intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Việt Nam và chính sách đối ngoại sau khi gia nhập ASEAN - nhóm Athena lớp B

Chia sẻ: Phú Anh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:20

119
lượt xem
23
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung chính của tiểu luận gồm có 2 chương: Chương 1 - Việt Nam với vấn đề gia nhập ASEAN và chương 2 - Chính sách đối ngoại của Việt Nam. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Việt Nam và chính sách đối ngoại sau khi gia nhập ASEAN - nhóm Athena lớp B

  1. MỤC LỤC
  2. LỜI MỞ ĐẦU 28 năm sau khi "Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á" (ASEAN) được thành  lập (1967 ­ 1995), và 20 năm sau khi cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc (1975 ­   1995), nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thống nhất đã trở thành thành  viên chính thức thứ 7 của ASEAN. Ngoài 5 thành viên sáng lập của ASEAN là  Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan, thành viên thứ 6 của tổ  chức là Brunei đã được kết nạp ngay sau khi nước này được trao trả độc lập từ  phía Anh (1984). Đây có thể  nói là một động thái tích cực,.nó chứng tỏ  nỗ  lực   của Việt  Nam  trong việc thực  hiện chính sách   đối ngoại sau  đổi mới năm   1986  :thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự  chủ, rộng mở, đa  phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối  tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc  lập và phát triển. sau khi ra nhập ASEAN , Việt Nam cũng đã có những nét mới  trong chính sách đối ngoại trên nền tảng của tư duy đổi mới giúp đất nước có  những thay đổi tích cực.Bên cạnh đó đây cũng là một trong những   động lực   thúc đẩy Việt Nam gia nhập hàng loạt các tổ  chức khu vực và thế  giới khác  như APEC, WTO ,v.v… Chính vì ý nghĩa quan trọng đó, tôi đã chọn mốc thời gian này cho bài tiểu  luận. Bài tiểu luận này nhằm cung cấp một cái nhìn cơ  bản về  chính sách đối   ngoại của Việt Nam sau khi gia nhập ASEAN và những nhận xét chủ quan của  bản thân về những chính sách đó. 
  3. PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Việt Nam với vấn đề gia nhập ASEAN 1.1. Hoàn cảnh và điều kiện để Việt Nam gia nhập ASEAN Những năm 1960 khi cuộc chiến tranh mà Mỹ tiến hành ở Việt Nam đang  ở cao trào và có sự tham gia (trực tiếp hay gián tiếp) của một số nước ASEAN,   hai bên hầu như  không có quan hệ  với nhau (trừ  mối quan hệ  giữa Việt Nam   Dân chủ Cộng hoà và Indonesia).  Năm 1975 chấm dứt chiến tranh suốt 30 năm qua, nước ta độc lập và  thống nhất toàn vẹn.Khu vực Đông Nam Á đã có hòa bình và cũng có ít nhiều  thay đổi. Nguyện vọng chung của các nước trong khu vực lúc đó là hòa bình, ổn   định để cùng phát triển. Các nước ASEAN trước đấy có dính líu với chiến tranh  của Mỹ đã muốn có mối quan hệ tốt với ta một phần vì sợ nước ta trả thù. Lúc   bấy giờ,  đối  với  các nước  ASEAN thì ta vẫn cho tổ  chức  ASEAN là khối  SEATO trá hình. Vì vậy mà thời gian đó Việt Nam và ASEAN trong tình trạng   đối đầu căng thẳng. Nhưng cục diện thế giới đã thay đổi, chúng ta đã nhìn nhận  một cách cởi mở  hơn đối với tổ  chức này và nhận thức rõ việc gia nhập vào  ASEAN. Sau khi ký hiệp  ước Bali vào tháng 2 năm 1976 thì quan hệ  giữa các  nước Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng với ASEAN bước  đầu  được cải thiện. Từ thập kỷ 70 đến thập kỷ 80 mối quan hệ đó lại trở nên căng   thẳng bởi các tác động như: sự  kích động, sự  can thiệp của các nước lớn khi   nước ta đưa quân vào giúp đỡ Campuchia lật đổ chế độ Khơme đỏ. Giữa những   năm 80 tình hình Campuchia hòa dịu dần, ASEAN bắt đầu đối thoại với Việt  Nam  Bên cạnh những thay đổi sâu sắc diễn ra trên thế  giới và  ở  khu vực từ  năm 1989, nhận thức về lợi ích chung của ĐNA, về sự  liên kết cùng nhau phát 
  4. triển đã đưa đến sự  thông cảm hơn giữa Việt Nam và ASEAN về  lợi ích an   ninh của nhau, để  tiến tới cùng chia xẻ  một số  phận chung của các dân tộc   ĐNA.  Đường lối đổi mới được đề  ra từ  Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt  Nam (1986) và được phát triển thêm qua các Đại hội VII (1991) và Đại hội VIII   (1996), đã thúc đẩy những cải cách kinh tế theo hướng thị trường nhằm đưa đất  nước phát triển, hội nhập với khu vực và thế  giới, với mục tiêu xây dựng một   đất nước giàu mạnh, một xã hội công bằng và văn minh sống theo pháp luật.  Cách nhìn mới về phát triển kinh tế ­ xã hội: "dân giàu, nước mạnh, xã hội công  bằng, văn minh sống theo pháp luật", và đường lối đối ngoại "là bạn với tất cả"  thể  hiện quan niệm mới về  an ninh của Việt Nam, là những nhân tố  tích cực  thúc đẩy việc Việt Nam hội nhập với khu vực và thế giới.  Tháng 1/1992 diễn ra một sự kiện quan trọng, Hội nghị cấp cao ASEAN   lần thứ  4 họp tại Singapore quyết  định thành lập Khu vực mậu dịch tự  do  ASEAN (AFTA) trong thời hạn 15 năm (l/1993 ­ l/2008). Lúc này, các nước  ASEAN không những chấm dứt chia rẽ mà còn nhận rõ và đánh giá cao vai trò   quan trọng của các nước Đông Dương đối với hòa bình, an ninh và phát triển   của khu vực. Cũng vào thời gian này, Việt Nam triển khai mạnh mẽ đường lối   đối ngoại "đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế". Trước thắng lợi của   ta trong công cuộc đổi mới và trong thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, các   nước thành viên cũ của ASEAN đã chủ  động đặt vấn đề  có thể  sớm kết nạp   Việt Nam vào ASEAN nếu ta tự thấy đã sẵn sàng.  Thêm vào đó,năm 1994, Tổng   thống Bill Clinton tuyên bố  dỡ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam.Đây là mốc   lịch sử  vô cùng quan trọng. Bạn bè các nước, các nhà ngoại giao Mỹ  tại LHQ  đều theo dõi sít sao hoạt động của ngoại giao Việt Nam tại diễn đàn đa phương  
  5. lớn nhất hành tinh này. Việt Nam đang  ở  trong tình thế  chỗ  dựa truyền thống   vừa bị  tan ra (Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu), Phái đoàn "một vấn đề"  (one issue Mission ­ vì suốt cả thời gian dài ta phải tập trung đấu tranh với một   liên minh bao vây phong tỏa về vấn đề Việt Nam giúp tiêu diệt nạn diệt chủng  tại Campuchia) sẽ hoạt động như thế nào đây.  Tại Hội nghị ngoại trưởng ASEAN (AMM) họp  ở Bangkok thang 7/1994   các nước chính thức hỏi ta "Đã sẵn sàng gia nhập ASEAN chưa?" và khi ta  chính thức trả lời "Việt Nam sẵn sàng gia nhập sớm", các Bộ trưởng đã vỗ  tay   nhiệt liệt hoan nghênh và lập tức thông qua nghị  quyết tiến hành chuẩn bị  các   thủ  tục cần thiết theo quy trình để  làm lễ  kết nạp Việt Nam vào kỳ  họp Bộ  trưởng ngoại giao tới, tức năm 1995 tại Thủ  đô Brunei. Và ngày 28/7/1995, lễ  trọng thể  kết  nạp Việt  Nam  vào ASEAN  đã  được  tổ  chức  tại Bandar  Seri   Begawan, thủ đô của Brunei trong dịp Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN   lần thứ 28. ASEAN trở thành ASEAN­7. Việt Nam gia nhập ASEAN đã làm chấm dứt tình trạng khu vực Đông  Nam Á chia rẽ thành 2 khối đối địch nhau, chuyển sang một kỷ nguyên mới tất   cả các nước trong khu vực đoàn kết với nhau dưới một mái nhà chung, hợp tác  với nhau để  mỗi nước phát triển và cả  khu vực cùng phát triển, mở  ra triển   vọng hiện thực hóa ước mong của các nhà sáng lập ASEAN là ASEAN sẽ  bao   gồm tất cả các nước trong khu vực.  Rõ ràng việc Việt Nam gia nhập ASEAN là sự gặp nhau giữa chủ trương   của Việt Nam đối với các nước trong khu vực và yêu cầu của các nước trong  khu vực nhìn nhận về  vai trò của Việt Nam trong bối cảnh mới của tình hình  quốc tế. Nói một cách khác, Việt Nam cần ASEAN và ASEAN cũng cần Việt  Nam. Và cũng từ đây quan hệ Việt Nam ­ ASEAN đã lật sang một trang mới. 
  6. 1.2. Cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập ASEAN 1.2.1. Thời cơ Khi gia nhâp ASEAN tạo thuận lợi cho Việt Nam  hoà nhập và cộng đồng   khu vực, vào thị  trường các nước Đông Nam Á tạo cơ  hội để  để  nước ta có  điều kiện mở  rộng hợp tác với các nước lớn và các tổ  chức khu vực trên thế  giới : bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, Mĩ, tham gia tổ chức diễn đàn   hợp tác kinh tế  châu Á­ Thái Bình Dương(APEC)...Tạo thời cơ  để  Việt Nam   thu hút vốn đầu tư, mở  ra cơ  hội giao lưu hợp tác trên lĩnh vực khoa học kĩ   thuật, công nghệ  để  phát triển.Mở  rộng giao lưu hợp tác trên lĩnh vực văn hóa  nghệ  thuật cũng là cơ  hội để  Vn mở  rộng thị  trường trên thế  giới và khu vực   .Tăng cường an ninh quốc phòng trên đát liền cũng như trên biển ASEAN ra đời  8/1967 gồm 5 nước có thể xem là mạnh về kinh tế nhất Đông Nam Á  lúc bấy  giờ ( Thái, In, Ma, Sin, Phi ). Trải qua sự phát triển của các nước từ  ASEAN 6   đến 10 với nhiều biến động về  kinh tế, chính trị   ở  mỗi quốc gia có sự  phát   triển đặc thù, nhưng nhìn chung vấn đề  hợp tác phát triển trong và ngoài khu   vực Đông Nam Á   là cơ  bản nhất. Việt Nam tham gia vào tổ  chức ASEAN   không ngoài mục đích hợp tác phát triển với bạn bè trên thế giới, vì vậy đây là  yếu tố  thuận lợi để  chúng ta thực hiện chủ  trương này. Khi tham gia ASEAN   chúng ta đã đóng góp tích cực về  nhiều mặt, làm cho tổ  chức ASEAN vững   mạnh hơn đặc biệt trọng tâm là hợp tác phát triển kinh tế, văn hoá ( Cộng đồng  ASEAN tương đồng về  văn hoá ­ lúa nước ). Thứ hai thông qua ASEAN chúng  ta tiếp xúc, hợp tác với nhiều tổ chức trên thế  giới để làm bạn và hợp tác song  phương, tạo tiếng nói trên chính trường quốc tế. Thứ ba không nằm ngoài quy  luật xu thế phát triển chung của thế giới là hợp tác đa dạng hoá, đa phương hoá,  đòi hỏi chính sách ngoại giao và hợp tác với bạn bè trên thế giới là tất yếu.
  7. 1.2.2. Thách thức Tuy vậy, không có nghĩa là việc Việt Nam tham gia vào hợp tác ASEAN   về  các mặt đều diễn ra suôn sẻ, và Việt Nam đã không gặp mấy khó khăn và   thách thức. Bên cạnh những kết quả  tốt đẹp của hai năm tham gia hợp tác  ASEAN, một số  vấn đề  vẫn còn tồn tại, và một số  vấn đề  mới nảy sinh sẽ  tiếp tục thách thức sự tham gia và hội nhập của Việt Nam trong ASEAN.  Ngoài những thắc mắc từ  bên ngoài ASEAN, ngay trong một số  nước   ASEAN cũng còn những ý kiến e ngại về khả năng của Việt Nam ­ một nước  có trình độ  kinh tế  phát triển thấp hơn rất nhiều so với các nước ASEAN có  chế  độ  chính trị  và kinh tế  khác biệt ­ tham gia vào hợp tác ASEAN, và việc  Việt Nam với những bất hoà và tranh chấp lãnh thổ  vốn có với Trung Quốc có  thể làm phức tạp thêm mối quan hệ ASEAN ­ Trung Quốc. Song song với sự hợp tác song phương, đa phương, với nhiều nước trong   và ngoài khu vực ASEAN, kèm theo đó là những vấn đề  phức tạp về  các loại   hình văn hoá đồi truỵ xâm nhập, ảnh hưởng vào nước ta dưới nhiều dạng thức  khác nhau khó phát hiện và nắm bắt nếu không cẩn trọng dễ bị ảnh hưởng nhất  là trong giai đoạn xu thế  hiện nay, Mặt khác một số  vấn đề  cạnh tranh không   lành mạnh của một số  phần tử xấu từ  bên ngoài dễ  dàng xâm nhập hòng phá  hoại kinh tế  đất nước, kéo theo là những âm mưu thù địch.... nếu   chúng ta  không xử lý và có những biện pháp hữu hiệu tăng cường sức mạnh về mọi mặt   Kinh tế, văn hoá, giáo dục, chính trị  thì nguy cơ  ( thách thức ) tụt hậu của đất   nước là rất lớn.  Chương 2: Chính sách đối ngoại của Việt Nam 2.1. Chính sách đối ngoại của Việt Nam với các nước Đông dương
  8. Lào và Campuchia vốn là 2 người láng giềng gần gũi, thân mật của Việt   Nam và đều được gọi tên là những nước Đông Dương. Không chỉ  có chung   những phần biên giới mà còn chung về nhiều đường lối và chính sách phát triển  khác. Việt Nam và 2 quốc gia này cũng giúp đỡ  nhau rất nhiều trong các hiệp  định tương trợ từ trước đến nay. Vậy khi cả 3 quốc gia đều cùng gia nhập vào 1  tổ chức hợp tác lớn nhất khu vực thì các chính sách của Việt Nam đối với Lào,  Campuchia sẽ như thế nào? Trước hết, ta nhìn lại mối quan hệ  giữa Việt Nam với 2 quốc gia Đông   Dương trong thời kì trước 1995. Khi nước CHDCND Lào ra đời ngày 2/12/1975,  quan hệ  Việt­Lào đã chuyển sang giai đoạn mới đó là mối quan hệ  hữu nghị,   đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai Đảng và hai Nhà nước. Từ đó   đến nay, mối quan hệ đặc biệt Việt­Lào ngày càng được củng cố và phát triển.   Trước khi chính thức gia nhập vào ASEAN, một số hiệp định và thỏa thuận hợp  tác đã ký giữa hai bên trên rất nhiều lĩnh vực:   Hiệp  ước Hữu nghị  và hợp tác  Việt ­ Lào (18/7/1977); Hiệp ước hoạch định biên giới (7/1977); Hiệp định lãnh  sự  1985; Hiệp định về quy chế biên giới 1990; Hiệp định hợp tác kinh tế  ­ văn  hóa ­  khoa học, kỹ  thuật  1992­1995 (tháng 2/1992); Hiệp  định về  kiều dân  (01/4/1993); Hiệp định quá cảnh hàng hóa (23/4/1994); Hiệp định hợp tác lao  động (29/6/1995). Điều này cho thấy mối quan hệ  giữa Việt Nam và Lào đã   được thiết lập và duy trì trong khoảng thời gian rất lâu và nó có xu hướng ngày   càng hợp tác mở rộng hơn về nhiều mặt trong đời sống kinh tế­xã hội của từng   quốc gia. Trong giai đoạn 1991­1995, đặc biệt sau Đại hội Đảng VII, Việt Nam   muốn làm bạn với tất cả  các nước trong cộng đồng thế  giới, phấn đấu vì hòa  bình, độc lập và phát triển, củng cố  và phát triển qua hệ  hữu nghị  hợp tác   truyền thống với các nước XHCN, các nước anh em trên bán đảo Đông Dương,  
  9. phát triển quan hệ với Đông Nam Á, phát triển quan hệ  hợp tác hữu nghị, giúp  đỡ lẫn nhau với các nước đang phát triển. Đối với Lào thì hai Đảng, 2 nước liên  tục coi trọng củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác  toàn diện Việt­Lào.  Về  phía Campuchia, sau hiệp định Paris, Nhà nước Campuchia   chuyển   sang chế  độ  chính trị  xã hội khác. Tháng 1­1­92, hai bên khẳng định: xây dựng   mối quan hệ láng giềng thân thiện trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn  vện lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ mỗi nước, không  dũng vũ lực và đe dọa sử  dụng vũ lực, giải quyết mọi vấn đề  giữa hai nước   bằng con đường hòa bình, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, giải quyết từng bước  thỏa đáng vào thời gian thích hợp những vấn đề  tồn tại. Hai bên khuyến khích  hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, văn hóa, khoa học kĩ thuật, lập   các nhóm chuyên viên về  vấn đề  phân định biên giới, lập nhóm làm việc cấp   chuyên viên để  giải quyết vấn đề  Việt Kiều trên cơ  sở  tôn trọng luật pháp   Campuchia và luật pháp quốc tế cũng như thông lệ quốc tế. Nhìn chung có thể  thấy, những mâu thuẫn có xảy ra giữa Việt Nam với 2 quốc gia láng giềng   nhưng Việt Nam luôn nỗ lực đưa ra các chính sách giải quyết, điều hòa quan hệ  bằng biện pháp hòa bình, xây dựng sự hợp tác dựa trên những hiệp định tương   trợ về mọi mặt để cùng nhau phát triển. Đấy là khi Việt Nam đang ở trong giai  đoạn rất khó khăn khi Liên Xô sụp đổ  cùng sự  bao vây cấm vận mọi mặt của   Mỹ. Vậy khi Việt Nam gia nhập vào ASEAN thì tình hình có gì khác? Các chính   sách đối với 2 nước láng giềng sẽ như thế nào?     Ngày 28/7/1995, Việt nam chính thức gia nhập vào tổ  chức ASEAN  nhưng 23/7/1997 Lào mới gia nhập và muộn hơn là 30/4/1999­ năm gia nhập  của Campuchia. Tuy nhiên khi mới gia nhập, Việt Nam đã có những chính sách  
  10. mới đối với 2 nước láng giềng kể cả khi cả 3 chưa cùng gia nhập vào ASEAN.  Từ  khi Việt Nam gia nhập đến trước khi Lào gia nhập, có rất nhiều văn kiện   quan trọng đã được kí kết giữa 2 bên: Hiệp định hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa  học kỹ thuật giai đoạn 1996­2000 (ngày 14/1/1996); Hiệp định khuyến khích và  bảo   hộ   đầu   tư   (ngày   14/1/1996);   Hiệp   định   tránh   đánh   thuế   hai   lần   (ngày  14/1/1996); Hiệp định vận tải đường bộ  (ngày 26/2/1996); Hiệp định về  trao   đổi nhà trụ  sở  và nhà ở  của cơ quan đại diện (ngày 1/4/1996). Chẳng hạn như  hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa  Việt Nam và chính phủ  Cộng Hòa Dân  Chủ  Nhân Dân Lào (1996), các bên ký  kết với mong muốn mở  rộng và tăng cường hợp tác lâu dài về  kinh tế, công  nghiệp và đặc biệt là tạo những đIều kiện thuận lợi cho đầu tư  của các nhà   đầu tư  của bên ký kết này tại lãnh thổ  của bên ký kết kia, nhận thấy sự  cần   thiết bảo hộ đầu tư của các nhà đầu tư của hai bên ký kết và thúc đẩy đầu tư,  kinh doanh vì lợi ích kinh tế của hai bên ký kết. Hay là thỏa thuận về việc tạo  điều kiện thuận lợi cho người, phương tiện, hàng hóa qua lại biên giới nhằm   đẩy mạnh hơn nữa việc khuyến khích phát triển hợp tác đầu tư, thương mại   giữa hai nước  với mong muốn tăng cường hợp tác kinh tế, thúc đẩy, khuyến  khích hợp tác đầu tư, thương mại giữa hai nước ngày càng phát triển và phù   hợp với thông lệ  quốc tế. Tại Đại Hội IX, trong khi ra sức đẩy mạnh quan hệ  quốc tế, Việt Nam luôn coi trọng việc phát triển quan hệ hữu nghị với các nước  láng giềng gần gũi, các nước bạn bè truyền thống, trong đó quan hệ  hữu nghị  với Lào luôn chiếm vị trí hàng đầu, duy trì việc trao đổi thường kỳ cấp cao, các   cấp, các địa phương, lập Ủy ban liên chính phủ chuyển từ hợp tác theo từng dự  án sang hợp tác theo chương trình dài hạn: “chiến lược hợp tác kinh tế, văn hóa,  khoa học kĩ thuật đến năm 2000”, “hiệp định khung hợp tác năm năm 01­05”,  
  11. “chiến lược hợp tác giữa hai nước giai đoạn 2001­2010” và nhiều hiệp định  song phương khác....  Còn đối với Campuchia, từ năm 1995­1999, có rất nhiều cuộc viếng thăm  giữa những người có quyền lực  ở  2 nước chẳng hạn Tháng 8­1995, Chủ  tịch  nước  Lê Đức Anh thăm chính thức Campuchia, tháng 12­1995, Quốc vương  Norodom Sihanouk thăm chính thức Việt Nam, tháng 5­1999, Chủ tịch Quốc hội   Campuchia, Hoàng thân Norodom Ranarith thăm Việt Nam, tháng 6­1999, Tổng   bí thư  Lê Khả  Phiêu thăm Campuchia. Hai bên nhất trí xây dựng quan hệ  hai   nước theo phương châm “hợp tác láng giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền  thống, ổn định lâu dài”… Hơn nữa trong giai đoạn này, Campuchia chuyển sang  chế độ đa Đảng, tuy không còn chiến tranh, nhưng còn mất ổn định và chịu tác  động mạnh từ bên ngoài, Các thế lực thù địch tăng cường xuyên tạc, kích động   chống phá Việt Nam, Campuchia, Lào và chia rẽ  3 nước.  Trước tình hình đó,  Việt Nam đã đưa ra phương châm chỉ  đạo quan hệ  2 nước là “hợp tác láng  giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền thống, ổn định lâu dài”. Việt Nam kiên  trì chính sách hữu nghị, hợp tác với Campuchia, không can thiệp vào công việc  nội bộ  của Campuchia. Hai bên đã trao đổi nhiều đoàn cấp cao, ký nhiều hiệp   định hợp tác về  kinh tế, văn hóa, an ninh chống tội phạm, thúc đẩy giải quyết   vấn đề tồn tại ( Việt kiều và biên giới). Có thể  thấy chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với 2 nước láng  giềng vẫn dựa trên những cơ  sở  hợp tác cũ nhưng đã có bổ  sung thêm nhiều   khía cạnh của đời sống xã hội đặc biệt là nỗ lực giải quyết triệt để những mâu  thuẫn còn tồn đọng, những vấn đề  khá nhạy cảm và gây nhiều tranh cãi như  vấn đề với Campuchia. Hội nghị Thủ tướng 3 nước năm 1999 và 2002 đã thỏa  thuận đẩy mạnh hợp tác song phương và giữa 3 nước, nhất là trong lĩnh vực an  
  12. ninh, quốc phòng và phát triển kinh tế xã hội ở các tỉnh có chung biên giới giữa   3 nước. Ba nước thỏa thuận phương hướng, biện pháp cụ thể là xây dựng tam  giác phát triển Việt Nam­Lào­Campuchia, trong đó các lĩnh vực  ưu tiên là giao  thông, thương mại, du lịch, năng lượng điện và y tế, gắn việc xây dựng tam  giác phát triển Việt Nam­Lào­Campuchia với hợp tác tiểu vùng ASEAN, thúc  đẩy và tham gia chương trình hợp tác tiểu vùng MêKông mở  rộng, trong đó có  đường xuyên Á, nâng cấp đường 9 để Lào ra cảng Tiên Sa. 2.2. Chính sách đối ngoại của Việt Nam với các nước ASEAN còn lại Với ASEAN: Sau khủng hoảng tài chính và tiền tệ 1997, sự gắn kết và vị  trí của ASEAN trên trường quốc tế gặp nhiều thách thức. Chủ nghĩa khủng bố  hoạt động ở một số nước, gây thảm họa. Mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo bùng  nổ. Sự tranh chấp giữa các nước lớn gia tăng. Mỹ  tăng hiện diện ở Đông Nam   Á, can thiệp nhiều hơn vào khu vực, kích động li khai và lôi kéo Đông Nam Á  vào quỹ  đạo của mình, kiềm chế  các nước khác trong khu vực. Một số  nước   lớn khác đã tăng cường ảnh hưởng của mình bằng các quan hệ kinh tế. An ninh  ở  Lào và Campuchia có khả  năng phức tạp hơn. Do đo Việt Nam đã đề  ra một  số chính sách chính thông qua một số đại hội và nghị quyết trung ương đảng Đại Hội VIII “ ra sức tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các   nước trong   ASEAN. Đại Hội IX: nâng cao hiệu quả  hợp tác với các nước   ASEAN. Nghị quyết trung  ương VIII: tiếp tục  ưu tiên hàng đầu cho việc củng   cố quan hệ với các nước láng giềng. Nghị quyết trung  ương IX : tiếp tục củng   cố  và tăng cường quan hệ  hữu nghị, hợp tác giữa VN và các nước trong khu  vực. Tích cực chủ động góp phần giữ vững các nguyên tắc cơ bản của ASEAN,  tăng cường gắn kết trong Hiệp hội, hạn chế  tác động nhân hóa từ  bên ngoài, 
  13. đẩy mạnh hợp tác kinh tế. Để  thực hiện những chính sách đó Việt Nam đã có   những hành động cụ thể sau: Góp phần tích cực vào củng cố  sự  gắn kết, giữ  vững các nguyên tắc cơ  bản của ASEAN, thúc đẩy quan hệ  hợp tác nội khối và với bên ngoài, nghiêm   chỉnh thực hiện cam kết về  AFTA, tăng cương quan hệ  song phương với các  nước thành viên và tổ  chức Việt Nam thành lập  ủy ban hỗn hợp như  “ủy ban   hỗn hợp về  nghề  cá và trật tự trên biển” với các nước ASEAN. Ngày 20­2­04,  lần đầu tiên Việt Nam và Thái Lan đã có cuộc họp nội các chung, thống nhất   hợp tác trong nhiều lĩnh vực: chính trị, an ninh, kinh tế , giáo dục và xã hội. Hai   bên đã ký 10 văn kiện quan trọng nhằm đặt nền móng vững chắc cho sự hợ tác   lâu dài và toàn diện giữa hai nước. Giải quyết vấn đề  do lịch sử  để  lại:  5­8­ 1992 hợp tác cùng khai thác dầu khí vùng chồng lấn với Malaisia;  9­8­1997 ký  với Thái hiệp định phân định ranh giới biển; 7­11­95 ky với Philipin 9 nguyên   tắc  ứng xử  cơ  bản Biển Đông   3­2000, hơn 25.000 Việt kiều thế  hệ  2 và ba  nhập quốc tịch Thái Lan.11­2­2000, Philipin cho người Việt Nam đến từ ngày 1­ 1­98 đến 31­12­95 được quy chế thường trú. Tham gia hầu hết các chương trình  hợp tác của ASEAN về  an ninh chính trị, kinh tế  cũng như  chuyên ngành. Ta  phối hợp tốt trên các diễn đàn khu vực  2.3. Chính sách đối ngoại của Việt Nam với các cường quốc có liên  quan. a. MỸ Vào những năm 90, sự  nghiệp Đổi mới của Đảng và nhân dân đang đem  lại sức sống mới. Chính trị, an ninh  ổn định, kinh tế  vượt qua giai đoạn khó  khăn nhất và chúng ta bắt đầu xuất khẩu gạo... Dù còn rất khó khăn nhưng hai  
  14. bên Việt ­ Mỹ  đều mong muốn tích cực triển khai ngoại giao con thoi theo lộ  trình từng bước, hướng tới bình thường hóa quan hệ. Trong khoảng thời gian này,Việt Nam khẳng định hai nước sẽ  tiến dần  đến bình thường hóa quan hệ mặc dù phải cần thêm thời gian để vượt qua khá   nhiều khó khăn, khá nhiều vấn đề nhạy cảm... Những   động   thái   đối   với   Việt   Nam   của   chính   quyền   Bill   Clinton   từ  Washington thường lan nhanh với cộng đồng quốc tế ở LHQ. Những phát triển   mới từ lệnh cấm vận Việt Nam được dỡ bỏ khỏi các tổ chức hệ thống Bretton   Wood (Ngân hàng thế  giới, Quỹ  tiền tệ quốc tế…), đến việc hai bên chuẩn bị  mở  Văn phòng liên lạc tại hai Thủ  đô... gây sự  chú ý đặc biệt của dư  luận.   Một năm sau đó, dấu mốc bình thường hóa quan hệ  hai bên được tuyên bố   chính thức. Ngày 12/7/1995, Việt Nam và Mỹ  ký Hiệp định thiết lập quan hệ  ngoại giao và bình thường hóa quan hệ. Tại LHQ, đi đến đâu, gặp ai, chúng tôi  cũng nhận được lời chúc mừng nhiệt thành.  Một trong những dấu mốc cũng khá nghẹt thở  trong tiến trình 15 năm   quan hệ, đó là khi Việt Nam vận động để Mỹ thông qua PNTR và kết thúc đàm   phán song phương về WTO. Việt Nam coi trọng đàm phán song phương với tất   cả  28 quốc gia và nền kinh tế thành viên WTO về việc Việt Nam gia nhập Tổ  chức này. Nhưng có thể  nói mục tiêu kết thúc đàm phán với Mỹ  là quan trọng  nhất. Đến tháng 12/2005, khi chuẩn bị  tham dự  Hội nghị  WTO hàng năm lần   thứ  5 tại Hongkong, ta đã ký kết thúc đàm phán với hầu hết các nước, nhưng  với Mỹ thì chưa và cũng bởi vậy nên một số nước "bạn thân" của Mỹ cũng tiếp  tục dây dưa với những lý do chẳng đâu vào đâu vì họ đang phải chờ đợi.  Cũng phải mất gần hết cả năm 2006 để  chúng ta dồn lực kết thúc phần  còn   lại   của   quá   trình   11   năm   đàm   phán,   cả   đàm   phán   song   phương   và   đa  
  15. phương, cho đến chiều thứ sáu ngày 13/10/2006, chúng ta mới thực sự kết thúc  đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu này Nhiều đoàn của Mỹ đang và sẽ  sang Việt Nam để  kỷ  niệm 15 năm ngày  thiết lập quan hệ ngoại giao.. Những gì đạt được trong thập kỷ  rưỡi qua sẽ là  cơ  sở  tốt để  hai bên tiếp tục các bước đi ngày càng đem lại kết quả  thực chất  để  đưa quan hệ  hai nước đến đồng thuận nhiều hơn, vì lợi ích không chỉ  hai   bên mà cả hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và quốc tế.  b. TRUNG QUỐC Kể từ khi bình thường hóa quan hệ năm 1991 kế tiếp là sau khi Việt Nam   gia nhập ASEAN, quan hệ hữu nghị và hợp tác Việt­Trung đã phát triển nhanh   và sâu rộng, đem lại hiệu quả thiết thực cho cả hai nước theo phương châm 16   chữ: “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương   lai”. Hai nước đã ký kết trên 40 Hiệp định và thỏa thuận ở cấp Nhà nước, tạo  cở  sở  pháp lý để  tăng cường lòng tin và hợp tác lâu dài giữa hai bên. Các cuộc   gặp gỡ cấp cao được duy trì đều đặn hàng năm. Bên cạnh đó, hai bên cũng trao  đổi nhiều đoàn các cấp, góp phần tăng cường hiểu biết, mở rộng hợp tác nhiều  mặt giữa hai nước. Quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư giữa hai nước tăng  nhanh. Việt Nam xuất khẩu chủ yếu là dầu thô, cao su, than, rau quả nhiệt đới,   thủy hải sản, dầu thực vật, hạt tiêu, hạt điều v.v… và nhập từ Trung Quốc máy  móc, thiết bị, xăng dầu, vật tư  nông nghiệp, vật liệu xây dựng... Về  biên giới   lãnh thổ, Việt Nam và Trung Quốc đã ký Hiệp  ước biên giới trên bộ  và Hiệp  định về phân định Vịnh Bắc Bộ... và đang tích cực triển khai các công tác khác   liên quan tới việc phân giới, cắm mốc và tiếp tục duy trì diễn đàn đàm phán về  các vấn đề  trên biển Đông. Hai bên cũng đã thỏa thuận nhiều kế  hoạch nhằm  
  16. mở  rộng hợp tác giữa hai nước, trong đó có dự  án xây dựng hành lang kinh tế  Hà Nội ­ Hải Phòng ­ Lạng Sơn ­ Nam Ninh và Hà Nội ­ Hải Phòng ­ Lào Cai ­   Côn Minh và vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ.  Bước sang thế kỷ mới ,mặc dù tình hình thế  giới nhất là ở  khu vực châu  Á – Thái Bình Dương đang có những diễn biến phức tạp ,khó lường, nhưng   hữu nghị  ­hợp tác –phát triển vẫn là trục chính của mối quan hệ  hai nước và  cũng là chính sách đối ngoại chính của Việt Nam với Trung Quốc,trong đó cùng   nhau phát triển là mục tiêu mà hai nước cần phấn đấu ,hữu nghị là nền  tảng ,  tăng cường hợp tác cả song phương lẫn đa phương là biện pháp 2.4. Đánh giá về những chính sách đối ngoại của Việt Nam và bài học   kinh nghiệm a. Tích cực:  Sau khi gia nhập vào ASEAN, Việt Nam đã có những chính sách đối ngoại  hợp lí, đúng đắn một mặt đóng góp không nhỏ vào việc xây dựng một ASEAN  lớn mạnh trên trường quốc tế, mặt khác còn nâng cao vị thế của Việt Nam trên  cương vị là thành viên chính thức của tổ chức khu vực.   Việc gia nhập ASEAN là một bước thắng lợi trong chính sách đối ngoại   hàng đầu của Việt Nam, thực hiện mục tiêu an ninh, phát triển và ảnh hưởng.   Đối với vấn đề  an ninh, Việt Nam đã tạo dựng được một vành đai tương đối  vững chắc. Đối với vấn đề  phát triển, Việt Nam có cơ  hội nâng cao và nhận   được sự  giúp đỡ  về  mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá… Về  tầm ảnh  hưởng, gia nhập ASEAN giúp Việt Nam không những được nhiều nước trên  thế giới công nhận hơn ( đặc biệt là sau khi Liên Xô tan rã) , mà tiếng nói của  Việt Nam trên trường quốc tế càng được coi trọng .
  17. Trong mối quan hệ với các quốc gia khác, Việt Nam điều chỉnh chính sách  của mình một cách linh hoạt. Đối với các nước trong ASEAN, Việt Nam luôn  nêu cao tinh thần “hoà bình­ hữu nghị­ hợp tác­ phát triển”,  tranh thủ sự ủng hộ  và tương trợ lẫn nhau để  cùng phát triển.  Đối với các nước lớn trên thế  giới,   Việt Nam luôn sẵn sàng mở rộng quan hệ trong khi đó vẫn tự chủ trong các vấn  đề liên quan đến lợi ích quốc gia, lợi ích khu vực, cũng có nghĩa hoà nhập chứ  không hoà tan.  b. Hạn chế và bài học kinh nghiệm. Chúng ta nhìn nhận các nước là qua lăng kính ý thức hệ : Điều đó đã làm  cho chúng ta không thấy hết được các nhân tố tích cực – thường là tinh thần yêu  nước và bảo vệ  dân tộc­ của các nước Đông Nam Á nói chung. Do đó, cần có  một tư  duy mới về  vấn đề  độc lập, chủ  quyền,an ninh và toàn vẹn lãnh thổ  quốc gia, cũng như quan điểm” thông thoáng “ về vấn đề ý thức hệ ,trong quan   hệ  với các nước ASEAN , cần nhận thức sâu sắc hơn một sự thật khách quan   về Việt Nam là một nước cấu thành khu vực Đông Nam Á . Gia nhập ASEAN là cơ  hội để  Việt Nam tiếp thu những chính sách để  phát triển kinh tế nhưng Việt Nam chưa đánh giá đúng mực về  tình hình trong   nước để áp dụng những chính sách đó một cách có hiệu quả nhất, dẫn tơi Việt   Nam phải đối mặt với nhiều khủng hoảng, tiêu biểu là khủng hoảng kinh tế  năm 2008. Không những vậy, vấn đề  lạm phát và thất nghiệp tăng cao cũng  ảnh hưởng không nhỏ.    Thực tiễn tinh hình nhiều nước cho thấy, nguy cơ đe doạ  chủ  quyền và  an ninh quốc gia, sự  toàn vẹn lãnh thổ  nằm ngay tại  ở  bên trong ; nhiều khi  không bị nước ngoài xâm lăng, song chủ quyền và an ninh vẫn bị rối loạn, lãnh   thổ bị chia cắt”. Do đó, mối đe doạ là nằm cả bên ngoài với bên trong, hoặc là 
  18. sự  kết hợp cả  hai yếu tố  đó. Cuối cùng là, trước đây, khi nói tới phương tiện   bảo vệ chủ quyền , an ninh quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ , thậm chí cả vị trí   và ảnh hưởng quốc tế  , nhiều khi người ta nhấn mạnh đến biện pháp quân sự  và biện pháp bạo lực . Điều này ngày nay vẫn đúng với ý nghĩa là sức mạnh  quân sự  , vẫn có ý nghĩa rất quan trọng “ song không còn giữ  vị  trí độc tôn “,  thậm chí “ chưa đủ để bảo vệ vững chắc chủ quyền cà an ninh quốc gia, cũng  như sự toàn vẹn lãnh thổ”. Cần phải có sức mạnh tổng hợp, trong đó sức mạnh  kinh tế và sự phát triển có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đang nổi lên hàng đầu.  Trong quan hệ của Việt Nam với ASEAN cần xử lý tốt quan hệ với các   nước lớn. Bởi vì  giữa các nước lớn luôn có hợp tác và đấu tranh , có hoà binh   và tranh chấp . Chúng ta cần thi hành chính sách cân bằng lợi ích, giữa các  nước , nhất là không "nhất biên đảo" , không ngả  theo bên này chống bên kia  .Mọi sự  coi thường nước lớn và chống nước lớn đều không có lợi cho một   quốc gia không thuộc loại nước lớn như Việt Nam” . Trong khi chú ý và tôn trọng thích đáng các lợi ích chính đáng của các dân  tộc – quốc gia khác ,thì với chúng ta lợi ích của dân tộc Việt Nam là tối cao và   vĩnh viễn . Nắm vững lợi ích dân tộc ,nêu cao tinh thần độc lập , tự  chủ  và   quyền tự  quyết dân tộc , hoà hiếu với các nước láng giềng ,sẵn sàng làm bạn  với tất cả  các nước “ không gây thù oán với ai “ như  lời dạy của chủ tịch Hồ  Chí Minh từ  1947, đó chính là những bảo đảm cho một Việt Nam có một môi  trường quốc tế  thuận lợi cho sự  phát triển và một vị  trí ngày càng cao trong  cộng đồng thế giới.
  19. KẾT LUẬN Việc Việt Nam gia nhập ASEAN phù hợp với xu thế  khu vực hóa đang  diễn ra trên thế  giới cũng như   ở  khu vực ,đáp  ứng lợi ích của cả  nước ta và  ASEAN là cần có môi trường hòa bình  ổn định và đẩy mạnh hợp tác vì lợi ích  phát triển ,trùng với ý nguyện của nhân dân các nước , nhất là châu Á ­Thái  Bình Dương, muốn được thấy một Đông Nam Á ổn dịnh ,mở rộng thị trường và  đối   tác   về   kinh   tế   ,thương   mại,khoa   học­công   nghệ,   văn   hóa­xã   hội   .Như  vậy,việc nước ta gia nhập ASEAN có lợi cho xu thế  chung là hòa bình và hợp   tác .Việc đó không gây trở ngại mà còn hỗ trợ cho việc thực hiện chính sách đối  ngoạiđộc lập ,tự chủ ,đa dạng hóa ,mở rộng hơn nữa quan hệ hữu nghị hợp tác   với tất cả  các nước theo khẩu hiệu : “Việt Nam muốn là bạn với tất cả  các   nước trong công đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình , độc lập và phát triển” Nếu khách quan nhìn nhận lại sự  vận động trong đường lối đối ngoại   của Việt Nam từ khi gia nhập ASEAN cho đến nay, ta có thể  thấy một đường   lối vô cùng mềm dẻo và linh hoạt. Để cho thấy vai trò và vị thế của mình trong   tổ  chức, Việt Nam thực hiện đường lối đối ngoại trong mối quan hệ  với các   nước một cách chân tình, hữu nghị  trên nguyên tắc: “Tôn trọng độc lập, chủ  quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của   nhau…”. Xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa ngày càng lan rộng cùng với đó là   quá trình xâm nhập của nền kinh tế  thị trường tự do cạnh tranh, Việt Nam đã  chủ  động mở rộng hợp tác với các nước ASEAN một cách toàn diện, trên mọi   lĩnh vực thông qua đối ngoại song phương và đa phương, chủ  động xây dựng  mối quan hệ thân thiện, hữu nghị cùng hợp tác và phát triển thông qua đối thoại   và đàm phán. Do những ảnh hưởng tiêu cực của tình hình thế giới tác động vào   khu vực, cũng như sự thay đổi trong đường lối và chính sách của các nước thành 
  20. viên ASEAN, Việt Nam cần linh hoạt “uốn mình” theo dòng chảy, nhằm chủ  động đón đầu mọi khó khăn và thách thức trong tương lai.  DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Vũ Tùng (biên soạn). Học viện Quan hệ Quốc tế, “Chính sách  đối ngoại Việt Nam: Tài liệu tham khảo phục vụ  giảng dạy, tập II (1975­ 2006)”. NXB Thế giới, Hà Nội, 2007. 2. Đảng Cộng Sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần  thứ VII. NXB Sự thật. 3. Vũ Dương Huân (chủ  biên), Học viện QHQT, Ngoại giao Việt Nam   hiện đại vì sự nghiệp Đổi mới (1975­2002), Hà Nội, 2002. 4. Bộ  Ngoại giao. Ngoại giao Việt Nam 1945­2000. NXB Chính trị  Quốc  gia, Hà Nội, 2002. 5.   Vũ   Dương   Ninh   (Chủ   biên).   Việt   Nam   –   ASEAN:   Quan   hệ   song   phương  và đa phương. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2