sắc và không” . 
  16.         Thứ tư, để thực hiện được mục đích và lý tưởng giải thoát, để đạt tới trí tuệ bát   nhã, Phật giáo đưa ra thuyết về  Đạo Đế. Đạo đế  là quan điểm về  con đường, cách   thức hay phương pháp giải thoát của đạo Phật. Trong đó, con đường trung đạo như đã  nói ở trên với thuyết tiêu biểu là “Bát chính đạo”. Tám con đường đó là:  1. Hiểu biết nhận thức đúng đắn (Chính kiến).  2. Suy nghĩ chân chính (Chính tư duy).  3. Hành động , làm việc chân chính (Chính nghiệp).  4. Chỉ nói những điều hay, đúng (Chính ngữ). 5. Sống một cách trung thực (Chính mệnh). 6. Cố gắng vươn lên theo con đường chân chính (Chính tịnh tiến). 7. Suy nghĩ chính pháp, gạt mọi tà niệm (Chính niệm). 8. Chuyên chú vào con đường chân chính để giác ngộ (Chính định). Cùng với tám con đường này, đức Phật đưa ra những phương pháp thực hành tu  luyện cho các phật tử  để chủ động thực hiện điều tốt cho người và cho mình, ví như   “Ngũ giới”, “Lục độ” và “Thập thiện”. Nói một cách khái quát, trong thuyết Tứ  diệu  đế, thì Khổ Đế và Tập Đế trình bày về sự khổ và nguyên nhân của nổi khổ. Đây chính  là điểm xuất phát của tư  tưởng giải thoát trong triết lý Phật giáo. Diệt Đế  là quan  điểm của Phật giáo về  mục đích và nhiệm vụ  tối cao của sự  giải thoát, mục đích và  nhiệm vụ ấy là xóa bỏ mọi vọng tưởng, thoát khỏi mọi sự ràng buộc của thế giới vật   dục, diệt ái dục để  có thể  giác ngộ, đến với Niết bàn. Còn Đạo Đế  là con đường và   cách thức giải thoát, đó là “Bát chính đạo”.         Như  vậy, với tư  tưởng giải thoát mà đức Phật đưa ra đã thể  hiện rất sâu sắc  tính chất nhân bản, nó quan tâm đến thân phận và đời sống của mỗi con người, giúp  con người thoát khỏi những nổi khổ của cuộc đời, tìm cho họ một niềm tin trong cuộc   sống, một chỗ dựa vững chắc và chỗ  dựa vững chắc  ấy không  ở  đâu xa lạ  mà chính  ngay trong tâm mỗi người. Theo đó, con đường và cách thức giải thoát trong triết lý   Phật giáo rất giản dị, có ý nghĩa hết sức thiết thực và phù hợp với đời sống hiện thực   khách quan. Nó chủ  trương tu luyện toàn diện trên mọi lĩnh vực từ  đời sống đạo đức  luân lý đến tâm linh, trí tuệ.
  17. Chương 2: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT  GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƯỜI VIỆT  NAM 2.1 Sơ lược sự hình thành và phát triển Phật giáo Việt Nam Theo   đường   biển,   các   nhà   sư   Ấn   Độ   đã   đến   Việt   Nam   ngay   từ   đầu   Công  nguyên. Luy Lâu, trụ sở quận Giao Chỉ, đã sớm trở thành một trung tâm phật giáo quan  trọng. Từ  đây, có những người như  Khương Tăng Hội (gốc Trung Á) hoặc Ma­ha­kì­ vực (Mahajivaka, nhà sư Ấn Độ), đã đi sâu vào Trung Hoa truyền đạo. Sau này, khi trả  lời vua Tùy Văn Đế về tình hình Phật giáo Giao Châu, nhà sư  Đàm Thiên đã nói rằng:  “Xứ Giao Châu có đường thông sang Thiên Trúc. Phật giáo truyền vào Trung Hoa chưa   phổ cập đến Giang Đông, mà xứ ấy đã xây ở  Luy Lâu hơn 20 bảo tháp, độ  được hơn  500 tăng và dịch được 15 bộ kinh rồi. Thế là xứ ấy theo đạo Phật trước ta”. Cũng do Phật giáo đã được truyền trực tiếp từ   Ấn Độ  vào Việt Nam ngay từ  đầu công nguyên nên từ  Buddha   tiếng Phạn đã được phiên âm trực tiếp sang tiếng  Việt thành Bụt. Phật giáo lúc này mang màu sắc Tiểu thừa Nam tông. Và trong con mắt  của người Việt Nam nông nghiệp, Bụt như  một vị  thần luôn có mặt ở  khắp nơi, sẵn   sàng xuất hiện cứu giúp người tốt và trừng trị kẻ xấu. Sau này, sang thế kỷ IV – V, lại  có thêm luồng Phật giáo Đại thừa Bắc tông từ  Trung Hoa tràn vào. Chẳng mấy chốc,   nó đã lấn át và thay thế  luồng Nam tông có từ  trước đó. Từ  Buddha   vào tiếng Hán  phiên âm thành Phật; từ đây từ Phật dần dần thay thế cho từ Bụt: Bụt chỉ còn trong các  quán ngữ  với nghĩa ban đầu (ví dụ: Gần chùa gọi Bụt bằng anh), hoặc chuyển thành  nghĩa ông tiên trong các truyện dân gian (như Tấm Cám). Từ  Trung Hoa, có ba tông phái Phật giáo được truyền vào Việt Nam: Thiền  tông, Tịnh Đồ tông, Mật tông. Thiền   tông   là   tông   phái   phật   giáo   do   nhà   sư   Ấn   Độ   Bồ­đề­đạt­ma  (Bodhidharma) sáng lập ra  ở  Trung Quốc vào đầu thế  kỷ  VI. “Thiền” (rút gọn của   Thiền­na, phiên âm Hán – Việt từ Dhiana tiếng Sanscrit nghĩa là “tĩnh tâm”) chủ trương   tập trung trí tuệ suy nghĩ (thiền) để tự mình tìm ra chân lý. Thiền tông Việt Nam luôn  
  18. đề  cao cái Tâm. Phật tại tâm, tâm là niết bàn, là Phật. Quốc sư  Yên Tử  nói với Trần   Thái Tông: “Núi vốn không có Phật, Phật  ở tại tâm, tâm lặng lẽ  sáng suốt  ấy là chân   Phật”. Tu theo Thiền tông đòi hỏi nhiều công phu và khả năng trí tuệ, do vậy chỉ phổ  biến ở giới trí thức thượng lưu, cũng nhờ  họ ghi chép lại mà nay ta được biết về  lịch  sử Thiền tông Việt Nam khá rõ Khác với Thiền tông, Tịnh Độ tông chủ trương dựa vào sự giúp đỡ từ bên ngoài   để cứu chúng sinh thoát khổ. Đó là việc họ hướng đến một cõi niết­bàn cụ thể    gọi là  cõi Tịnh Độ (=yên tĩnh, trong sáng), được hình dung như một nơi Cực Lạc do đức Phật  A­di­đà (Amitabha = vô lượng quang) cai quản. Đó còn là việc bản thân họ cần thường   xuyên đi chùa lễ Phật, thường xuyên tụng niệm danh hiệu Phật A­di­đà. Hình dung cụ  thể về niết bàn là để có đích mà hướng tới; còn tượng Phật và niệm danh Phật là để  thường xuyên nhớ  đến những lời dạy của Người mà ráng làm theo. Nhờ  cách tu đơn   giản như  vậy, Tịnh Độ  tông trở  thành Phật giáo của giới bình dân và phổ  biến khắp  cõi Việt Nam: đâu đâu ta cũng gặp người dân trụng niệm Nam mô A­di­đà Phật! (=   Nguyện quy thep đức phật A­di­đà). Tượng A­di­đà cũng thuộc loại tượng Phật lâu   đời và phổ biến hơn cả (tới nay còn giữ  được pho tượng A­di­đà bằng đá cao khoảng  2,5 mét, tạc năm 1057 ở chùa Phật Tích (Bắc Ninh), phía ngoài tượng này xưa vốn dát  vàng). Mật tông là phái chủ trương sử dụng những phép tu huyền bí (bí mật) như dùng  linh phù, mật chú, ấn quyết… để thu hút tín đồ và mau chóng đạt đến giác ngộ và giải   thoát. Vào Việt Nam, Mật tông không tồn tại độc lập như  một tông phái riêng mà  nhanh chóng hòa vào dòng tín ngưỡng dân gian với những truyền thống cầu đồng, dùng  pháp thuật, yểm bùa trị tà ma và chữa bệnh… Do thâm nhập một cách hòa bình, ngay từ thời Bắc thuộc, Phật giáo đã phổ biến  rộng khắp. Đến thời Lý – Trần, Phật giáo Việt Nam phát triển tới mức cực thịnh. Nhà   nho Lê Quát, học trò Chu Văn An, đã lấy làm khó chịu khi thấy toàn dân theo Phật:   “Phật chỉ lấy điều họa phúc mà động lòng người, sao mà sâu xa và bền chắc đến như  vậy? Trên từ vương công, dưới đến thứ dân, hễ làm cái gì thuộc về việc Phật, thì hết  cả gia tài cũng không tiếc. Nếu hôm nay đem tiền của để làm chùa, xây tháp thì hớn hở 
  19. vui vẻ, như trong tay đã cầm được cái biên lai để ngày sau đi nhận số tiền trả báo lại.   Cho nên, trong từ kinh thành ngoài đến châu phủ, đường cùng, ngõ hẻm, chẳng khiến   đã theo, chẳng thề mà tin; hễ chỗ nào có nhà thì ở đó có chùa Phật; bỏ đi tì làm lại, hư  đi thì sửa lại”. Rất nhiều chùa tháp có quy mô to lớn hoặc kiến trúc độc đáo được xây dựng  trong thời gian này như  chùa Phật Tích, chùa Dạm (chùa Đại Lãm), chùa Diên Hựu  (Một Cột); chùa Phổ Minh, chùa Quỳnh Lâm, chùa Hương Lãng, chùa Linh Xứng, chùa   Bối Khê, chùa Thái Lạc, hệ thống chùa Yên Tử, tháp Bình Sơn… Sang đời Lê, nhà nước tuyên bố lấy Nho giáo làm quốc giáo, Phât giáo dần dần   suy thoái. Đầu thế  kỷ  XVIII,  vua Quang Trung có quan tâm chấn hưng  đạo Phật,  xuống chiếu chỉnh đốn việc cất chùa, cho cất các chùa lớn đẹp, chọn các tăng nhân có   học thức và đạo đức cho coi chùa, song vì vua mất sớm nên việc này ít thu được kết   quả. Đến thế kỷ XX, đứng trước trào lưu Âu hóa và những biến động do sự giao lưu  với phương Tây mang lại, phong trào chấn hưng Phật giáo được dấy lên, khởi đầu từ  các đô thị miền Nam. Những năm 30, các hội Phật giáo  ở  Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc   Kỳ  lần lượt ra đời với những cơ  quan ngôn luận riêng. Cho đến nay, Phật giáo là tôn  giáo có số lượng tín đồ đông nhất ở Việt Nam 2.2 Những ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh  thần của người Việt Nam 2.2.1 Những ảnh hưởng tích cực 2.2.1.1  Ảnh hưởng của Phật giáo đến đạo đức lối sống của người Việt   Nam Đạo Phật đồng hành với dân tộc Việt Nam, từ  khi du nhập vào Việt Nam đến  nay đã 2000 năm lịch sử, nên có thể  xem nó như  một phần tài sản văn hóa dân tộc.  Trong quá trình phát triển tại Việt Nam, đạo Phật không chỉ  đơn thuần chuyển tải  niềm tin của con người mà còn có vai trò góp phần duy trì đạo đức xã hội nơi trần thế.  
  20. Ngoài những điểm phù hợp với tình cảm đạo đức lối sống của con người, Phật giáo   còn được thể hiện thông qua tình cảm, tín ngưỡng, niềm tin và giáo lý. Do đó, tình cảm   đạo đức Phật giáo được người Việt tiếp thu, tạo thành đức tin thiêng liêng bên trong và  chi phối hành vi ứng xử của họ trong các quan hệ cộng đồng. Do tuân thủ những điều  răn dạy về  đạo đức của Phật giáo, người Việt đã sống và  ứng xử  đúng đạo lý, góp  phần làm cho xã hội ngày thêm tốt đẹp. Đạo đức Phật giáo thông qua những giáo luật,  giáo lý và các giá trị, chuẩn mực đã đi vào cuộc sống của người dân Việt Nam. Sự ảnh   hưởng của Phật giáo đến đời sống của người Việt Nam không chỉ  là giáo lý qua kinh  kệ, sách vở mà đã trở thành phong tục, cách sống của dân tộc, của mọi gia đình. Triết  lý của Phật giáo về Từ bi, về tình thương yêu rất phù hợp với truyền thống giàu lòng  nhân ái vốn có của người Việt: “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”; “Một miếng khi đói   bằng một gói khi no”; “Lá lành đùm lá rách”; “Thương người như thể thương thân”…  sự  kết hợp những nét độc đáo trong phương pháp tư  duy, trong văn học, nghệ  thuật  của người Việt Nam. Những giá trị, khuyến thiện, hướng thiện không chỉ phát huy tác   dụng trong hàng ngũ tín đồ  mà còn  ảnh hưởng rộng rãi trong đời sống nhân dân, góp  phần hình thành nên những quan niệm sống giàu tính nhân văn sâu sắc. Người Việt Nam truyền thống với tinh thần yêu thương, đoàn kết, đùm bọc lẫn  nhau, phụng dưỡng cha mẹ, tri  ân những người có công với cộng đồng, làm điều  thiện… đó cũng chính là những điều luân lý đạo đức cụ  thể  mà Phật giáo đã truyền   dạy. Phật giáo đã thực sự đi vào cuộc sống, đi vào tâm linh mỗi con người. Trong suốt   chiều dài của lịch sử, đạo đức Phật giáo đã có nhiều đóng góp đáng kể đối với sự phát   triển của dân tộc,  những nhân tố  quan trọng góp phần định hình nên các quan niệm,  chuẩn mực, hệ giá trị đạo đức trong xã hội Việt Nam truyền thống và hiện đại. 2.2.1.2.  Ảnh hưởng của Phật giáo đến kinh tế  trong bối cảnh thị  trường   hiện nay Trong giáo lý “Bát chính đạo” đức Phật có đề cập đến “chính mệnh” sinh sống   bằng nghề nghiệp chân chính. Người khuyên mọi người kiếm sống bằng chính sức lao  động và tiền vốn của mình, trí tuệ của mình chứ  không được buôn bán gian lận, buôn  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2