Phùng Phƣơng Nga và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
118(04): 205 - 212<br />
<br />
TINH THẦN PHẬT GIÁO TRONG TIỂU THUYẾT ĐỘI GẠO LÊN CHÙA<br />
CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN XUÂN KHÁNH<br />
Phùng Phƣơng Nga1*, Lƣu Thị Hồng Vân1, Đoàn Đức Hải2<br />
1<br />
<br />
Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên, 2Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Nguyễn Xuân Khánh là nhà văn đƣơng đại có sự quan tâm đặc biệt đến Phật giáo. Một trong<br />
những tác phẩm tiêu biểu của ông về đề tài này là tiểu thuyết Đội gạo lên chùa. Dấu ấn Phật giáo<br />
trong tác phẩm không chỉ đƣợc ghi nhận bằng sự xuất hiện của ngƣời nhà Phật, của hình ảnh Phật,<br />
ngôn từ đậm chất Phật, giáo lý nhà Phật qua từng câu chuyện mà hơn thế tác giả còn có sự đối<br />
thoại với tƣ tƣởng Phật giáo. Sự phối trộn nguồn sử liệu, truyền thuyết với sự hƣ cấu của tiểu<br />
thuyết để tạo nên một cảm quan Phật giáo gần gũi, chân thực nhƣng cũng đầy nghệ thuật là một<br />
thách thức lớn đã đƣợc Nguyễn Xuân Khánh vƣợt ải thành công.<br />
Từ khóa: Đội gạo lên chùa, Nguyễn Xuân Khánh, Phật giáo, vô minh.<br />
<br />
Tƣ tƣởng Phật giáo chiếm giữ một vị trí quan<br />
trọng trong nguồn chảy văn hóa Việt. Suốt<br />
nhiều thế kỉ qua, tinh thần nhà Phật đã ăn sâu<br />
vào tâm thức mỗi ngƣời dân Việt và ngày<br />
càng bắt rễ sâu vào đời sống của dân tộc, trở<br />
thành nguồn động lực và an ủi tâm hồn con<br />
ngƣời trƣớc những khổ đau. Với văn học Việt<br />
Nam, Phật giáo không chỉ là đề tài mà còn là<br />
chủ đề của các sáng tác. Dù vậy, không phải<br />
ngƣời nghệ sỹ nào cũng đủ trí lực, tầm vóc,<br />
niềm tin và cơ duyên để có thể “hành hƣơng”<br />
trên cánh đồng văn chƣơng bằng tinh thần<br />
Phật giáo. Trong số những sự se duyên ít ỏi,<br />
nhà văn Nguyễn Xuân Khánh và tiểu thuyết<br />
Đội gạo lên chùa là một trƣờng hợp đặc biệt.<br />
Ngay từ tên tác phẩm đã toát lên màu sắc nghi<br />
thức Phật giáo, đó là hành động thể hiện niềm<br />
tin, sự biết ơn của con ngƣời ở nơi cửa Phật,<br />
gắn liền với lối sống nông nghiệp, nông thôn<br />
Việt Nam. Đặc biệt trong Đội gạo lên chùa,<br />
bên cạnh các triết lí, sự suy ngẫm, đánh giá về<br />
nỗi khổ đau của con ngƣời trong kiếp nhân<br />
sinh đƣợc đề cập tới thì tinh thần nhập thế<br />
Phật giáo Thiền tông và Tịnh độ tông đƣợc<br />
thể hiện sắc nét.*<br />
Đời ngƣời là cõi vô thƣờng.<br />
"Trước đây và ngày nay ta chỉ lí giải và nêu<br />
ra cái chân lí về nỗi đau khổ và sự giải thoát<br />
khỏi nỗi đau khổ"."Cũng như nước đại dương<br />
chỉ có một vị là mặn, học thuyết của ta chỉ có<br />
một vị là cứu vớt". ( Phật Thích Ca).<br />
*<br />
<br />
Tel: 0915 141514, Email: phungphuongnga@gmail.com<br />
<br />
Con ngƣời khi sinh ra vốn đã mang trong<br />
mình mầm mống của cái khổ, Theo Phật, con<br />
ngƣời có tám nỗi khổ (bát khổ). Vì đau khổ<br />
không thể giải thoát đƣợc khỏi nó mà con<br />
ngƣời tìm đến tôn giáo, mong đƣợc sự an ủi<br />
cho tâm hồn vơi bớt nỗi đau, tạm quên đi<br />
phong ba của trần thế, rũ bỏ bụi trần dơ bẩn,<br />
gột sạch tâm hồn, mong muốn có cuộc sống<br />
ổn định, yên tĩnh. Nhƣng mấy ai hiểu đƣợc<br />
nguyên nhân khiến cho "đời là bể khổ". Mà<br />
mọi nỗi khổ của con ngƣời đều bắt nguồn từ<br />
vô minh, từ lòng ham muốn, từ sự si mê, từ<br />
thù hận. Hiểu đƣợc nguồn cơn của nỗi khổ thì<br />
mới mong đạt đạo, mới mong đƣợc giải thoát<br />
khỏi trần ai.<br />
Đội gạo lên chùa đƣợc nhà văn Nguyễn<br />
Xuân Khánh viết bằng sự chiêm nghiệm 79<br />
năm sống trên cõi nhân gian và cơ duyên với<br />
Phật pháp. Bằng vốn am hiểu Phật giáo của<br />
mình, mở đầu tiểu thuyết Đội gạo lên chùa<br />
ông đã đề cập ngay đến nỗi khổ đau của con<br />
ngƣời giữa kiếp vô thƣờng. Mà điều đặc biệt<br />
ở đây ông đặt con ngƣời với nỗi khổ đau ở<br />
ngay bối cảnh thời loạn lạc, thời "mạt pháp",<br />
lúc cái ác lên ngôi làm cho con ngƣời điêu<br />
đứng lâm vào đƣờng cùng của sự bế tắc: "Con<br />
cắn cỏ van xin cụ mở lòng từ bi cho chị em<br />
con đƣợc nƣơng nhờ cửa Phật. Chị em con đã<br />
đến bƣớc đƣờng cùng". Sƣ cụ thở dài. Cụ mở<br />
mắt nhìn khuôn mặt đẫm lệ của cô con gái,<br />
rồi lại nhìn khuôn mặt trái xoan với đôi mắt<br />
sáng u buồn sâu thẳm và nƣớc da xanh của<br />
cậu bé An, cụ hiểu nỗi đau đớn của hai sinh<br />
205<br />
<br />
Phùng Phƣơng Nga và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
linh bé bỏng này thật là to lớn, nỗi sợ hãi họ<br />
vừa trải qua cũng khủng khiếp vô cùng."<br />
[3,17]. Cái thở dài của ngƣời nhìn thấy rõ<br />
nguồn cơn của mọi khổ đau mà con ngƣời<br />
phải gánh chịu bởi lẽ "con ngƣời sinh ra là<br />
thế. Ai cũng khổ [3,661].<br />
Cái khổ do vô minh. Trong Đội gạo lên chùa<br />
ngay cả anh Tây lai Barnarrd Matinot - một<br />
anh chàng bị "da vàng hóa", cũng bị rơi vào<br />
cảnh tâm lý lƣỡng phân, "Ngƣời ta giải thích<br />
rằng: Khi một ngƣời lính đi xâm chiếm phối<br />
kết với một ngƣời đàn bà thuộc địa, thì đứa<br />
con sinh ra là một bãi chiến trƣờng cho cuộc<br />
chiến tranh chấp giữa dòng máu nội và dòng<br />
máu ngoại. Nếu phía ngƣời mẹ thắng, ngƣời<br />
con sẽ đứng về phía ngoại. Nhiều ngƣời lai đã<br />
trở thành những chiến sĩ chống thực dân kiên<br />
quyết nhất. Nếu phía ngƣời cha giành giật<br />
đƣợc, đứa con sẽ trở thành kẻ chống đối lại<br />
bầu sữa đã nuôi nấng nó một cách điên cuồng.<br />
Hắn cố phủ nhận ngƣời mẹ. Và để lấy lòng<br />
ngƣời cha, hắn sẽ không từ một thủ đoạn nào.<br />
Hắn ghê tởm dòng máu ngƣời mẹ mà hắn<br />
mang trong huyết quản. Hắn cực kì nguy<br />
hiểm, bởi vì hắn từ lòng mẹ chui ra, hắn đã<br />
thuộc lòng những gì thuộc về ngƣời mẹ.<br />
Barnard thuộc trƣờng hợp này. Phải nói rằng<br />
có lúc hắn đã ngả về phía ngƣời mẹ. Nhƣng rồi<br />
hoàn cảnh chiến tranh đƣa đẩy, hắn đã chối từ<br />
phía mẹ và đi về phía ngƣời cha. Chối từ bằng<br />
những lí lẽ biện minh đàng hoàng" [3,70].<br />
Do tâm lý lƣỡng phân kết hợp với những chấn<br />
thƣơng sâu sắc, hắn mang vào cuộc chiến nỗi<br />
hận thù tàn khốc của kẻ từng chịu những chấn<br />
thƣơng nặng nề về tâm lý. Nỗi hận thù đó bắt<br />
rễ từ chính lòng tham sân: Cuộc cách mạng<br />
tháng Tám thành công làm tan nát trong<br />
Barnard niềm kiêu hãnh của kẻ chinh phục.<br />
Từ chính sự si mê, si mê cái vô thƣờng, cái<br />
vốn không tồn tại mãi mãi làm dấy lên trong<br />
con ngƣời ta sự ân hận. Từ sự chấp trƣớc vào<br />
cái vô thƣờng và bản ngã. Con ngƣời ta sinh<br />
ra rồi mất đi, mọi vật đều chịu tác động của<br />
quy luật sinh – lão - bệnh - tử, sinh - trụ, dị diệt. Vì cái chết của ngƣời mẹ và ngƣời cậu<br />
của viên sĩ quan đã làm cho sự thù hận của<br />
hắn càng lúc càng sâu sắc, "sự thù hận có tính<br />
lây lan". "Bà Thu chết, Barnard nghĩ dù bà<br />
206<br />
<br />
118(04): 205 - 212<br />
<br />
không chết trực tiếp vì tay Việt Minh, nhƣng<br />
Việt Minh phải chịu trách nhiệm gián tiếp.<br />
Bởi vì không có cái chết của ông lý Cẩm, thì<br />
bà Thu không héo hon đi nhƣ thế. Cái chết<br />
của ngƣời cậu và ngƣời mẹ trở thành cái hận<br />
thứ ba trong lòng viên trung úy phòng nhì"<br />
[3,66]. "Đức Phật bảo sân hận là một trong<br />
những nguyên nhân tạo thành đau khổ thế<br />
gian. Hận thù nối tiếp hận thù muôn đời muôn<br />
kiếp không tan. Cái vòng luẩn quẩn nhƣ thế<br />
chẳng bao giờ dứt" [3,615].<br />
Cái sự thù hận của Barnard nó đã bị đầy lên<br />
tột đỉnh và bộc lộ rõ qua quan niệm sống "kẻ<br />
nào nhân đạo, kẻ ấy đang tự sát" [3,45]. Và<br />
minh chứng cho sự hung bạo thảm khốc ấy là<br />
những hình ảnh tàn sát dã man, kinh hoàng<br />
biểu lộ rõ qua hành động của hắn.<br />
Nỗi khổ đau của con ngƣời nó muôn hình vạn<br />
trạng. Con ngƣời ta đau khổ bởi vô minh,<br />
lòng tham, sự thù hận, sự si mê. Nhƣng thế<br />
chƣa đủ, con ngƣời còn đau khổ bởi vô<br />
thường. Đức Phật dạy rằng: "Chẳng có gì<br />
sinh ra, chẳng có gị mất đi. Gặp duyên thì tụ<br />
thì sinh. Hết sinh thì tán thì diệt" [3,552].<br />
Nhƣng con ngƣời không hiểu nó, cứ chấp<br />
trƣớc vào nó bởi vậy vô thƣờng nó chi phối<br />
kiếp nhân sinh nhƣ một định luật chung của<br />
sinh tồn. Quy luật ấy đƣợc tác giả phác họa rõ<br />
nét chính ở số phận của con ngƣời trong chiến<br />
tranh. Nguyệt và An phút chốc mất hết cha<br />
mẹ, nhà cửa phải lƣu lạc đến ở ngôi chùa. Bà<br />
vãi Thầm trở thành ngƣời phụ nữ bơ vơ, điên<br />
điên dại dại ngay sau cái đêm chồng bà chết<br />
giữa đồng. Bà Thu đang có cuộc đời hạnh<br />
phúc bỗng rơi vào khổ đau khi chồng tử trận.<br />
Khoan Độ là tay giang hồ nhƣng sau khi vợ<br />
hắn bị rắn cắn chết hắn trở thành ông sƣ<br />
nguyện cả đời đi theo và bảo vệ Phật pháp.<br />
Trong ngày vui của lễ đính hôn Nguyệt vẫn<br />
luôn bị ám ảnh bởi lời nói của mẹ.: " Đời<br />
ngƣời con gái chỉ nhƣ hạt mƣa sa... Chớ thấy<br />
hanh vàng đã tƣởng nắng to. Cái vui chƣa tan,<br />
cái buồn đã tới" [3,160].<br />
Rồi trong cải cách ruộng đất, những gia đình<br />
bình lặng bỗng lâm cảnh vợ ngồi ghế quan tòa<br />
kết tội chồng, con phải chứng kiển cảnh mẹ tố<br />
tội và kết án cha, một chủ tịch xã hết lòng vì<br />
dân phải chốn chạy và bị chết giữa sông<br />
<br />
Phùng Phƣơng Nga và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Hồng. Một cô gái xinh đẹp, trong trắng nhƣ<br />
Rêu phải nhảy xuống giếng tự vẫn... Tất cả<br />
các hình ảnh trên minh chứng cho quy luật<br />
vô thƣờng. Cũng chính sự nhận thức đƣợc cái<br />
vô thƣờng mà nhân vật trong Đội gạo lên<br />
chùa luôn mang trong mình sự bất an khi<br />
sống giữa cõi nhân gian.<br />
Nghiệp duyên mối giải thoát đời ngƣời.<br />
Đạo Phật chủ trƣơng rằng, đời sống của con<br />
ngƣời cũng nhƣ của tất cả mọi sự vật hiện<br />
tƣợng (vạn pháp) đều không phải do một<br />
đấng sáng thế nào sinh ra tất cả đều theo<br />
Nhân - Duyên mà thành. Nhân là cái hạt, cái<br />
cốt lõi để sinh ra sự vật hiện tƣợng. Duyên là<br />
những thứ liên quan đến, tƣơng trợ đến để<br />
cho Nhân có thể trổ Quả. Dân gian có câu<br />
"Gieo Nhân nào, gặt Quả nấy". Gieo Nhân tốt<br />
đẹp thì đƣợc hƣởng quả báo tốt, gieo Nhân<br />
xấu thì đƣợc quả báo xấu. Nhân tốt, xấu do<br />
chính con ngƣời tạo ra bằng Nghiệp. Cũng do<br />
vậy, điều làm nên sự khác biệt của con ngƣời<br />
Nghiệp mà họ mang lấy.<br />
Daisetz Teitaro Suzuki viết: "Tất cả chúng<br />
sinh đều có tƣ sản là Nghiệp của mình, chúng<br />
là những kẻ thừa tự của Nghiệp, chúng sinh ra<br />
từ Nghiệp. Nghiệp là nơi trú ẩn của chúng,<br />
Nghiệp ban cho chúng sinh sự sang hay hèn"<br />
[10,292] Thiền Phật giáo (Zen Buddhist) cho<br />
rằng muốn đạt đến Niết bàn (Nirvana) con<br />
ngƣời phải tự giải thoát cho mình khỏi những<br />
vô minh và thoát khỏi Nghiệp mà mình đã<br />
gieo. Tƣ tƣởng này đƣợc Nguyễn Xuân<br />
Khánh thể hiện một cách sâu sắc trong tác<br />
phẩm Đội gạo lên chùa thông qua các nhân<br />
vật của mình.<br />
"Con chớ ăn nói báng bổ nhƣ vậy. Chẳng qua<br />
là nghiệp chƣớng. Kiếp trƣớc, mẹ đã làm<br />
nhiều tội ác. Cả cha con cũng vậy. Không chỉ<br />
có cậu, mẹ còn lo cả cho con.” [3,65]. Bà lo<br />
sợ con mình rồi cũng nhƣ ngƣời cha, ngƣời<br />
cậu bởi vì họ gieo nhân ác nên gặp quả ác.<br />
Cũng chính cái nhân duyên của kiếp trƣớc nó<br />
còn tồn tại sang đến cả kiếp sau lên bà Thu<br />
phải gánh chịu cái Nghiệp chƣớng do mình<br />
tạo ra không thể giải thoát đƣợc.<br />
Hay nhƣ nhân vật Nguyệt và Hạ. Ngƣời ta<br />
bảo kiếp trƣớc Nguyệt là một anh chàng thƣ<br />
<br />
118(04): 205 - 212<br />
<br />
sinh lấy cô vợ xấu xí, sau khi thi đậu đi học<br />
xa. Ngƣời vợ ở nhà làm nghề giết lợn để<br />
chồng ăn học, sau bị ngƣời chồng phản bội<br />
nên cô ta mới theo anh đến kiếp này đòi nợ:<br />
"Kiếp này cô ta là đàn ông. Cả đứa con trong<br />
bụng cô ta cũng sang kiếp này đòi nợ. Kiếp<br />
trƣớc, để nuôi chàng nho sĩ, cô gái xấu xí kia<br />
làm nghề giết lợn. Cho nên sang kiếp này, cô<br />
ta vẫn không đƣợc hƣởng phúc. Lại vẫn là<br />
con ngƣời có tƣớng mạo dữ tợn xấu xí"<br />
[3,335]. Nhƣ vậy, cũng do gieo Nhân từ kiếp<br />
trƣớc và do duyên nghiệp mà sang đến kiếp<br />
này Nguyệt lấy Hạ làm chồng.<br />
Thiền sƣ Vô Uý là ngƣời có duyên với cửa<br />
Phật, nguyện cắt tóc đi tu không phải với nỗi<br />
chán đời mà ông rất yêu thƣơng trần thế, ông<br />
yêu thƣơng trần thế đến xót xa. Ông hiểu thấu<br />
Nghiệp, nên trong suốt cuộc đời tu hành ông<br />
vẫn phải gánh hết cái Nghiệp của mình. Ông<br />
không sợ Nghiệp mà ngƣợc lại ông quyết làm<br />
trọn Nghiệp của mình để đƣợc giải thoát. Cái<br />
Nghiệp của ông là "Phải giữ chùa vào thời<br />
loạn lạc, phải chịu gánh nhiều tai nạn"<br />
[3,190]. Nhiều lần ông bị chính quyền thực<br />
dân dọa nạt, cƣỡng ép, bị bắt vào trại giam, bị<br />
tra tấn nhƣng ông không than phiền, không sợ<br />
hãi. Đứng trƣớc những tình cảnh nhƣ thế ông<br />
chỉ một cách ứng xử duy nhất là niệm Phật:<br />
"Bị đánh đau, sƣ cụ kêu to nhƣng hết đánh lại<br />
niệm Phật" [3, tr.189]. Ông tin rằng mình sẽ<br />
vƣợt qua cái Nghiệp ấy và giữ vững đƣợc<br />
chùa làng qua cơn bão tố. Ông biết rằng: "trốn<br />
nghiệp không bao giờ thoát nghiệp, con ngƣời<br />
ta chỉ thoát nghiệp khi làm trọn nghiệp". Hiểu<br />
đƣợc vậy nên thầy vẫn giữ vững niềm tin:<br />
"Cái nghiệp của thầy là vậy. Thầy còn phải<br />
chịu đựng nhƣng không sao. Thầy biết, rồi<br />
thầy sẽ khỏi" [3,247]. Sự chịu đựng, nhẫn nại<br />
đó nó hun đúc ý chí, luyện tính khí nhƣ<br />
Suzuki nhận xét: "Thiền, trƣớc hết, là một tôn<br />
giáo nhƣng cũng là một nghệ thuật luyện tánh<br />
khí" [11,27].<br />
"Giữa ngƣời mê và ngƣời ngộ, Nghiệp tác<br />
động không giống nhau. Ngƣời mê coi<br />
Nghiệp là tai ách, gặp hoàn cảnh khó khăn<br />
đau khổ, họ buồn tủi, than vãn. Còn với ngƣời<br />
ngộ, khi đã vô phân biệt giữa khách và ta,<br />
207<br />
<br />
Phùng Phƣơng Nga và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
giữa ngoài và trong, họ biết mình vẫn có<br />
Nghiệp nhƣ ai, nhƣng không cảm thấy Nghiệp<br />
là nặng. Ngộ không hề có nghĩa là vứt bỏ<br />
Nghiệp, mà là vô ngại đối với Nghiệp" [3,253].<br />
Theo nhƣ trong giáo lý Đại thừa, cái Nghiệp<br />
của sƣ cụ Vô Úy là "cộng nghiệp" tức là cái<br />
Nghiệp chung của cả kiếp ngƣời rộng lớn, sƣ<br />
cụ nguyện hi sinh bảo vệ cho "pháp" (vạn<br />
vật). Thầy nhƣ một vị Bồ tát sống ngay giữa<br />
thế gian này để cứu độ cho chúng sinh. "Đối<br />
với ta, khi niệm Phật, lòng sân hận trong ta sẽ<br />
không dấy động, còn đối với kẻ kia, ta cũng<br />
cầu mong cho họ đừng nhúng tay vào cái ác<br />
để tránh nghiệp quả" [3,248]. Với thầy "mỗi<br />
khó khăn ở đời là một bƣớc để ta tôi rèn, để đi<br />
đến gần Đạo hơn" [3,607].<br />
Thiền Tông là pháp môn tu tập căn bản và<br />
chính thống của đạo Phật. Cốt lõi của Thiền<br />
tông là giác ngộ (sambodhi) và giải thoát.<br />
Thiền sƣ D.T.Suzu ki trong bộ Thiền luận nổi<br />
tiếng của mình nhận định: "Không Thiền<br />
không có Ngộ, không Ngộ chẳng phải Thiền.<br />
Ngộ là chữ đầu và chữ chót của quyển sách<br />
thiền vậy" [10,276]. Và nhƣ vậy con ngƣời ta<br />
ngộ đạo khi đã trả xong hết nghiệp trần gian<br />
Thiền hay còn gọi là tĩnh lực, chủ trƣơng tập<br />
trung trí tuệ để tìm ra chân lý. Ngộ (Giác ngộ)<br />
là hiểu rõ đạo lý, giải thích khoa học "ngộ là<br />
ngộ bằng trí huệ và trí huệ phát ra từ ý chí - ý<br />
chí muốn tự tri giác, và tự thực hiện trong<br />
chính nó" [10, 159]. Giác ngộ là mục đích cao<br />
nhất con ngƣời đạt đến, nhờ có tập trung trí<br />
tuệ tìm ra chân lý của muôn vật thì con ngƣời<br />
mới hiểu và giải quyết vấn đề và "Ngộ có thể<br />
định nghĩa là một trực giác phóng thẳng vào<br />
bản thể của muôn vật, khác với sự hiểu biết<br />
bằng phân tách, bằng lí luận... Hễ ngộ rồi thì<br />
muôn vật quanh ta sẽ hiện ra dƣới một quan<br />
điểm hoàn toàn mới lạ chẳng ngờ" [3,276].<br />
Phật giáo Thiền Tông chủ trƣơng "giáo ngoại<br />
biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm,<br />
kiến tánh thành Phật". Thiền Tông luôn chủ<br />
trƣơng tự lực, không dựa vào tha lực. Để giác<br />
ngộ con ngƣời phải dựa vào lực của bản thân<br />
mình. Thiền sƣ Thích Vô Úy dạy: "Ngƣời tu<br />
Phật phải thấu hiểu rằng muốn tìm đƣợc con<br />
đƣờng Phật đạo, ta không đƣợc dựa vào bất<br />
cứ ai. Ta phải dựa vào chính bản thân mình"<br />
208<br />
<br />
118(04): 205 - 212<br />
<br />
[3,772]. "Trên đƣờng đời dài dằng dặc, một<br />
ngƣời con của Phật hay một con ngƣời cũng<br />
vậy, đều phải biết tự đi bằng đôi chân của<br />
mình... phải biết độc hành con ạ... (..)Muốn<br />
tìm đƣợc đạo phải biết độc hành. Không có ai<br />
tìm hộ cho con đâu. Bản thân trải qua cảnh<br />
khổ, chính lúc ấy ta mới hiểu thế nào là khổ<br />
đế" [3,598]. Chính lối sống thiền này đã làm<br />
nên đặc điểm văn hóa riêng của Phật giáo<br />
Thiền Tông là "bất ly thế gian" nhƣng lúc nào<br />
cũng phải giữ cho bên trong tâm bất loạn, bên<br />
ngoài tâm ly tƣớng (thiền định) bởi đã "là<br />
ngƣời chân tu phải lúc nào cũng tu. Đi cũng<br />
thiền. Ăn cũng thiền. Uống cũng thiền. Nói<br />
cũng thiền. Từng giây từng phút đều thiền"<br />
[3,25]. Nhờ thiền mà khi con ngƣời ta "gặp<br />
nghịch cảnh chẳng oán hận. Gặp thuận chiều<br />
chẳng vui mừng. Ngƣời thiền, khi vui cũng<br />
thiền, khi đau khổ cũng thiền" [3,583].<br />
Khi ngƣời tu hành đã đạt đến Giác Ngộ thì họ<br />
đã đƣợc giải thoát khỏi những khổ đau, vô<br />
thƣờng của thế gian mà đến cảnh giới Niết<br />
bàn. Không giống nhƣ cách nói trong các<br />
kinh, lục Phật giáo, ở đó, Phật pháp là một<br />
chân lí hiển nhiên, và ngôn ngữ chỉ là một sự<br />
gợi ý. Ở đó, ngƣời ta nói nhiều bằng vô ngôn,<br />
lời viết ra chỉ là điểm gợi ý, một điểm kích<br />
thích để sự giác ngộ đột nhiên bùng nổ. Phật<br />
giáo Thiền tông chủ trƣơng "bất ly thế gian"<br />
tìm Niết bàn ngay giữa cõi nhân gian này, nó<br />
làm nên một nét đặc sắc riêng của Phật giáo.<br />
Điều này thể hiện qua những lời dạy của sƣ<br />
cụ Vô Úy: "Sống ở cõi nhân gian tức là sống<br />
giữa những đau khổ. Không sợ hãi, mới tìm<br />
đƣợc Niết bàn. Niết bàn chẳng ở đâu xa. Nó ở<br />
ngay cõi trần gian này" [3,204]. Niết Bàn và<br />
Địa Ngục nằm ngay trong cuộc đời này. Một<br />
hành động từ bi, một giây chánh niệm, lập tức<br />
Niết Bàn mở ra với ta. Còn trái lại, một phút<br />
giây sau, ta lại sa hỏa ngục. Con ngƣời sống<br />
giữa trần gian nhƣ một cuộc hành hƣơng tìm<br />
đạo, Niết bàn là một chốn linh thiêng, và để<br />
đến đƣợc chốn linh thiêng con ngƣời ta không<br />
nên đi đƣờng thẳng mà phải đi đƣợc vòng. "Ý<br />
nghĩa của cuộc hành hƣơng là để biến đổi sự<br />
nhận biết tầm thƣờng của thế gian. Đừng sợ<br />
gian khổ. Hành hƣơng càng gian khổ, càng<br />
tốt, ý nghĩa của hành hƣơng là ý nghĩa của<br />
con ngƣời đi tìm đạo ở trần gian. Ngƣời đi<br />
<br />
Phùng Phƣơng Nga và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
đƣờng thẳng ít tới đƣợc chốn thiêng. Đi<br />
đƣờng vòng sẽ gặp nhiều nghịch cảnh. Hãy<br />
dùng nghịch cảnh để biến thành sức mạnh và<br />
thành đạt tinh thần" [3,270]. Vậy nên đừng đi<br />
tìm Phật ở đâu xa, hãy trải nghiêm thực tế và<br />
tri giác nó, đừng quá chấp vào sách vở "tu<br />
đạo mà sách vở quá nhiều, chấp trƣớc vào<br />
sách vở quá mức thì càng lúc càng xa đạo"<br />
[3,333]. Đức Phật ở giữa cõi đời và trong<br />
chính mỗi ngƣời, do vậy, ngƣời tu đạo hãy<br />
hòa nhập vào cuộc sống trần thế bằng chính<br />
cái tâm tự tại của mình "trực chỉ tại tâm, kiến<br />
tính thành Phật".<br />
Tinh thần nhập thế - đƣờng đi tìm đạo<br />
giữa trần gian<br />
Thiền Tông là sản phẩm Trung Hoa tinh chế<br />
ra từ giáo lý Giác Ngộ. Tƣ tƣởng Phật giáo<br />
Ấn Độ hết sức siêu hình không phù hợp với<br />
óc thực tiễn của Trung Hoa nên họ đã phát<br />
triển và biến đổi tƣ tƣởng ấy sao cho nó phù<br />
hợp với thực tiễn hơn nên ngƣời ta sáng tạo ra<br />
Thiền Tông. Khi Thiền Tông truyền bá vào<br />
Việt Nam lại tiếp tục biến đổi đặc biệt vào<br />
thời Trần. Năm 1299 vua Trần Nhân Tông đã<br />
hợp nhất các dòng thiền ở Việt Nam lập lên<br />
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và trở thành<br />
dòng thiền của riêng Việt Nam." Phật giáo<br />
Trúc Lâm là một nền Phật giáo độc lập uy tín,<br />
tinh thần của nó là uy tín tinh thần quốc gia<br />
Đại Việt. Nó là xƣơng sống của một nền văn<br />
hóa Việt Nam độc lập. Nền Phật giáo này tuy<br />
có tiếp nhận những ảnh hƣởng của Phật giáo<br />
Trung Hoa, Ấn Độ và Tây Tạng nhƣng vẫn<br />
giữ cá tính đặc biệt của mình" và tiếp tục phát<br />
triển cho đến nay. Trong Đội gạo lên chùa<br />
"cá tính đặc biệt" ấy đƣợc tác giả Nguyễn<br />
Xuân Khánh kiến giải một cách sâu sắc khi<br />
ông đặt nó trong bối cảnh Phật giáo suy vi,<br />
đất nƣớc trong thời kì "mạt pháp". Các nhân<br />
vật cảm mến đạo Phật, xuất gia đƣợc giác ngộ<br />
giáo lý uyên thâm của Phật rồi lại nhập thế<br />
hòa mình vào cuộc đấu tranh bảo vệ đất nƣớc<br />
khẳng định tinh thần dân tộc, gắn đạo với đời,<br />
đạo là vì đời...<br />
Thời Lý, thời Trần, dân ta ai cũng theo đạo<br />
Phật. Năm trăm năm thờ Phật, nên trong hồn<br />
ngƣời Việt, ai cũng có hạt giống Phật. Trải<br />
qua nhà Hồ rồi hai chục năm lệ thuộc nhà<br />
<br />
118(04): 205 - 212<br />
<br />
Minh, đạo Phật đã phôi pha ít nhiều. Đến đời<br />
nhà Lê, các vua đề cao đạo Nho. Các vua nhà<br />
Lê không ai nhắc đến đạo Phật, vì nhắc đến<br />
đạo Phật là nhắc đến đức Trần Nhân Tông - vị<br />
vua đã chiến thắng quân Nguyên, chiến thắng<br />
lừng lẫy, rồi lại tự mình xây dựng lên Thiền<br />
Phái Trúc Lâm làm rạng rỡ văn hóa Việt. Các<br />
vua Lê sợ dân nhớ đến nhà Trần, nên mặc cho<br />
chùa để hoang. Đạo phải có lúc hiện lúc ẩn.<br />
Thuận thì hiện, không thuận thì ẩn. Tuy<br />
nhiên, ẩn chứ không dứt. Đạo vẫn ở trong<br />
nhân gian" [3,92]. Điều khiến cho đạo Phật<br />
luôn luôn tồn tại trong suốt bao nhiêu thế kỉ<br />
qua của dân tộc chính là nhờ sức hấp dẫn của<br />
nó. Sức hấp dẫn đó đƣợc biểu hiện ở tính tùy<br />
duyên lạc đạo (ngƣời tu phải bất ly thế gian,<br />
tùy duyên ở cảnh đời nào cũng vui với đạo).<br />
Đạo Phật ở Việt Nam từ xƣa tới nay, luôn<br />
luôn đồng hành với dân tộc. Nƣớc thịnh thì<br />
đạo Phật thịnh. Nƣớc suy đạo Phật cũng suy<br />
theo. Trong bối cảnh đất nƣớc bị thực dân<br />
Pháp xâm lƣợc, chúng thi hành chính sách<br />
khai hóa văn minh, tiêu diệt cộng sản, áp bức<br />
ngƣời vô tội bằng những hành động vô cùng<br />
độc ác...Và nhà sƣ cũng phải biết cầm súng,<br />
biết cầm đao. Đạo Phật tồn tại trong hoàn<br />
cảnh suy vi ấy, với tính tùy duyên và tƣ tƣởng<br />
cứu vớt, giải thoát con ngƣời khỏi khổ đau<br />
bộc lộ rõ tinh thần dân tộc Đại Việt. Tinh thần<br />
ấy đƣợc Nguyễn Xuân Khánh tái hiện và kiến<br />
giải sâu sắc tiêu biểu qua hai nhân vật An, sƣ<br />
thúc Vô Trần. Cuộc đời họ là cuộc hành<br />
hƣơng đi tìm đạo giữa trần gian trong thời<br />
mạt pháp.<br />
Là một cậu bé mới lên chín tuổi, mồ côi cha<br />
mẹ sau một trận càn dữ dội của giặc Pháp,<br />
phiêu bạt đến ngôi chùa Sọ, nhờ có duyên với<br />
nhà Phật mà An đƣợc sƣ cụ Vô Úy đón nhận<br />
và cƣu mang. An tự nguyện xuất gia trở thành<br />
một chú tiểu ngày đêm học tập gõ mõ, tụng<br />
kinh. Sau cải cách ruộng đất lại trở thành một<br />
anh bộ đội, xuất ngũ anh còn lấy vợ. Cũng<br />
nhƣ thế, sƣ thúc Vô Trần là ngƣời thông<br />
minh, lanh lợi, hoan hỉ xuất gia, nhƣng rồi lại<br />
lấy vợ và trở thành nhà cách mạng. Trong<br />
thời đại mới này, "dù là sƣ, vẫn là công dân<br />
của nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Mà<br />
đã là công dân thì ai cũng có quyền lợi và<br />
nghĩa vụ công dân. Quyền lợi tức là có quyền<br />
209<br />
<br />