Tiểu luận: Vận dụng lý luận tích lũy tư bản của chủ nghĩa Mác Lenin vào xây dựng nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay
lượt xem 56
download
Mục tiêu nghiên cứu đề tài nhằm tìm hiểu sâu hơn về tích lũy tư bản và những thay đổi trong bối cảnh hiện nay. Góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện nay hóa theo đường lối chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước ta.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Vận dụng lý luận tích lũy tư bản của chủ nghĩa Mác Lenin vào xây dựng nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay
- A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. lý do chọn đề tài Đất nước ta trong quá trình hội nhập, phát triển năng động nhất từ trước đến nay và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng cả về kinh tế, chính trị, xã hội, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế. Đó là những thành quả rất đáng tự hào mà chúng ta có được nhờ sự lựa chọn đúng đắn đường lối phát triển kinh tế thị thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng sáng tạo các phương pháp, nguyên lí cơ bản của phát triển kinh tế vào điều kiện Việt Nam. Mà theo Mác việc tích lũy tư bản là những động lực này cuối cùng sẽ dẫn tới thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa Cộng Sản. Chính từ nhận định đó ta thấy được nguồn vốn có vai trò rất lớn đến phát triển đất nước của nước ta hiện nay. Mặc dù chúng ta có đường lối kế hoạch đúng đắn để xây dựng và phát triển kinh tế, mà còn cần đến nguồn vốn rất lớn trong việc tăng trưởng kinh tế. Vốn là cơ sở để tạo ra việc làm, tạo ra công nghệ tiên tiến tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất theo chiều sâu. Từ những lí do trên tôi chọn đề tài “ Vận dụng lý luận tích lũy tư bản của chủ nghĩa Mác Lenin vào xây dựng nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài tiểu luận. 2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 2.1. Mục đích Tìm hiểu sâu hơn về tích lũy tư bản và những thay đổi trong bối cảnh hiện nay. Góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện nay hóa theo đường lối chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước ta. 2.2. Nhiệm vụ Đưa ra những lập luận đúng đắn để chỉ rõ vai trò của tích lũy tư bản Vận dụng những lý luận vào nền kinh tế Việt Nam. 2.3 Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu trong phạm vi nền kinh tế ở Việt Nam 1
- 3. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp biện chứng duy vật Phương pháp chủ nghĩa duy vật lịch sử phương pháp phân tích tổng hợp 4. Ý nghĩa của đề tài Thấy được tầm quan trọng của tích lũy tư bản đến sự phát triển kinh tế. Đồng thời thấy được vốn là cơ sở để thúc đẩy tạo ra việc làm, công nghệ mới để phát triển đất nước. 5. Kết cấu đề tài Gồm 4 phần: + Phần mở bài + Phần nội dung + Phần kết luận + Phần tài liệu tham khảo Gồm 2 chương : chương 1 Cơ sở lí luận tích lũy tư bản Chương 2 Vận dụng tích lũy tư bản vào xây dựng nền kinh tế Việt Nam hiện nay 2
- B. PHẦN NỘI DUNG Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN TÍCH LŨY TƯ BẢN 1.1. Những vấn đề chung về tích lũy tư bản 1.1.1. Thực chất của tích lũy tư bản Trong bất kì xã hội nào, để đáp ứng đước nhu cầu vật chất và tinh thần thì cần sản xuất của cải vật chất. Do đó nền sản xuất luôn trong quá trình tái sản xuất. Đối với tư bản tái sản xuất giản đơn không phải là tái dân xuất của nó mà tái sản xuất mở rộng. Tái sản xuất mở rộng là lặp lại quá trình sản xuất với quy mô lớn hơn, không phải xã hội có thể bù đắp lại tư liệu vật chất đã tiêu dùng mà đồng thời còn sản xuất thêm. Muốn vậy, phải biến một bộ phận giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm. Việc sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản hay sự chuyển hoá giá trị thặng dư trở lại thành tư bản. Như vây, thực chất của tích lũy tư bản là quá trình tư bản hoá giá trị thặng dư. Nói một cách cụ thể tích lũy tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày càng mở rộng. Sở dĩ giá trị thặng dư có thể chuyển hoá thành tư bản là vì giá trị thặng dư đã mang sẵn những yếu tố vật chất của tư bản mới Có thể minh hoạ tích lũy tư bản và tái sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng ví dụ: s tư bản bỏ ra K= 1000; c/v= 4/1; m'= 100% Năm thứ nhất: Quy mô sản xuất 800c+200v+200m=1200 200 m chia thành: + 100m1 tiêu dùng cá nhân + 100m2 tích lũy( 80c mua máy móc, 20v tuyển công nhân) Năm thứ hai: Quy mô sản xuất 880c + 220v +220m. Vậy tư bản bất biết ( c ) và tư bản khả biến ( v )tăng lên , m cũng tăng theo Nghiên cứu tích lũy và tái sản xuất tư bản chủ nghĩa cho phép rút ra những kết luận vạch rõ bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: Một là nguồn gốc duy nhất của tích lũy tư bản là giá trị thặng dư và tư bản tích lũy chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản C. Mác nói rằng“ tư bản ứng trước như là giọt nước nhưng tích lũy là dòng sông của tích lũy mà thôi. Trong 3
- quá trình tái sản xuất, lãi (m) cứ đập vào vốn , vốn càng lớn thì lãi càng lớn , do đó lao động của công nhân trong quá khứ lại trở thành phương tiện để bóc lột chính người công nhân . Thứ hai, quá trình tích lũy đã làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng hoá biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa. Trong sản xuất hàng hoá giản đơn, sự trao đổi giữa những người sản xuất hàng hoá theo nguyên tắc ngang giá về cơ bản không dẫn tới người này chiếm đoạt lao động không công của người kia . Trái lại , nền sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn đến kết quả là nhà tư bản chẳng những chiếm đoạt một phần lao động của công nhân , mà còn là người sở hữu hợp pháp lao động không công đó. Nhưng điều đó không vi phạm quy luật giá trị. 1.1.2. Động cơ của tích lũy tư bản Động cơ thúc đẩy tích lũy và tái sản xuất mở rộng là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản – quy luật giá trị thặng dư . Để thực hiện mục đích đó các nhà tư bản không ngừng tích lũy để mở rộng sản xuất, xem đó là phương tiện căn bản để tăng cường bóc lột công nhân làm thuê và làm giàu cho bản thân. Như vậy, tích lũy tư bản giữ vai trò quyết định làm cho nền sản xuất tư bản lớn nhanh, không có tích lũy thì không có quy mô sản xuất lớn hơn. Do đó, không có thêm lợi ích kinh tế, điều này không thể chấp nhận đối với một nhà tư bản và chiếm dụng vốn để phát triển. Mặc khác , do cạnh tranh buộc các nhà tư bản phải không ngừng làm cho tư bản của mình tăng lên bằng cách tăng nhanh tư bản tích lũy. Nếu không tích lũy thì sẽ không thể giữ vững trên thị trường, đồng nghĩa của sự phá sản của tư bản. 1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới quy mô của tích lũy tư bản Với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định thì quy mô của tích lũy tư bản phụ thuộc vào tỉ lệ phân chia khối lượng của giá trị thặng dư đó thành quỹ tích lũy và quỹ tiêu dung của nhà tư bản, nhưng nếu tỉ lệ phân chia đó đã được xác định, thì quy mô của tích lũy tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Do đó, những nhân tố ảnh hưởng tới khối lượng giá trị thặng dư cũng là nhân tố quyết định quy mô của tích lũy tư bản. Những nhân tố đó là: 4
- 1.1.4. Trình độ bóc lột sức lao động Các nhà tư bản nâng cao trình độ bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén vào tiền công. Khi nghiên cứu sự sản xuất giá trị thặng dư, C.Mác giả định rằng sự trao đổi giữa công nhân và nhà tư bản là sự trao đổi ngang giá, tức là tiền công bằng giá trị sức lao động. Nhưng trong thực tế, công nhân không chỉ bị nhà tư bản chiếm đoạt lao động thặng dư, mà còn bị chiếm đoạt một phần lao động tất yếu, tức cắt xén tiền công, để tăng tích luỹ tư bản. Các nhà tư bản còn nâng cao trình độ bóc lột sức lao động bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động để tăng khối lượng giá trị thặng dư, nhờ đó tăng tích luỹ tư bản. Cái lợi ở đây còn thể hiện ở chỗ nhà tư bản không cần ứng thêm tư bản để mua thêm máy móc, thiết bị mà chỉ cần ứng tư bản để mua thêm nguyên liệu là có thể tăng được khối lượng sản xuất, tận dụng được công suất của máy móc, thiết bị, nên giảm được hao mòn vô hình và chi phí bảo quản của máy móc, thiết bị. 1.1.1.5. Trình độ năng suất lao động xã hội Nếu năng suất lao động xã hội tăng lên, thì giá cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng giảm xuống. Sự giảm này đem lại hai hệ quả cho tích luỹ tư bản: Một là, với khối lượng giá trị thặng dư nhất định, phần dành cho tích luỹ có thể tăng lên, nhưng tiêu dùng của các nhà tư bản không giảm, thậm chí có thể cao hơn trước; Hai là, một lượng giá trị thặng dư nhất định dành cho tích luỹ có thể chuyển hoá thành một khối lượng tư liệu sản xuất và sức lao động phụ thêm lớn hơn trước. Do đó, quy mô của tích luỹ không chỉ phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư được tích luỹ, mà còn phụ thuộc vào khối lượng hiện vật do khối lượng giá trị thặng dư đó có thể chuyển hoá thành. Như vậy năng suất lao động xã hội tăng lên sẽ có thêm những yếu tố vật chất để biến giá trị thặng dư thành tư bản mới, nên làm tăng quy mô của tích luỹ. Nếu năng suất lao động cao, thì lao động sống sử dụng được nhiều lao động quá khứ hơn, lao động quá khứ đó lại tái hiện dưới hình 5
- thái có ích mới, được sử dụng làm chức năng của tư bản ngày càng nhiều, do đó cũng làm tăng quy mô của tích luỹ tư bản. 1.1.6. Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng Trong quá trình sản xuất, tư liệu lao động (máy móc, thiết bị) tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng chúng chỉ hao mòn dần, do đó giá trị của chúng được chuyển dần từng phần vào sản phẩm. Vì vậy có sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Mặc dù đã mất dần giá trị như vậy, nhưng trong suốt thời gian hoạt động, máy móc vẫn có tác dụng như khi còn đủ giá trị. Do đó, nếu không kể đến phần giá trị của máy móc chuyển vào sản phẩm trong từng thời gian, thì máy móc phục vụ không công chẳng khác gì lực lượng tự nhiên. Máy móc, thiết bị càng hiện đại, thì sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng càng lớn, do đó sự phục vụ không công của máy móc càng lớn, tư bản lợi dụng được những thành tựu của lao động quá khứ càng nhiều. Sự phục vụ không công đó của lao động quá khứ là nhờ lao động sống nắm lấy và làm cho chúng hoạt động. Chúng được tích luỹ lại cùng với quy mô ngày càng tăng của tích luỹ tư bản. 1.1.7. Quy mô của tư bản ứng trước Với trình độ bóc lột không thay đổi, thì khối lượng giá trị thặng dư do khối lượng tư bản khả biến quyết định. Do đó quy mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ phận tư bản khả biến càng lớn, thì khối lượng giá trị thặng dư bóc lột được càng lớn, do đó tạo điều kiện tăng thêm quy mô của tích luỹ tư bản. Từ sự nghiên cứu bốn nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ tư bản có thể rút ra nhận xét chung là để tăng quy mô tích luỹ tư bản, cần khai thác tốt nhất lực lượng lao động xã hội, tăng năng suất lao động, sử dụng triệt để công suất của máy móc, thiết bị và tăng quy mô vốn đầu tư ban đầu. 1.2. Các quy luật chung của tích lũy tư bản 1.2.1. Quá trình tích lũy tư bản là quá trình cấu tạo hữu cơ của tích lũy tư bản Sản xuất bao giờ cùng là sự kết hợp giữa hai yếu tố: tư liệu sảnxuất và sức lao động. Sự kết hợp của chúng dưới hình thái hiện vật gọi làcấu tạo kỹ thuật.Cấu tạo kỹ thuật của tư bản là tỷ lệ giữa số lượng tư liệulaođộng và khối lượng tư bản cần thiết để sử dụng các tư liệu đó. Cấu tạo kỹthuật là cấu tạo hiện vật, nên nó 6
- biểu hiện dưới hình thức: số llượng máymóc, nguyên liệu, năng lượng do công nhân sử dụng trong một thời giannào đó. Cấu tạo kỹ thuật phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sảnxuất.Cấu tạo giá trị của tư bản là tỷ lệ theo đó tư bản phân thành tưbản bất biến và tư bản khả biến (hay giá trị của sức lao động) cần thiết đểtiến hành sản xuất.Cấu tạo kỹ thuật thay đổi sẽ làm cấu tạo giá trị thay đổi.C.Mácđã dùng phạm trù cấu tạo hữu cơ của tư bản để phản ánh mối quan hệ đó.Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị tư bản, do cấu tạo kỹ thuậtquyết định và phản ánh sự thay đổi của cấu tạo kỹ thuật của tư bản.Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, do tác động thườngxuyên của tiến bộ khoa học, cấu tạo hữu cơ của tư bản cũng không ngừngbiến đổitheo hướng ngày càng tăng lên. Sự tăng lên đó biển hiện ở chỗ: bộphận tư bản bất biến tăng nhanh hơn bộ phận tư bản khả biến, tư bản bấtbiến tăng tương đối và tăng tuyệt đối, còn tư bản khả biến có thể tăng tuyệtđối nhưng lại giảm xuống tương đối.Sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ của tư bản làm cho khối lượng tưliệu sản xuất tăng lên, trong đó sự tăng lên của máy móc thiết bị là điềukiện để tăng năng suất lao động, còn nguyên liệu tăng theo năng suất laođộng. Nó đòi hỏi việc sử dụng lao động mới được đào tạo với giá trị sứclao động cao nhưng năng suất lao động tăng cao lại làm cho hàng hóa kỹthuật hiện đại giảm xuống. Xu hướng chung là tỷ trọng người lao động cótrình độ cao, lao động trí tuệ ngày càng tăng lên, gây nên những hậu quả xãhội tiêu cực đối với toàn bộ đội ngũ người lao động làm thuê 1.1.2. Quá trình tích lũy tư bản là quá trình tích tụ và tập trung tư bản Tích tụ và tập trung tư bản là quy luật phát triển của nền sảnxuất lớn tư bản chủ nghĩa.Tích tụ tư bản và việc tăng quy mô của tư bản cá biệt bằng cáchtích lũy của từng nhà tư bản riêng rẽ, nó là kết quả tất nhiên của tích lũy Tích tụ tư bản một mặt là yêu cầu của việc mở rộng sản xuất, ứng dụng tiếnbộ kỹ thuật, mặt khác sự tăng lên của khối lượng giá trị thặng dư trong quátrình phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa lại tạo khả năng cho tích tụ tư bản. Tập trung tư bản là sự hợp nhất một số tư bản nhỏ thành một tư bảnlớn cá biệt.Đây là sự tích tụ những tư bản đã hình thành, là sự thủ tiêu tínhđộc lập riêng biệt của chúng, là việc nhà tư bản này tước đoạt nhà tư bảnkhác, là việc biến tư bản nhỏ thành số ít tư bản lớn.Tích tụ và tập trung tư bản giống nhau ở chỗ đều làm tăng 7
- quymô của tư bản cá biệt, nhưng khác nhau ở chỗ nguồn tích tụ tư bản là giá trịthặng dư tư bản hóa, còn nguồn tập trung tư bản là hình thành trong xã hội.Do tích tụ tư bản mà tư bản cá biệt tăng lên, làm cho tư bản xã hội cũngtăng theo. Còn tập trung tư bản chỉ là sự bố trí lại các tư bản đã có quy môtư bản xã hội vẫn như cũ.Tích tụ tư bản thể hiện mối quan hệ giữa tư bản và lao động,còn tập trung tư bản thì biểu hiện mối quan hệ giữa những nhà tư bản vớinhau. Tập trung tư bản có vai trò rất lớn đối với sự phát triển sản xuất tưbản chủ nghĩa. Nhờ có sự tập trung tư bản mà tổ chức được một cách rộnglớn lao động hợp tác, biến quá trình sản xuất rời rạc, thủ công thành quátrình sản xuất theo quy mô lớn, hiện đại.Tập trung tư bản không những dẫn đến sự thay đổi về lượng củatư bản mà còn làm cho tư bản có một chất lượng mới, làm cho cấu tạo hữucơ của tư bản tăng lên, nhờ đó năng suất lao động tăng lên nhanh chóng. Chính vì vậy, tập trung tư bản trở thành đòn bẩy mạnh mẽ của tích lũy tưbản.Quá trình tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng, do đó nềnsản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng được xã hội hóa, làm cho mâu thuẫnkinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản càng trở nên sâu sắc. 1.2.3. Quá trình tích lũy tư bản là quá trình bần cùng hóa giai cấp vô sản Sự phân tích trên cho thấy, cấu tạo hữu cơ của tư bản ngày càngtăng là một xu hướng phát triển khách quan của sản xuất tư bản chủ nghĩa.Do vậy, số cân tương đối về sức lao động cũng có xu hướng ngày cànggiảm. Đó là nguyên nhân gây ra nạn nhân khẩu thừa tương đối, hay cầu sứclao động giảm một cách tương đối. Có ba hình thái nhân khẩu thừa: Nhân khẩu thừa lưu động, nhân khẩu thừa tiềm tàng, nhân khẩu thừa ngừng trệ. Nạn thất nghiệp đã dẫn giai cấp công nhân đến bần cùnghóa. Bần cùng hóa giai cấp công nhân là hậu quả tất nhiên của quá trình tíchlũy tư bản. Bần cùng hóa tồn tại dưới hai dạng: bần cùng hóa tuyệt đối và bần cùng hóa tương đối. Bần cùng hóa tuyệt đối của công nhân biểu hiện mức sống bị giảm sút. Sự giảm sút này không chỉ xảy ra trong trường hợp tiêu dùng cá nhân tụt xuống tuyệt đối, mà còn khi tiêu dùng cá nhân tăng lên, nhưng mức tăng đó chậm hơn mức tăng nhu cầu do chi phí sức lao động nhiều hơn. 8
- Chương 2 VẬN DỤNG TÍCH LŨY TƯ BẢN VÀO XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Khái quát tình hình tích lũy vốn ở Việt Nam Đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế, nhất là hơn 20 năm đổi mới vừa qua, tốc độ tăng trưởng khá cao, sản xuất phát triển, có tích luỹ từ nội bộ, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Để giữ được tốc độ tăng trưởng cao trong những năm tới sẽ phụ thuộc rất nhiều vào việc tích lũy, huy động vốn cho nền kinh tế. Trước đây trong nền kinh tế bao cấp, tiêu dùng còn thiếu thốn thì quá trình tích lũy vốn còn gặp rất nhiều trở ngại. Nhà nước lại can thiệp quá sâu vào nền kinh tế dẫn đến việc tổ chức doanh nghiệp không thể phát huy hết khả năng của mình, nhiệm vụ tích tụ và tập trung vốn không đạt được hiệu quả. Từ khi chuyển đổi nền kinh tế, đời sống nhân dân đã được cải thiện rõ rệt, thu nhập quốc dân tăng lên…tuy nhiên nó vẫn còn quá nhỏ bé so với nền kinh tế thế giới. Một trong những nguyên nhân chính là thực trạng tích lũy vốn của ta chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, quy mô vốn của các doanh nghiệp thấp. Sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta bắt đầu từ kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1960 đến 1964 do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đề ra. Quá trình này có thể được chia thành 2 thời kỳ: Thời kỳ 1960 1985:CNH được tiến hành trong điều kiện cơ chế kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp Thời kỳ 1986 đến nay: CNH gắn liền với quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Từ năm 1986 đến nay, cùng với công cuộc đổi mới, mở cửa, các kênh huy động vốn cho CNH, HĐH cũng bắt đầu phong phú, linh hoạt hơn. Đối với nguồn vốn nước ngoài, ngoài hình thức cũ là vay nợ và viện trợ, đã có thêm hình thức đầu tư trực tiếp. Nguồn vốn trong nước cũng được bổ xung một số kênh mới, đặc biệt là từ khi có pháp lệnh Ngân hàng nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng, tín dụng và công ty Tài chính . Theo 2 pháp lệnh này, hệ thống ngân hàng một cấp ở nước ta đã chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp. Các Ngân Hàng Thương 9
- Mại có thể được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần và được phép thực hiện đa dạng hoá các nghiệp vụ. Đây là tiền đề pháp lý đầu tiên cho phép các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam có thêm nhiều khả năng thực hiện các nghiệp vụ tài chính, góp phần thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn.. Tính chung tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện cả giai đoạn 1996 2000 thì cả nước đạt 394,1 ngàn tỷ đồng, tăng 66,7% so với giai đoạn 1991 1995. Tỷ trọng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 19962000 chiếm trong GDP bình quân là 28,6% năm. Tích luỹ nội bộ của nền kinh tế từ mức không đáng kể đã tăng lên 25%GDP. Trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay : năm 2001 2006 chiếm 28,2% so với tỷ lệ đóng góp của vốn đầu tư là 52,7% năm 2007 tốc độ tăng trưởng tín dụng là 53,9%, gấp 3,1 lần tốc độ tăng GDP theo giá thực tế; năm 2008 tăng 39,6%, gấp 3,3 lần, năm 2009 tăng 34,8%, năm 2010 tăng 37 ,5%, năm 2011 2017 chiếm nguồn vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 15.524 tỷ đồng; trong đó vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước thực hiện 1.150 tỷ đồng. Trong các nguồn vốn cấu thành nên tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, nguồn vốn Nhà nước có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất. Trong khi đó thì nguồn vốn ngoài Quốc doanh qua các năm 19962000 lại có chiều hướng Vốn đầu tư toàn xã hội ngày càng giảm sút, mặc dù năm 2000 có tăng hơn 1999 nhưng vẫn ở mức thấp so với năm 1995. Trong tổng số vốn đầu tư ngoài quốc doanh thì vốn trong nước ước tính đạt 674,8 nghìn tỷ đồng, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước và bằng 32,8% GDP tính đến năm 2017, dân cư chiếm tỷ trọng lớn, trên 80%, còn vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ chiếm dưới 20%. cấu vốn đầu tư phát triển toàn xã hội phân theo ngành kinh tế cũng đã có những chuyển biến theo chiều hướng tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vấn đề huy động và sử dụng vốn trong nước hiện nay đang bộc lộ những yếu kém cần khắc phục. Ngân sách nhà nước luôn ở trong tình trạng căng thẳng, không thể đáp ứng đủ các yêu cầu cho đầu tư phát triển và các yêu cầu cấp bách về xã hội. Đầu tư của nhà nước bị phân tán do phải đáp ứng quá nhiều nhiệm vụ. Các nguồn thu từ đất đai, nhà ở, các loại dịch vụ công ích như: viện phí, phí cung cấp điện, nước,... còn để thất thoát và lãng phí lớn. Đóng góp của nhân dân để xây dựng mới và cải tạo trường học, trạm xá, giao thông địa phương,...vào sự nghiệp Văn hoá Giáo dục Y tế,... 10
- chưa được thể chế hoá, sử dụng và quản lý kém hiệu quả, bất hợp lý, bị lạm dụng và thất thoát. Số vốn huy động được thông qua hệ thống tín dụng chủ yếu là ngắn hạn, không đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển và chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Vốn đầu tư trực tiếp của khu vực kinh tế tư nhân trong nước vẫn ở quy mô nhỏ, tập trung chủ yếu (80%) vào các lĩnh vực: thương mại, dịch vụ phục vụ tiêu dùng. Một bộ phận không nhỏ vốn trong nước đã huy động vào hệ thống Ngân Hàng Thương Mại đang bị ứ đọng, không chuyển thành đầu tư được. Theo ý kiến dự báo khác nhau, khoảng 50 70 nghìn tỷ đồng tiền tiết kiệm của nhân dân đang được cất trữ dưới dạng vàng, bạc, tiền mặt, ngoại tệ, tài sản có giá trị cao... chưa chuyển thành vốn đầu tư và kinh doanh. 2.2. Vận dụng tích lũy tư bản vào xây dựng nền kinh tế Việt nam hiện nay 2.2.1. Quá trình mở rộng sản xuất ở Việt Nam hiện nay Trước đổi mới, mô hình kinh tế hiện vật, phủ nhận sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường với cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp đã làm triệt tiêu động lực của người lao động, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển, dẫn đến sự trì trệ về kinh tế và khủng hoảng về mọi mặt đời sống xã hội. Bởi vậy, đổi mới mô hình là điểm mấu chốt trong đổi mới quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất ở Việt Nam. Trong thời gian qua, với xu thế toàn cầu hóa, sự chuyển giao và hội nhập quốc tế về khoa học, công nghệ đã khiến nền kinh tế nước ta phát triển mạnh mẽ. Những công cụ lao động giản đơn mang tính chất tiểu thủ công nghiệp đã được thay thế bằng những dây chuyền máy móc thiết bị tối tân, hiện đại. Sức lao động của con người được giải phóng, lao động chân tay dần được thay thế bởi lao động trí óc, lao động giản đơn dần được thay thế bằng sự chuyên môn hóa ngày càng cao. Những sự thay đổi lớn lao của công cụ sản xuất đã làm cho năng suất lao động tăng vượt bậc, khi lượng sản phẩm làm ra ngày càng nhiều và có chất lượng cao. Nhờ quá trình tích lũy vốn thay thế các quá trình sản xuất nhỏ lẻ thành quá trình sản xuất lớn hơn với quy trình công nghệ phù hợp với nền kinh tế thị trường. Như ở nước ta nông nhiệp đóng vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế, cho nên việc mở rộng sản xuất nông nghiệp là cần thiết. Nhờ quá trình tích lũy vốn nên trong nông nhiệp đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể thông qua việc đầu tư 11
- máy móc thiết bị, nâng cao trình độ cho người nông dân, mở các buổi hội thảo dưới sự hướng dẫn của người nước ngoài. Nhiều nơi việc làm nông không còn làm bằng thủ công mà đã chuyển sang dây chuyền với quy mô khép kín và đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Từ đó nông nghiệp đã đạt đước những thành tựu kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông – lâm – thủy sản sẽ đạt 15 tỷ USD tốc độ tăng trưởng nông nghiệp 4,0% lên 4,5%/năm, GDP nông nghiệp tăng tõ 3,3% đến 3,5%/năm, tốc độ tăng trưởng kinh tế nông thôn đạt 7,88%/năm. 2.2.2. Sự hình thành các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam. Việc xây dựng tập đoàn kinh tế là chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm đưa nền kinh tế phát triển và hội nhập với kinh tế thế giới. Đảng và nhà nước cũng đã xác định rõ một số lĩnh vực trọng điểm cần phải hình thành tập đoàn kinh tế. Trong hầu hết các chính sách phát triển kinh tế của mình, Nhà nước đều thể hiện quan điểm hình thành các tập đoàn kinh tế mũi nhọn và đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Theo đó một số tổng công ty nhà nước trong một số lĩnh vực mũi nhọn sẽ được chuyển đổi thành các tập đoàn kinh tế. Trên thực tế trong năm 2006 và đầu năm 2007, tám tập đoàn kinh tế quốc gia trong các lĩnh vực mũi nhọn như Bưu chínhViễn thông, ThanKhoáng sản, Dầu khí, Điện lực, Công nghiệp tàu thuỷ, Dệt may, Cao su, Tài chínhBảo hiểm đã được thành lập. Đây là những tổng công ty có quy mô lớn mạng lưới thành viên có quan hệ mật thiết, liên doanhvà hợp tác với nhiều đối tác. Tuy nhiên trong quá trình thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước đã xuất hiện sự lúng túng trong giải quyết các vấn đề cụ thể khi xây dựng đề án. Tuy nhiên trong quá trình thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước đã xuất hiện sự lúng túng trong giải quyết các vấn đề cụ thể khi xây dựng đề án. Các vấn đề nảy sinh đó là mối quan hệ và liên kết giữa các đơn vị trong tập đoàn, cơ chế thực hiện liên kết, cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý (thành phần, quyền, trách nhiệm và mối quan hệ giữa các bộ phân quản lý trong bộ máy của tập đoàn), thương hiệu của tập đoàn, quy mô, vốn điều lệ và các vấn đề khác để xác lập tập đoàn. Ngay như địa vị pháp lý của tập đoàn vẫn còn những ý kiến khác nhau như tập đoàn có hay không có tư cách pháp nhân, đăng ký hay không đăng ký, có hay không có bộ máyquản lý riêng. Như vậy, trong những năm vừa qua vẫn còn rất 12
- nhiều những quan điểm khác nhau về nguyên tắc hình thành tập đoàn kinh tế trên cơ sở Tổng công ty nhà nước. Về vốn mà các tập đoàn sử dụng là Tám tập đoàn kinh tế cùng với 96 tổng công ty, công ty lớn của Nhà nước sở hữu gần 400.000 tỷ đồng, chiếm hầu hết vốn của Nhà nước có tại các doanh nghiệp nhà nước. Các tập đoàn và tổng công ty đang nắm giữ 75% tài sản cố định của quốc gia, khoảng 60% tổng tín dụng ngân hàng trong nước và tổng vốn vay nước ngoài nhưng chỉ tạo ra khoảng 40% tổng sản phẩm trong nước tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của các đơn vị này là 17%, 28,8% thu ngân sách. Tính đến cuối năm 2007, tổng số vốn chủ sở hữu của các tập đoàn và tổng công ty đã tăng 18%, tổng tài sản tăng 26%. Bên canh những tập đoàn kinh tế lớn nhà nước còn có các tập đoàn kinh tế tư nhân như FPT, Đồng Tâm, Kinh Đô, Hòa Phát, Hoàng Anh Gia Lai, Vincom, Trung Nguyên,… Các tập đoàn này đều có vốn góp, cổ phần chi phối lẫn nhau ở các công ty con, công ty liên kết, ngân hàng, đối tác chiến lược trong và ngoài nước với hàng ngàn cổ đông. Các tập đoàn kinh tế tư nhân cũng góp phần làm thúc đẫy nền kinh tế phát triển và làm tăng %GDP quốc doanh của Việt Nam 2.2.3. Sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội Phân hóa giàu nghèo ở nước ta ngày càng nghiêm trọng và ai cũng nhận ra qua thực tế cuộc sống hàng ngày. Ở Việt Nam, sự phân hóa giàu nghèo diễn ra ngay từ thời kỳ quản lý kinh tế xã hội theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp. Tuy nhiên, lúc đó sự chênh lệch giàu nghèo, phân hóa thu nhập và những biểu hiện của phân tầng xã hội chưa rạch ròi, rõ nét, bị che khuất bởi chủ nghĩa bình quân và chế độ công hữu với cơ cấu giai cấp “hai giai một tầng”(giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức). Chỉ từ sau khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới toàn diện (1986), xóa bỏ cơ chế quản lý cũ, thực hiện phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì sự chênh lệch giàu nghèo, phân tầng xã hội mới bộc lộ một cách rõ ràng và ngày càng trở nên sâu sắc. Lúc này đã xuất hiện những công trình nghiên cứu về cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội nhằm cung cấp những căn cứ lý luận và thực tiễn giúp Đảng và nhà nước kịp thời đưa ra những định hướng chiến lược và những chính sách phát triển kinh tế xã hội phù hợp với thời kỳ chuyển đổi cơ chế và mô hình quản lý phát triển đất nước 13
- Cách đây 20 năm, khi vừa mới thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, Việt Nam có quá nửa tổng số hộ dân sống dưới mức nghèo khổ, nay thì cả nước chỉ còn khoảng 10% tổng số hộ nghèo và hầu như không còn hộ đói. Cũng cách đây 20 năm, có đến 2/3 tổng số hộ ở khu vực nông thôn sống ở mức nghèo khổ và cũng có một tỷ lệ không nhỏ số hộ còn bị đói, giờ thì tỷ lệ này đã giảm khá nhanh. Tuy đạt được những kết quả tích cực, nhưng tỷ lệ nghèo và quy mô số người nghèo ở Việt Nam còn lớn. Việc phân bố số người nghèo không chỉ chênh lệch ở tỷ lệ cao thấp qua các vùng, mà còn ở quy mô số người tuyệt đối. Theo số liệu thống kê của nhà nước, vùng Đồng bằng sông Hồng có khoảng 1,23 triệu người, vùng trung du và miền núi phía Bắc có 2,76 triệu người, vùng Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung có 3,21 triệu người, vùng Tây Nguyên có khoảng trên 1 triệu người, Đông Nam bộ có gần 213.000 người và vùng Đồng bằng sông Cửu Long có trên 1,84 triệu người. với một đất nước liên tục phải gánh chịu thiên tai như Việt Nam thì ranh giới giữa mức cận nghèo và nghèo là rất mong manh nên nguy cơ số hộ nghèo tăng lên rất dễ xảy ra. Thực tế trên cho thấy, bất bình đẳng trong thu nhập ở nước ta ngày càng rõ nét và gay gắt hơn, tỷ lệ hộ nghèo tập trung chủ yếu ở những vùng khó khăn, có nhiều yếu tố bất lợi như điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, kết cấu hạ tầng kém, trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất manh mún, sơ khai. Ngoài ra, còn xuất hiện một số đối tượng nghèo mới ở những vùng đang trong quá trình đô thị hóa và nhóm lao động nhập cư vào đô thị, họ thường gặp khó khăn nhiều hơn và phải chấp nhận mức thu nhập thấp hơn lao động sở tại. Đây là những yếu tố làm gia tăng tình trạng tái nghèo và tạo ra sự không đồng đều trong tốc độ giảm nghèo giữa các vùng trong cả nước. Hiện nay, hệ số chênh lệch giàu nghèo của Việt Nam cao hơn nhiều nước đã trải qua thời kỳ dài phát triển kinh tế thị trường. Nhìn chung, cơ chế thị trường của chúng ta còn mới mẻ, thậm chí có người cho là nền kinh tế thị trường hoang dã, đã tạo ra những kẽ hở để cho một bộ phận lách cơ chế hoặc lợi dụng cơ chế để trục lợi, tham nhũng. Số người làm giàu dạng này thường không đóng góp bao nhiêu để chia sớt gánh nặng của nhà nước mà còn làm cho tiềm lực kinh tế ngày càng suy giảm. Vì thế, nếu không nhanh chóng hoàn thiện thể chế, nhất là thể chế dân chủ, 14
- nhà nước pháp quyền, đồng thời xử lý vấn đề lợi ích nhóm, sở hữu chéo, lạm dụng độc quyền… thì chênh lệch giàu – nghèo hiện đang quá lớn lại sẽ càng tăng nhanh. 2.3. Những giải pháp tăng cường tích lũy vốn 2.3.1. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ tích lũy tiêu dùng. Vì mục tiêu của xã hội là không ngừng tái sản xuất mở rộng, tăng thêm sản phẩm xã hội, nâng cao mức sống của người dân mà chúng ta phải xác định cho được quan hệ giữa quỹ tích lũy và tiêu dùng. Tương quan giữa tích lũy và tiêu dùng được coi là tối ưu khi sử dụng được các tài sản hiện có, thực hiện được mức tích lũy có thể đảm bảo phát triển sản xuất với tốc độ cao ổn định mà cuối cùng vẫn đảm bảo tăng tiêu dùng.Việc phân chia này tùy thuộc vào nhu cầu nền kinh tế ở từng thời kỳ nhất định.Đồng thời phải khuyến khích mọi người không ngừng tiết kiêm, tích lũy. Tương quan giữa tích luỹ và tiêu dùng được coi là tối ưu khi sử dụng đươc các tài sản hiện có, thực hiện được mức tích luỹ có thể đảm bảo phát triển sản xuất với tốc độ cao và ổn định mà cuối cùng vẫn đảm bảo tăng tiêu dùng và tích luỹ không đến mức cao nhất. Vởi tỷ lệ giữa tích luỹ và tiêu dùng sắp xếp như thế nào là thích đáng? Tỷ lệ này có phải cố định không và dựa trên nguyên tắc nào để sắp xếp tỷ lệ đó? Đây là vấn đề trung tâm của việc phân phối xã hội chủ nghĩa, nó thể hiện cụ thể mối quan hệ giữa xây dựng kinh tế và cải thiện đời sống giữa lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, giữa lợi ích của nhân dân và lợi ích của toàn xã hội... Việc phân chia tỷ lệ này không cố định mà thay đổi tuỳ thuộc vào nhu cầu của nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Đồng thời chúng ta phải không ngừng khuyến khích tất cả mọi người dân đều ra sức tiết kiêm, tích luỹ. Như vậy có thể nói tỷ lệ giữa tích luỹ và tiêu dùng không chỉ đơn thuần là tỷ lệ về kinh tế mà là thể hiện đường lối chính sách của Đảng trong từng thời kỳ nhất định. 2.3.2. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn Để sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, trước hết chúng ta phải xác định rõ từng đốitượng được cấp vốn, từđó phân bổ nguồn vốn một cách hợp lý cho các ngành nhằm tạo ra hiệu quả sử dụng vốn cao hơn. Đối với các doanh nghiệp nhà nước, chính phủ không nên cấp vốn toàn bộ mà nên tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp, nhờ vậy doanh nghiệp sẽ có trách nhiệm hơn với đồng vốn của mình, đồng thời chính nhờ có cổ phần hoá mà tạo điều kiện cho các chủ doanh nghiệp phát huy 15
- mọi năng lực cũng như khả năng quản lý của họ từđó sẽ nâng cao rất nhiều hiệu quả sử dụng vốn. Việc đồng vốn cóđược sử dụng hiệu quả hay không một phần lớn phụ thuộc vào yếu tố con người. Vì thế cần phải có một đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ năng lực và trách nhiệm cao. Đồng thời nhà nước cũng cần phải xem xét lại mô hình tổ chức quản lý, chúýđến đội ngũ cán bộ, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho họ có thể phát huy mọi năng lực của mình. Đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt nguồn vốn FDI trong khu vực cũng như trên thếgiới thì việc thiết lập một cơ chế tổ chức gọn nhẹ không chồng chéo có hiệu quả cũng tạo ra khả năng cạnh tranh lớn. 2.3.3. Tăng cường tích luỹ vốn trong nước và có biện pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài Tích luỹ vốn trong nước có nhiều giải pháp nhưng giải pháp hàng đầu là nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, nguồn vốn này sẽ đóng vai trò quan trọng để giải quyết các nhu cầu chi của nhà nước về chi thường xuyên, chi cho đầu tư phát triển và cho phát triển công nghiệp. Vì vậy nâng cao hiệu quả tích luỹ, tích tụ và tập trung vốn qua ngân sách nhà nước là hết sức cấp bách và cóý nghĩa thực tiễn lớn lao. Một biện pháp để tăng cường lượng vốn là thông qua các tổ chức tín dụng và ngân hàng. Đây là hai hình thức tích luỹ vốn có hiệu quả tương đối cao do có thể thu hút được vốn còn nhàn dỗi trong nhân dân. Để thực hiện được ngày càng tốt các nghiệp vụ của mình, một mặt ngân hàng cần phải tựđổi mới phương thức phục vụ khách hàng mở rộng các hình thức tiết kiệm qua bưu điện cải tiến các thủ tục đảm bảo an toàn bí mật vàổn định cho tiền gửi của khách hàng, đồng thời chính phủ cũng cần có biện pháp nâng cao lãi suất nhằm thu hút ngày càng nhiều vốn nhàn dỗi trong dân. Đặc biệt là hệ thống ngân hàng cần phối hợp chặt chẽ với các quỹ tín dụng nhân dân để tích tụ và tập trung vốn được thuận tiện.Mặt khác, việc tích tụvà tập trung các nguồn vốn trong nước từ các nguồn tài nguyên quốc gia và từ những tài sản công còn bỏ phí vừa là mục tiêu vừa là biện pháp cơ bản trước mắt và lâu dài để chúng ta tăng thêm nguồn vốn trong nước cho đầu tư phát triển. Cần nghiên cứu lại các quy định vềđất và quyền sử dụng đất kết hợp hài hoà với các tổ chức thị trường liên quan.Trong thời gian tới phải tìm cách để khai thác cao nhất hiệu 16
- quả nhất nguồn vốn từ tài sản công. Đó là cơ sở vật chất trực tiếp sẵn có mà chúng ta có thể huy động bằng cả hiện vật hoặc huy động bằng tiền trở thành nguồn thu trực tiếp của ngân sách Nhà nước là cơ sở ban đầu cần thiết để gọi vốn đầu tư nước ngoài. Và một biện pháp mới được áp dụng ở nước ta hiện nay là thu hút vốn thông qua thị trường chứng khoán. Đây là hình thức tích tụ và tập trung vốn rất có hiệu quảđang được các nước phát triển áp dụng.Chính thị trường chứng khoán là một hình thức của thị trường vốn, và nếu thị trường chứng khoán hoạt động tốt thì nó sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế. Ngoài nguồn vốn tích luỹ trong nước thì trong hoàn cảnh hiện nay khi nền kinh tế mở cửa hội nhập vào nền kinh tế thế giới thì một nguồn vốn có vai trò đặc biệt quan trọng khác là nguồn vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp trong đó vốn đầu tư trực tiếp có ý nghĩa vô cùng lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế trong nước. Vì thế mà chúng ta cần phải có chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp, đặc biệt là vốn của các nước phát triển. 17
- C. KẾT LUẬN Với một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đất nước ta đang ở trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ và năng động nhất từ trước tới nay. Sự phát triển của nền kinh tế cũng tạo ra áp lực về tăng quy mô vốn cho nền kinh tế. Vì vậy việc nghiên cứu tích luỹ tư bản và việc vận dụng lí luận đó vào thực tiễn Việt Nam là rất quan trọng và cần thiết. Quá trình CNHHĐH đất nước đạt được thành công trước hết phải có vốn lớn. Từ những thực tiễn trên ta thấy được tích lũy tư bản có vai trò rất lớn đến nền kinh tế nước ta, để đạt được những thành tựu thì trước hết phải đưa ra những thực trạng và giải pháp đúng đắn cho nền kinh tế thông qua những cơ sở lí luận . Đồng thời thấy được tầm quan trọng của vốn đối với sự phát triển kinh tế của đất nước và khẳng định nguồn vốn là cơ sở để tạo việc làm, mở rộng công nghệ thúc đây tăng trưởng %GDP cho nền kinh tế. Đó chính là con đường dẫn đến sự thành công của sự nghiệp CNHHĐH đất nước, khẳng định tính đúng đắn của chính sách mở cửa, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, sớm đạt mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 18
- D. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. GS, TS Phạm Văn Quang, TS Phạm Văn Sinh (chủ biên) (2009), Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội [2]. GS, TS Nguyễn Ngọc Long, GS, TS Nguyễn Hữu Vui (chủ biên) (2006), Giáo trình triết học Mác – Lênin (Dùng trong các trường đại học, cao đẳng), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. [3]. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin của [4]. Báo Vũng Tàu ( bài viết của Lê Ngân) [5]. Tài liệu tiểu luận của kênh 123.doc [6]. Tài liệu tham kháo môn kinh tế chính trị của Ngô Đạt. [7]. Báo Diễn đàn doanh nghiệp ( bài tình hình kinh tế xã hội của Nguyễn Tuấn) [8]. Tạp Chí phát triển kinh tế ( bài vấn đề tích lũy vốn đối với sự phát triển của đất nước của Ngọc Oanh) [9]. Số liệu của Tổng Cục Thống Kê về vốn đầu tư phắt triển toàn xã hội năm 19952000 [10]. Số liệu của Tổng Cục Thống Kê về vốn đầu tư phát triển xã hội năm 2001 2017 . 19
- MỤC LỤC
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận "Vận dụng lý luận về hình thái kinh tế - xã hội giải thích quá trình phát triển của Việt Nam ngày nay"
27 p | 864 | 312
-
Tiểu luận "Vận dụng lý luận hình thái kinh tế xã hội vào Việt Nam hiện nay"
26 p | 860 | 158
-
Tiểu luận: Vận dụng lý luận hình thái kinh tế xã hội vào điều kiện Việt Nam hiện nay
26 p | 375 | 115
-
Tiểu luận "Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội để chứng minh tính tất yếu của sự lựa chọn và kiên định con đường xã hội chủ nghĩa của Việt Nam".
18 p | 292 | 101
-
Tiểu luận "Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội để chứng minh tính tất yếu sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa của Việt Nam"
25 p | 234 | 94
-
Tiểu luận “Vận dụng lý luận phương thức sản xuất phân tích nhà máy phích nước – bóng đèn Rạng Đông”
12 p | 522 | 82
-
Tiểu luận: Vận dụng Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội giải thích quá trình phát triển của Việt Nam ngày nay
25 p | 183 | 64
-
Bài tiểu luận "Vận dụng lý luận phương thức sản xuất phân tích nhà máy phích nước – bóng đèn rạng đông"
11 p | 415 | 63
-
Tiểu luận: Vận dụng Lý luận hình thái kinh tế – xã hội để phân tích vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế Việt nam hiện nay
27 p | 225 | 62
-
Tiểu luận: Vận dụng lý thuyết phân biệt giá để phân tích thị trường thức ăn nhanh
27 p | 300 | 40
-
TIỂU LUẬN: Vận dụng Lý luận hình thái kinh tế – xã hội để phân tích vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế Việt nam hiện nay
25 p | 167 | 32
-
Tiểu luận: Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội để chứng minh tính tất yếu sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa của Việt Nam
22 p | 160 | 25
-
Tiểu luận: Vận dụng lý thuyết phân bố và đo lường công việc vào một doanh nghiệp
45 p | 184 | 24
-
Tiểu luận: Vận dụng lý thuyết độ tin cậy và bảo trì vào công ty TNHH Khai Chấn
10 p | 126 | 23
-
Tiểu luận: Vận dụng lý luận tăng lợi nhuận để phân tích thực tế về phát triển sản xuất ở công ty Da giầy Hà Nội
16 p | 123 | 10
-
Tiểu luận: Vận dụng lý luận phương thức sản xuất phân tích nhà máy phích nước – bóng đèn rạng đông
11 p | 133 | 9
-
Tiểu luận: Vận dụng lý luận giá trị sức lao động để chứng minh căn cứ khoa học việc đẩy mạnh Công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn của Đảng và trình bày những nội dung chính của đường lối này
10 p | 125 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn