Tiểu luận: Từ sụp đổ tài chính đến khủng hoảng nợ
lượt xem 12
download
Tiểu luận: Từ sụp đổ tài chính đến khủng hoảng nợ trình bày các định nghĩa về cuộc khủng hoảng và những khái niệm. Bức tranh tổng thể và lịch sử quốc gia, khủng hoảng nợ, khủng hoảng ngân hàng, những bằng chứng xuyên quốc gia.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Từ sụp đổ tài chính đến khủng hoảng nợ
- T ừ sụp đổ tài chính đến khủng hoảng nợ GVHD: P GS.T S Nguyễn T hị Liên Hoa DANH SÁCH NHÓM STT Tên thành viên THỰC HIỆN Mức độ tham gia Ngô Đức Phương 1 Giới thiệu đến II.1 100% (Nhóm trưởng) 2 Văn Phú Duẫn II.2 đến hết II 100% Dương Ngọc Kiều 3 III đến hết hình 5 100% Diễm Phạm Thị Xuân 4 Hình 6 đến hết hình 8 100% Thương 5 Lê Kim Quang Hình 9 đến hết hình 13 100% 6 Phạm Thị Thu Thủy III.3 đến IV.1 100% 7 Biện Ngọc Toàn IV.2 đến V.1 100% 8 Đinh Hồng Nhạn Uyên V.2 đến hết 100% K20 – NH Đêm 1 - TCQT 1
- T ừ sụp đổ tài chính đến khủng hoảng nợ GVHD: P GS.T S Nguyễn T hị Liên Hoa MỤC LỤC Danh sách nhóm .......................................................................................................................... 1 Mục lục ......................................................................................................................................... 2 Tóm tắt.......................................................................................................................................... 3 I.Giới thiệu ................................................................................................................................... 4 II. Các định nghĩa về cuộc khủng hoảng và những khái niệm .............................................. 5 1. Lạm phát, siêu lạm phát và cuộc khủng hoảng tiền tệ ...................................................... 6 2. Các loại nợ và khủng hoảng nợ ............................................................................................ 6 3. Khủng hoảng Ngân hàng ....................................................................................................... 8 4. Hội chứng “Lần này thì khác” và các khái niệm khác...................................................... 9 III. Bức tranh tổng thể và lịch sử quốc gia............................................................................. 11 1. Những cuộc khủng hoảng nợ ngoại tệ của chính phủ ....................................................... 12 2. Khủng hoảng ngân hàng ...................................................................................................... 20 3. Ngân hàng và khủng hoảng nợ............................................................................................ 27 4. Khảo sát các thành phần của nợ......................................................................................... 30 IV. Nền tảng lý thuyết của hội chứng “Lần này thì khác” ................................................... 31 1. Cơ sở lý luận đa cân bằng ................................................................................................... 32 2. Các xu hướng ngắn hạn thiên về sự cho phép rủi ro khủng hoảng ................................... 33 3. Nợ ẩn....................................................................................................................................... 34 4. Ứng dụng và hành vi của các mô hình trong tương lai........................................................ 35 V. Khủng hoảng nợ, khủng hoảng ngân hàng, những bằng chứng xuyên quốc gia.............. 36 1. Khủng hoảng ngân hàng và khủng hoảng nợ: Những mô hình thời gian ......................... 37 2. Nợ công và nợ nước ngoài, khủng hoảng nợ và khủng hoảng ngân hàng .................... 38 VI. Kết luận quan sát ................................................................................................................ 42 K20 – NH Đêm 1 - TCQT 2
- T ừ sụp đổ tài chính đến khủng hoảng nợ GVHD: P GS.T S Nguyễn T hị Liên Hoa Tiểu luận Từ sụp đổ tài chính đến khủng hoảng nợ K20 – NH Đêm 1 - TCQT 3
- T ừ sụp đổ tài chính đến khủng hoảng nợ GVHD: P GS.T S Nguyễn T hị Liên Hoa TÓM TẮT Trải qua hàng loạt giai đoạn phát triển lịch sử về nợ công, cùng với những dữ liệu hiện đại về những khoản nợ nước ngoài, cho phép các nhà phân tích đi sâu hơn vào chu kỳ nợ cơ bản nối tiếp nhau và khủng hoảng ngân hàng. Những bằng chứng đã khẳng định một mối liên hệ mạnh mẽ giữa khủng hoảng ngân hàng và mất khả nảng chi trả nợ ngoại tệ của chính phủ trải qua lịch sử kinh tế của nhiều quốc gia lớn, tiên tiến cũng như mới nổi. Các nhà phân tích tập trung vào 3 giả thuyết liên quan đến nhau đã được kiểm chứng ở cả mức độ “thế giới” lẫn các quốc gia riêng lẻ. Đầu tiên, s ự gia tăng của nợ tư là một tiền đề mang tính tuần hoàn đối với khủng hoảng nợ ngân hàng. Thứ hai, khủng hoảng ngân hàng (cả khủng hoảng quốc gia và những cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ các trung tâm tài chính quốc tế) thường đi trước hay đồng hành với những cuộc khủng hoảng nợ ngoại tệ của chính phủ. Thứ ba, việc vay mượn công rõ ràng thúc đẩy cho khủng hoảng nợ ngoại tệ của chính phủ; Chính phủ thường có “những khoản nợ ẩn” mà thường vượt mức được quy định trên giấy tờ của những món nợ nước ngoài. Những món nợ ẩn này bao gồm các khoản nợ công trong nước (mà có trước dữ liệu của chúng ta thì chủ yếu không được ghi chép) K20 – NH Đêm 1 - TCQT 4
- T ừ sụp đổ tài chính đến khủng hoảng nợ GVHD: P GS.T S Nguyễn T hị Liên Hoa I. Giới thiệu: Kinh tế học tiến bộ thường có một xu hướng không thích hợp là xem xét những kinh nghiệm gần đây bằng một cái nhìn hạn hẹp dựa trên những cơ sở tiêu chuẩn. Điều này đặc biệt nguy hiểm khi rất nhiều phân tích trên thế giới chỉ dựa trên dữ liệu về nợ và vỡ nợ từ năm 1980 trở lại đây, trong khi chu kỳ cơ bản có thể là một thế kỷ hoặc nhiều hơn, chứ không chỉ trong 30 năm. Bài viết này cố gắng khắc phục những thiếu hụt này bằng cách sử dụng một cách toàn diện cơ sở dữ liệu lịch sử từ lâu và khủng hoảng nợ ngân hàng, lạm phát, cũng như những rủi ro về tiền tệ. Dữ liệu bao gồm 70 nước ở Châu Phi, Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ La Tinh, Bắc Mỹ, và Châu Đại Dương. Phạm vi của các biến số bao gồm các yếu tố bên ngoài và nợ trong nước, thương mại, GNP, lạm phát, tỷ giá, lãi s uất, và giá cả hàng hóa. Phân tích của chúng tôi kéo dài hơn hai thế kỷ, quay ngược lại thời kỳ độc lập cũng như trong thời kỳ thuộc địa đối với một số quốc gia. Nền tảng của những dữ liệu này được xây dựng dựa trên sự nghiên cứu của nhiều học giả, nó cũng bao gồm một số lượng đáng kể các số liệu mới, đa dạng từ các nguồn dữ liệu sơ cấp và dữ liệu thứ cấp. Bằng cách khai thác dữ liệu qua nhiều thế kỷ, chúng tôi đã nghiên cứu quy luật của chu kỳ nợ kéo dài nhằm giải thích những chuỗi vỡ nợ và và khủng hoảng ngân hàng nhằm làm rõ những đặc điểm của lịch sử nền kinh tế của nhiều nước phát triển và đang phát triển. Phân tích chủ yếu tập trung tại ba giả thiết liên quan được ghi nhận và kiểm tra trên cả phương diện toàn cầu lẫn trên từng quốc gia. Giả thiết thứ nhất, nợ tư nhân bị thúc ép bởi sự tăng trưởng tín dụng của ngân hàng trong nước và nợ nước ngoài là một tiền đề cho cuộc khủng hoảng ngân hàng trong nước, trong đó chính phủ thường đóng vai trò chủ yếu trong giai đoạn này dẫn đến sự bùng nổ các khoản nợ. (Lịch sử khủng hoảng ngân hàng tại các trung tâm tài chính đã giúp dự đoán cuộc khủng hoảng ngân hàng trong nước ở nơi khác). Giả thiết thứ hai, cuộc khủng hoảng ngân hàng (trong nước và những trung tâm tài chính quốc tế) thường đi trước hoặc song song với cuộc khủng hoảng nợ của các quốc gia. Thứ ba, nợ công tăng tốc một cách rõ rệt và có hệ thống trước một cuộc khủng hoảng nợ ngoại tệ của chính phủ (vỡ nợ hoàn toàn hoặc chuyển dịch cơ cấu), chính phủ thường có "các khoản nợ ẩn” vượt quá so với nợ nước ngoài được ghi nhận. Những khoản K20 – NH Đêm 1 - TCQT 5
- T ừ sụp đổ tài chính đến khủng hoảng nợ GVHD: P GS.T S Nguyễn T hị Liên Hoa nợ ẩn bao gồm nợ công trong nước (là phần quan trong đối với dữ liệu của chúng ta nhưng phần lớn lại không được ghi chép lại) và nợ tư nhân trở thành nợ công (và "công khai" được biết đến) khi cuộc khủng hoảng bùng nổ. Việc xác định lượng nợ công phải trả vượt quá phạm vi của bài viết này. Một giả thuyết thứ tư (mà chúng tôi ghi nhận nhưng chưa kiểm tra) là trong giai đoạn cuối của cuộc khủng hoảng nợ tư nhân và nợ công vào thời điểm trước của cuộc khủng hoảng ngân hàng và khủng hoảng nợ và nổi tiếng nhất là vụ nổ của siêu lạm phát, các thành phần của nợ thay đổi rõ rệt đối với kỳ hạn ngắn hạn. Bài viết được sắp xếp như sau. Phần II mô tả cách tiếp cận của chúng tôi đối với danh mục liệt kê, niên đại, và kết hợp các biểu hiện khác nhau của cuộc khủng hoảng kinh tế. Các khái niệm về vỡ nợ dây chuyền, sự không khoan dung đối với các khoản nợ, và "hội chứng lần này thì khác”, mà tất cả đều đóng một vai trò chính trong phân tích của chúng tôi. Trong phần III, chúng tôi trình bày "bức tranh tổng thể" trên chu kỳ toàn cầu của nợ, cuộc khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ có chủ quyền. Chúng tôi sử dụng đại diện là lịch sử của các quốc gia để xây dựng và bổ sung một số mô hình được thấy trong tập hợp toàn cầu. Sự vững mạnh của các phân tích mô tả được tập trung trong một sách biểu đồ tập hợp dữ liệu và văn bản hơn hai thế kỷ về các kinh nghiệm đối với khủng hoảng và lịch sử của nợ nần của tất cả cũng như từng đơn vị trong số bảy mươi quốc gia được nghiên cứu. Trọng tâm dựa trên mô tả các giai đoạn mở rộng của chu kỳ nợ, trình tự của cuộc khủng hoảng, và một số đặc tính của chúng, chẳng hạn như thời gian và tần số của những đợt khủng hoảng. Lịch sử cho thấy rằng các nhà hoạch định chính sách không nên được khích lệ thái quá bởi việc tránh khỏi các vụ vỡ nợ nước ngoài trong giai đoạn 2003 đến 2009 sau làn sóng vỡ nợ trong hai thập kỷ trước đó. Mặc dù làn sóng vỡ nợ quốc tế thường cách nhau nhiều năm, nếu không nói là nhiều thập kỷ, không có lý do gì để giả định rằng các chuỗi vỡ nợ liên tiếp đã hoàn toàn biến mất. Phần IV thảo luận về một số khuôn khổ lý thuyết khác có thể giúp giải thích các mô hình được thảo luận trong phần trước với một sự nhấn mạnh đặc biệt về các sự vỡ nợ liên tiếp và "hội chứng lần này thì khác”. Mục V bổ sung cho phân tích mổ tả “Bức tranh K20 – NH Đêm 1 - TCQT 6
- T ừ sụp đổ tài chính đến khủng hoảng nợ GVHD: P GS.T S Nguyễn T hị Liên Hoa tổng thể” tại Mục III bằng cách khai thác trong khuôn khổ rộng lớn các dữ liệu nhằm kiểm tra các mô hình ngẫu nhiên trong suốt các cuộc khủng hoảng cũng như vài trò của nợ công và nợ tư trong việc tăng đột biến các khoản nợ ngoại tệ của chính phủ và khủng hoảng tài chính. Trong phần kết luận, chúng tôi đưa ra các vấn đề để làm sao các quốc gia có thể trưởng thành hơn đối với các vấn đề lâu năm của sự vỡ nợ liên tiếp. II. Các định nghĩa về cuộc khủng hoảng và những khái niệm khác Chúng tôi bắt đầu bằng cách phát triển định nghĩa về những yếu tố cấu thành một cuộc khủng hoảng tài chính, kể cả những phương pháp định lượng khi có thể, để xác định thời điểm bắt đầu và kết thúc của một cuộc khủng hoảng. Các ranh giới được vạch ra thường phù hợp với các tài liệu kinh tế lý thuyết, và là phân đoạn trên các biến khác nhau của cuộc khủng hoảng (ví dụ, quyền chủ nợ, tỷ giá). Hai phương pháp tiếp cận được sử dụng để xác định các giai đoạn khủng hoảng. Một là số liệu tự nhiên được thảo luận, trong khi phương pháp còn lại là dựa trên một trình tự thời gian của các s ự kiện. Cuộc khủng hoảng được đưa ra thảo luận trong phần này đề cập đến cá nhân các nước đi ngược lại với với các sự kiện toàn cầu. 1. Lạm phát, siêu lạm phát và cuộc khủng hoảng tiền tệ Sự sung công xuất hiện trong nhiều hình thức đa dạng, vượt ra ngoài sự vỡ nợ hoàn toàn, thoái thác, hoặc tái cơ cấu nợ trong nước và ngoài nước. Bằng nhiều phương thức không trực tiếp nhưng đều dẫn đến cùng một hệ quả, lạm phát và sự giảm giá tiền tệ, cũng có thể làm xói mòn giá trị của một số khoản nợ hiện tại. Vì vậy, chúng ta xác định ngày bắt đầu của lạm phát hoặc tập cuộc khủng hoảng tiền tệ và kể cả thời gian kéo dài của nó. Lạm phát có thể được mô tả tốt nhất như căn bệnh mãn tính, và kéo dài qua nhiều năm. Trong nghiên cứu của Reinhart và Rogoff (2004), trong đó phân loại sắp xếp tỷ lệ trao đổi cho giai đoạn sau chiến tranh thế giới thứ II, sử dụng một ngưỡng lạm phát 12 tháng là 40% hoặc những tỉ lệ cao hơn để xác định đoạn (phân khúc) "rơi tự do". Công việc hiện tại này lại kéo dài lâu hơn, trước khi sắc lệnh tiền tệ được phổ biến. Tỷ lệ lạm phát trung bình trước chiến tranh thế giới thứ nhất đã thấp hơn những thời kỳ gần đây K20 – NH Đêm 1 - TCQT 7
- T ừ sụp đổ tài chính đến khủng hoảng nợ GVHD: P GS.T S Nguyễn T hị Liên Hoa hơn: 0,5% cho 1500-1799 và 0.7% 1800-1913 so với khoảng 5% cho 1914-2009. Theo đó, chúng tôi xác định một cuộc khủng hoảng lạm phát bằng cách sử dụng một ngưỡng 20% một năm. Lạm phát phi mã, được định nghĩa là nơi tập hợp tỷ lệ lạm phát hàng năm vượt quá 500%, cổ điển hiện đại. Cuộc khủng hoảng lạm phát tại Hungary năm 1946 vẫn giữ kỷ lục bất chấp những thách thức gần đây từ Zimbabwe, là quốc gia thứ 2 giữ kỷ lục về lạm phát Để xác định những sự sụp đổ của hệ thống tiền tệ, chúng tôi dựa theo một nghiên cứu hay thay đổi của Frankel và Ros e (1996) là tập trung hoàn toàn vào tỷ lệ khấu hao giá. Đây là định nghĩa dè sẻn nhất, vì nó không dựa trên các biến khác, chẳng hạn như thiệt hại dự trữ (dữ liệu mà nhiều ngân hàng trung ương bảo vệ) và tăng lãi suất. Tương tự như xử lý của chúng tôi đối với các giai đoạn lạm phát, một giai đoạn được tính bao gồm toàn bộ thời gian khấu hao hàng năm vượt quá ngưỡng 15% một năm. Hầu như không có gì đáng ngạc nhiên, sự sụp đổ hệ thống tiền tệ và cuộc khủng hoảng lạm phát thường xuất hiện song song với nhau. Hình 1. Kết nối chặt chẽ giữa sự sụp đổ hệ thống tiền tệ và cuộc khủng hoảng lạm phát: Thị trường mới nổi, 1865-2009 K20 – NH Đêm 1 - TCQT 8
- T ừ sụp đổ tài chính đến khủng hoảng nợ GVHD: P GS.T S Nguyễn T hị Liên Hoa Nguồn: Reinhart và Rogoff (2009), trích dẫn trong và Tính toán của tác giả. Ghi chú: Một cuộc khủng hoảng lạm phát được định nghĩa là một năm mà lạm phát vượt quá 20%, trong khi một vụ sụp đổ hệ thống tiền tệ là một sự sụt giảm hàng n ăm (giảm giá) lớn hơn ho ặc b ằng 15% mỗi năm. Các tương quan của cuộc khủng hoảng lạm phát và tỷ giá xảy ra đồng thời. 2. Các loại nợ và khủng hoảng nợ Khủng hoảng nợ nước ngoài thường liên quan đến khả năng vỡ nợ về thanh toán các nghĩa vụ nợ phát sinh theo quy phạm pháp luật nước ngoài, việc không thừa nhận các khoản nợ, hay cấu trúc lại các khoản nợ thành những điều kiện ít thuận lợi cho người cho vay hơn trước khi khủng hoảng. Những sự kiện này thường nhận được sự quan tâm đáng kể trong các sách học thuật từ những nhà nghiên cứu lịch sử kinh tế hàng đầu như Micheal Bordo, Barry Eichengreen, Marc Flandreau, Lindert và Morton, cũng như Alan Taylor. Qua những cuộc khủng hoảng ngành ngân hàng đầu tiên, người ta đã bắt đầu hiểu rõ hơn về nguyên nhân và hậu quả dẫn đến sự vỡ nợ của những thời kỳ này. Đối với thời điểm sau năm 1824, có rất nhiều trường hợp được Standart and Poor’s nghiên cứu. Tuy nhiên, những nghiên cứu này thường không toàn vẹn, thiếu hụt những số liệu tái cơ cấu sau chiến tranh và sự vỡ nợ trước đó. Nguồn thông tin này được bổ sung thêm bởi các nghiên cứu của Lindert và Morton (1989), Suter (1992) và Tomz (2006). Dĩ nhiên, các thông tin cần tìm hiểu về vấn đề này cũng bao gồm các nghiên cứu của Winkler (1933) và Wynne (1951). Trong khi thời điểm vỡ nợ được phân loại một cách chính xác là năm khủng hoảng, cũng có rất nhiều trường hợp mà giải pháp cuối cùng với chủ nợ (nếu nó thực sự được thay thế) dường như không bao giờ kết thúc. Sự vỡ nợ của Nga sau cuộc cách mạng cũng kéo dài 69 năm. Việc chính phủ Hy Lạp vỡ nợ vào năm 1826 cũng đã đóng lại thị trường vốn quốc tế đối với quốc gia này trong 53 năm liên tiếp tương tự như trường hợp của Hoduras năm 1873. Nhìn lại toàn bộ các giai đoạn vỡ nợ, đương nhiên việc này rất hữu ích cho việc phân tích chu trình vay mượn/ vỡ nợ, tính toán những tỉ lệ may rủi,v.v.... Nhưng trên thực tế rất khó tin một khoảng thời gian 53 năm được đánh giá như là một cuộc khủng hoảng. Vì thế, bên cạnh việc xây dựng nhiều biến giả mang đặc tính quốc gia K20 – NH Đêm 1 - TCQT 9
- T ừ sụp đổ tài chính đến khủng hoảng nợ GVHD: P GS.T S Nguyễn T hị Liên Hoa để thể hiện toàn bộ các giai đoạn khủng hoảng, chúng tôi cũng lựa chọn một trường hợp vào năm đầu tiên của sự vỡ nợ rơi vào khủng hoảng. Thông tin về những cuộc khủng hoảng nợ trong nước thường gây hoảng sợ nhưng thực tế không phải như vậy vì hầu như các cuộc khủng hoảng thường không xuất hiện. Thực vậy, như những gì Reinhart và Rogoff (2008) trình bày, khủng hoảng nợ trong nước thường xuất hiện chống lại tình trạng kinh tế tồi tệ hơn hơn mức trung bình vỡ nợ nước ngoài. Khủng hoảng nợ trong nước không thường liên quan đến các chủ nợ nước ngoài, điều này có lẽ sẽ giúp giải thích việc tại sao rất nhiều giai đoạn bị quên lãng. Một tính chất khác của sự vỡ nợ trong nước là việc truy thu và đình chỉ thanh toán nợ trong nước thường là không được ghi lại. Cuối cùng, một số những sự vỡ nợ trong nước liên quan đến việc bắt buộc chuyển đổi tiển gửi ngoại tệ sang nội tệ đã xảy ra trong suốt những cuộc khủng hoảng ngành ngân hàng, lạm phát phi mã, hay kết hợp cả 2 trường hợp cũng như đóng băng tiền gửi cũng xuất hiện thường xuyên. Việc tiếp cận hướng đến việc xây dựng các biến số rõ ràng sau mà trước đây được mô tả là sự vỡ nợ nước ngoài. Giống các cuộc khủng hoảng ngân hàng bình thường tuy nhiên khác với việc vỡ nợ nước ngoài, điểm kết thúc của sự vỡ nợ trong nước không phải luôn luôn được biết đến. 3. Khủng hoảng ngân hàng Vào thời kỳ khủng hoảng ngân hàng, phân tích của chúng ta nhấn mạnh các sự kiện dẫn đến sự khan hiếm thông tin định lượng. Ví dụ, giá tương đối của cổ phiếu ngân hàng (hoặc tổ chức tài chính liên quan đến thị trường) sẽ là một chỉ số hợp lý để kiểm tra, tuy nhiên những chuỗi thời gian thế này không phải lúc nào cũng sẵn sàng, đặc biệt là đối với các phần trước của mẫu cũng như cho các nước đang phát triển (phần lớn các ngân hàng chưa giao dịch công khai). Nếu sự khởi đầu của một cuộc khủng hoảng ngân hàng được đánh dấu bằng việc đua nhau rút tiền thì thay đổi trong vấn đề tiền gửi ngân hàng cũng có thể dẫn đến khủng hoảng cả ngành ngân hàng. Dẫn chứng này sẽ hoàn toàn đúng khi đánh giá một số các cuộc hoảng loạn ngân hàng vào những năm 1800. Thông thường, dù thế nào thì vấn đề của các ngân hàng thường không xuất phát từ bên nợ, mà từ một sự suy giảm kéo dài K20 – NH Đêm 1 - TCQT 10
- T ừ sụp đổ tài chính đến khủng hoảng nợ GVHD: P GS.T S Nguyễn T hị Liên Hoa trong chất lượng tài s ản, có thể là từ sự sụp đổ của ngành bất động sản hay phá sản gia tăng trong các lĩnh vực phi tài chính. Trong trường hợp này, s ự gia tăng của số lượng doanh nghiệp phá sản hoặc các khoản nợ xấu có thể được sử dụng để đánh dấu sự bắt dầu của cuộc khủng hoảng. Các chỉ số của tình trạng kinh doanh thua lỗ và nợ xấu cũng thỉnh thoảng xuất hiện. Sau này các thông tin cũng dần ít hơn vì ngân hàng đều muốn che giấu vấn đề của họ càng lâu càng tốt. Với những hạn chế về mặt dữ liệu, chúng ta có thể xác định khủng hoảng ngân hàng trong 2 sự kiện: - Ngân hàng hoạt động dẫn đến việc đóng cửa, sáp nhật, tiếp quản, hoặc bị tiếp quản bởi các một hoặc nhiều các tổ chức tài chính công. - Nếu không hoạt động; các hình thức như đóng cửa, sáp nhật, mua lại hoặc các gói cứu trợ lớn của chính phủ cho các tổ chức tài chính quan trọng (hoặc nhóm các tổ chức) sẽ đánh dấu sự bắt đầu cho một chuỗi các hệ quả tương tự cho các tổ chức tài chính. Các nguồn dữ liệu cho khủng hoảng xuyên quốc gia như sau: - Sau năm 1970, nghiên cứu toàn diện và nổi tiếng của Caprio và Klingebiel – được tác giả bổ sung vào năm 2003 – được đánh giá rất chính xác, đặc biệt đối với việc phân loại các cuộc khủng hoảng một cách hệ thống hoặc thành các loại đơn giản hơn. - Đối với thời kỳ trước thế chiến thứ II, Kindleberger (1989), Bordo et al. (2001), một trong số những nhà nghiên cứu khác mang lại những cái nhìn tổng thể xuyên quốc gia về ngành ngân hàng. Đối với những thời kỳ trước, sẽ rất khó để xác định một cuộc khủng hoảng kéo dài bao lâu. Nhiều nghiên cứu trên từng quốc gia cụ thể chọn những cuộc khủng hoảng ngân hàng không bao gồm các tài liệu đa quốc gia và đóng góp quan trọng cho niên đại này 4. Khái niệm “Hội chứng lần này thì khác” và các khái niệm khác: Vỡ nợ liên tiếp liên quan đến những quốc gia trải qua những sự vỡ nợ ngoại tệ của chính phủ (trên cả phương diện nợ nước ngoài và nợ công trong nước hay nợ công có bảo K20 – NH Đêm 1 - TCQT 11
- T ừ sụp đổ tài chính đến khủng hoảng nợ GVHD: P GS.T S Nguyễn T hị Liên Hoa trợ của chính phủ hoặc cả hai). Những sự vỡ nợ này có thể xảy ra từ năm đến mười lăm năm một lần. Chúng cũng có thể là sự vỡ nợ của những nhà bán buôn ( hay việc không thừa nhận những món nợ) hoặc vỡ nợ một phần thông qua việc gia hạn trả nợ. Việc không gia hạn cho các khoản nợ thể hiện bản thân các khoản này đang trong sự ép buộc cao độ theo kinh nghiệm của các thị trường mới nổi tại các mức nợ mà có lẽ có thể quản lý được theo tiêu chuẩn của các nước tiên tiến. Những ngưỡng nợ “an toàn” đối với việc không khoan lượng các khoản nợ cho các thị trường mới nổi thấp một cách đáng ngạc nhiên, tuy nhiên nằm ở khoảng 15% đến 20% trong nhiều trường hợp; và những ngưỡng này phụ thuộc chủ yếu vào lịch sử vỡ nợ và lạm phát của quốc gia. Việc không khoan lượng các khoản nợ là do các cơ cấu các tổ chức tài chính yếu kém và một hệ thống chính trị có vấn đề dẫn đến việc sử dụng nguồn vốn nước ngoài như một công cụ hữu ích cho chính phủ phát triển đất nước để tránh những quyết định khó khăn trong việc cân đối thu chi và các nhà đầu tư quốc tế có quyền nghi ngờ về động cơ của chính quyền. Đơn giản là các giới hạn trên đây đối với sự tiếp cận của thị trường sẽ thấp hơn khi chính phủ bị thiệt hai bởi sự không khoan nhượng trong việc tái thanh toán nhưng không được vay thêm. Bản chất của “Hội chứng lần này thì khác” thực ra khá đơn giản. Nó được bắt nguồn từ niềm tin của những chủ công ty là khủng hoảng tài chính là một cái gì đấy xảy ra đối với những người ở các quốc gia khác trong một thời điểm khác; khủng hoảng không xảy ra đối với chúng ta ở đây và bây giờ. Chúng ta đang làm việc tốt hơn, chúng ta thông minh hơn và chúng ta đã học được nhiều thứ từ những lỗi lầm trong quá khứ. Những quy luật đánh giá cũ hiện nay không còn được áp dụng. Sự bùng nổ hiện nay không giống như những sự bùng nổ trước đây mà đị trước thảm họa sụp đổ (thậm chí ở nước chúng ta) được xây dựng trên nền tảng căn bản, cấu trúc cải cách, đổi mới công nghệ, và những chính sách tốt. Và câu chuyện cứ như vậy… III. Bức tranh tổng thể và lịch sử quốc gia Vậy chúng ta có được những gì từ một số hiểu biết cơ bản trong bức tranh toàn cảnh về lịch sử của khủng hoảng tài chính? Phương pháp tiếp cận của chúng tôi trong suốt K20 – NH Đêm 1 - TCQT 12
- T ừ sụp đổ tài chính đến khủng hoảng nợ GVHD: P GS.T S Nguyễn T hị Liên Hoa phần này là để minh chứng cho mỗi tìm kiếm của chúng tôi cả với “bức tranh tổng thể” dựa trên sự tập hợp trong cả nước và một “nghiên cứu đại diện cho quốc gia” từ lịch sử của đất nước. Mỗi một điểm chính được nhấn mạnh trong những hình vẽ được ca tụng bởi các chỉ số nợ/GDP được báo cáo ở cuối mỗi hình vẽ. Chúng tôi bắt đầu bằng việc thảo luận sự mất khả năng chi trả nợ ngoại tệ của chính phủ trên các khoản nợ nước ngoài (đó là khi những sự vỡ nợ công trong chính khu vực nợ nước ngoài hay nợ cá nhân được công khai bảo trợ) 1. Những cuộc khủng hoảng nợ ngoại tệ của chính phủ Nhìn một cách tổng thể về thế giới (hơn 90% GDP của toàn cầu đại diện cho dữ liệu của chúng tôi), giai đoạn hiện nay có thể được xem như là một thời gian tạm lắng xuống điển hình sau những cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Hình 2 vẽ đường đồ thị (với bộ dữ liệu hoàn chỉnh) cho tỷ lệ phần trăm của tất cả các quốc gia độc lập ở tình trạng vỡ nợ hoặc tái cấu trúc trong suốt các năm 1800 đến năm 2009. Ngoài tình trạng tạm lắng hiện tại, có những giai đoạn dài, các nước vỡ nợ hoặc tái cấu trúc chiếm tỷ lệ phần trăm tương đối cao. Thật vậy, có 5 đỉnh rõ rệt hoặc các chu kỳ vỡ nợ trong hình. Đầu tiên là trong suốt chiến tranh Napoleon. Thứ hai là từ thập niên 1820 đến cuối thập niên 1840, là những thời điểm gần một phần hai các nước trên thế giới ở trong trạng thái vỡ nợ (bao gồm tất cả các nước Châu Mỹ Latinh). Giai đoạn thứ ba bắt đầu vào thập niên 1870 và kéo dài trong hai thập kỷ. Giai đoạn thứ tư bắt đầu vào cuộc Đại suy thoái những năm 1930 và kéo dài suốt những năm 1950, khi gần phân nửa các quốc gia vỡ nợ. Chu kỳ vỡ nợ gần đây nhất bao gồm các cuộc khủng hoảng nợ ở các thị trường mới nổi vào những năm 1980 và 1990. Hình 2: Chu kỳ mất khả năng chi trả nợ ngoại tệ của chính phủ, năm 1800-2009 Tỷ phần các nước vỡ nợ hoặc tái cấu trúc K20 – NH Đêm 1 - TCQT 13
- T ừ sụp đổ tài chính đến khủng hoảng nợ GVHD: P GS.T S Nguyễn T hị Liên Hoa Nguồn: Lindert và Morton (1989), Macdonald (2003), Purcell và Kaufman (1993), Reinhart, Rogoff, và Savastano (2003), Suter (1992), và Standard and Poor’s (qua nhiều năm) Ghi chú: Mẫu bao gồm tất cả các nước, trong tổng số 70 được liệt k ê ở b ảng Phụ lục 1, là những quốc gia độc lập trong suốt những năm trên. Cụ thể, số lượng các quốc gia tăng từ 19 vào năm 1800 lên 32 vào năm 1826, như Châu Mỹ La tinh thuôc địa giành được độc lập; sau chiến tranh thế giới thứ hai, các quốc gia Châu Á mới độc lập làm tăng số nước lên 58 và vào những thập kỷ sau, với các quốc gia Châu Phi, tổng số nước tăng lên 70 – bộ số liệu mẫu đầy đủ. Nợ công theo sau một chu kỳ vỡ nợ bùng phát lặp đi lặp lại và kéo dài. Thời kỳ vỡ nợ kéo theo là một phạm vi ảnh hưởng rõ rệt của các cuộc khủng hoảng nợ công. Vay mượn nợ công tăng lên như cuộc khủng hoảng. Nhìn chung, các khoản nợ tiếp tục tăng sau khi vỡ nợ, như nợ tích lũy phải trả và GDP cam kết rõ rệt. Hình 3 vẽ đường đồ thị diễn tả phạm vi ảnh hưởng của sự vỡ nợ đã được trình bày trong hình 2 (bây giờ là các thanh tô bóng) từ 1824, khi Mỹ La tinh mới độc lập. K20 – NH Đêm 1 - TCQT 14
- T ừ sụp đổ tài chính đến khủng hoảng nợ GVHD: P GS.T S Nguyễn T hị Liên Hoa Hình 3. Sự mất khả năng chi trả nợ ngoại tệ của chính phủ, Tổng cộng (trong nước + nước ngoài) nợ công và khủng hoảng lạm phát: Toàn cầu, 1826-2010 ( nợ được xem là % GDP) Nguồn: Reinhart and Rogoff (2009), các trích dẫn trong các nguồn này và tính toán của tác giả. Ghi chú: Tổng nợ trên toàn thế giới đơn giản là trung bình số học của tỷ lệ nợ/GDP ở từng quốc gia. Một vài nước với chuỗi thời gian nợ và xuất khẩu cao hơn nhiều so với GPD danh nghĩa kéo dài đến nửa đầu thế kỷ 19. Trong những trường hợp như Brazil, Canada, Ai Cập, Ấn Độ, Nicaragua, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ và Uruguay) dữ liệu nợ/GDP được ghép (với tỷ lệ thích hợp) với dữ liệu nợ/GDP sẵn có. Việc phân chia giữa các nền kinh tế tiên tiến và thị trường mới nổi được thực hiện theo phân loại của IMF ngày nay. Nền kinh tế Mỹ tiếp cận đầu tiên thị trường vốn toàn cầu, trong năm 2009 tương K20 – NH Đêm 1 - TCQT 15
- T ừ sụp đổ tài chính đến khủng hoảng nợ GVHD: P GS.T S Nguyễn T hị Liên Hoa phản với tỷ lệ nợ /GDP dưới mức bình quân của tất cả các quốc gia với bộ dữ liệu trên. Sự gia tăng trong tỷ lệ nợ thường đứng trước sự gia tăng trong tỷ lệ vỡ nợ, như mô hình hồi quy cho toàn thế giới được hiển thị ở dưới cùng của hình 3 xác nhận. Mối tương quan rõ ràng giữa việc tăng gánh nặng nợ và tác động vỡ nợ cao hơn sẽ được trình bày hệ thống hơn ở mục V. Thời gian mắc nợ cao hơn cũng do sự ảnh hưởng của những cuộc khủng hoảng lạm phát (một hình thức gián tiếp của sự vỡ nợ, được nhấn mạnh ở thanh bóng đậm, diễn tả tỷ lệ lạm phát vượt quá tỷ lệ vỡ nợ). Vỡ nợ thông qua lạm phát phổ biến hơn kể từ chiến tranh thế giới thứ nhất, khi mà tiền pháp định đã trở thành chuẩn mực và mối liên kết với vàng bị xó i mòn. Hình 4 cho thấy sự so sánh giữa các chuỗi thời gian và phân tích hồi quy cho các thị trường mới nổi. Các mô hình giữa tỷ lệ nợ và vỡ nợ trên toàn thế giới đã được thảo luận và thể hiện dọc theo các dòng ở hình 3. Hàng loạt sự vỡ nợ là một hiện tượng phổ biến trên các thị trường mới nổi và một vài nước tiên tiến. Hình 1 dự đoán bởi rất nhiều giai đoạn (thanh bóng mờ) trong đó có ít nhất 20% các quốc gia độc lập ở trong tình trạng vỡ nợ. Bằng chứng thuyết phục nhất của hàng loạt sự vỡ nợ xuất phát từ lịch sử của từng quốc gia, điển hình là Brazil và Hy Lạp trong hình 5 và 6 tương ứng. Lịch sử 70 quốc gia được thể hiện trong đồ thị cung cấp bằng chứng trên diện rộng rằng hàng loạt sự vỡ nợ diễn ra nối tiếp vượt qua các khu vực và thời gian. Dấu hiệu tăng trong nợ vào hôm trước của một cuộc khủng hoảng nợ, khủng hoảng ngân hàng hoặc cả hai là khá rõ ràng trong hầu hết thời gian mà hai s ự vỡ nợ vào năm 1894 và năm 1932 - kéo dài 33 năm từ lúc bắt đầu đưa ra giải pháp cuối vào năm 1964. Hình 4: Sự mất khả năng chi trả nợ ngoại tệ của chính phủ trên nợ bên ngoài, Tổng cộng (trong nước + nước ngoài) nợ công và khủng hoảng lạm phát: Thị trường mới nổi, 1866-2010 ( nợ được xem là % GDP) K20 – NH Đêm 1 - TCQT 16
- T ừ sụp đổ tài chính đến khủng hoảng nợ GVHD: P GS.T S Nguyễn T hị Liên Hoa Nguồn: Reinhart and Rogoff (2009), các trích dẫn trong các nguồn này và tính toán của tác giả. Ghi chú: Tổng nợ trên các thị trường mới nổi đơn giản là trung bình số học của tỷ lệ nợ/GDP ở từng quốc gia. Xem ghi chú bổ sung ở hình 3. K20 – NH Đêm 1 - TCQT 17
- T ừ sụp đổ tài chính đến khủng hoảng nợ GVHD: P GS.T S Nguyễn T hị Liên Hoa Hình 5. Brazil: Nợ nước ngoài, vỡ nợ, lạm phát phi mã, và khủng hoảng tài chính, 1848- 2009 ( nợ được xem là % GDP) Nguồn: Reinhart and Rogo ff (2009) and các trích dẫn trong các nguồn này. Ghi chú: T rong 1824-1945, nợ công bên ngoài; trong 1946-2009, nợ nước ngoài là tổng của nợ công và nợ tư nhân. Chỉ có cuộc khủng hoảng tài chính lớn được đại diện hiển thị. Có tổng cộng 9 giai đoạn vỡ nợ nhưng chỉ có 8 vùng bóng mờ, như 2 giai đoạn xảy ra trong những năm liên tiếp (xem bảng dưới đây). Chỉ có các cuộc khủng hoảng tài chính hệ thống được thể hiện Vỡ nợ nội địa và vỡ nợ nước ngoài, Khủng hoảng tài chính, và lạm phát phi mã: Brazil, 1822-2009 Giai đoạn Tỷ lệ số Giai đoạn Khoảng Giai đoạn Giai đoạn Tỷ lệ số năm khủng hoảng năm vỡ nợ thời gian vỡ nợ lạm phát khủng hoảng tài chính (năm vỡ nợ nước ngoài (số năm) nội địa phi mã lạm phát đầu tiên) nước ngoài 1828-1834 7 1986-1987 1890 1988-1990 26.6 26.1 1898-1901 4 1990 1897 1992-1994 1902-1910 9 1900 hoặc 1914-1919 6 1914 từng 1931-1933 3 1923 giai đoạn 1937-1943 7 1926 1988-1994 1961 1 1929 K20 – NH Đêm 1 - TCQT 18
- T ừ sụp đổ tài chính đến khủng hoảng nợ GVHD: P GS.T S Nguyễn T hị Liên Hoa 1964 1 1963 1983-1990 8 1985 1990 1994 Các giai đoạn: 9 2 11 2(1) Hình 6: Hy lạp: Khoản nợ chính phủ (trong nước + nước ngoài), vỡ nợ, lạm phát phi mã, và khủng hoảng tài chính, 1848-2009 (nợ được xem là % GDP) Nguồn: Lazaretou (2005), Reinhart and Rogoff (2009) và các trích dẫn trong các nguồn này. Vỡ nợ nội địa và vỡ nợ nước ngoài, Khủng hoảng tài chính, và lạm phát phi mã: Hy Lạp, 1829-2009 Giai Khoảng Giai Giai đoạn Giai đoạn Tỷ lệ số Tỷ lệ số đoạn vỡ thời gian đoạn vỡ Khủng hoảng lạm phát năm vỡ năm khủng nợ nước (số năm) nợ nội tài chính phi mã nợ nước hoảng lạm ngoài địa (năm đầu tiên) ngoài phát 1826-1842 17 1932- 1931 1941- 48.1 12.7 1951 1944 K20 – NH Đêm 1 - TCQT 19
- T ừ sụp đổ tài chính đến khủng hoảng nợ GVHD: P GS.T S Nguyễn T hị Liên Hoa 1843-1859 17 1991 1860-1878 19 1894-1897 4 1932-1964 33 Các giai đoạn: 5 1 2 1 Một quan điểm đáng chú ý khác từ “Cái nhìn toàn cảnh” đó là khoảng thời gian tồn tại trung bình của dấu hiện vỡ nợ sau thời kỳ chiến tranh thế giới thứ II là một nửa thời kỳ từ 1800-1945 (3 năm so với 6 năm, được thể hiện ở Hình 7). Hình 7. Khoảng thời gian của giai đoạn vỡ nợ: 1800-2009 (Sự kiện diễn ra thường xuyên) Số năm vỡ nợ Nguồn: Lindert và Mo rton (1989), Macdonald (2003), Purcell và Kaufman (1993), Reinhart, Rogoff, và Savastano (2003), Suter (1992), Standard và Poor’s (nhiều năm khác nhau) và tính toán của tác giả. G h i ch ú : Khoảng thời gian tồn tại của vỡ nợ được mặc định là số năm tính từ năm bắt đầu bị vỡ nợ đến năm khoản nợ đuợc giải quyết, nó có thể được khắc phục thông qua việc tái cấu trúc, trả nợ hoặc đ ược xoá nợ. Thử nghiệm của Kolmogorov - Smirnoff để so sánh sự bình đẳng của hai phân phối đã bác bỏ cái giả thiết vô hiệu phân phối đều này tại mức ý nghĩa 1%. Một sự giải thích ít xét nét là cơ chế giải quyết khủng hoảng đã được cải thiện kể từ khi những tháng ngày ngoại giao bằng chiến hạm qua đi. Sau tất cả, Newfoundland mất hết quyền tự chủ khi nó mất khả năng thanh toán các khoản nợ nước ngoài năm 1936 và cuối cùng trở thành một tỉnh của người Canada; Ai Cập cũng nằm trong số đó đã trở thành nước bị nước Anh bảo hộ từ sự vỡ nợ năm 1876. Một quan điểm giải thích hoài K20 – NH Đêm 1 - TCQT 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
ĐỀ TÀI “ ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI NƯỚC TA HIỆN NAY ”
20 p | 1722 | 286
-
Tiểu luận: Nguyên nhân Enron và Worldcom sụp đổ và bài học rút ra
15 p | 1410 | 261
-
ĐỀ TÀI “KTNN và vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam”
42 p | 619 | 248
-
Tiểu luận “Nghiên cứu máy móc và lao động trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư”
16 p | 630 | 196
-
Đề tài “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”
23 p | 483 | 126
-
Tiểu luận: Kiểm toán ngân hàng
17 p | 238 | 38
-
Tiểu luận: Nêu và phân tích ảnh hưởng của sự phát triển dân số đến kinh tế, xã hội ở Việt Nam
23 p | 143 | 38
-
Luận văn thạc sĩ Y học: Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét và một số yếu tố nguy cơ ở nhóm dân di cư tự do tại xã cư K’Bang huyện Ea Súp tỉnh Đắk Lắk năm 2010
92 p | 215 | 34
-
Tiểu luận Văn học Việt Nam trung đại II: Triết lý triết thân trong văn học trung đại Việt Nam qua một số tác phẩm tiêu biểu (Nửa cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX)
41 p | 130 | 19
-
Cần thiết tạo ra mối liên kết từ đầu được phù hợp tiêu thụ
52 p | 65 | 6
-
Kinh tế độc lập tự chủ trong hội nhập - 2
7 p | 51 | 4
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới tại huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk
27 p | 7 | 3
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Tạo động lực làm việc cho giáo viên trong các trường tiểu học công lập huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk
24 p | 8 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn