intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Đặc trưng phản ánh hiện thực của tiểu thuyết Việt Nam về nông thôn từ 1986 đến nay

Chia sẻ: Minh Lộ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:212

30
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài gopd phần khẳng định những thành tựu của tiểu thuyết Việt Nam viết về nông thôn từ 1986 đến 2012n nay là có cơ sở từ những điều kiện chính trị, xã hội của đất nƣớc sau 1975, và là sự đòi hỏi tự thân của văn học nói chung, tiểu thuyết viết về nông thôn nói riêng trong sự tiếp tục phát triển ở thời kỳ đổi mới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Đặc trưng phản ánh hiện thực của tiểu thuyết Việt Nam về nông thôn từ 1986 đến nay

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ------------------- BÙI NHƢ HẢI ĐẶC TRƢNG PHẢN ÁNH HIỆN THỰC CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM VỀ NÔNG THÔN TỪ 1986 ĐẾN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 62 22 34 01 Hà Nội, năm 2013
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ------------------- BÙI NHƢ HẢI ĐẶC TRƢNG PHẢN ÁNH HIỆN THỰC CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM VỀ NÔNG THÔN TỪ 1986 ĐẾN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 62 22 34 01 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS HỒ THẾ HÀ Hà Nội, năm 2013 2
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực và chƣa từng công bố bất kì một công trình nào khác. Luận án có kế thừa và sử dụng một số tài liệu đã công bố có liên quan đến đề tài để tham khảo và đã đƣợc chú thích rõ ràng khi sử dụng. Tác giả luận án Bùi Nhƣ Hải 3
  4. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành chƣơng trình Nghiên cứu sinh và viết luận án Tiến sĩ, tôi đã nhận đƣợc sự dạy bảo, hƣớng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của quý thầy cô Khoa Văn học thuộc Học viện Khoa học Xã hội, đặc biệt là PGS.TS Phan Trọng Thƣởng, PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp, PGS.TS Trƣơng Đăng Dung, PGS.TS Tôn Thảo Miên, PGS. TS Trịnh Bá Đĩnh... Trân trọng cảm ơn Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Quảng Trị, trƣờng THPT Bùi Dục Tài đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và nghiên cứu. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến Nhà giáo ƣu tú - PGS.TS Hồ Thế Hà, ngƣời thầy tận tâm, hết lòng chỉ bảo, hƣớng dẫn nghiên cứu và giúp đỡ tôi hoàn thành luận án tiến sĩ. Xin cảm ơn tấm lòng những ngƣời thân yêu trong gia đình và bè bạn đã cổ vũ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập cũng nhƣ thực hiện luận án này. Hà Nội, tháng 01 năm 2013 Bùi Nhƣ Hải 4
  5. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 11 1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................... 11 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 22 3. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................................ 44 4. Đóng góp mới của luận án ..................................................................................... 54 5. Cấu trúc luận án...................................................................................................... 65 NỘI DUNG..................................................................................................................... 86 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TIỂU THUYẾT VIỆT NAM VỀ NÔNG THÔN TỪ 1986 ĐẾN NAY................................................................................ 86 1.1. Luận bàn toàn cảnh ......................................................................................... 86 1.1.1. Khẳng định sự đổi mới, lạc quan vào sự hồi sinh ................................... 86 1.1.2. Quan ngại về dấu hiệu chững lại ......................................................... 1210 1.2. Luận bàn quanh một số tiểu thuyết nổi trội ................................................ 1715 1.2.1. Nhận định, đánh giá về những thành công .......................................... 1715 1.2.2. Nhận định, đánh giá về những hạn chế ............................................... 2523 Chƣơng 2 DIỆN MẠO CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM VỀ NÔNG THÔN TỪ 1986 ĐẾN NAY......................................................................................................... 2926 2.1. Nhu cầu đổi mới tƣ duy nghệ thuật ............................................................ 2926 2.1.1. Tƣ duy nghệ thuật của tiểu thuyết về nông thôn trƣớc 1986 ............... 2926 2.1.2. Nhu cầu đổi mới tƣ duy nghệ thuật của tiểu thuyết về nông thôn sau 19863128 2.2. Nhu cầu nhận thức và sự chiếm lĩnh hiện thực đa chiều ............................ 3834 2.2.1. Nhu cầu nhận thức mới hiện thực trong tiểu thuyết về nông thôn trƣớc 1986 ...................................................................................................... 3834 2.2.2. Sự chiếm lĩnh hiện thực đa chiều trong tiểu thuyết về nông thôn sau 19863936 2.3. Diện mạo của tiếu thuyết về nông thôn trong mạch nguồn tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay...........................................................................4238 2.3.1. Tiến trình tiểu thuyết về nông thôn trƣớc 1986………………………..4238 5
  6. 2.3.2. Diện mạo tiểu thuyết về nông thôn sau 1986......................................5046 Chƣơng 3 HIỆN THỰC VÀ CON NGƢỜI TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM VỀ NÔNG THÔN TỪ 1986 ĐẾN NAY .......................................................................... 6055 3.1. Hiện thực thời chiến, thời hậu chiến và con ngƣời gắn bó với quê hƣơng, xứ sở.................................................................................................................6055 .3.1.1. Nông thôn thời chiến và hậu chiến - từ góc nhìn lịch đại…………....52 3.1.2. Ngƣời nông dân gắn bó với quê hƣơng, xứ sở .................................... 7065 3.2. Hiện thực cải cách ruộng đất và con ngƣời làng xã, họ tộc .................. 7872 3.2.1. Cải cách ruộng đất - hƣớng tiếp cận mới từ đề tài cũ.......................... 7872 3.2.2. Ngƣời nông dân gắn bó với làng xã, họ tộc ........................................ 9184 3.3. Hiện thực đời sống tâm linh và con ngƣời bản năng, tính dục ................... 9789 3.3.1. Nông thôn với đời sống tâm linh phong phú ....................................... 9789 3.3.2. Ngƣời nông dân với đời sống tính dục đa dạng .............................. 109101 Chƣơng 4 PHƢƠNG THỨC NGHỆ THUẬT CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM VỀ NÔNG THÔN TỪ 1986 ĐẾN NAY ...................................................................... 117108 4.1. Ngôn ngữ nghệ thuật ............................................................................... 117108 4.1.1. Ngôn ngữ cuộc sống đời thƣờng, nhiều màu sắc ........................... 117108 4.1.2. Ngôn ngữ đối thoại hồn nhiên, chân chất ........................................ 124114 4.1.3. Ngôn ngữ độc thoại phong phú, đa dạng ......................................... 129119 4.2. Giọng điệu nghệ thuật ................................................................................. 134123 4.2.1. Giọng điệu cảm thƣơng, xa xót ....................................................... 134123 4.2.2. Giọng điệu giễu nhại, châm biếm .................................................... 138127 4.2.3. Giọng điệu suy nghiệm, triết lí ........................................................ 143131 4.3. Kết cấu nghệ thuật .................................................................................. 147135 4.3.1. Kết cấu đơn tuyến và sự làm mới trên nền truyền thống ................ 148135 4.3.2. Kết cấu lắp ghép và sự cách tân theo hƣớng hiện đại ..................... 152139 4.3.3. Kết cấu buông lửng và sự vẫy gọi đồng sáng tạo………………148 KẾT LUẬN.........................................................................................................162148 DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ............................................................................................................... 166151 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 168152 PHỤ LỤC ............................................................................................................... 181164 6
  7. PHỤ CHÚ ............................................................................................................... 189168 7
  8. MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Nông thôn -– nơi chứa đựng những trầm tích về văn hóa truyền thống luôn nằm ở mạch ngầm trong đời sống của ngƣời dân Việt Nam,, Bởi Đó là những giá trị truyền thống văn hóavốn để đã kết thành những phẩm chất trong sáng, đẹp đẽ ở ngƣời nông dân. Cũng Và dĩ nhiên, nơi đóchính mảnh đất này đã đọng lại không ít những nỗi đau, tủi hờn, oan khuất đeo bám ngƣời dân quê… Hiện thực đời sống xã hội nông thôn và ngƣời nông dân Việt Nam đã đƣợc ánh xạ và in dấu lên mọi sáng tác văn học. Điều đó đã đƣợc minh định từ thực tiễn sáng tác, từ truyền thống văn học dân tộc suốt trƣờng kỳ lịch sử với những hình ảnh mộc mạc, đẹp đẽ của làng quê Việt Nam. Và chúng từng lƣu giữ trong các sáng tác của tập thể dân gian. Các văn thi sĩThời trung đại, các nhà nho – thi sĩ ƣu ái dành riêng chốn quê Việt Nam những vần thơ chân mộc, sâu lắng ân tình. Những năm 1930-1945, vVăn học lãng mạn, bám rễ vào nguồn mạch dân tộc nhƣng tâm hồn lại hút gió Tây phƣơng, vẫn neo đậu một hồn quê nơi bạn đọc. Vào Những năm 1930- 1945,Các nhà các nhà văn hiện thực phê phán đã khẳng định sự thành công khi dựng nên bức tranh nông thôn với những mảngh tối -– sáng về thân phận của ngƣời nông dân oằn mình dƣới ách thống trị thực dân phong kiến. Văn học cách mạng đã kế thừa thành tựu của văn học hiện thực phê phán, khẳng định khả năng đấu tranh vƣơn lên làm chủ của những ngƣời cần lao nhƣ một sự phát hiện, hàm ơn với nền văn học của một thời “mất nƣớc nhƣng không mất làng”. Suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ vĩ đại, thần thánh thì hình ảnh làng quê với ngƣời nông dân mặc áo lính đã đi vào văn học nhƣ những biểu tƣợng đẹp trong kí ức hào hùng của dân tộc. 1.2. Đại thắng mùa Xuân 1975 đã khép lại cuộc chiến tranh, non sông liền một dải. Đất nƣớc dần chuyển mình từ thời chiến sang thời bình, một kỷ nguyên mới mở ra với lắm bộn bề nhƣng cũng nhiều khát vọng. Chính điều đó là mảnh đất màu mỡ để văn học sau 1975 vƣơn mình lớn dậy và tỏa bóng xuống cuộc sống rộng lớn, mênh mông. Đặt biệt, luồng gió tƣ tƣởng đổi mới kể từ sau Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng đã tạo thành cơn luân vũ mãnh liệt tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, tạo nên bầu không khí dân chủ, cởi mở, tiến bộ hơn, trong đó, có văn học - một bức tranh nhiều màu sắc với khát vọng vẽ trọn vẹn chân dung tâm hồn con ngƣời của thời đại từ những miền quê. Trong sự phát triển mạnh mẽ và toàn diện của nền văn học mới, mảng văn học nông thôn chiếm một vị trí không nhỏ cả về số lƣợng lẫn chất lƣợng, góp phần làm nên diện mạo, thành tựu, tác dụng xã hội và tính đặc thù của nền văn học. 1
  9. Tiểu thuyết viết về nông thôn Việt Nam sau 1975, nhất là sau đổi mới vẫn tiếp tục “thâm canh” trên mảnh đất đầy tiềm năng này nhƣng phƣơng thức khai thác đã thay đổi. Điều dễ nhận thấy: “Về mặt đề tài và cảm hứng sáng tạo đều hƣớng về đời thƣờng, tiếp cận những mặt bình dị, và cảm động. Lòng yêu cuộc sống vốn thấm sâu vào tâm hồn và cách cảm nhận của các cây bút đã giúp cho các tác giả thanh lọc, chắt lấy phần cốt lõi của sự vật và khai thác những giá trị nhân văn gần gũi. Đáng quý trong sáng tác của mình, các tác giả luôn có ý thức tôn trọng truyền thống nhƣng vẫn mở ra đón nhận cái mới” [49;tr.199]. Cõi nhân sinh hiện về với nhiều trang viết ngồn ngộn chất sống từ hƣơng đồng rơm rạ của chốn hƣơng quê Việt Nam qua các ngòi bút tài danh một lần nữa khẳng định sức sống mới tập trung và toàn diện trong cảm hứng viết về nông thôn Việt -– đề tài cuốn hút một cách tự nhiên nhƣ sự sống còn của một dân tộc “chín phần mƣời đất nƣớc nông dân”. Đề tài nông thôn đƣợc các tiểu thuyết gia quan tâm sâu sắc, nhiều chiều hơn với nhịp chuyển động của nó trong hơi thở hiện thực, nhất là từ những năm 1975 trở đi, tiểu thuyết viết về nông thôn đã có sự đổi mới cảm hứng, cấu tứ, thi pháp để tạo nên cách nhìn nhận và tái tạo lại hiện thực một cách đầy đủ, sinh động hơn mà tiểu thuyết nông thôncùng đề tài trƣớc đó do nguyên nhân chủ quan và khách quan chƣa làm đƣợc: “Nông thôn sau 1986 đã có cái nhìn khác trƣớc. Nếu các nhà văn trƣớc 86 đứng ở phƣơng diện xã hội và phong trào để nhìn con ngƣời thì các nhà văn sau 86 đã đứng ở góc độ con ngƣời, xã hội và các vấn đề chung” [24;tr.53-36]. Từ thực tế trên, tiểu thuyết viết về nông thôn dần thu hút đƣợc sự quan tâm của bạn đọc. Đã có một số bài viết hoặc một vài cuốn sách, nhƣng tất cả hầu nhƣ chỉ mới dừng lại ở phạm vi hẹp, chƣa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống và toàn diện về đề tài này. Đây là khoảng trống không nhỏ cần sự góp sức của tất cả những ai quan tâm đến mảng tiểu thuyết viết về nông thôn sau đổi mớiđƣơng đại. Vì vậy, chọn đề tài Đặc trưng phản ánh hiện thực của tiểu thuyết Việt Nam về nông thôn từ 1986 đến nay, chúng tôi mong muốn có một cái nhìn tƣơng đối hệ thống về toàn bộ tiến trình vận động và phát triển cũng nhƣ những đặc điểm và thành tựu trên bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật của tiểu thuyết nông thôn Việt Nam viết về nông thôngiai đoạn từ 1986 đến 2012nay. Qua đó, thấy đƣợc quy luật vận động của tiểu thuyết Việt Nam viết về nông thôn Việt Nam sau chiến tranh cũng nhƣ trên con đƣờng giao lƣu của văn học dân tộc với văn học thế giới. 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tƣợng nghiên cứu 2
  10. Lựa chọn đề tài này, chúng tôi phần nào giới hạn đối tƣợng nghiên cứu. Vì vậy, toàn bộ các sáng tác của tiểu thuyết viết viết về nông thôn Việt Nam từ 1986 đến 2012 sẽ là đối tƣợng trực tiếp để khảo sát. Riêng đề tài nông thôn miền núi, chúng tôi tạm thời không đề cập đến trong luận án. Số lƣợng tác phẩm viết về nông thôn miền núi sau đổi mới khá lớn (chủ yếu truyện ngắn), nội dung lại phong phú, độc đáo nên cần chuyên luận riêng để nghiên cứu kĩ lƣỡng và sâu rộng. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có liên hệ, so sánh nhằm chứng minh nét riêng của tiểu thuyết viết về nông thôn. Sở dĩ chúng tôi chọn mốc thời gian này, vì đó là mốc đánh dấu sự đổi mới toàn diện của đất nƣớc; văn xuôihọc nói chung, tiểu thuyết viết viết về nông thôn nói riêng đã có bƣớc ngoặt chuyển mình để đi đến những thành tựu đáng ghi nhận nhƣ hôm nay. Tất nhiên, giới hạn mốc lựa chọn để khảo sát chỉ có ý nghĩa tƣơng đối, vì hiện tƣợng đổi mới tiểu thuyết đã có bƣớc chuẩn bị khá sớm vào đầu những năm 1980 với một số tác giả có đóng vai trò tiền trạm nhƣ Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Mạnh Tuấn, Lê Lựu, Đoàn Lê… Nhìn lại chặng đƣờng phát triển, số lƣợng tiểu thuyết viết viết về nông thôn rất lớn, chƣa có giai đoạn nào trƣớc đây sánh kịp. Dẫu biết rằng, trong sáng tác, vấn đề không chỉ số lƣợng, mà ở chất lƣợng nên những cuốn tiểu thuyết có giá trị đƣợc sàng lọc qua thời gian và đã đƣợc bạn đọc quan tâm, giới nghiên cứu thừa nhận (thông qua các giải thƣởng danh dự). Vì vậy, phạm vi đối tƣợng đƣợc tác giả luận án triển khai khảo sát kĩỹ hơn qua các tiểu thuyết nổi bật nhƣ Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội của (Lê Lựu), Bến không chồng, Dưới chín tầng trời của (Dƣơng Hƣớng), Mảnh đất lắm người nhiều ma của (Nguyễn Khắc Trƣờng), Lời nguyền hai trăm năm của (Khôi Vũ), Lão Khổ của (Tạ Duy Anh), Thủy hỏa đạo tặc, Đồng sau bão của (Hoàng Minh Tƣờng), Dòng sông Mía của (Đào Thắng), Ba người khác của (Tô Hoài), Ma làng của (Trịnh Thanh Phong), Cuồng phong của (Nguyễn Phan Hách), Giời cao đất dày của (Bùi Thanh Minh), Thần thánh và bươm bướm của (Đỗ Minh Tuấn, Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh)… Ngoài ra, để thấy đƣợc sự chuyển mình và phát triển cũng nhƣ sự đổi mới của tiểu thuyết viết viết về nông thôn sau 1986 so với trƣớc, chúng tôi đã có cái nhìn đối sánh với giai đoạn từ 1932 đến 1975 và giai đoạn tiền đổi mới (1975 - 1985) đƣợc xem lànhƣ bƣớc chuẩn bị cho sự đổi mới của tiểu thuyết viết viết về nông thôn nhƣ Con đường sáng của (Nhất Linh, Hoàng Đạo), Bước đường cùng của (Nguyễn Công Hoan), Tắt đèn của (Ngô Tất Tố), Con trâu của (Nguyễn Văn Bổng), Cái sân gạch của (Đào Vũ), Xung đột của (Nguyễn Khải), Bão biển của (Chu Văn), Buổi sáng, Đất làng của 3
  11. (Nguyễn Thị Ngọc Tú), Ao làng của (Ngô Ngọc Bội), Đi bước nữa của (Nguyễn Thế Phƣơng), Cửa sông của (Nguyễn Minh Châu), Đứng trước biển, Cù lao Tràm của (Nguyễn Mạnh Tuấn)… Đồng thời, chúng tôi cũng tìm hiểu một số thể loại khác nhƣ bút ký, truyện ngắn viết về nông thôncùng đề tài ở thời kỳ trƣớc và sau 1986, nhằm thấy đƣợc sự vận động toàn cảnh của văn xuôi Việt Nam viết về nông thôn trong tiến trình lịch sử văn học. 2.2. Phạm vi nghiên cứu Từ đối tƣợng nhƣ vậy, tác giả xác định phạm vi của luận án là nghiên cứu những tiền đề để tạo nên diện mạo hành tựu của tiểu thuyết Việt Nam viết về nông thôn Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến 2012 nhƣ tƣ duy nghệ thuật; nhu cầu nhận thức về hiện thực đa chiều; diện mạo của tiểu thuyết viết về nông thôn trong mạch nguồn của tiểu thuyết đƣơng đại…. Từrong đó, chúng tôi chọn khảo sát những yếu tố đổi mới nổi bật, những phƣơng diện nội dung và nghệ thuật đặc trƣng. Chúng tôi cũng cố gắng làm sáng tỏ một số vấn đề nhƣ: nguyên nhân dẫn đến sự đổi mới của tiểu thuyết nông thôn, sự riêng khác trong việc phản ánh hiện thực nông thôn, những nét mới trong phƣơng thức biểu hiện của tiểu thuyết nông thôn đƣơng đại và chỉ ra những tác phẩm tiêu biểu có sự đóng góp trong tiến trình hiện đại hóa văn xuôi nói chung, tiểu thuyết về đề tài nông thôn nói riêng.thấy đƣợc những đóng góp quan trọng, có ý nghĩa của tiểu thuyết viết về nông thôn trong tiến trình đổi mới văn xuôi Việt Nam sau 1986 trong tính chỉnh thể nội dung và hình thức nhƣ quan niệm hiện thực và con ngƣời cùng những phƣơng thức, phƣơng tiện biểu hiện đặc sắc của chúng. Sau 1986, viết về nông thôn, một số tác giả tiếp tục quay trở lại đề tài cải cách ruộng, hợp tác hóa nông nghiệp. Vấn đề này rất nhạy cảm nhƣng đã đƣợc tiểu thuyết quan tâm một cách rốt ráo vào những năm 1960. Những trầm tích về văn hóa truyền thống nằm ở mạch ngầm trong đời sống nông thôn Việt Nam. Bởi đó thực sự là những giá trị truyền thống bề sâu nhƣ phong tục, tập tục, tập quán để kết thành những phẩm chất trong sáng, đẹp đẽ của nông dân Việt Nam, dĩ nhiên, cũng từ đó đọng lại không ít nỗi đau, những tủi hờn, oan khuất đeo bám họ. 3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp sau: 3.1. Phương pháp nghiên cứu xã hội học văn học: vận dụng để nghiên cứu tiến trình vận động và phát triển của tiểu thuyết Việt Nam viết về nông thôn, nghiên cứu các tác phẩm tiêu biểu đóng góp tích cực vào việc đổi mới của tiểu thuyết nông thôn Việt Nam viết về nông thôngiai đoạn từ 1986 đến năm 2012. 4
  12. 3.2. Phương pháp phân tích, so sánh: nhằm làm sáng tỏ giá trị nội dung và nghệ thuật, sắc thái độc đáo giữa những sáng tác của tiểu thuyết viết về nông thôn cùng và không cùng giai đoạn; đồng thời so sánh sự đổi mới của tiểu thuyết viết về nông thôn sau đổi mới (1986 - – 2012) với trƣớc đổi mới (1932 - 1985); so sánh thể loại tiểu thuyết và các thể loại khác (truyện ngắn, kí, bút kí) trong cùng đề tài (đồng đại) để thấy đƣợc nét nổi trội về những đặc trƣng cơ bản của tiểu thuyết viết về nông thôn. 3.3. Phương pháp cấu trúc, hệ thống, cấu trúc: đƣợc sử dụng để nghiên cứu mối liên hệ nội tại hữu cơ của tác phẩm, đồng thời có cái nhìn tổng thể, khái quát về sự chuyển mình, đổi mới của tiểu thuyết viết về nông thôn giai đoạn từ 1986 đến 2012này. 3.4. Phương pháp vận dụng lý thuyết thi pháp học:. nhằm nghiên cứu các yếu tố tham gia cấu thành thế giới nghệ thuật Tiếp cận dƣới góc độ thi pháp đƣa đến sự thuận lợi trong việc khám phá những cấu trúc phức tạp của thể loại tiểu thuyết Việt Nam viết về nông thôn từ 1986 đến 2012 nhƣ ngôn ngữ, giọng điệu, kết cấu…trong tính chỉnh thể nghệ thuật của chúng. 4. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN 4.1. Qua khảo sát Đặc trưng phản ánh hiện thực của tiểu thuyết Việt Nam về nông thôn từ 1986 đến nay trên bình diện tổng thể (một giai đoạn) và trên bình diện cụ thể (từng tác phẩm) để triển khai thành một hệ vấn đề, luận án đã góp phần nhận diện chung nhất tiến trình vận động và phát triển của tiểu thuyết Việt Nam Việt Nam viết về nông thôn từ 1986 đến 2012, . Trong đó, chú trọng giai đoạn sau đổi mới, một mặtnhằm thấy đƣợc sự kế thừa, tiếp nối những thành tựu củaquả giai đoạn trƣớc 1986 và những vấn đề mà giai đoạn trƣớc đang đặt ra cho giai đoạn sau tiếp cận và phản ánh. Qua đó, mặt khác thấy đƣợc sự bứt phá của giai đoạn sau trong bƣớc chuyển mình của của tiểu thuyết viết về nông thôn đƣơng đạigiai đoạn này trong bƣớc chuyển mình của đời sống xã hội và ý thức nghệ thuật của chủ thể sáng tạo. tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc. 4.2. Khẳng định những thành tựu của tiểu thuyết Việt Nam viết về nông thôn từ 1986 đến 2012n nay là có cơ sở từ những điều kiện chính trị, xã hội của đất nƣớc sau 1975, và là sự đòi hỏi tự thân của văn học nói chung, tiểu thuyết viết về nông thôn nói riêng trong sự tiếp tục phát triển ở thời kỳ đổi mới. 4.3. Luận án vận dụng những phƣơng pháp tiếp cận mới của Khoa Nghiên cứu văn học, đồng thời học tập một số kinh nghiệm nghiên cứu tiểu thuyết của các nhà nghiên cứu phê bình văn học nhƣ M. Bakhtin, Roland Barthesr, Iu. M. Lotman… giúp bạn đọc có cái nhìn mới mẻ vềvề tiểu thuyết Việt Nam viết Việt Nam viết về nông 5
  13. thôn sau đổi mới trên cả hai phƣơng diện nội dung và phƣơng thức nghệ thuật so với so với thời kỳgiai đoạn trƣớc đó. Từ đó, đƣa ra những kết luận có tính chất khái quát về sự đổi mới trong tƣ duy nghệ thuật, trong việc phản ánh hiện thực và cả phƣơng thức biểu hiện từ nguồn mạch chung trong tiến trình vận động của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. 4.4. Hiện nay, tiểu thuyết nói chung và tiểu thuyết về nông thôn nói riêng đƣợc nhiều giới quan tâm nghiên cứu và bƣớc đầu khẳng định những thành tựu. Vả lại, giai đoạn văn học sau 1975 đƣợc đƣa vào chƣơng trình giảng dạy ở bậc THCS, THPT và bậc Đại học, sau Đại học. Tuy nhiên, tài liệu tham khảo về giai đoạn văn học này cũng nhƣ mảng tiểu thuyết về nông thôn vẫn còn ít ỏi. Vì vậy, luận án cũng sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích cho những ai quan tâm nghiên cứu, học tậpKết quả của luận án có thể dùng để đƣa vào chƣơng trình giảng dạy ở bậc THCS, THPT và bậc Đại học, sau Đại học; đồng thời dùng làm tài liệu tham khảo để viết giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại về đề tài nông thôn. 5. CẤU TRÚC LUẬN ÁN Luận án gồm 150 trang chính văn. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Công trình tác giả đã công bố có liên quan đến luận án, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Phụ chú, phần Nội dung của luận án gồm 4 chƣơng. Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam về nông thôn n từ 1986 đến nay Chƣơng 2: Diện mạo chung của tiểu thuyết Việt Nam về nông thôn từ 1986 đến nay Chƣơng 3: Hiện thực và con ngƣời trong tiểu thuyết Việt Nam về nông thôn từ 1986 đến nay Chƣơng 4: Phƣơng thức nghệ thuậtbiểu hiện của tiểu thuyết Việt Nam về nông thôn từ 1986 đến nay 6
  14. 7
  15. NỘI DUNG Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TIỂU THUYẾT VIỆT NAM VỀ NÔNG THÔN TỪ 1986 ĐẾN NAY Trong lịch sử văn học Việt Nam, tiểu thuyết viết viết về nông thôn chiếm một vị trí quan trọng. Đặc biệt, sau đổi mới (1986), tiểu thuyết viết về nóđề tài này đã góp phần làm nên diện mạo mới cho văn xuôi Việt Nam hiện đại. Hành trình đi tìm lịch sử nghiên cứu vấn đề Đặc trưng phản ánh hiện thực của tiểu thuyết Việt Nam về nông thôn từ 1986 đến nay, chúng tôi đứng trƣớc khối lƣợng tƣ liệu khá phong phú, in rải rác trên các tạp chí, báo chuyên ngành và những công trình sách, luận văn, luận án đã hoặc chƣa xuất bản. Để xử lý nguồn tƣ liệu có đƣợc, rút ra những vấn đề liên quan đến luận án, chúng tôi tạm thời chia tình hình nghiên cứu thành các phƣơng diện sau: 1.1. LUẬN BÀN MỘT CÁI NHÌN TOÀN CẢNH 1.1.1. Khẳng định sự đổi mới, lạc quan vào sự hồi sinh Ở mảng văn xuôi nông thôn, Trần Cƣơng có bài Nhìn lại văn xuôi viết về nông thôn trước thời kỳ đổi mới (1986) và Văn xuôi viết về nông thôn từ nửa sau 80. Từ điểm nhìn tổng quan, tác giả đã khái quát đƣợc những nét cơ bản về nông thôn từ 1930 - 1975, thấy đƣợc nhìn chung bức tranh chung về hiện thực nông thôn thuộc phần “bề nổi” của cuộc sống, đó cũng chính là những phần bức thiết bấy giờ. Đến giai đoạn tiền đổi mới, trong bối cảnh Việt Nam sau chiến tranh với những tổn thất nặng nề, nền kinh tế tự cung tự cấp, cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp ngày càng bộc lộ nhiều khuyết tật…, nên tâm lý chung của toàn xã hội là truy tìm nguyên nhân của những yếu kém xuống cấp. Đứng trƣớc những trăn trở đó, văn xuôi và tiểu thuyết viết về nông thôn bắt đầu chuyển mình và đạt đƣợc nhiều thành tựu đáng khích lệ, thế nhƣng thật sự đổi mới phải bắt đầu sau Đại hội Đảng lần VI. Sự đổi mới có đƣợc nhờ từ hai phía: sự chuyển mình của nông thôn và sự chuyển đổi điểm nhìn từ chính bản thân của mỗi nhà văn. Từ quan niệm đến cách cảm, cách nghĩ và tái tạo lại hiện thực trên trang viết đã thực sự “trở dạ”. Ở quan điểm riêng của mình, tác giả cho rằng sự chuyển biến đó trƣớc hết là do sự mở rộng phạm vi chủ đề. Trong văn xuôi nói chung, tiểu thuyết viết về nông thôn nói riêng lần đầu tiên xuất hiện hai chủ đề: chủ đề về số phận con ngƣời và hạnh phúc cá nhân mà trƣớc đó chỉ mới nhen nhóm ở Thời xa vắng, Bến không chồng, 8
  16. Mảnh đất lắm người nhiều ma… Hai là, sự chuyển biến trong phạm vi bao quát hiện thực. Bức tranh hiện thực nông thôn trƣớc 80 phần lớn chỉ là những hiện thực bề nổi của đời sống nhƣ Buổi sáng, Đất mặn… Sau những năm 1980, hiện thực nông thôn đã tịnh tiến vào chiều sâu, mạch ngầm tâm thức của đời sống Việt, cách miêu tả đó đã “mang lại một giá trị nhận thức mới theo quan niệm “nhìn thẳng vào sự thật”… mà Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã chỉ ra… Các nhà văn đã khắc phục đƣợc những mặt bất cập của giai đoạn trƣớc, bám sát và bao quát những sự kiện, những vấn đề của đời sống nông thôn hiện tại” [24;tr.36]. Tác giả khẳng định sự chuyển biến của xã hội hằn in dấu vết trong nông thôn là có thật và có chiều sâu vững bền. Khác với Trần Cƣơng, trong bài Tiểu thuyết mở đầu thế kỷ XXI trong tiến trình văn học Việt Nam từ tháng 8-1945, Phong Lê không đi sâu tìm hiểu văn xuôi viết viết về nông thôn. Ở đây, tác giả đã nhìn truyền thống văn học trên hai đề tài lớn: chiến tranh và nông thôn. Trong đó, đề tài nông thôn “có chiều dài lịch sử ngót một thế kỷ mà công lao tạo dựng đầu tiên là hơn một thế hệ ngƣời viết, kể từ Hồ Biểu Chánh, Phạm Duy Tốn… đến Ngô Tất Tố, Nam Cao…, và cuộc tìm kiếm kéo dài hơn 20 năm, nhằm xác định một mô hình thích hợp cho sự phát triển của đất nƣớc trong sự tƣơng ứng với thời đại của những cuộc cách mạng xã hội và khoa học -– kỹ thuật” [103;tr.21]. Tác giả đã khái quát cả bƣớc chuyển mình của nông thôn trong trang văn của các bậc tiền bối. Trong bài Các nhà tiểu thuyết nông thôn trong cơ chế thị trường, Hoàng Minh Tƣờng cũng khẳng định: mảng văn xuôi viết về nông thôn có lịch sử của nó, từ Hồ Biểu Chánh, Ngô Tất Tố và Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan… Những nhà văn này đã giữ lại vốn văn hóa, đời sống tâm hồn ngƣời Việt ở thời đại họ và cho hậu thế, tạo một dòng chảy liên tục đến hôm nay. Ông nhận định sâu về mặt chuyển biến của “mảng tiểu thuyết nông thôn đã phần nào làm đƣợc một công việc là ghi lại những biến động ở nông thôn cùng những đổi thay, những vật vã của một thời. Hai chủ đề khá nổi bật đƣợc phản ánh trong hầu hết các tác phẩm, là những xung đột âm ỉ quyết liệt về dòng họ, và cuộc vật vã thoát khỏi thời kỳ quan niệm bao cấp, xác lập một cơ chế làm ăn mới” [181;tr.64]. Góp lời nhận xét, trong bài Hiện trạng tiểu thuyết, Bùi Việt Thắng đã khẳng định: “Các nhà tiểu thuyết hôm nay đã từ bỏ đƣợc lối nhìn dễ dãi về đời sống con ngƣời… Họ đã thôi nhìn nông thôn với cảnh điền viên, trống dong cờ mở. Nông thôn đích thực hiện ra trong tiểu thuyết của các anh trong khung cảnh “long trời lở đất” rối rắm và cũng nhìn vào nông thôn ấy ta sẽ thấy cả xã hội Việt Nam mấy chục năm qua” [184;tr.9]. Nguyễn Hà, Tôn Phƣơng Lan đi vào xác định ranh giới khác biệt của tiểu thuyết viết về nông thôn trƣớc và sau đổi mới. Trong bài Về hướng tiếp cận mới đối với hiện thực trong văn xuôi sau 1975, Tôn Phƣơng Lan cho rằng: “Lâu nay vấn đề 9
  17. ngƣời nông dân hầu nhƣ chỉ đƣợc nhìn nhận qua vấn đề ruộng đất, vấn đề vào ra hợp tác xã, giờ đây vấn đề đó đƣợc nhà văn nhìn vào số phận lịch sử của họ. Và lịch sử đất nƣớc đƣợc hiện ra qua lịch sử cuộc đời nhân vật trong cuộc mƣu sinh, trong sự duy trì đóng góp để làm nghĩa vụ cho Tổ quốc, với phần trách nhiệm của từng hoàn cảnh gia đình” [95;tr.50]. Từ góc độ đó, tác giả chỉ ra rằng “đã có một cách soát xét lại một thời đã qua, thông qua những số phận cá nhân và những vấn đề của một làng xã, một dòng họ” [95;tr.48], trong đó “nổi bật lên là mối mâu thuẫn về quyền lợi cá nhân nấp dƣới vấn đề họ tộc” [95;tr.40]. Theo hƣớng này, trong bài Cảm hứng bi kịch nhân văn trong tiểu thuyết Việt Nam nửa sau thập niên 80, xuất phát từ cảm hứng nhân văn bi kịch trong con ngƣời, Nguyễn Hà rất tinh tế khi nhận xét: nhà tiểu thuyết quan tâm đến bi kịch cá nhân, khắc đậm trạng huống “một ngƣời -– hai mặt” của con ngƣời. Quan tâm đến con ngƣời nông dân nhƣng ở kiểu loại khác, không phải những ngƣời nông dân xuất thân từ nông thôn, chủ yếu là những chiến binh trở về từ chiến trƣờng hòa mình vào cuộc sống nông thôn [57]. Nhân dịp Cuộc thi tiểu thuyết lần 2 (2002-2004) kết thúc, báo Sài Gòn giải phóng có cuộc trao đổi với nhà thơ Hữu Thỉnh -– Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam. Trong cuộc trả lời phỏng vấn, ông khẳng định: có mùa gặt mới của tiểu thuyết viết về nông thôn đầu thế kỷ XXI. Nét mới của cuộc thi tiểu thuyết lần 2 là các nhà văn đã có sự mở rộng biên độ khi viết về nông thôn. Họ “đặt nông thôn Việt Nam trong những biến cố của dân tộc đầy bão táp theo chiều dài lịch sử”, “với độ mở và góc khuất mà trƣớc đó nhiều nhà văn chƣa có điều kiện để truyền tải tới bạn đọc. Những yếu tố đó tạo nên bộ mặt và sức bền của nông thôn Việt Nam. Qua Dòng Sông Mía, Cánh đồng lưu lạc… đã chứng tỏ đƣợc “sức sống của dân tộc, cốt cách của ngƣời nông dân đƣợc phác họa thật sắc sảo” [217]. Trong bài viết Tìm kiếm những trang viết về nông thôn, Đỗ Kim Cuông đã tập hợp những ý kiến tham luận của các nhà văn tham gia Hội nghị nhà văn các tỉnh phía Bắc tại thành phố Hải Phòng diễn ra vào ngày 10/10/2003. Nhiều nhà văn nói lên những suy nghĩ, tâm tƣ tình cảm rất chân thành, giàu tâm huyết và sâu sắc về nông thôn và nông dân trong thời đại mới. Họ cùng chung quan điểm: sau đổi mới, bộ mặt đời sống nông thôn, cuộc sống nông dân đang từng ngày thay da đổi thịt, nhƣng cũng gặp không ít khó khăn, cạm bẫy. Do đó, mảng sáng tác “về nông thôn và nhân dân vẫn là một đề tài lớn”, “vẫn có sức lôi cuốn bạn đọc, vẫn kích thích các nhà văn sáng tạo” [22]. Phạm Ngọc Tiến trong bài Đề tài nông thôn không bao giờ mòn cũng có cái nhìn lạc quan. Tác giả khẳng định đề tài nông thôn không hề “bạc màu”, “không bao giờ mòn”. Bởi, nông thôn Việt Nam đang từng bƣớc chuyển mình, đáng đƣợc ghi nhận. Quá trình nông thôn hóa, sự tác động của công nghiệp vào nông nghiệp, sự lai căng về 10
  18. văn hóa…, cũng có mặt tích cực và tiêu cực nên đáng để các nhà văn suy ngẫm, trăn trở [169]. Cùng quan điểm, trong cuộc trả lời phỏng vấn với báo Nông nghiệp Việt Nam, Nguyễn Đăng Điệp đánh giá rất xác đáng: “Văn học về nông dân và nông thôn tuy ít ngƣời theo đuổi nhƣng vẫn chƣa đến mức đoản mệnh”, “số lƣợng ngƣời viết về nông thôn nhiều hay ít không phải là quá quan trọng mà quan trọng hơn nhiều là làm sao để có đƣợc nhiều tác phẩm hay” [53]. Bùi Ngọc Tấn cũng rất tin tƣởng, lạc quan khi cho rằng: trong thời gian gần đây, mảng văn học nói chung, tiểu thuyết viết về nông thôn nói riêng có những tác phẩm hay, đáp ứng đƣợc tầm đón đợi của bạn đọc: “Chúng ta sẽ viết đƣợc những cuốn tiểu thuyết nhƣ chúng ta hằng mong ƣớc, cũng nhƣ tôi luôn tin mỗi giọt máu của chúng ta đều cháy lên lòng yêu nhân dân, yêu đất nƣớc; một nhân dân, một đất nƣớc đã đổ máu, đổ mồ hôi, đang vƣợt qua mọi khó khăn để xây dựng cuộc sống mới và đang chờ đón những tác phẩm của chúng ta” [53]. Trong công trình nghiên cứu Tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 -– 2005: Diện mạo và đặc điểm, Lê Thị Hƣờng đã chỉ ra đƣợc những đặc điểm chính của tiểu thuyết giai đoạn này là sự đa dạng về hệ đề tài, trong đó đề tài nông thôn là một trong những đề tài có lực hút đối với các nhà tiểu thuyết đƣơng đại: tiểu thuyết về đề tài nông thôn sau 1986 đã gây đƣợc ấn tƣợng. Các nhà văn đã gặp gỡ nhau ở vấn đề cốt lõi của nông thôn: gia đình và dòng tộc, phong tục, nếp nghĩ, nếp sống của những con ngƣời sống trên những mảnh đất phần lớn còn chịu sức đè của những thói tục cũ [86]. Năm 2000, trong Luận án Tiến sĩATS Ngữ văn, Nguyễn Mạnh Hùng đã khảo sát Sự vận động của tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975 một cách có hệ thống và có những đóng góp đáng kể. Trên phƣơng diện đề tài, tác giả nhận xét rất xác đáng về vị trí của đề tài nông thôn trong dòng chảy văn học: “Công cuộc xây dựng và phát triển đất nƣớc bây giờ là nhiệm vụ trung tâm của thời đại, nƣớc ta là một nƣớc nông nghiệp lạc hậu và phần lớn số dân là nông dân, vai trò to lớn của nông dân và nông nghiệp đối với đất nƣớc, lối sống và tâm lý nông dân cũng nhƣ ảnh hƣởng của chúng đối với đời sống xã hội, cảnh sắc làng quê và hấp dẫn của nó đối với nghệ thuật, và cao hơn hết là sự hiểu biết cũng nhƣ tình cảm của nhà văn đối với ngƣời nông dân với những bƣớc đƣờng đi theo cách mạng” [82;tr.65]. Và đề tài nông thôn đã, đang và sẽ rất hấp dẫn đối với tiểu thuyết gia đƣơng đại: “Tiếp bƣớc những Cái sân gạch, Vụ lúa chiêm của Đào Vũ. Bão biển, Đất mặn của Chu Văn. Tầm nhìn xa, Xung đột của Nguyễn Khải. Ao làng của Ngô Ngọc Bội. Buổi sáng, Hạt mùa sau của Nguyễn Thị Ngọc Tú. Cù lao Tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn…, thì Thủy hỏa đạo tặc của Hoàng Minh Tƣờng xứng đáng là cuốn tiểu thuyết mở đƣờng cho một hƣớng đi mới trong việc tiếp cận hiện thực nông thôn - – cái hiện thực của quá khứ, của hiện tại và của tƣơng lai, cái hiện thực gắn với sự sinh tồn của dân tộc, một hƣớng đi mà từ đó tiểu thuyết sẽ phát huy hết 11
  19. khả năng thể loại của mình” [82;tr.75]. Năm 1996, trong Luận án phó PTiến sĩ S Ngữ văn Văn xuôi viết về nông thôn trong công cuộc đổi mới qua một số tác giả tiêu biểu, Lã Duy Lan đã nhìn lại văn xuôi viết về nông thôn trƣớc 1986 và cũng đã đánh giá đƣợc diện mạo chung của văn xuôi viết về nông thôn sau 1986 đổi mới trên bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Năm 2012, trong Luận án ATiến sSĩ Ngữ văn Văn xuôi viết về nông thôn trong văn học Việt Nam sau 1975, Bùi Quang Trƣờng đã khái lƣợc đề tài nông thôn trong văn xuôi Việt Nam trƣớc 1975: đề tài nông thôn trong văn xuôi quốc ngữ buổi giao thời 1900 - – 1930, 1930 -– 1945, 1945 -– 1975, đặc biệt tác giả đã có cái nhìn bao quát về đề tài nông thôn trong văn xuôi từ 1975 đến 2011nay. Trên phƣơng diện đề tài, tác giả nhận xét : “Trong khoảng thời gian 35 năm, kể từ 1975 đến nay, văn xuôi viết về nông thôn đã có những bƣớc phát triển vƣợt bậc. Sự phát triển này không chỉ thể hiện số lƣợng tác giả đông đảo, ở số lƣợng tác phẩm lớn mà quan trọong hơn là sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con ngƣời, về tƣ duy nghệ thuật, đổi mới về đề tài, phƣơng thức biểu hiện. … Tất cả những thay đổi này chính là bằng chứng cho sự phát triển mạnh mẽ của văn xuôi viết về nông thôn sau 1975 -– một giai đoạn mới trong sự phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện đại viết về nông thôn” [215 ;tr.43-44]. Nhƣ vậy, nhiều bài viết khẳng định văn xuôi và tiểu thuyết viết về nông thôn đã thực sự hồi sinh, để lại dấu ấn qua mỗi giai đoạn, mỗi tác giả và tác phẩm., tuy nhiên vẫn chƣa có những đỉnh cao, gây đƣợc tiếng vang lớn nhƣ một số tác phẩm giai đoạn 1932-1945. Trên thực tế, các nhà văn viết về đề tài nông thônnó sau đổi mới đã không đi theo những lối mòn quen thuộc, mà đã có những bước chuyển mình, hứa hẹn những thành tựumùa giặt mới trong tƣơng lai. 1.1.2. Quan ngại về dấu hiệu chững lại Những năm trở lại đây, một số nhà văn, nhà nghiên cứu băn khoăn trước thực trạng ngày càng thưa dần, thiếu vắng các tác phẩm viết về nông thôn. Trong bài Đề tài về người nông dân, làm sao cho xứng tầm, Đào Thái Tuấn cho rằng: nông thôn Việt Nam đang “đứng trƣớc công cuộc Công nghiệp hóa -– Hiện đại hóa đất nƣớc hiện nay rất nhiều vấn đề về Nông nghiệp - – Nông thôn đã nảy sinh”. Vì vậy,, do đó “mảng về văn học nông thôn rất quan trọng”,. nNhƣng thời gian gần đây “chỉ lẻ tẻ một vài tác phẩm viết về nông thôn”, “các nhà văn chƣa đi sâu vào để tiếp tục khai thác”., Do đó,Vì vậy “đây là một thiếu sót của giới sáng tác văn học nghệ thuật” [177;tr.22]. Đây chính là dấu hiệu của sự chững lại của văn xuôi và tiểu thuyết viết viết về đề tài nông thôn và nó còn kéo dài sang cả thập niên đầu của thế kỷ XXI. Trong bài Tiểu thuyết 2009 trong chuyển động của tiểu thuyết Việt Nam mười năm đầu thế kỷ XXI, Đỗ Hải Ninh cho rằng: đời sống của tiểu thuyết viết về đề tài nông thôn sau đổi mới, đặc 12
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
20=>2