intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TIỂU LUẬN: VẤN ĐỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI TRONG TIẾN TRÌNH ĐỔI MỚI

Chia sẻ: Pham Vu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:114

262
lượt xem
65
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có, tác giả góp phần làm rõ nội dung thuật ngữ quản lý phát triển xã hội, đồng thời đề cập quan điểm tiếp cận và giải quyết các vấn đề xã hội trong mối quan hệ với lĩnh vực kinh tế của một số thể chế nhà nước và giai cấp cầm quyền trong khu vực và thế giới. Thông qua sự trình bày những thành tựu bước đầu, cũng như những hạn chế, bất cập về lý luận và thực tiễn trong quá trình lãnh đạo...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TIỂU LUẬN: VẤN ĐỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI TRONG TIẾN TRÌNH ĐỔI MỚI

  1. TIỂU LUẬN: VẤN ĐỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI TRONG TIẾN TRÌNH ĐỔI MỚI
  2. Trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có, tác giả góp phần làm rõ nội dung thuật ngữ quản lý phát triển xã hội, đồng thời đề cập quan điểm tiếp cận và giải quyết các vấn đề xã hội trong mối quan hệ với lĩnh vực kinh tế của một số thể chế nhà nước và giai cấp cầm quyền trong khu vực và thế giới. Thông qua sự trình bày những thành tựu bước đầu, cũng như những hạn chế, bất cập về lý luận và thực tiễn trong quá trình lãnh đạo quản lý phát triển xã hội thời kỳ đổi mới, bài viết làm rõ nhu cầu cần thiết và cấp bách về nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta trong điều kiện mới. 1. Vấn đề quản lý phát triển xã hội Khi bàn về khái niệm phát triển xã hội, trong giới nghiên cứu còn có những quan niệm khác nhau. Loại quan niệm thứ nhất coi phát triển xã hội đồng nghĩa với tăng trưởng kinh tế(1) và sự phát triển khoa học, công nghệ; loại quan niệm thứ hai cho rằng phát triển xã hội là sự phát triển của cá nhân và tổ chức xã hội mà cá nhân đó đang sống; loại quan niệm thứ ba coi phát triển xã hội là sự phát triển đời sống vật chất và tinh thần của cá nhân và cộng đồng... 3 Bài viết bước đầu luận chứng cho quan niệm coi phát triển xã hội là quá trình vận động đi lên của đời sống vật chất, tinh thần con người(2) và sự vận động phát triển bền vững của xã hội(3). Phát triển xã hội là khía cạnh xã hội của sự phát triển được thể hiện thông qua mối quan hệ biện chứng giữa phát triển xã hội với phát triển kinh tế, chính trị(4), văn hoá, an ninh - quốc phòng, đối ngoại và với vấn đề môi trường...; giữa phát triển xã hội hôm nay và xã hội trong tương lai; giữa phát triển xã hội của
  3. một quốc gia dân tộc cụ thể trong mối quan hệ với khu vực, thế giới và trong bối cảnh toàn cầu hoá. Quản lý phát triển xã hội là một thuật ngữ có nội hàm phong phú và có mối liên hệ biện chứng với những thuật ngữ khác trong các phân hệ - lĩnh vực của đời sống xã hội. Khi tiếp cận dưới góc độ triết học, quản lý được hiểu là quá trình chủ thể tác động vào khách thể để điều khiển quá trình vận động của khách thể nhằm đạt được mục đích của chủ thể. Với hàm nghĩa như vậy, quản lý phát triển xã hội được coi là quá trình điều khiển (giải quyết - quản lý) những vấn đề xã hội (các hiện tượng xã hội, quá trình xã hội) trong quá trình phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá, môi trường, an ninh - quốc phòng, đối ngoại nhằm xây dựng một xã hội phát triển bền vững. Khi tiếp cận dưới góc độ chính trị học thì quản lý phát triển xã hội là hoạt động quản lý của nhà nước(5) (chủ thể quản lý) và các tổ chức ngoài nhà nước trong việc xây dựng và triển khai thực hiện các chính sách, pháp luật thuộc lĩnh vực xã hội, nhằm huy động tối đa các nguồn lực vào việc phát triển đời sống vật chất và tinh thần của con người và phát triển xã hội bền vững. Quản lý phát triển xã hội có mối quan hệ biện chứng với quản lý phát triển kinh tế, quản lý phát triển chính trị và quản lý phát triển văn hoá. Kể từ khi xuất hiện nhà nước, các giai cấp cầm quyền tuỳ theo nhãn quan chính trị của mình có những cách tiếp cận và giải quyết các vấn đề xã hội rất khác nhau. Đến thời đại tư bản chủ nghĩa, khi đứng trước thất bại của thị trường dẫn tới khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng xã hội, làm cho địa vị thống trị của giai cấp tư sản bị lung lay, các nhà kinh tế học tư sản đã chú ý nhiều hơn đến khía cạnh xã hội trong các học thuyết kinh tế của họ. Đặc biệt, trong mấy thập niên gần đây, trước những thất bại của thị trường tự do(6), các thể chế nhà nước tư sản ngày càng thấy rõ hơn vai trò của chính sách an sinh xã hội trong chiến lược phát triển quốc gia cũng như củng cố địa vị thống trị của giai cấp tư sản; vì vậy, họ ngày càng chú ý đổi mới cách tiếp cận giải quyết các vấn đề xã hội. Các công trình của C.Wilf:Thị trường hay nhà nước: Một lựa chọn giữa giải pháp chưa hoàn chỉnh (Market or Government: Choosing between imperfect alternatives) (1989); A.R.Vining và D.L.Wiemer: Sự thất bại trong sản xuất và cung ứng nhà nước: Mô hình khung cạnh tranh (Government suppply and production failure: a framework based on constestability) (1991); Le
  4. Grand: Lý thuyết về sự thất bại của nhà nước(The theory of government failure) đã phân tích rõ rằng, thị trường tự do có ưu điểm trong việc tạo động lực đối với nền sản xuất vật chất, nhưng cũng dễ gây ra khủng hoảng, mà việc khắc phục nó phải cần đến vai trò điều tiết của nhà nước. Một chức năng quan trọng của nhà nước hiện đại chính là giải quyết các vấn đề xã hội, khắc phục khiếm khuyết của thị trường, nhất là cung ứng các dịch vụ công đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho người dân và đảm bảo an sinh xã hội. Thụy Điển - được xem là mô hình tiêu biểu cho trào lưu dân chủ xã hội(7). Vào đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, việc giải quyết vấn đề xã hội ở Thuỵ Điển đã đẩy tới trình trạng trì trệ trong xã hội, tác động tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế và đến lượt nó cản trở đến khả năng thực hiện các chính sách phát triển xã hội. Bài học Thuỵ Điển rất đáng tham khảo cho tất cả các thể chế nhà nước, các đảng phái chính trị trong quá trình gắn giải quyết các vấn đề xã hội với phát triển kinh tế. Một trong những thành công của các "con rồng" mới xuất hiện trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á là biết lựa chọn đúng đắn mô hình phát triển kinh tế đi đôi với giải quyết các vấn đề xã hội, trong đó có việc điều chỉnh chức năng xã hội của nhà nước (Singapore, trong hơn một thập niên gần đây đã có những thay đổi rất đáng kể về phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng cơ bản, như nước sạch, môi trường, y tế, giáo dục,..) nhằm nâng cao phúc lợi công cộng cho người dân. Trường hợp Nhật Bản cho thấy những đặc trưng quản lý phát triển xã hội của nước này là sự kết hợp thừa kế xã hội truyền thống với sự chọn lọc những cách thức quản lý hiện đại của châu Âu. Nó cũng cho thấy những thay đổi lớn trong giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, nhất là khi đứng trước chu kỳ suy thoái kinh tế, các thể chế cầm quyền luôn tìm cách kích hoạt động lực tăng trưởng kinh tế từ vấn đề con người và giải quyết các vấn đề xã hội. Trong số các mô hình phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trên thế giới thì mô hình của Trung Quốc rất được quan tâm ở Việt Nam, vì quốc gia này có nhiều điểm tương đồng về thể chế chính trị cũng như đang trong quá trình chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường. Công cuộc cải cách ở Trung Quốc với những thành tựu quan trọng về tăng trưởng kinh tế, kéo theo nó là sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu xã hội, phân hoá giàu nghèo giữa các nhóm dân cư, giữa miền
  5. Đông và miền Tây,... tạo ra thách thức lớn đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc. Với tư cách đảng cầm quyền trong thể chế xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Trung Quốc những năm gần đây rất chú tâm giải quyết các vấn đề xã hội, kể cả kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế quá "nóng" gây tác động xấu đối với phát triển xã hội và môi trường sinh thái. Từ sau Đại hội XVII của Đảng Cộng sản Trung Quốc, vấn đề xã hội tiếp tục được quan tâm ở khía cạnh chiều sâu của quốc gia trên một tỷ dân này, và quan điểm phát triển hài hoà trở thành một đường hướng chủ đạo, trong đó mấu chốt là sự hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội, giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường tự nhiên, giữa thúc đẩy làm giàu hợp pháp với chăm lo cho người nghèo, giữa phát triển miền Đông và đại khai phát miền Tây,... Với mô hình Trung Quốc, các nhà nghiên cứu thường nhấn mạnh đến vai trò đầu tư của chính phủ trong đảm bảo phát triển xã hội hài hoà, đồng thời cũng cho thấy những khía cạnh đổi mới phương thức đảm bảo an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, nhất là khắc phục những hạn chế của nhà nước bằng cách mở rộng vai trò tham gia của tư nhân vào việc cung ứng các các dịch vụ xã hội cơ bản, như giáo dục, y tế, nước sạch, môi trường,... Gần đây, trong báo cáo Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi của Ngân hàng Thế giới (1998) đã có những tổng kết, đánh giá công phu quá trình cấu trúc lại chức năng nhà nước trên thế giới, trong có đặc biệt lưu ý đến các trường hợp chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, như Trung Quốc và Việt Nam. Báo cáo này cũng nêu lên sự thất bại của các mô hình nhà nước có tham vọng thọc sâu vào mọi ngõ ngách của đời sống kinh tế - xã hội và tất yếu phải chuyển đổi mô hình quản lý kinh tế - xã hội, trong đó có cấu trúc lại chức năng xã hội của nhà nước cho thích ứng với sự xác lập cơ chế thị trường. Tất nhiên, báo cáo này cũng lưu ý đến những quan niệm không đúng khi rút lui vai trò của nhà nước trong việc cung ứng các dịch vụ xã hội thiết yếu cho người dân. Đây là báo cáo thường niên, nên khi tổng kết, đánh giá vấn đề phát triển kinh tế - xã hội trên bình diện quốc tế đã có so sánh giữa các mô hình khác nhau, trong đó có những nhận định có giá trị tham khảo đối với Việt Nam. 2. Sự cần thiết nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng về quản lý phát triển xã hội trong tiến trình đổi mới Sự lãnh đạo của Đảng đối với quản lý phát triển xã hội bao gồm cả lãnh đạo ở cấp độ trung ương, cấp địa phương và cấp tổ chức cơ sở đảng; cả lãnh đạo theo phân hệ -
  6. lĩnh vực và lãnh đạo theo vùng lãnh thổ. Về phương thức lãnh đạo của Đảng, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta chỉ rõ: “Đảng lãnh đạo xã hội bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, động viên, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên”(8). Sự lãnh đạo của Đảng đối với quản lý phát triển xã hội với hàm nghĩa lãnh đạo hoạt động quản lý của nhà nước và các tổ chức ngoài nhà nước thực hiện tốt chính sách xã hội nhằm đạt tới đời sống vật chất và tinh thần cao đẹp cho nhân dân; nhằm đạt tới mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, đồng thuận, văn minh. Năng lực lãnh đạo quản lý phát triển xã hội của Đảng bao gồm năng lực xây dựng đường lối (hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển xã hội); lãnh đạo tổ chức thực hiện hiệu quả đường lối phát triển xã hội; kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời các vấn đề xã hội... - Một trong những đặc điểm nổi bật của quá trình đổi mới ở Việt Nam là sự kết hợp sáng kiến của quần chúng (từ bên dưới) với sự nhạy cảm của Đảng (từ bên trên) đã hình thành đường lối đổi mới(9). Mặt khác, thực tế cũng cho thấy, đổi mới chỉ có thể diễn ra khi có sự "ấn nút" khởi động từ phía Đảng cầm quyền - mỗi biến chuyển của lĩnh vực phát triển xã hội đều gắn liền với sự đổi mới tư duy của Đảng. Ngược lại, những hạn chế, yếu kém của lĩnh vực phát triển xã hội cũng có trách nhiệm từ phía Đảng, bao gồm cả xác định đường hướng dẫn dắt lẫn tổ chức chỉ đạo thực hiện. Vì vậy, đối với trường hợp Việt Nam, để nâng cao hiệu quả quản lý phát triển xã hội tất yếu phải nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. - Đối với bất kỳ thể chế chính trị nào thì vấn đề phát triển xã hội cũng chiếm vị trí trọng yếu, vì nó quyết định việc duy trì xã hội trong trật tự, ngăn ngừa nguy cơ xung đột, tạo động lực cho phát triển kinh tế. Nhưng đối với thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa thì vấn đề không dừng lại ở đó, mà được đặt ra nghiêm túc và lớn lao hơn nhiều. Phát triển xã hội phản ánh bản chất của một chế độ của con người, do con người và vì con người, một thuộc tính cơ bản của chủ nghĩa xã hội. Suy cho cùng, người dân trông chờ ở chủ nghĩa xã hội qua chính những giá trị mà họ được thụ hưởng hàng ngày, được cảm nhận trong cuộc sống. Tăng trưởng kinh tế, tăng cường
  7. vai trò lãnh đạo của Đảng nếu không thật sự vì lợi ích nhân dân thì sẽ lạc vào mục tiêu trung gian và rốt cuộc, sẽ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, phát triển xã hội trở thành vấn đề cơ bản nhất của định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ ở nước ta. - Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường là những vấn đề chưa có tiền lệ đối với Đảng Cộng sản cầm quyền. Trước đây, chúng ta đã từng áp dụng chính sách phát triển xã hội gắn với mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, trong đó nhà nước nắm từ quyền sở hữu tư liệu sản xuất, quyền phân phối kết quả sản xuất đến quyền định đoạt cơ hội phát triển của mọi thành viên trong xã hội, với hy vọng đem lại một xã hội công bằng, bình đẳng, trật tự, kỷ cương, không còn áp bức bất công. Nhưng thực tiễn đã xác nhận sự thất bại của mô hình đó, trước hết ở chỗ nó đã triệt tiêu tính năng động, phát triển của lực lượng sản xuất, cản trở sự tăng trưởng kinh tế, rốt cuộc nhà nước không có nguồn lực kinh tế để giải quyết các mục tiêu xã hội. Trước tình hình đó, Đảng đã chủ động đổi mới quan niệm phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội gắn với thể chế kinh tế thị trường. Thực tiễn hơn 20 năm đổi mới đã xác nhận tính đúng đắn trong quyết định đổi mới của Đảng và nhờ đó, đã giải quyết thành công nhiều mục tiêu xã hội(10). Tuy nhiên, bên cạnh mặt thành công cũng còn nhiều hạn chế trong nhận thức, đổi mới tư duy về các vấn đề văn hoá và xã hội, cơ chế quản lý văn hoá, xã hội. Vẫn còn tồn tại tư tưởng coi việc giải quyết các vấn đề xã hội là thuộc trách nhiệm của Nhà nước, chưa quan tâm thu hút các thành phần kinh tế, các nguồn lực trong xã hội tham gia giải quyết các vấn đề văn hoá, xã hội; chưa hình thành quan niệm thống nhất về vấn đề xã hội hoá các hoạt động dịch vụ xã hội, về công bằng và bình đẳng, về sự phân hoá giàu nghèo ở nước ta. Nhận thức về vấn đề giao lưu, hội nhập văn hoá và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc cũng còn những ý kiến khác nhau. Hạn chế trong hoạt động thực tiễn cũng thể hiện rất rõ qua việc kết hợp chưa tốt mục tiêu phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội. Trong chỉ đạo thực tiễn thường chú ý nhiều đến các chỉ tiêu vật chất, chưa quan tâm đúng mức các chỉ tiêu về phát triển xã hội và bảo vệ môi trường(11). Ngoài ra, thực tiễn cũng đặt ra những tình huống mới mà nếu không kịp thời xử lý sẽ dẫn đến những hệ luỵ khó lường. Phân tầng xã hội đang tiềm ẩn nguy cơ gây xung đột xã hội. Các giai cấp, tầng lớp đang nằm trong quá trình tái cấu trúc
  8. diện mạo của chính mình, nhưng định hướng của Đảng cầm quyền như thế nào trong các chính sách phát triển xã hội chưa thật sáng rõ? Đảm bảo phúc lợi xã hội trong cơ chế thị trường đi đôi với khai thác sức mạnh của thị trường và phát huy vai trò của nhà nước như thế nào cho hợp lý là những vấn đề còn lúng túng cả trong lý thuyết lẫn chỉ đạo thực hiện. Thực hiện cung ứng các dịch vụ xã hội trong điều kiện thừa nhận cạnh tranh, xã hội hoá, với thu hút sự tham gia của tư nhân như thế nào cho đúng hướng cũng còn nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ về mặt lý luận. Điều đó đặt ra cả những vấn đề chiều rộnglẫn chiều sâu đối với Đảng cầm quyền trong lãnh đạo phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội, mà đột phá chính là ở quản lý phát triển xã hội phù hợp với sự xác lập và vận hành của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Một số nghiên cứu của người nước ngoài(12) về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam đã cho thấy những đổi mới trong tiếp cận phát triển xã hội gần đây của Đảng và Chính phủ Việt Nam, đặc biệt là vấn đề xoá đói giảm nghèo. Ở đây có nhiều ý kiến mang tính phản biệnđối với chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước Việt Nam, như cho rằng còn thiếu cách tiếp cận từ cộng đồng, vẫn còn không ít áp đặt từ phía Nhà nước, thiếu tính bền vững trong phát triển. Tổ chức hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam vẫn chưa theo kịp với sự vận hành của quan hệ thị trường, của toàn cầu hoá, nhất là việc khắc phục các rủi ro do thiên tai và rủi ro xã hội. Tất cả những vấn đề đó chỉ có thể được khắc phục trước hết bằng sự đổi mới tư duy nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam - với tư cách lực lượng duy nhất lãnh đạo xã hội. - Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hoá là vấn đề rất mới mẻ đối với Đảng Cộng sản với tư cách Đảng cầm quyền. Nói tới phát triển xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường và trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay không thể không nói tới hội nhập, mà ở đó có những mặt phát triển xã hội tuân theo các quan hệ thị trường hoặc phi thị trường đã trở thành chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, nhân quyền và phát triển xã hội bên cạnh giá trị phổ quát còn có những nét đặc thù của từng dân tộc do trình độ phát triển, do đặc trưng văn hoá, do thể chế chính trị quy định. Giải quyết như thế nào mối quan hệ giữa cái phổ biến và cái đặc thù trong điều kiện đã cam kết thực hiện các quyền con người, các mục tiêu thiên niên kỷ, mở cửa một số dịch vụ xã hội,... là những vấn đề không giản đơn đối với Đảng cầm quyền.
  9. Nghiên cứu của J.Rdeedy (1993): "Kinh nghiệm của tổ chức phi chính phủ quốc tế tại Việt Nam"; của Ngân hàng Thế giới (2000): "Việt Nam tiến vào thế kỷ XXI - trụ cột của sự phát triển" đã tổng kết những hoạt động của các tổ chức phi chính phủ, các định chế tài chính quốc tế tại Việt Nam trong quá trình thực hiện các dự án phát triển xã hội, như xoá đói giảm nghèo, tạo cơ hội vươn lên cho các nhóm cư dân bị tổn thương, thực hiện an sinh xã hội... Các báo cáo này đưa ra một số khuyến cáo rất đáng tham khảo cho thể chế cầm quyền, nhất là xác định cơ cấu đầu tư hợp lý cho phát triển xã hội, lựa chọn cách tiếp cận đảm bảo nguồn vốn trực tiếp đến tay người được thụ hưởng, tránh thất thoát ở các tầng nấc trung gian. Đặc biệt, báo cáo gần đây của Đại học Harvard - Chương trình châu Á: "Lựa chọn thành công bài học từ Đông Á và Đông Nam Á cho tương lai của Việt Nam" (2007) đã phân tích những vấn đề tiềm ẩn nguy cơ xung đột xã hội của Việt Nam dưới tác động của toàn cầu hoá, của các chính sách phát triển thiếu hợp lý trong thời gian qua, đặt ra nguy cơ tái nghèo đói, thiếu phát triển bền vững. Đặc biệt, các dấu hiệu của lạm phát, của giá cả tăng vọt, của khủng hoảng, dịch bệnh phi truyền thống,... càng đè nặng lên cuộc sống của người dân mà mức sống chỉ mới được cải thiện ở mức độ thấp. Vì vậy, để đảm bảo phát triển bền vững, báo cáo này đưa ra khuyến nghị cải cách căn bản điều hành kinh tế vĩ mô, giải quyết những bất cập trong cơ cấu kinh tế và chăm lo thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, đặc biệt là tăng cường vai trò của nhà nước trong cung ứng các dịch vụ xã hội thiết yếu. - Lãnh đạo phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội của Đảng qua hơn 20 năm đổi mới tuy đã đạt được nhiều thành tựu không thể phủ nhận, nhưng cũng còn không ít mâu thuẫn chưa được giải quyết. Đó là những mâu thuẫn giữa kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội; giữa khuyến khích lao động làm giàu chính đáng với bảo đảm công bằng xã hội; giữa bảo đảm công bằng xã hội với tăng cường động lực phát triển kinh tế... Bên cạnh đó, những vấn đề lý luận và thực tiễn về đặc trưng phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội chưa thật sáng rõ, vẫn còn tình trạng bao biện, can thiệp sâu vào những nội dung không cần thiết(13). Vai trò lãnh đạo của cá nhân đảng viên vẫn chưa được phát huy đầy đủ. Nhiều thành quả đạt được về phát triển xã hội thiếu bền vững, có nguy cơ tái phát khủng hoảng xã hội khi xảy ra lạm phát, tăng giá, tác động
  10. của thảm họa tự nhiên, khủng hoảng, dịch bệnh phi truyền thống... Nhiều tình huống mới mà thực tiễn đặt ra đối với vai trò lãnh đạo của Đảng vẫn chưa được giải quyết cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn, nhất là lãnh đạo xử lý các tình huống khẩn cấp, các trạng thái bất bình thường trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội do thiên tai và rủi ro xã hội. Đảng lãnh đạo phát triển xã hội ở cả trạng thái bình thường và bất bình thường; cả cấp độ trung ương, địa phương và cơ sở; cả theo phân hệ - lĩnh vực và địa bàn - lãnh thổ vẫn ít được cắt nghĩa dưới các góc độ khoa học. Trước yêu cầu phải nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội đáp ứng sự nghiệp đổi mới, đã có một số nghiên cứu đề cập trên nhiều chiều cạnh về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội của nước ta. Trong đó có nghiên cứu mở ra hướng tiếp cận mới về quan điểm của thể chế cầm quyền trong trong hoạch định và thực thi các chính sách đảm bảo an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, cung ứng dịch vụ công, giải quyết mối quan hệ giữa Đảng với nhà nước, giữa nhà[i]nước với thị trường,... trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội. Tuy vậy, đến nay vẫn thiếu vắng những nghiên cứu có hệ thống về sự lãnh đạo của Đảng trong giải quyết các vấn đề xã hội, càng chưa có công trình nào nghiên cứu đến năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trong tiến trình đổi mới. Do đó, việc nghiên cứu cơ sở khoa học của việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng; đề xuất quan điểm, phương hướng và giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta trong điều kiện mới là nhu cầu cần thiết và cấp bách hiện nay. (*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Phó giám đốc Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Đại học Quốc gia Hà Nội. (1) Tuy nhiên, Báo cáo phát triển thế giới năm 1992 của Ngân hàng Thế giới cho rằng, “Tăng trưởng kinh tế là phương tiện cơ bản để có được sự phát triển, nhưng bản thân nó chỉ là một đại diện không hoàn hảo của tiến bộ” (Triết học, số 4 (167), tháng 4-2005, tr.34). (2) Trong đó chú trọng 3 chỉ số phát triển con người (HDI) của Liên hợp quốc: GDP
  11. bình quân đầu người; số năm đi học của người trưởng thành; tuổi thọ bình quân. (3) Một xã hội được coi là phát triển bền vững phải bảo đảm 3 tiêu chí: kinh tế phát triển; môi trường được bảo vệ và tôn tạo; phát triển xã hội (trong đó cốt lõi là chất lượng sống của con người). (4) Có nhà nghiên cứu cho rằng, “Về nguyên tắc, tác động của các yếu tố xã hội đến các quá trình kinh tế vĩ mô biểu hiện theo hai hướng là hình thành lực lượng lao động trong bối cảnh tiến bộ khoa học – kỹ thuật hiện đại và thông qua lĩnh vực xã hội, giữ vững sự cân bằng nhất định giữa cung và cầu trên thị trường hàng hoá và dịch vụ”; “ổn định chính trị - xã hội đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra sự bền vững cho tăng trưởng và phát triển kinh tế”(Thông tin Khoa học xã hội, số 3, 2006, tr.32, 35). (5) Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có viết: Nhà nước là “tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật” (Đảng Cộng sản Việt Nam.Văn kiện Đảng toàn tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.145). (6) Trong mô hình kinh tế thị trường tự do, “người ta hạ thấp vai trò của nhà nước, đề cao vị trí của khu vực tư nhân, giảm chi tiêu từ ngân sách quốc gia cho các lợi ích công cộng, điều chỉnh lại việc phân phối thu nhập theo hướng có lợi cho giới chủ tư bản” (Thông tin Khoa học xã hội, số 2, 2008, tr.7). (7) Thuỵ Điển là điển hình của mô hình kinh tế thị trường xã hội. “Hệ thống các chính sách phúc lợi ở đây, bao gồm các chính sách trợ cấp cho giáo dục, y tế, trẻ em, người già, người tàn tật, người thất nghiệp..., được nhà nước chi ở mức cao nhất thế giới. Tuy vậy, với chính sách phúc lợi lớn, số đông người dân dễ lạm dụng các trợ cấp xã hội, còn các chủ tư bản thì tìm cách chuyển vốn ra nước ngoài để tránh thuế luỹ tiến cao đánh vào thu nhập. Kết quả là kinh tế thị trường trong nước có lúc đã rơi vào suy thoái... Chính phủ Thuỵ Điển đã phải cắt giảm một phần các khoản phúc lợi xã hội” (Thông tin Khoa học xã hội, số 2, 2008, tr.8). (8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập,t.51. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.147.
  12. (9) Để có được đường lối đổi mới toàn diện của Đại hội VI, trước đó đã có những bước đột phá cục bộ về đổi mới tư duy kinh tế (chủ trương và quyết tâm làm cho sản xuất bung ra của Hội nghị Trung ương 6 khoá IV, 8-1979, được coi là bước đột phá đầu tiên để tiến tới hình thành đường lối đổi mới toàn diện). (10) Từ năm 2000 đến năm 2005 tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động; công tác xoá đói giảm nghèo được đẩy mạnh và đạt kết quả đầy ấn tượng. Ngay từ năm 2002, Việt Nam đã được Liên hợp quốc đánh giá là “hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015”; Chỉ số phát triển con người (HDI) từ mức dưới trung bình (0,498 năm 1991), năm 2004 với chỉ số 0,691 xếp thứ 112 trên tổng số 177 nước được điều tra, năm 2005 xếp thứ 108 trong tổng số 177 nước được điều tra,... (Đảng Cộng sản Việt Nam. Ban chỉ đạo tổng kết lý luận: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), tr.79 - 81). (11) Đảng Cộng sản Việt Nam. Ban chỉ đạo tổng kết lý luận: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006), tr.114 - 116. (12) Các công trình của Viện Nghiên cứu phát triển quốc tế Harvard, Đại học Harvard (1994): Những thách thức trên con đường cải cách BẢN CHẤT NHÂN VĂN CỦA TRIẾT HỌC MÁC, CHỦ NGHĨA MÁC NGUYỄN THANH (*) Để làm rõ bản chất nhân văn của triết học Mác, chủ nghĩa Mác, trước hết tác giả đã đưa ra và phân tích truyền thống nhân văn chủ nghĩa ở châu Âu thời Cận đại. Tiếp đó, khi tập trung luận giải bản chất nhân văn của triết học Mác, chủ nghĩa Mác, tác giả đã đi đến kết luận rằng, C.Mác không chỉ kế thừa, mà còn phát triển chủ nghĩa nhân văn ấy lên một trình độ mới, biến nó từ lý tưởng thành thực tiễn cải tạo thế giới. Chủ nghĩa nhân văn của C.Mác là chủ nghĩa nhân văn hiện thực và do vậy, nó vẫn giữ nguyên giá trị trong thời đại ngày nay. Việc nghiên cứu và giảng dạy triết học Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác nói chung, việc bảo vệ và phát triển chân giá trị của học thuyết Mác trong điều kiện của nền văn
  13. minh nhân loại ở thế kỷ XXI, đặc biệt là trong bối cảnh tiếp biến văn hóa toàn cầu, đòi hỏi chúng ta phải làm sáng tỏ được một trong những đặc điểm quan trọng nhất của nó là bản chất nhân văn. Mục đích duy nhất mà triết học Mác hướng tới là giải phóng con người, đưa “con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do”. Chính các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã khẳng định điều này trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản - Cương lĩnh của chủ nghĩa Mác, của toàn bộ phong trào cộng sản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Các ông cho rằng, mục đích cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản là: “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”(1). Để hiểu được bản chất nhân văn của triết học Mác, hiểu được bước ngoặt cách mạng mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã thực hiện trong dòng chảy chung của tiến trình lịch sử tư tưởng tiến bộ Tây Âu, không có con đường nào khác hơn là khảo cứu và trình bày nó như sự kế thừa và phát triển chủ nghĩa nhân văn châu Âu thời Cận đại, phản ánh phong trào giải phóng con người với các quan điểm triết học đa dạng. Trước hết, cần nhận thấy một thực tế là, chủ nghĩa nhân văn đã và đang là một trong những đề tài gây ra nhiều cuộc tranh luận về di sản lý luận của C.Mác. Vấn đề ở đây không chỉ liên quan tới tính kế thừa, tính liên tục trong sự phát triển tư tưởng lý luận của C.Mác, mà còn ở vấn đề bản chất nhân văn của chủ nghĩa Mác với tư cách một hệ thống lý luận. Để bảo vệ chủ nghĩa Mác, cũng như để chỉ ra bản chất nhân văn kiểu mới của chủ nghĩa Mác, chúng ta cần làm rõ mối quan hệ của nó với truyền thống nhân văn phương Tây, cụ thể là chủ nghĩa nhân văn Cận đại, cũng như điểm mới mà C.Mác đã đem lại cho chủ nghĩa nhân văn này. Thuật ngữ "chủ nghĩa nhân văn" (bắt nguồn từ tiếng Latinh: humanus - con người, tính người) được sử dụng để chỉ hệ thống quan điểm triết học lạc quan, đầy sức sống, thừa nhận sự phát triển hài hoà của con người với tư cách giá trị tối cao và là tiêu chí của tiến bộ xã hội. Khái niệm này được sử dụng rộng rãi trong các khoa học về con người, cũng như các khoa học xã hội mà bản thân tên gọi - khoa học xã hội và nhân văn đã chứng tỏ cho điều đó. Xét về mặt lịch sử và về mặt thuật ngữ, khái niệm "chủ nghĩa nhân văn" bắt nguồn từ thời Phục hưng, chính xác hơn là từ thời Phục hưng Italia, khi mà lần đầu tiên, chủ nghĩa nhân văn thể hiện như một thế giới quan mang hình thức tư tưởng, quy định nội dung cơ bản của các trào lưu tư tưởng thống trị
  14. trong xã hội. Song, nếu lý giải chủ nghĩa nhân văn theo nghĩa rộng, tức sự quan tâm sâu sắc đến con người, đến thế giới tinh thần và mục đích sống của con người, thì nhiều hệ thống triết học cũng đã có sự quan tâm như vậy. Theo nghĩa đó, có thể nói, tư tưởng của chủ nghĩa nhân văn đã xuyên suốt toàn bộ lịch sử văn hoá nhân loại, tạo thành một trong những dấu hiệu bản chất của nó. Chúng ta có thể phân biệt các đặc trưng chủ yếu sau đây của chủ nghĩa nhân văn Cận đại: 1) ý thức tự do tư tưởng; 2) chủ nghĩa cá nhân hoàn toàn trần tục; 3) tự do tư tưởng chủ yếu về chính trị - xã hội và công dân; 4) tự do tư tưởng tiến bộ về phương diện lịch sử; 5) nhấn mạnh phương diện thực tiễn và đạo đức của tự do tư tưởng. Ở đây, cũng cần phải kể tới một số đặc trưng khác, như tinh thần của Tin Lành giáo, thái độ sẵn sàng phản kháng và đấu tranh nhằm thực hiện lý tưởng, ý thức về sự hạn chế của mỗi con người riêng biệt. Nhấn mạnh tính tự bộc lộ và tự khẳng định của cá nhân, chủ nhĩa nhân văn Cận đại đã không những không loại bỏ, mà hơn nữa, còn thường xuyên khẳng định bi kịch của con người cá thể – con người bị hạn chế và bất lực trong tính biệt lập của nó. Ý thức được sức mạnh và yếu điểm của cá nhân, thế giới quan của chủ nghĩa nhân văn Phục hưng đã cho phép chúng ta nói tới thời Phục hưng như một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử nhân loại. Sức mạnh thế giới quan ấy của thời Phục hưng được thể hiện ở chỗ, nó đã sản sinh ra và khám phá ra các xu hướng phát triển lịch sử của chủ nghĩa nhân văn. Đó là hai trào lưu tư tưởng của chủ nghĩa nhân văn đã tồn tại trong suốt thời Cận đại cho đến tận giữa thế kỷ XIX: chủ nghĩa nhân văn cá nhân tư sản và chủ nghĩa nhân văn xã hội chủ nghĩa không tưởng. Dựa trên học thuyết về quyền tự nhiên và “khế ước xã hội”, chủ nghĩa nhân văn cá nhân tư sản đã tuyên bố quyền đầy đủ cho mỗi cá nhân về sự sống, tự do và khát vọng hạnh phúc. Những đại biểu của chủ nghĩa nhân văn này, như J.Lốccơ, B.Spinôda, J.J.Russô, Đ.Điđơrô đã xem con người như một cá nhân tự trị và coi tính tự chủ của con người như một nguyên tắc tối cao. Ở đây, trở ngại đối với họ là vấn đề kết hợp lợi ích cá nhân với các giá trị xã hội. Đỉnh điểm của chủ nghĩa nhân văn này là tư tưởng cải tạo chế độ phong kiến, phục hồi chủ quyền nhân dân, thiết lập chế độ xã hội bình quân chủ nghĩa. Với tư tưởng này, nó đã trở thành ngọn cờ lý luận cho các cuộc cách mạng tư sản ở các nước phương Tây. Thay cho thời Khai sáng, thời
  15. đại lãng mạn vẫn tiếp tục giữ lại những tư tưởng của chủ nghĩa nhân văn cá nhân tư sản, song đã mang một sắc thái bi kịch hơn, do không dung hợp được lý tưởng về một cá nhân vô hạn của chủ nghĩa lãng mạn với quan hệ xã hội hiện thực thời đó. Cũng bắt nguồn từ thời Phục hưng và gắn liền với chủ nghĩa xã hội không tưởng, chủ nghĩa nhân văn xã hội chủ nghĩa không tưởng đã đặt lên hàng đầu các nguyên tắc của chủ nghĩa tập thể và tính xã hội của con người. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội không tưởng đã xem bản tính con người là bản tính tập thể chủ nghĩa, thể hiện ở sự lao động trung thực và sự phân phối công bằng sản phẩm lao động. Các nhà nhân văn xã hội chủ nghĩa không tưởng luôn đề cao quyền bình đẳng, lao động và hạnh phúc. Người nào không lao động, theo họ, không có quyền hợp pháp trong hưởng thụ niềm vui cuộc sống. Nguyên tắc này không cho phép bất cứ người nào có quyền tồn tại dựa vào người khác và coi tình trạng người bóc lột người là vô đạo đức, cho dù có những luận cứ "hợp lý" nào biện minh cho nó đi chăng nữa. Các đại biểu của chủ nghĩa xã hội không tưởng sơ kỳ đã lên tiếng phê phán chế độ tư hữu và kêu gọi thay thế nó bằng phúc lợi chung – cái mà theo họ, có khả năng đem lại cho con người hạnh phúc chân thực trong sự phát triển hài hoà và có đạo đức. Bản chất phi nhân tính trong các quan hệ xã hội, những mâu thuẫn kinh tế - xã hội, chính trị và tinh thần dẫn tới sự tha hoá của con người đã trở thành cội nguồn cho cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa ở các nhà không tưởng. Họ kêu gọi xây dựng xã hội thành một liên hiệp những người lao động tự do mà ở đó, áp dụng nguyên tắc lao động bắt buộc và tự do được áp dụng, tạo điều kiện phát triển những tiềm năng sáng tạo và đạo đức trong mỗi con người, cải biến nhà nước thành uỷ ban quản lý sản xuất, thiết lập liên hiệp các dân tộc chung sống hoà bình: "hoặc tất cả phải được hạnh phúc, hoặc không có ai hạnh phúc cả". Triết học xã hội của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng đã thể hiện rõ quan điểm nền tảng của chủ nghĩa nhân văn và chính chủ nghĩa nhân văn này cũng thể hiện bản chất sâu xa trong hệ tư tưởng của họ. Song, chủ nghĩa duy tâm trong quan niệm về tiến trình lịch sử nhân loại đã không cho phép học thuyết của họ trở thành khoa học. Chủ nghĩa xã hội không tưởng đã không lý giải được bản chất của tình cảnh nô lệ làm thuê ở chủ nghĩa tư bản, không phát hiện ra các quy luật phát triển của nó, không tìm ra lực lượng xã hội có khả năng trở thành người sáng tạo xã hội mới. Xuất phát
  16. từ nguyên tắc nhân văn, nhân đạo chủ nghĩa, khát vọng xây dựng một "thiết chế" xã hội lý tưởng đã xâm chiếm tư tưởng của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng thay vì phải nhận thức một cách có phê phán tiến trình lịch sử nhân loại. Những mâu thuẫn lý luận mang tính nguyên tắc trong quan điểm của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng không thể là căn cứ để phủ định rằng, chính triết học của họ đã thực hiện một điều quan trọng đối với vận mệnh của chủ nghĩa nhân văn - hợp nhất các khái niệm lao động, bình đẳng, công bằng và tự do. Một giai đoạn quan trọng nữa trong quá trình phát triển của chủ nghĩa nhân văn trước khi chủ nghĩa nhân văn của C.Mác xuất hiện là chủ nghĩa nhân văn của L.Phoiơbắc. Kế tục truyền thống Khai sáng, L.Phoiơbắc đã đặt vấn đề con người vào trung tâm toàn bộ hệ thống triết học của mình. Chính con người - "đối tượng duy nhất, phổ quát, cao nhất của triết học" - đã trở thành trung tâm trong lý luận của L.Phoiơbắc, đã thúc đẩy ông xây dựng học thuyết nhân học triết học thấm nhuần chủ nghĩa nhân văn. Khi chứng kiến cảnh bần cùng, sự suy thoái của cá nhân, sự triệt tiêu tư tưởng tự do trong xã hội đương thời, tức những cái cấu thành nội dung của sự tha hoá tinh thần, L.Phoiơbắc đã nhận thấy thực chất của sự tha hoá này là ở chỗ, con người đã chuyển sự “tha hoá” những phẩm chất và hoài bão tốt đẹp nhất của mình sang một thực thể lý tưởng nào đó và qua đó, làm trống rỗng tinh thần cá nhân, biến nó thành cái phụ thuộc của cỗ máy xã hội phi nhân cách. Do vậy, nhiệm vụ của thế giới quan nhân văn chủ nghĩa, theo ông, là phải hoàn trả lại cho con người và cho cả nhân loại bản chất nhân văn đã bị đánh mất, đưa nó từ thực thể siêu việt không có thật xuống thế giới xã hội hiện thực, biến con người thành trung tâm của những chủ định lý tưởng và tuyệt đối. Nói cách khác, ông đã thần thánh hoá con người theo lối nhân văn chủ nghĩa. Có thể nói, chủ nghĩa nhân văn của L.Phoiơbắc vừa cụ thể, vừa trừu tượng. Tính trừu tượng của nó được quy định bởi việc phê phán một cách sống động, từ lập trường công dân, các hình thức tha hoá và sự suy đồi của cá nhân trong xã hội đương thời, mà trước hết là các hình thức tha hoá tôn giáo. Song, khi phân tích tha hoá về mặt triết học và chỉ ra con đường khắc phục nó, L.Phoiơbắc đã đánh mất cơ sở vững chắc của chủ nghĩa nhân văn phê phán và rơi vào lĩnh vực chủ nghĩa nhân bản trừu tượng. Ông nhận thấy tính "thực thể "của xã hội ở cơ sở tộc loại của nó - bản chất tình cảm,
  17. cảm xúc của con người. Theo nghĩa đó thì việc vạch ra bản chất của con người và khắc phục sự tha hoá sẽ chỉ diễn ra ở chừng mực mà con người có khả năng bộc lộ cơ sở tộc loại của nó, cơ sở đã ràng buộc nó với xã hội. Chính quan niệm trừu tượng như vậy về chủ nghĩa nhân văn đã buộc L.Phoiơbắc phải đưa ra một cá nhân trừu tượng, biệt lập và do vậy, bản chất con người ở ông chỉ có thể được xem như "loài", như “cái chung câm điếc”, gắn liền các cá nhân với nhau chỉ bởi những quan hệ tự nhiên. Như đã nói trên, thái độ của chủ nghĩa Mác đối với chủ nghĩa nhân văn đã trở thành đối tượng của những cuộc tranh luận gay gắt. Một số học giả cho rằng, chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa nhân văn là những loại trừ lẫn nhau. Luận cứ được đưa ra ở đây là, sau khi phê phán chủ nghĩa nhân bản của L.Phoiơbắc, C.Mác dường như đã hoàn toàn đem mình đối lập với truyền thống nhân văn chủ nghĩa nhiều thế kỷ của nền văn hoá châu Âu. Số khác lại cho rằng, tinh hoa trong chủ nghĩa nhân văn C.Mác chỉ có trong các tác phẩm đầu tay của ông và trước hết trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844. Theo họ, tác phẩm này được C.Mác viết dưới ảnh hưởng sâu sắc của những tư tưởng nhân văn chủ nghĩa mà sau này, ông đã từ bỏ do tác động của những hoàn cảnh khác nhau, sau khi cống hiến toàn bộ công sức vào việc xây dựng học thuyết kinh tế, học thuyết đấu tranh giai cấp và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Số thứ ba lại cho rằng, dường như Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 không những là tín điều của chủ nghĩa nhân văn do C.Mác xây dựng, nhìn chung, còn thể hiện chủ nghĩa Mác đích thực mà sau này, đã bị hoạt động chính trị của ông làm sai lệch. Những quan niệm như vậy đã khiến một số người tỏ ra hoài nghi chủ nghĩa nhân văn của C.Mác sau này và lấy đó để luận chứng cho sự tồn tại của hai ông C.Mác, một ông C.Mác theo chủ nghĩa nhân văn đích thực và một ông C.Mác là nhà kinh tế học, một chính khách “lạnh lùng”, “tỉnh táo”. Đương nhiên, với tư cách một nhà tư tưởng, C.Mác đã trải qua các giai đoạn hình thành và phát triển tư tưởng của mình. Và, Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 đã cho chúng ta thấy sự phát triển tư tưởng của C.Mác trên con đường đi tới phát hiện ra quan niệm duy vật về lịch sử. Nhưng, điều này hoàn toàn không có nghĩa rằng, dường như C.Mác sau này đã từ bỏ định hướng tư tưởng và nguồn cảm hứng nhân văn chủ nghĩa vốn có ở tác phẩm này của ông. Ngược lại, giữa các tác phẩm đầu tay và tất cả các tác phẩm sau này của C.Mác luôn
  18. có sự kế thừa hữu cơ. Sự kế thừa này được thể hiện ở chỗ, sau khi khắc phục chủ nghĩa nhân bản siêu hình của L.Phoiơbắc, C.Mác đã đi tới chủ nghĩa nhân văn đích thực là ở việc phát hiện ra các quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, luận giải tính tất yếu khách quan của chúng và đưa ra tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để cải tạo toàn bộ hệ thống quan hệ xã hội, hình thành các cá nhân tự do; đồng thời phát triển sáng tạo trên cơ sở mới chủ nghĩa tập thể. Quá trình thật sự nhân văn này, theo C.Mác, chỉ được thực hiện trong lịch sử khi giai cấp vô sản giải phóng mình và qua đó, giải phóng toàn thể xã hội. Như vậy, học thuyết của C.Mác là thống nhất, xét về bản chất tư tưởng sâu xa của nó. Chủ nghĩa nhân văn xuyên suốt và thâm nhập khắp nơi trongBản thảo kinh tế - triết học năm 1844 hoàn toàn không phải là sản phẩm của L.Phoiơbắc, mà biểu thị định hướng tư tưởng chủ đạo của C.Mác. Như chúng ta đã biết, xuất phát điểm trong việc C.Mác phân tích tình cảnh của người công nhân làm thuê trong xã hội tư bản là hiện tượng tha hoá, hiện tượng đã biến người công nhân thành phương tiện phi nhân cách của sản xuất và qua đó, phi nhân văn hoá cá nhân. Theo C.Mác, tha hoá là hình thức biểu thị phổ biến về phương diện xã hội tính không tương dung về lợi ích giữa nhà tư bản và người công nhân làm thuê. Hơn nữa, quan hệ sản xuất tư bản không chỉ làm tha hoá công nhân khỏi sản phẩm lao động, mà còn biến lao động thành cái đáng nguyền rủa, không có ý nghĩa và nội dung nhân văn. C.Mác nhận thấy, chính tha hoá là nguồn gốc, là nội dung của sự bóc lột cá nhân một cách phản nhân văn của chủ nghĩa tư bản, bởi nó đã làm cho bản chất con người bị tha hoá khỏi con người: con người trở thành tác nhân của sự phân đôi và xung đột với hiện thực và với chính bản thân mình. Một mặt, lao động thể hiện ra là phương tiện sinh tồn và cũng là phương thức tự bóc lột, tự thực hiện của cá nhân; mặt khác, nó không phục tùng người sản xuất, được quản lý từ bên ngoài, trở thành không phải nhu cầu, mà là sự trừng phạt. Người sản xuất vừa hướng tới lao động, vừa chạy trốn khỏi nó như một lực lượng xa lạ và nô dịch họ. Theo C.Mác, lao động bị tha hoá đã sản sinh ra thế giới các hình thức đối tượng hoá thù địch với con người trong đó bao gồm cả các đối tượng, các vật, các giá trị tinh thần giả dối, các quan niệm đạo đức hủ lậu. Rốt cuộc, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã "sản sinh ra con người không chỉ với tính cách là hàng hoá, không chỉ với tính
  19. cách là con người hàng hoá, con người với sự quy định của hàng hoá; nó sản xuất ra con người theo sự quy định ấy, như là một thực thể mất tính chất người cả về mặt tinh thần lẫn thể xác"(2). C.Mác giải thích tư tưởng này như sau: "Trong quan hệ có tính loàitự nhiên ấy, quan hệ của con người với tự nhiên trực tiếp là quan hệ của con người với con người, còn quan hệ của con người với con người trực tiếp là quan hệ của con người với tự nhiên, là thiên chức tự nhiên của bản thân con người… Từ tính chất của quan hệ đó cũng biểu lộ rõ nhu cầu của con người đã trở thành nhu cầu con người đến mức độ nào, nghĩa là con người khác với tính cách là con người đã trở thành nhu cầu đối với con người đến mức độ nào, bản thân con người trong tồn tại hết sức cá nhân của mình đồng thời cũng là một thực thể xã hội đến mức độ nào”(3). Nói cách khác, quan hệ của con người với người khác trở thành thước đo sự trưởng thành về bản chất đạo đức và nhân đạo của cá nhân. Khi đó, quan hệ “con người - con người” là hình thức biến hoá của quan hệ "con người - lao động", bởi "những điều có thể nói về quan hệ của con người với lao động của mình, với sản phẩm lao động của mình và với bản thân mình cũng có thể nói về quan hệ của con người với con người khác, cũng như với lao động và đối tượng lao động của con người khác"(4). Con người bị hạ thấp xuống mức sinh tồn thú vật, vì mục đích của nó là duy trì hoạt động sống của mình trong khuôn khổ các nhu cầu thể xác. Thế giới các giá trị tinh thần đã đánh mất ý nghĩa của nó, và cùng với nó là thế giới những người khác cũng không còn có ý nghĩa. Việc biến nhu cầu thể xác thành nhu cầu thống trị đặt ra một vấn đề căn bản là: trong con người còn lại bao nhiều cái có tính người? Theo C.Mác, việc khắc phục tha hoá chỉ diễn ra ở những nơi mà sở hữu tư nhân đã bị xoá bỏ và do vậy, việc giải phóng xã hội khỏi sở hữu tư nhân "trở thành hình thức chính trị của sự giải phóng công nhân, vả lại vấn đề ở đây không chỉ là sự giải phóng của họ, vì sự giải phóng của họ bao hàm sự giải phóng toàn thể loài người"(5). Như vậy, theo C.Mác, đạt tới tự do chính trị nhờ thủ tiêu chế độ tư hữu, giai cấp vô sản cũng tiến hành giải phóng toàn thể nhân loại, và đây chính là sứ mệnh giải phóng lịch sử toàn cầu của nó. Với quan điểm này, C.Mác coi lý tưởng nhân văn về loài người được giải phóng là "sự xoá bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu"(6). Và, khi đó sẽ diễn ra quá trình con người chiếm hữu một cách thực sự bản chất con
  20. người, “con người hoàn toàn quay trở lại chính mình với tính cách là con người xã hội, nghĩa là có tính người"(7). Với nghĩa đó, có thể nói, việc thủ tiêu chế độ tư hữu và chương trình xây dựng xã hội công bằng của chủ nghĩa nhân đạo là đồng nhất với nhau. Khi xem chủ nghĩa nhân văn như quá trình tự nhận thức và tự quyết của nhân loại mà, trong vận động lên chủ nghĩa xã hội, nhất thiết phải giải quyết những đối kháng giai cấp và các cuộc cách mạng xã hội, C.Mác đã nhận thấy một tất yếu khoa học là xây dựng lý tưởng nhân văn về lịch sử, xác định tính quy định lịch sử của việc con người quay lại với chính mình nhờ cải tạo chế độ xã hội. Chỉ bằng con đường đó mới có thể xác lập được mối quan hệ có nhân tính đích thực giữa con người và xã hội, giữa con người và thế giới bên ngoài. Mong muốn có được bản tính hoàn hảo của mình, con người cũng làm cho những người khác và cả thế giới đối tượng xung quanh mình trở nên hoàn hảo hơn. Một xã hội phát triển hài hoà, đến lượt mình, nó sẽ làm cho con người trở nên hài hoà hơn. C.Mác viết: "Nếu anh muốn ảnh hưởng tới những người khác thì anh phải là người thực sự kích thích và thúc đẩy những người khác. Mối quan hệ của anh đối với con người và đối với giới tự nhiên phải là một biểu hiện của đời sống cá nhân hiện thực của anh, một biểu hiện xác định, đáp ứng đối tượng của ý muốn của anh”(8). Chủ nghĩa nhân văn tích cực, trong quan niệm của C.Mác, là chủ nghĩa nhân văn được trung gian hoá bởi việc xoá bỏ chế độ tư hữu, trở thành cơ sở lý luận cho công cuộc xây dựng chế độ xã hội mới mà ở đó, đời sống vật chất và tinh thần của con người được cải thiện và không ngừng nâng cao. Khi đưa ra quan niệm coi nhu cầu đáp ứng đời sống vật chất và tinh thần như những nhu cầu bức thiết của con người để có được sự phát triển phong phú của bản thân mình, C.Mác đã chỉ ra tính thiết định của nó ở nhu cầu của con người về con người khác. Theo ông, sự quan tâm của con người đến những người khác càng sâu sắc và càng đa dạng hơn bao nhiêu thì con người càng phong phú hơn bấy nhiêu. Hơn nữa, đây không chỉ đơn giản là sự quan tâm của con người đến người khác, mà còn là sự thu hút một cách hữu hiệu những người khác vào đời sống xã hội. Nói cách khác, thế giới những người khác thể hiện trong quan niệm của C.Mác như tổng thể những quan hệ xã hội có nhân tính. Do vậy, chủ nghĩa nhân văn hiện thực tất yếu phải bao hàm sự hiện diện nhu cầu phát triển toàn diện của con người, nhu cầu giao tiếp với người khác, nhu cầu được đóng góp
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0