intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tinh thần Phật giáo trong thực hiện chính sách an sinh xã hội tại Trung Quốc

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:16

3
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sự phát triển của các tổ chức tôn giáo ở Trung Quốc là một trong những xu hướng đáng chú ý nhất trong hai mươi năm qua. Trong số nhiều vấn đề mà nó đặt ra cho tương lai của Trung Quốc, một vấn đề quan trọng là ảnh hưởng của sự phát triển của các tổ chức tôn giáo đối với chính trị. Mục tiêu của bài viết này là đặt bối cảnh của các chính sách an sinh xã hội của Trung Quốc và mô tả các cách thức mà các tổ chức từ thiện Phật giáo tham gia để giúp nhà nước.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tinh thần Phật giáo trong thực hiện chính sách an sinh xã hội tại Trung Quốc

  1. TINH THẦN PHẬT GIÁO TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI TẠI TRUNG QUỐC TS. NGUYỄN ĐỨC HỮU1* Tóm tắt: Sự phát triển của các tổ chức tôn giáo ở Trung Quốc là một trong những xu hướng đáng chú ý nhất trong hai mươi năm qua. Trong số nhiều vấn đề mà nó đặt ra cho tương lai của Trung Quốc, một vấn đề quan trọng là ảnh hưởng của sự phát triển của các tổ chức tôn giáo đối với chính trị. Mục tiêu của bài viết này là đặt bối cảnh của các chính sách an sinh xã hội của Trung Quốc và mô tả các cách thức mà các tổ chức từ thiện Phật giáo tham gia để giúp nhà nước. Những gì chúng ta quan sát được ở Trung Quốc mở ra trong bối cảnh toàn cầu về sự tham gia của các tổ chức tôn giáo đối với chính sách an sinh xã hội, trong đó quan hệ giữa nhà nước và các tổ chức tôn giáo đang trở nên khăng khít hơn. Đối với quốc gia như Trung Quốc, Chính phủ đang dựa vào vốn nhân lực, nguồn tài chính và liên hệ nước ngoài của các tổ chức tôn giáo để giúp họ giải quyết các vấn đề trong chính sách an sinh xã hội. Mặt khác, chính quyền nhà nước đảm bảo rằng sự phụ thuộc đó không tạo thách thức đến quyền lực chính trị của nhà nước Trung Hoa. Từ khóa: An sinh xã hội, Phật giáo, Tôn giáo, Trung Quốc. Đặt vấn đề An sinh xã hội là một trong những chính sách xã hội cơ bản thể hiện đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước ta hướng vào mục tiêu phát triển con người, thúc đẩy công bằng và tiến bộ, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Để chính sách này đảm bảo tốt hơn đời sống cho người dân, góp phần tích cực vào việc ổn định, an toàn xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước thì việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống về an sinh xã hội ở Việt Nam là hết sức cần thiết. * Khoa Công tác xã hội, Trường Đại học Công đoàn.
  2. 494 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... Chính phủ Việt Nam đặt quyết tâm phát triển hệ thống an sinh xã hội phù hợp với một quốc gia có thu nhập trung bình và với các chuẩn mực quốc tế, đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của con người, Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020” khẳng định: Đến năm 2020 cơ bản hình thành hệ thống an sinh xã hội bao phủ toàn dân với các yêu cầu: bảo đảm để người dân có việc làm, thu nhập tối thiểu; tham gia bảo hiểm xã hội, bảo đảm hỗ trợ những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người cao tuổi thu thập thấp, người khuyết tật nặng, người nghèo…); bảo đảm cho người dân tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu (y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin), góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân. Trước bối cảnh toàn cầu hóa, Việt Nam đã và đang đồng hành với hệ thống an sinh xã hội thế giới, hướng đến một hệ thống an sinh xã hội đa tầng, bền vững, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của người dân và đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thời gian qua các tôn giáo ở Việt Nam tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết, gắn bó đồng hành cùng dân tộc, sẻ chia trách nhiệm với xã hội và đất nước, tích cực hưởng ứng và tham gia các hoạt động an sinh xã hội. Trải qua chặng đường 38 năm từ ngày thành lập đến nay, với phương châm: “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội ” và ngời sáng tinh thần hộ quốc an dân, với triết lý vì con người và muốn mang lại cho con người cuộc sống hạnh phúc, an lạc; Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã luôn đồng hành cùng dân tộc, vận động tăng, ni, Phật tử cả nước sống trong chánh tín để ánh sáng giác ngộ của Phật pháp đi vào đời sống thực tiễn, tích cực triển khai các hoạt động cứu khổ độ sinh, đảm bảo an sinh xã hội (ASXH), đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tạo nên nét đẹp văn hóa, thấm đậm tình nghĩa của dân tộc Việt Nam. Với trị trí là một quốc gia láng giềng của Việt Nam và có nền văn hóa khá tương đồng, các tổ chức tôn giáo của Trung Quốc nói chung và Phật giáo nói riêng đã có những đóng góp nhất định trong thực hiện an sinh xã hội. Việc nghiên cứu và phân tích phương thức xây dựng và thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Trung Quốc từ góc độ phật giáo là một kinh nghiệm quý. Đây là cứ liệu cần thiết để Giáo hội Phật giáo Việt Nam có thể tham khảo hướng đến đảm bảo an sinh xã hội cho người dân trong điều kiện hội nhập và phát triển.
  3. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 495 Phương pháp nghiên cứu Mục tiêu của bài viết này là đặt bối cảnh của các chính sách xã hội của Trung Quốc và mô tả các cách thức mà các tổ chức từ thiện Phật giáo tham gia để giúp nhà nước. Nội dung của bài viết được tập trung từ các báo cáo của cục Thống kê Trung Quốc về sự hoạt động của tổ chức Phật giáo trong việc góp phần thực hiện chính sách an sinh của nhà nước Trung Hoa. Tác giả bài viết cũng tổng hợp tài liệu của một số học giả phương Tây khi nghiên cứu về tôn giáo nói chung và phật giáo của Trung Quốc nói riêng. Lập luận được trình bày trong bài viêt này nhằm trả lời câu hỏi mối liên hệ giữa nhà nước Trung Quốc và tổ chức Phật giáo trong xứ mệnh cung cấp các dịch vụ xã hội hướng đến toàn dân. 1. Tôn giáo và chính sách an sinh xã hội từ quan điểm so sánh Chính sách an sinh xã hội bao gồm ba lĩnh vực can thiệp công cộng rộng lớn, hoàn toàn đại diện cho thành phần lớn nhất trong ngân sách của các quốc gia phát triển: giáo dục, y tế và trợ giúp xã hội. Các tổ chức tôn giáo đã tham gia vào các chính sách này trong quá khứ không xa của phương Tây với mức độ lớn hơn nhiều so với ngày nay. Mặc dù Trung Quốc không đủ điều kiện là một nền kinh tế phát triển, theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), hơn một nửa ngân sách của họ dành cho ba lĩnh vực chi tiêu này. Nhưng ngay cả khi các nhà lãnh đạo Trung Quốc coi đất nước của họ là một nền kinh tế đang phát triển, cho đến gần đây, họ dành cho các tổ chức tôn giáo một vai trò hạn chế hơn nhiều trong các vấn đề công cộng so với các nước đang phát triển khác sẵn sàng làm. Trước khi các quốc gia hiện đại được thành lập, các tổ chức tôn giáo thường điều hành các dịch vụ về giáo dục và chăm sóc sức khỏe cũng như cứu trợ người nghèo, mặc dù không phải lúc nào cũng theo cách toàn diện, như Liang Qizi (1997) đã mô tả trong công việc của mình về các tổ chức từ thiện trong thời Minh - Thanh. Khi thực hiện các hoạt động này, họ thường ở trong một vị trí để duy trì quyền lực của mình bên cạnh - nếu không chống lại - những người cai trị chính trị thế tục. Xung đột giữa các tổ chức tôn giáo và các quốc gia xuất hiện khi họ tìm cách mở rộng quyền kiểm soát và nhận trách nhiệm ngày càng tăng đối với giáo dục và y tế, do đó trực tiếp thách thức nguồn ảnh hưởng của các tổ chức tôn giáo (Manow, 2004; Wilcox, 1997). Giáo dục ngày nay vẫn còn là một lĩnh vực xung đột tiềm tàng giữa chính quyền nhà nước và tôn giáo khi quan điểm tương ứng của họ về đạo đức, ý nghĩa của cuộc sống, nghĩa vụ và nghĩa vụ không hội tụ (Manow và Palier, 2009). Tại
  4. 496 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... Trung Quốc, các tổ chức nhà nước và tôn giáo đã đụng độ vấn đề giáo dục vì hai lý do chính. Một vấn đề quan trọng của sự tranh chấp là sự sẵn có của các nguồn lực để cung cấp giáo dục, nhưng chính hệ tư tưởng cũng bị đe doạ (Ji Zhe, 2011). Do đó, khi chế độ cộng hòa và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc tìm cách truyền bá giáo dục cho dân chúng, họ quyết định khai thác tài nguyên vật chất của các tổ chức tôn giáo để đáp ứng mục tiêu của họ, chiếm đoạt đất đai và tài sản của họ trong nỗ lực biến đền thờ thành trường học (Goossaert và Palmer, 2010; Ashiwa, 2009: 52-55; Nedostup, 2009; Goossaert, 2006; Duara, 1991). Sức khỏe cộng đồng, và đặc biệt là sức khỏe sinh sản, phúc lợi phụ nữ và trẻ em, chăm sóc người già và chăm sóc dài hạn, là một lĩnh vực khác của chính sách công, nơi lý tưởng của các nhà lãnh đạo tôn giáo và tín đồ của họ có thể đụng độ với những công chức nhà nước. Giáo lý tôn giáo và lý tưởng chính trị của những người hiện đại bao hàm những quan điểm đạo đức cụ thể về gia đình, quan hệ giới tính, khuynh hướng tình dục và phẩm giá có thể khó hòa hợp ngay cả khi chúng bao gồm các nguyên tắc đạo đức như công lý, bình đẳng và phổ quát (Kahl, 2009). Điều quan trọng là, an sinh xã hội bao gồm bảo hiểm xã hội và các biện pháp xóa đói giảm nghèo, đại diện cho một nguồn tranh chấp tiềm năng khác cho các hiệp hội tôn giáo. Nhà nước có nhiều khả năng bị chỉ trích vì không thực hiện hiệu quả chính sách này. Khi nhà nước không cung cấp an sinh xã hội, nó có thể tạo tiền đề cho loại bất ổn gây bất lợi cho sự ổn định chính trị và tạo cho sự phát triển của các tổ chức tôn giáo phát triển mạnh về sau (Quadagno và Rohlinger, 2009). Các tổ chức tôn giáo, trong trường hợp đó, có nhiều khả năng yêu cầu sự can thiệp của nhà nước hơn là từ chối nó, trừ khi khai thác thuế ảnh hưởng đến họ quá nhiều. Phân tích so sánh các chính sách an sinh xã hội ở các nước phát triển (Esping- Andersen, 1990), hoặc các nền kinh tế chuyển đổi ở Mỹ Latinh, Đông Âu và Đông Á (Haggard và Kaufman, 2008) nhấn mạnh nhiều yếu tố giải thích cho sự phát triển của các chính sách này. Từ thế kỷ XIX, các tổ chức tôn giáo đã đấu tranh gay gắt để phản đối việc mở rộng trách nhiệm của nhà nước trong các chính sách an sinh xã hội. Ví dụ, ở Pháp trong suốt cuối thế kỷ 19 cho đến đầu thế kỷ 20, Giáo hội Công giáo và nhà nước đã đấu tranh để kiểm soát giáo dục (Lanfrey, 2003). Trong các trường hợp khác, các tổ chức tôn giáo ủng hộ việc mở rộng chính sách an sinh xã hội của nhà nước. Do đó, Giáo hội Công giáo dưới thời Bismarck ủng hộ việc thực hiện các bảo hiểm xã hội, với hy vọng chống lại ảnh hưởng của các
  5. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 497 đảng cộng sản đối với phong trào lao động (Dickinson, 1996). Trong tất cả các trường hợp, những trận chiến giữa các tôn giáo và nhà nước là một phần của quá trình dân chủ hóa. Nghiên cứu về các quốc gia cố gắng sử dụng các ngôi đền để phục vụ các chương trình xã hội của riêng mình trong giáo dục và chăm sóc sức khỏe vào cuối triều đại nhà Thanh và thời kỳ đầu Cộng hòa cho thấy sự khác biệt quan trọng giữa Trung Quốc và tình hình ở phương Tây vẫn còn liên quan đến ngày nay (Goossaert và Palmer, 2010; Nedostup, 2009; Goossaert, 2006; Duara, 1991). Mặc dù nhà nước đã cố gắng thiết lập quyền lực ở Trung Quốc vào đầu thế kỷ XX, nhưng nó không phải đối phó với một thể chế thống nhất duy nhất như Giáo hội Công giáo. Thay vào đó, nó phải đối mặt với một số hiệp hội địa phương, với nhiều cấp độ năng lực và tài nguyên khác nhau. Trong bối cảnh đó, ngoài những xung đột giữa Đảng Quốc gia (Quốc dân Đảng) và các trường Thiên chúa giáo (Lutz, 1988), nhà nước Trung Quốc gặp phải rất ít sự phản đối của các tổ chức tôn giáo trong việc phát triển các thể chế quan trọng của nhà nước hiện đại trong lĩnh vực y tế công cộng và cứu trợ cho nghèo. Các tổ chức Phật giáo, các nhà truyền giáo Kitô giáo và các tổ chức tôn giáo khác cũng đã thành lập các trại trẻ mồ côi, trường học và phòng khám để giải quyết các vấn đề xã hội. Tuy nhiên, tình hình chính trị bất ổn trong toàn bộ thời kỳ khiến họ gặp khó khăn trong việc thực hiện các vấn đề lợi ích công cộng như xóa đói giảm nghèo. Điều này càng trở nên khó khăn hơn trong hai thập kỷ đầu tiên của Cộng hòa Nhân dân. Sau đó, nhà nước Trung Quốc đã tích cực tìm cách ngăn chặn bất kỳ tổ chức tôn giáo nào được tổ chức và cung cấp thông qua các nhóm xã hội, quần chúng và doanh nghiệp. Với chính sách cải cách được thông qua sau năm 1978, các yêu cầu mà chính phủ cho rằng chỉ có các tổ chức đoàn thể xã hội và doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò là nhà cung cấp dịch vụ xã hội duy nhất đã bị loại bỏ. Sự thay đổi lớn này không có nghĩa là một sự thay đổi triệt để tương tự đối với các mối quan hệ tôn giáo nhà nước vì Trung Quốc không có một phạm vi công cộng có thể so sánh với các nền dân chủ hậu công nghiệp, nơi các tổ chức tôn giáo có thể thúc đẩy lợi ích doanh nghiệp của chính họ. Tuy nhiên, bên cạnh khía cạnh chính thức của sự kiểm soát của nhà nước đối với tôn giáo, bối cảnh thay đổi chính sách an sinh xã hội cung cấp cho một số chủ thể tôn giáo cơ hội để khẳng định mình là chủ thể thể chế. Mặc dù ảnh hưởng của tôn giáo trong các cuộc tranh luận chính sách vẫn chưa được khám
  6. 498 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... phá và khó đánh giá, nhưng tiềm năng của họ trong việc cung cấp các dịch vụ xã hội, và do đó để trở thành các bên liên quan, đang ngày càng trở nên quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội ở Trung Quốc. 2. Sự mở rộng của Phật giáo và mối liên hệ với chính sách an sinh xã hội ở Trung Quốc Ngay từ những ngày đầu Trung Quốc giành độc lập, các chính sách, chế độ về an sinh xã hội đã được ban hành. Năm 1950 chính sách nhằm trợ giúp và giải quyết vấn đề công nhân thất nghiệp từ chế độ cũ để lại đã được triển khai. Năm 1951, chính sách, chế độ bảo hiểm về hưu trí, tàn tật, tử tuất, ốm đau, chăm sóc y tế, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản đã được đưa ra. Sau đó Trung Quốc đã ban hành một loạt các chính sách, chế độ về an sinh xã hội bao gồm cả cứu tế xã hội, chế độ đối xử và chăm sóc đặc biệt nhằm không ngừng đẩy mạnh và điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu nâng cao của xã hội. Tuy nhiên, phạm vi của chế độ an sinh xã hội cho đến những năm giữa của thập kỷ 80 về cơ bản mới được thực hiện ở khu vực thành phố và tập trung vào các doanh nghiệp nhà nước. Kể từ năm 1984, Trung Quốc tiến hành một loạt các cải cách đối với lĩnh vực an sinh xã hội. Năm 1984 bắt đầu cải cách chính sách hưu trí đối với lao động làm việc trong các doanh nghiệp. Năm 1986, ban hành chế độ bảo hiểm thất nghiệp đối với khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Các chính sách BHXH như thai sản, tai nạn lao động, chăm sóc y tế được cải cách và ban hành vào các năm 1994, 1996 và 1998. Năm 1999, chính sách bảo đảm mức sống tối thiểu được đưa ra và năm 2002 mô hình hợp tác xã y tế kiểu mới đối với khu vực nông thôn được thiết lập… Những cải cách và phát triển của hệ thống an sinh xã hội đã thực sự đóng góp vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Bảng 1: Các tổ chức Phật giáo tại Trung Quốc, theo năm thành lập Trước năm Toàn bộ 1949-1966 1967-1977 1978-1991 Sau năm 1992 1949 11.250 1,433 (12,7%) 624 (5,5%) 335 (3.0%) 3.265 (29%) 5.593 (49.7%) Nguồn: CNBS, Atlas tôn giáo, 2014. Hệ thống an sinh xã hội ở Trung Quốc về cơ bản bao gồm: BHXH, cứu trợ xã hội, phúc lợi xã hội, chế độ đối xử và chăm sóc đặc biệt, chính sách tương hỗ xã hội.
  7. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 499 - Chế độ về BHXH gồm: hưu trí, thất nghiệp, BHYT cơ bản, tai nạn lao động và thai sản. Quỹ BHXH bảo đảm mọi cá nhân được trợ cấp và hỗ trợ tài chính khi tuổi già, thất nghiệp, ốm đau, tai nạn lao động và sinh đẻ ở mức cơ bản. Nguồn kinh phí để chi trả các chế độ này chủ yếu trên cơ sở đóng góp của người lao động và chủ sử dụng lao động (nội dung cụ thể của từng chế độ được chúng tôi giới thiệu ở phần sau). - Chế độ cứu trợ giúp xã hội: nhằm cung cấp, hỗ trợ tài chính cho người dân để đảm bảo duy trì mức sống tối thiểu. Nhóm người được chế độ này quan tâm là: những người không có khả năng làm việc, không có khả năng kiếm tiền, có khả năng kiếm tiền nhưng dưới mức tối thiểu và những người có khả năng kiếm việc làm nhưng tạm thời nghỉ vì tai nạn. Nguồn kinh phí để chi chế độ này chủ yếu từ ngân sách địa phương và hỗ trợ của ngân sách Trung ương. - Chế độ phúc lợi xã hội: nhằm thực hiện 5 bảo đảm (ăn, mặc, ở, chăm sóc y tế và chi phí mai táng) cho những người già, trẻ em mồ côi đang sống trong những hoàn cảnh quá khó khăn. Ngoài ra, các doanh nghiệp phúc lợi xã hội được khuyến khích để tạo ra các cơ hội việc làm đối với những người tàn tật. Nguồn kinh phí thực hiện chế độ này được bố trí hàng năm trong ngân sách Trung ương và địa phương. - Chế độ đối xử và chăm sóc đặc biệt: nhằm công nhận và hỗ trợ đối với những người có đóng góp đặc biệt cho tổ quốc và xã hội như người có công với cách mạng, quân nhân, cựu chiến binh. - Chính sách tương hỗ xã hội: nhằm khuyến khích và hỗ trợ đối với các tổ chức xã hội mà thực hiện các hoạt động trợ giúp người đói, nghèo. Các hoạt động này hiện chủ yếu cung cấp bởi tổ chức công đoàn, hội phụ nữ, hội thanh niên, nhà tài trợ nhân đạo thuộc các tổ chức chức phi Chính phủ và các tổ chức trợ giúp hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện. Năm 1996, có 659 ngôi chùa và hiệp hội Phật giáo được xây dựng hoặc thành lập, một đỉnh cao chưa từng có sẽ không lặp lại cho đến năm 2004, đó là năm cuối cùng có dữ liệu chính thức trên toàn quốc. Tăng trưởng sau năm 1996 cho thấy sự hợp nhất của các đền thờ và các tổ chức được thành lập, hoặc một xu hướng đáng ngại hơn là hạn chế sự mở rộng của tôn giáo. Tuy nhiên, tỷ lệ giảm dần của các công trình mới từ năm 1996 đến năm 2004 tương phản với sự tăng trưởng liên tục trong các hoạt động từ thiện được thực hiện bởi các tổ chức Phật giáo trong cùng thời kỳ và sau đó.
  8. 500 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... Bảng 2: Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc và các tổ chức từ thiện liên quan Tỉnh Năm Tên cơ sở Trung 1956 2008 Tổ chức từ thiện Phật giáo Trung Quốc Quốc An Huy 1980 2000 Quỹ lợi ích công cộng Beijijng 1981 - - Trùng 1998 1998 Hội từ thiện Phật giáo Trùng Khánh Khánh Phúc Kiến 1962 1994 Quỹ từ thiện đền Nanputuo Cam Túc 1959 - Quỹ từ thiện Phật giáo Cam Túc Quảng 1982 1994 Quỹ từ thiện Phật giáo Quảng Đông Đông Quảng 1993 2010 Quỹ từ thiện Phật giáo Quảng Tây Tây Quý Châu 1988 - Quỹ từ thiện Phật giáo Quý Châu Hải Nam 1999 - Quỹ từ thiện Phật giáo Hải Nam Hà Bắc 1988 1995 Hội từ thiện Phật giáo Hà Bắc Hắc Long 1984 2005 Giang Hội từ thiện Hắc Long Giang Hà Nam 1983 - Quỹ từ thiện Phật giáo Hà Nam Hồ Bắc 1959 - Hội từ thiện Phật giáo Hồ Bắc Hồ Nam 1985 2000 Quỹ từ thiện Phật giáo Hồ Nam Phong trào từ thiện Phật giáo Giang Tô để Giang Tô 1981 2008 giúp học sinh Giang Tây 1986 2008 Quỹ từ thiện Giang Tây Cát Lâm 1981 - Hội Phật giáo Cát Lâm Liêu Ninh 1957 - Quỹ từ thiện Phật giáo Liêu Ninh Ninh Hạ 1988 - Hội Phật giáo Ninh Hạ Thanh Hải 1981 - Phong trào từ thiện Thanh Hải
  9. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 501 Thiểm 1982 - Hội Phật giáo Thiểm Tây Tây Sơn Đông 1988 - Trung tâm từ thiện Phật giáo Sơn Đông Thượng 1954 - Trung Tâm Phật Giáo Thượng Hải Hải Sơn Tây 1957 2000 Hội từ thiện Phật giáo Sơn Tây Tứ Xuyên 1957 - Hội Phật giáo Tứ Xuyên Thiên Tân 1954 2005 Quỹ từ thiện Phật giáo Thiên Tân Tây Tạng 1956 - - Tân 1984 - - Cương Vân Nam 1957 - Hội Phật giáo Vân Nam Chiết 1980 - Hội Phật giáo Triết Giang Giang Nguồn: Giáo hội Phật giáo Trung Quốc, 2017 Việc mở rộng Hội phật giáo với các tổ chức từ thiện của Trung Quốc khởi nguồn từ tính hướng thiện trong tinh thần Phật giáo. Tính hướng thiện của Phật giáo là một trong những nguồn gốc của chủ nghĩa nhân đạo. Là đạo đề cao con người, lấy con người là trung tâm. Tư tưởng bình đẳng, hòa bình của Phật giáo, lòng từ bi, bác ái, khuyên con người luôn nhớ đến “đạo hiếu”, lấy chữ hiếu làm đầu: “hạnh hiếu là hạnh Phật, tâm hiếu là tâm Phật”, v.v., là những giá trị tích cực, thiết thực góp phần bảo vệ gia đình - tế bào của xã hội, khích lệ mọi người quan tâm đến số phận của cộng đồng, sống lương thiện, coi trọng tính nhân bản, gắn bó với thiên nhiên. Lối sống Phật giáo nêu cao tinh thần “cư trần lạc đạo” góp phần xây dựng lối sống có trách nhiệm, không tham quyền cố vị, không bám lấy lợi ích vật chất, sống thanh cao, tự tại. Chính thông qua thái độ từ bi, không nề hà việc cưu mang, cứu vớt những số phận bất hạnh mà Phật giáo đã cảm hoá được con người, dẫn dắt họ làm điều thiện, bỏ qua lối sống vị kỷ để quan tâm đến con người và xã hội. Sự lan tỏa đạo đức và triết lý Phật giáo một phần đã cảm hóa con người, các tăng ni, Phật tử thường xuyên học tập chánh pháp, tu luyện bản thân. Đó là điều quan trọng tạo điều kiện cho Phật giáo truyền bá sâu rộng và bám rễ lâu bền cùng dân tộc, góp phần định hình những giá trị đạo đức và lối sống cho con người.
  10. 502 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... Phật giáo là đạo nhập thế, hành thiện. Phật giáo luôn đề cao lòng từ bi, nhân ái, được coi là tôn giáo nhập thế gắn bó với dân tộc. Định hướng bởi “Phật pháp bất ly thế gian pháp”, tinh thần cứu khổ, cứu nạn của đức Phật được phát huy rộng rãi, giúp Phật giáo gắn bó chặt chẽ cùng dân tộc. Giáo lý Phật giáo quan niệm con người cần có lòng từ, bi, hỉ, xả (tứ vô lượng tâm). Đây là nhân tố chủ yếu giúp phát triển tâm từ bi, hạnh cứu khổ, định hướng hoạt động của Phật giáo cho con người và vì con người. Trong quan niệm của Phật giáo, những việc tu phước, làm việc thiện chính là con đường để giúp con người có được một cuộc sống an bình. Kinh nhà Phật luôn nhắc đến tinh thần vô ngã, vị tha, khuyên con người sống có trách nhiệm với cộng đồng, thể hiện lòng nhân ái của mình với người khác. Hoạt động từ thiện - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội không chỉ là sự thể hiện tinh thần từ bi, cứu khổ, cứu nạn của tín đồ Phật giáo mà còn đóng vai trò thực hiện công tác bảo trợ, cứu trợ xã hội rất lớn của Phật giáo. Không chỉ là sự giúp đỡ con người bằng các liệu pháp tinh thần, mà còn bằng những hành động mang tính thực tiễn, thiết thực, cụ thể. Nổi bật là sự hỗ trợ vật chất của các tôn giáo trong hoạt động hành đạo với các hoạt động an sinh xã hội ngay trong bản thân từng cộng đồng, thông qua việc giúp đỡ những người nghèo khó, gắn kết và góp phần trong việc nâng cao chất lượng sống của họ.. Suốt quá trình phát triển dài của đất nước, Phật giáo đã là lực lượng xã hội quan trọng, đồng hành cùng Nhà nước và các tổ chức xã hội khác trong các hoạt động từ thiện - xã hội để hỗ trợ người dân, góp phần xây dựng hệ thống an sinh xã hội của nhà nước Trung Hoa, đảm bảo công bằng xã hội. Điều này phản ánh rõ nét vai trò quan trọng của Phật giáo trong đời sống xã hội. Sự liên hệ của Phật giáo trong công tác an sinh xã hội phải nói tới vai trò “bảo trợ xã hội, cứu trợ xã hội”. Đây là yếu tố thứ 2 trong cấu trúc an sinh xã hội. Bảo trợ xã hội được hiểu là sự giúp đỡ của Nhà nước, xã hội, cộng đồng bằng những biện pháp và các hình thức khác nhau đối với các đối tượng bị lâm vào cảnh rủi ro, hạn hán, nghèo đói… vì nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến không đủ khả năng tự lo liệu được cho cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia đình, nhằm giúp họ tránh được mối đe dọa của cuộc sống thường nhật hoặc giúp họ vượt qua những khó khăn ổn định cuộc sống, và hòa nhập cộng đồng. Nó đặc biệt có ý nghĩa đối với một bộ phận là thành viên xã hội trên cơ sở sự tương trợ cộng đồng, chia sẻ rủi ro. Bảo trợ xã hội là hoạt động mang đậm tính nhân đạo, có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội, pháp luật. Điều này xuất phát từ quyền cơ bản của con người trong xã hội. Mỗi người sống trong xã hội đều có quyền được sống, được bình đẳng, được yêu thương đùm bọc, bảo vệ khỏi những biến cố bất lợi, đặc biệt là khi cuộc sống bị đe dọa. Để thực hiện vai trò bảo trợ an sinh xã hội, Phật giáo tham gia công tác xã hội
  11. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 503 như cung cấp dịch vụ giáo dục, y tế, xác lập nhiều quỹ xóa đói giảm nghèo, v.v. Cứu trợ xã hội cung cấp, hỗ trợ thu nhập cho các nhóm dễ bị tổn thương để giúp họ đối phó với những khủng hoảng bất ngờ, vượt qua được khó khăn trong cuộc sống và tồn tại trong xã hội… Góp phần phòng ngừa và giảm thiểu các khả năng dễ bị tổn thương của các cá nhân và những dân cư yếu thế. Để thực hiện vai trò cứu trợ xã hội Phật giáo thường xuyên tổ chức cứu trợ từ thiện, chia sẻ mái ấm tình thương đối với các mảnh đời dễ bị tổn thương, các cá nhân yếu thế thuộc các tầng lớp khác nhau trong xã hội. Cũng giống như nhiều tổ chức xã hội phi chính phủ khác đều thực hiện công tác bảo trợ, cứu trợ xã hội, đều giúp những con người dễ bị tổn thương và các cá nhân yếu thế có thể mau chóng hoà nhập cộng đồng. Tuy nhiên, khi thực hiện vai trò bảo trợ và cứu trợ xã hội Phật giáo đã thể hiện rõ vai trò của một tổ chức luôn đề cao giá trị nhân văn, giá trị con người; đề cao trách nhiệm xã hội trong quá trình thực hiện công tác an sinh xã hội đó. Với tinh thần là đạo tôn trọng và đề cao con người, đặt con người vào vị trí trung tâm, nên các hoạt động an sinh xã hội của Phật giáo ra đời là để đáp ứng nhu cầu cấp thiết cần nhận hỗ trợ của những con người cụ thể để vượt qua khó khăn hiện tại của chính họ. Do đó, trong mỗi hoạt động của mình Phật giáo đều làm cho giá trị, nhân phẩm và quyền con người luôn được đặt lên hàng đầu. Tại Trung Quốc, chùa là nơi tâm niệm cứu độ chúng sinh bình đẳng. Không phân biệt giới tính, nghề nghiệp, tuổi tác, địa vị trong xã hội, bất cứ ai gặp khó khăn, bất trắc trong cuộc sống, bị ruồng bỏ, không nơi nương tựa khi tìm đến của chùa đều được nhà chùa giúp đỡ, cưu mang. Đề cao giá trị cá nhân của mỗi con người, các hoạt động hỗ trợ của nhà chùa cũng đặt yếu tố tinh thần ở tầm quan trọng, các hoạt động của nhà chùa không chỉ dừng ở mức cứu trợ tạm thời mà còn đặc biệt quan tâm tới công tác giáo dục, hướng thiện con người. Khác với những tổ chức cứu trợ xã hội khác, chùa còn mang lại sức mạnh tinh thần, vì thế con người luôn đặt niềm tin vào Phật giáo, nơi mang lại cho con người một sức mạnh tinh thần to lớn, giúp con người có thể giải tỏa căng thẳng do áp lực cuộc sống. Để thực hiện tốt công tác an sinh xã hội, nhà chùa ngoài triển khai những hỗ trợ tức thời, trước mắt, còn phòng ngừa những vấn đề tiêu cực xảy đến với các cá nhân, nhóm cộng đồng thông qua các hoạt động giáo dục. Nhiều chùa đã có trách nhiệm rất cao trong việc hướng dẫn người dân hướng thiện, tránh ác, hướng dẫn người dân làm công tác an sinh xã hội. Các trung tâm bảo trợ xã hội,
  12. 504 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... nuôi trẻ mồ côi, trẻ khuyết tật, người già không neo đơn được thành lập tại nhiều chùa. Điều đó đã làm cho Phật giáo gần với đời. Giúp đỡ cho nhiều cảnh đời khó khăn, cứu được nhiều tâm hồn lầm lạc. Nhiều trẻ đã trưởng thành từ các trung tâm bảo trợ xã hội của nhà chùa và trở thành các nhà giáo, bác sĩ, doanh nhân, v.v. trở thành những công dân có ích, góp phần không nhỏ cho sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Mặt khác, Phật giáo quan niệm cuộc đời là khổ, mục đích căn bản của giáo lý của nhà Phật là nhằm giải thoát con người khỏi nỗi khổ. Nhưng giải thoát không có nghĩa là tu hành xuất thế lánh đời, mà ngược lại, giống như nhiều tôn giáo lớn khác, trong bản thân giáo lý và hoạt động của Phật giáo luôn mang ý thức về cộng đồng với một tinh thần trách nhiệm xã hội cao cả, hành động vì lợi ích của người khác và lợi ích chung cho tất cả mọi người. Giáo lý của nhà Phật là giải thoát sinh tử, đưa con người thoát khổ. Song, giải thoát chính là sự hoàn thành đầy đủ, tận tâm tận lực thực hiện mọi nghĩa vụ và bổn phận của một công dân trong xã hội, chứ không phải là trốn tránh xã hội. Có lẽ vì thế hai mệnh đề “hoằng dương Phật pháp” và “lợi lạc quần sinh” gắn liền với nhau trong giáo lý Phật giáo. Trong kinh điển Phật giáo không có khái niệm “trách nhiệm xã hội”, song tinh thần trách nhiệm xã hội đã thấm đẫm trong tư tưởng của nhà Phật. Kinh Hoa Nghiêm có câu: “Bất vi tự kỷ cầu an lạc, đãn nguyện chúng sinh đắc ly khổ” (Không cầu yên lành cho bản thân, mà chỉ nguyện để chúng sinh thoát khổ) . Hay như tinh thần của Địa Tạng Vương Bồ Tát: “Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật. Chúng sinh độ tận, phương chứng Bồ đề” (Địa ngục chưa hết người thì ta thề không thành Phật. Chỉ khi nào chúng sinh được độ hết thì ta mới chứng Bồ đề”. Trong kinh Dược sư, khi ngài A Nan hỏi bằng cách nào để thoát khỏi những tai nạn, Đức Phật trả lời: “Nếu có chúng hữu tình nào ăn ở bất hiếu, ngũ nghịch, hủy nhục ngôi Tam Bảo, phá hoại phép vua tôi, hủy phạm điều cấm giới thì vua Diêm Ma pháp vương tùy tội nặng nhẹ mà hành phạt. Vì thế ta khuyên chúng hữu tình nên thắp đèn làm phan, phóng sanh, tu phước khiến khỏi được các tai ách, khỏi gặp những tai nạn”.1 Như vậy, trong quan niệm của Phật giáo, những việc làm như phóng sanh, tu phước, làm việc thiện chính là con đường để giúp con người có được một cuộc sống bình an, thoát khỏi tai họa. Ngoài ra, các kinh Khuyến phát bồ đề tâm văn, Diệu pháp Liên Hoa kinh,… đều nhắc đến tinh thần vô ngã, vị tha, tức khuyên con người sống có trách nhiệm với cộng đồng, biết thể hiện lòng nhân ái của mình đến với người khác. Kinh Diệu pháp Liên Hoa, một trong những bộ kinh quan trọng của Phật giáo: “Dẫu cho tạo tội hơn núi cả/ chẳng 1 Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2002), Kinh Dược Sư bổn nguyện công đức (âm-nghĩa), Thích Huyền Dung dịch, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
  13. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 505 nhọc Diệu Pháp vài ba hàng”, đã đề cập đến công đức của người phát tâm từ bi giúp chúng sinh: “Nếu Thiện nam tử! Thiện nữ nhơn thành tựu bốn pháp, thời sau khi Như Lai diệt độ sẽ đặng kinh Pháp Hoa này: Một là được các đức Phật hộ niệm, hai là trồng các cội công đức, ba là trong chánh định, bốn là phát lòng cứu tất cả chúng sanh”. Trách nhiệm xã hội của Phật giáo chính là trách nhiệm đạo đức, là tinh thần luôn xả thân vì người khác, quan tâm tới người khác. Nhiều giáo lý căn bản của nhà Phật cũng là các đức hạnh căn bản, và các đức hạnh đó cũng thể hiện trách nhiệm đối với người khác, đối với nhân sinh, đối với xã hội. Do đó, trách nhiệm xã hội của Phật giáo cũng có thể hiểu chính là ngũ giới (giới sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối và uống rượu), là tứ vô lượng (từ, bi, hỉ, xả), là lục độ (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí tuệ), là tứ nhiếp (bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự). Kinh điển nhà Phật “Vô minh La Sát tập” có viết: “Năng thiện hài hòa, tạo tác nghiệp quả, chuyển luân sinh tử”, nghĩa là hòa hợp với người khác, làm những việc tạo ra sự hài hoà cũng là một công việc tạo thiện, tích đức, đồng thời cũng có tác dụng thoát ly sinh tử. Phật giáo luôn kêu gọi bình đẳng giữa người với người, thúc đẩy sự hòa hợp trong xã hội. Chủ trương chúng sinh bình đẳng, các nước hòa bình, kêu gọi từ bi tế thế, đây là sự thể hiện cao nhất trách nhiệm xã hội của Phật giáo. Do đó, trong quá trình thực hiện công tác bảo trợ xã hội, cứu trợ xã hội nói riêng và công tác an sinh xã hội nói chung Phật giáo không ngừng tuyên truyền nâng cao đạo đức qua những phương thức khác nhau, đó là hoạt động từ thiện, là công tác xã hội, tham gia tích cực vào công tác xã hội, vào sự nghiệp giáo dục, chăm sóc y tế cho tất cả mọi người, tích cực bảo vệ môi trường, bảo vệ sinh thái, v.v. Quan niệm về trách nhiệm xã hội của Phật giáo còn thể hiện qua tình cảm, sự quan hoài của Phật giáo đối với xã hội và nhân sinh, cụ thể là triết lý “vô duyên đại từ, đồng thể đại bi”. Ý nguyện cứu độ những người không có duyên chính là thể hiện một tình cảm vô điều kiện, không vì bất cứ một lý do gì, cũng không phải vì thỏa mãn cái tôi, mà thuần tuý là một hành động thiện tự nhiên. Có được động lực như vậy thì mới có thể “đồng thể đại bi”, nghĩa là coi người khác như chính bản thân mình, cảm thông, chia sẻ và giúp đỡ người khác trên cơ sở bình đẳng, ngang hàng, không vụ lợi. Xuất phát từ quan niệm Phật tính bình đẳng, mà con người ai cũng có Phật tính (“Chúng sinh giai hữu Phật tính”), chúng ta có thể suy luận rằng Phật giáo quan niệm tất cả mọi người đều bình đẳng với nhau. Đạo Sinh trong “Pháp Hoa kinh sớ” có nói: “Nhất thiết chúng sinh, giai đương tác Phật” (Tất cả mọi người đều có thể thành Phật). Con người tự do ngay từ lúc sinh ra, vì vậy con người bình đẳng với
  14. 506 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... nhau cả về nhân phẩm, quyền lợi và trách nhiệm. Đức Phật Thích Ca đã nói: “Tự vi tự y hỗ, tha nhân hà khả y? Tự kỷ thiện điều ngự, chứng nan đắc sở y” (“Tự mình là vị cứu tinh. Tự mình nương tựa vào mình tốt thay. Nào ai cứu được mình đây? Tự mình điều phục hàng ngày cho chuyên” - Kinh Pháp Cú, phẩm 160). Chính vì thế, trong quá trình nhập thế hành đạo, Phật giáo đã sẵn sàng giúp đỡ tất cả mọi người, mọi giai tầng trong xã hội một cách vô điều kiện, hướng con người tới các giá trị chân, thiện, mĩ. Xuất phát từ thuyết duyên khởi: “cái này có thì cái kia có. Cái này không thì cái kia không. Cái này diệt thì cái kia diệt” Phật giáo đã tìm thấy mối tương quan giữa mọi vật, mọi việc, giữa những con người khác nhau trong xã hội. Có lẽ vì thế, Phật giáo có sức mạnh quy tụ rất lớn mọi tầng lớp trong xã hội, tạo nên các mối dây liên hệ, khơi dậy được các giá trị nhân văn, nhân ái truyền thống của dân tộc, hướng con người vun đắp thiện tâm. Các chương trình an sinh xã hội, vì cộng đồng của Phật giáo đều có sức thu hút và lan tỏa rộng rãi trong xã hội, có ảnh hưởng tích cực tới đời sống tâm hồn con người. 3. Kết Luận Như đã phân tích ở trên đây, các tổ chức Phật giáo Trung Quốc đang mở rộng đáng kể, và điều này có nghĩa là tinh thần Phật giáo đã lan tỏa hầu khắp các trụ cột của hệ thống an sinh xã hội của Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc giờ đây đã khuyến khích các tổ chức phật giáo tham gia từ thiện và hỗ trợ việc cung cấp một số dịch vụ xã hội ở tất cả các cấp. Đây là một sự phát triển mới bởi vì cho đến nay, các tổ chức tôn giáo ở quốc gia này bị hạn chế làm các công việc không liên quan đến hoạt động trong các đền thờ Thành viên của các hiệp hội từ thiện Phật giáo tin chắc rằng họ cung cấp cho chính phủ một dịch vụ rất có giá trị. Họ nhận thức được những hạn chế trong các khía cạnh khác nhau của chính sách an sinh xã hội, cho dù đó là chăm sóc sức khỏe, giáo dục hay xóa đói giảm nghèo. Với sự tác động và những biến đổi của kinh tế, chính trị, xã hội, những tranh chấp, mâu thuẫn trong thương mai hiện nay đã, đang, và sẽ còn xuất hiện nhiều vấn đề khó khăn trong xã hội Trung Quốc, làm trở ngại cho quá trình phát triển bền vững của nhà nước Trung Hoa. Bối cảnh đó đã trao cho các tổ chức Phật giáo của Trung Quốc vai trò lớn hơn để góp phần giải quyết hiệu quả những vấn đề xã hội đang đặt ra; qua đó nhằm mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho những con người bất hạnh và khốn khó trong xã hội.
  15. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 507 T ÀI L I ỆU T H A M K H ẢO 1. ACMRC (All China Marketing Research Co.), 2010, The Atlas of Religions in China, Beijing, National Bureau of Statistics of China. 2. CHENG, Tung-Ren, and BROWN, Deborah (eds.), 2005, Religious Organizations and Democracy in Contemporary Asia, Armonk, M. E. Sharpe. 3. DICKINSON, Edward Ross, 1996, The Politics of German Child Welfare from the Empire to the Federal Republic, Cambridge, Harvard University Press. 4. DUARA, Prasenjit, 1991, “Knowledge and Power in the Discourse of Modernity: The Campaigns against Popular religion in Early Twentieth-Century China”, Journal of Asian Studies, 50-1, p. 67-83. 5. GOODMAN, Roger, WHITE, Gordon and KWON, Huck-Ju (eds.), 1998, The East Asian Welfare Model: Welfare Orientalism and the State, London, Routledge. 6. GOOSSAERT, Vincent, 2006, “1898: The Beginning of the End for Chinese Religion?”, Journal of Asian Studies, 65-2, p. 307-336. 7. GOUGH, Ian, and WOOD, Geoff (eds.), 2004, Insecurity and Welfare Regimes in Asia, Africa and Latin America, Cambridge, Cambridge University Press. 8. HAGGARD, Stephen, and KAUFMAN, Robert F. (eds.), 2008, Development, Democracy, and Welfare States: Latin America, East Asia, and Eastern Europe, Princeton, Princeton University Press. 9. HUANG, Julia, 2009, Charisma and Compassion: Cheng Yen and the Buddhist Tzu Chi Movement, Cambridge, Harvard University Press. 10. JI, Zhe, 2007, « Mémoire reconstituée: les stratégies mnémoniques dans la reconstructiond’un monastère bouddhiste », Cahiers internationaux de sociologie, 122, p. 145-167. –, 2008, “Secularization as Religious Restructuring: Statist Institutionalization of Chinese Buddhism and its Paradoxes”, in Yang M. (ed.), Chinese Religiosities: Afflictions of Modernity and State Formation, Berkeley, California University Press, p. 233-260. –, (ed.), 2011, Religion, éducation et politique en Chine moderne, Extrême-Orient Extrême-Occident, 33, Saint-Denis: Presses universitaires de Vincennes. 11. YANG, Fenggang, and WEI, Dedong, 2005, “The Bailin Buddhist Temple: Thriving Under Communism”, in Yang F. and Tamney J. B. (eds.), State, Market, and Religions in Chinese Societies, Leiden, Brill, p. 63-86.
  16. 508 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 12. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2002), Kinh Dược Sư bổn nguyện công đức (âm- nghĩa), Thích Huyền Dung dịch, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội. 13. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2008), Kinh Diệu pháp Liên Hoa, Thích Trí Tịnh dịch, Hà Nội, Nxb. Tôn giáo. 14. Thích Trí Quảng (2008), Phật giáo nhập thế và phát triển, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2