intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tình trạng lo âu và ảnh hưởng của lo âu trên những cặp vợ chồng đến khám vô sinh tại Bệnh viện Hùng Vương

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

56
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu này nhằm tìm ra tỷ lệ lo âu ở những cặp vợ chồng vô sinh, đồng thời khảo sát những ảnh hưởng của lo âu trên mối quan hệ vợ chồng và cách thức họ đương đầu với vấn đề nầy. Nghiên cứu thực hiện trên 136 cặp vợ chồng vô sinh lần đầu tiên đến khám tại khoa hiếm muộn bệnh viện phụ sản Hùng Vương từ 01/10/2009 đến 29/04/2010.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tình trạng lo âu và ảnh hưởng của lo âu trên những cặp vợ chồng đến khám vô sinh tại Bệnh viện Hùng Vương

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> TÌNH TRẠNG LO ÂU VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA LO ÂU<br /> TRÊN NHỮNG CẶP VỢ CHỒNG ĐẾN KHÁM VÔ SINH<br /> TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG<br /> Nguyễn Thị Như Ngọc*, Nguyễn Thanh Hiệp**<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Đặt vấn đề: Vô sinh được biết đến như là một nguyên nhân gây căng thẳng nghiêm trọng mà các cặp<br /> vợ chồng đang phải gánh chịu. Đã có nhiều nghiên cứu trên thế giới về tình trạng rối loạn tâm lý ở những<br /> cặp vợ chồng vô sinh, tuy nhiên vấn đề này vẫn ít được quan tâm ở nước ta. Chúng tôi thực hiện nghiên<br /> cứu này nhằm tìm ra tỷ lệ lo âu ở những cặp vợ chồng vô sinh, đồng thời khảo sát những ảnh hưởng của lo<br /> âu trên mối quan hệ vợ chồng và cách thức họ đương đầu với vấn đề nầy.<br /> Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang thực hiện trên 136 cặp vợ chồng vô sinh lần đầu tiên đến khám<br /> tại khoa Hiếm Muộn bệnh viện phụ sản Hùng Vương từ 01/10/2009 đến 29/04/2010.<br /> Kết quả: Tỷ lệ lo âu được tìm thấy 3,7% ở nhóm người chồng và 9,6% ở nhóm người vợ, trong đó<br /> 2,2% đều có lo âu cả hai vợ chồng.<br /> Ở người vợ có mối tương quan giữa tình trạng lo âu và sự kiểm soát – áp chế từ người chồng, nhưng<br /> chúng tôi không tìm thấy mối tương quan giữa lo âu ở người chồng với sự kiểm soát – áp chế hay được sự<br /> quan tâm – chăm sóc từ người vợ.<br /> Trong bốn hình thức đương đầu với vô sinh, nhóm người vợ sử dụng hình thức “đương đầu chủ<br /> động” nhiều hơn ở người chồng. Riêng ở người vợ, nhóm có lo âu sử dụng hình thức “Tránh né chủ<br /> động” nhiều hơn nhóm không lo âu, ngoài ra không có sự khác biệt nào giữa hai nhóm về các hình thức<br /> đương đầu còn lại. Ở người chồng không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa lo âu với viêc sử dụng 4 hình thức<br /> đương đầu.<br /> Kết luận: Tình trạng lo âu chiếm tỷ lệ cao ở phụ nữ và có liên quan đến một số yếu tố có thể làm nặng<br /> thêm tình trạng này như: điều kiện kinh tế, thời gian vô sinh, sự kiểm soát – áp chế của người chồng đối<br /> với người vợ. Do đó việc nhận biết các yếu tố này sẽ giúp làm giảm tình trạng lo âu ở các cặp vợ chồng vô<br /> sinh cũng như góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả điều trị.<br /> Từ khóa: Vô sinh, rối loạn tâm lý.<br /> <br /> ABSTRACT<br /> PSCHYCHOLOGICAL DISORDERS IN INFERTILE COUPLES COME TO THE INFERTILITY CLINIC<br /> OF HUNG VUONG HOSPITAL<br /> Nguyen Thi Nhu Ngoc, Nguyen Thanh Hiep<br /> * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 – 2011: 219 - 223<br /> Background: Childlessness is known as a potential cause of stress that many couples are currently<br /> suffering. Many studies about pschychological disorders were undertaken in infertile couples in several<br /> countries, but little is known in Viet Nam. This study aims to determine the prevalance of anxiety as well<br /> as its impacts on marital relationships and how to cope with infertility in childless couples.<br /> Patients and Method: A cross – sectional survey on 136 infetile couples first come to the infertility<br /> clinic of Hung Vuong hospital was done from 01/10/2009 to 29/04/2010.<br /> * ThS. BS. Giảng viên Bộ môn Dịch Tễ Học Lâm Sàng, ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch; ** TS. BS. Phó Trưởng<br /> Phòng Nghiên Cứu Khoa Học và Hợp Tác Quốc Tế - Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch - ĐT: 0902652435<br /> Tác Nghị<br /> giả liên KH<br /> lạc: ThS.BS.<br /> Nguyễn<br /> Như Ngọc<br /> 219<br /> Hội<br /> KT Đại<br /> Học YThị<br /> Phạm<br /> Ngọc Thạch Năm 2011<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011<br /> <br /> Results: Prevalence of anxiety was 3.7% in male, 9.6% in female, in which only three couples (2.2%)<br /> both have anxiety in both.<br /> In wives, there was significant relationship between anxiety and control manner from their husbands<br /> (p =0.019) but we did not find out any similar concern in husbands.<br /> Among four ways of coping, active-confronting was used more frequently in female than in male (p =<br /> 0.000). Specially in women, there was significant diferrence in using active-avoidance pattern between<br /> anxiety group and non anxiety group (p = 0.000).<br /> Conclusions: In general, anxiety disorder was high in women and related to some factors such as:<br /> economic condition, infertility duration, and control manner from their husbands, which might raise the<br /> level of this state. Therefore, the indentification of these one would help to reduce psychological disorders in<br /> infertile couples as well as contribute to increase the outcome of their treatment.<br /> Key words: infertility, pschychological disorders.<br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Hiện nay việc tìm hiểu tâm lý của những<br /> người bị vô sinh (đặc biệt là người phụ nữ)<br /> ngày càng được quan tâm ở nhiều nươc trên<br /> thế giới. Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng<br /> mức độ trầm cảm ở những phụ nữ vô sinh<br /> thường cao, mức độ lo âu và trầm cảm ở họ<br /> tương đương với những phụ nữ bị ung thư<br /> hay có bệnh lý tim mạch(7). Tuy nhiên, ở nước<br /> ta, hiện nay việc tìm hiểu tâm lý bệnh nhân vô<br /> sinh trước và trong khi điều trị dường như<br /> vẫn chưa được chú ý nhiều, và cũng ít có<br /> nghiên cứu nào thống kê về tỷ lệ những cặp<br /> vợ chồng vô sinh có vấn đề về tâm lý. Nghiên<br /> cứu này nhằm tìm ra tỷ lệ có rối loạn tâm lý ở<br /> những cặp vợ chồng vô sinh, đồng thời khảo<br /> sát những ảnh hưởng của tình trạng này trên<br /> mối quan hệ vợ chồng và cách thức họ đương<br /> đầu với vấn đề vô sinh.<br /> <br /> ĐỐI TƯỢNG<br /> NGHIÊN CỨU<br /> <br /> –<br /> <br /> PHƯƠNG<br /> <br /> PHÁP<br /> <br /> Mức độ quan tâm, chăm sóc và sự kiểm<br /> soát, áp chế trong mối quan hệ vợ chồng: dựa<br /> vào Thang điểm Intimate Bond Measure<br /> (IBM) đánh giá mối quan hệ vợ chồng(8).<br /> Biến số nghiên cứu được thu thập qua<br /> phỏng vấn trực tiếp bằng bảng câu hỏi soạn<br /> sẳn gồm 88 câu chia làm 5 phần:<br /> <br /> <br /> Phần 1: Thông tin chung (13 câu).<br /> <br /> <br /> <br /> Phần 2: Đánh giá sức khoẻ tinh thần<br /> chung (12 câu).<br /> <br /> <br /> <br /> Phần 3: Đánh giá lo âu (20 câu).<br /> <br /> <br /> <br /> Phần 4: Đánh giá mối quan hệ vợ chồng<br /> (24 câu).<br /> <br /> <br /> <br /> Phần 5: Đánh gía cách thức đương đầu<br /> với vấn đề vô sinh (19 câu).<br /> <br /> KẾT QUẢ<br /> <br /> Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên<br /> những cặp vợ chồng vô sinh khám lần đầu<br /> tiên tại khoa Hiếm Muộn Bệnh viện phụ sản<br /> Hùng Vương từ 01/10/2009 đến 29/04/2010.<br /> Cở mẫu 136 cặp vợ chồng được xác định<br /> dựa vào công thức xác định một tỷ lệ với p =<br /> 14,8% (tỷ lệ bị lo âu ở người vợ trong số<br /> những cặp vợ chồng điều trị vô sinh ở Thụy<br /> Điển theo nghiên cứu của H.Volgten và cộng<br /> sự từ năm 2005 - 2007)(9).<br /> <br /> 220<br /> <br /> Tình trạng lo âu: được đánh giá dựa trên<br /> Thang điểm Zung tự đánh giá lo âu.<br /> <br /> Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu : 136<br /> cặp vợ chồng<br /> - Tuổi: tuổi trung bình của người chồng là<br /> 33,07 ± 5,51 trong đó tập trung nhiều nhất ở<br /> lớp tuổi 30-34 tuổi (37,5%). Ở người vợ, độ<br /> tuổi trung bình trẻ hơn so với người chồng<br /> (30,29±5,16) và 41,9% trong độ tuổi 25-29.<br /> - Trình độ học vấn: phân bố tương tự<br /> nhau trong nhóm người chồng và người vợ,<br /> <br /> Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011<br /> và hơn 50% các cặp vợ chồng có trình độ từ<br /> cấp III trở lên, trong đó tỷ lệ học trên cấp III<br /> chiếm nhiều nhất (31,6% - 33,1%).<br /> - Nghề nghiệp: không có đối tượng thất<br /> nghiệp trong dân số nghiên cứu. Chiếm tỷ lệ<br /> cao nhất ở cả 2 nhóm vợ và chồng là công<br /> nhân – viên chức (48,5% -52%), kế đến là<br /> nhóm lao động tự do (bao gồm: thợ may, thợ<br /> hồ, thợ làm tóc, buôn bán…). Nhóm tự kinh<br /> doanh (gồm kinh doanh mỹ phẩm, vật liệu<br /> xây dựng…) chiếm tỷ lệ tương đương ở nhóm<br /> vợ và chồng (8-11,8%).<br /> - Kinh tế gia đình: gần 90% các cặp vợ<br /> chồng có tình trạng kinh tế gia đình vừa đủ<br /> sống, trong khi đó những cặp vợ chồng có<br /> mức sống khá giả và khó khăn chiếm một tỷ<br /> lệ nhỏ ngang nhau (5,1%).<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN TÂM LÝ:<br /> Các áp lực gia đình phải gánh khi vô sinh, các<br /> vấn đề khác đang lo lắng ngoài vô sinh<br /> CHỒNG<br /> YẾU TỐ KHẢO SÁT Tần số<br /> <br /> Tỷ lệ<br /> (%)<br /> <br /> VỢ<br /> Tần số<br /> <br /> Tỷ lệ<br /> (%)<br /> <br /> Các áp lực gia đình phải gánh khi vô sinh<br /> Không<br /> <br /> 120<br /> <br /> 88,2<br /> <br /> 111<br /> <br /> 81,6<br /> <br /> Có<br /> <br /> 16<br /> <br /> 11,8<br /> <br /> 25<br /> <br /> 18,4<br /> <br /> Đang lo lắng về các vấn đề khác ngoài vấn đề vô sinh:<br /> Không<br /> <br /> 109<br /> <br /> 80,1<br /> <br /> 109<br /> <br /> 80,1<br /> <br /> Có<br /> <br /> 27<br /> <br /> 19,9<br /> <br /> 27<br /> <br /> 19,9<br /> <br /> Vấn đề lo lắng của các cặp vợ chồng khi đến<br /> khám và điều trị tại BV phụ sản Hùng Vương<br /> <br /> - Nơi cư trú: đối tượng nghiên cứu đến từ<br /> 22 quận, huyện trong thành phố Hồ Chí<br /> Minh, trong đó cư trú nhiều nhất tại quận 11<br /> và huyện Hóc Môn (cùng chiếm tỷ lệ 10,3%).<br /> - Tôn giáo: ở người chồng và người vợ<br /> tương tự nhau: nhóm không theo tôn giáo<br /> chiếm tỷ lệ cao nhất khoảng 70%.<br /> Đặc điểm về tiền căn sản khoa của các cặp vợ<br /> chồng:<br /> <br /> - Tình trạng lo âu chiếm tỷ lệ không cao<br /> trong trong nhóm đối tượng lần đầu đến<br /> khám vô sinh tại BV phụ sản Hùng Vương,<br /> trong đó tỷ lệ lo âu ở người vợ (9,6%) cao gần<br /> gấp ba lần so với người chồng (3,7%).<br /> Khảo sát các mối tương quan:<br /> - Khảo sát các mối tương quan giữa lo âu<br /> với các đặc điểm về trình độ học vấn, điều<br /> kiện kinh tế gia đình, áp lực gia đình và tiền<br /> căn khám vô sinh thì có sự khác biệt có ý<br /> nghĩa thống kê về tình trạng lo âu giữa nhóm<br /> <br /> Đặc điểm về tiền sử khám hiếm muộn trước đây:<br /> <br /> có kinh tế gia đình khó khăn và nhóm đủ<br /> sống trở lên (p = 0,002).<br /> - Thời gian vô sinh trung bình ở nhóm có<br /> lo âu cao hơn nhóm không lo âu, sự khc biệt<br /> ny cĩ ý nghĩa thống k (p = 0,021).<br /> <br /> Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011<br /> <br /> 221<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011<br /> <br /> - Mối tương quan giữa lo âu và mối quan<br /> hệ vợ chồng:<br /> Mối quan<br /> hệ vợ<br /> chồng<br /> <br /> Lo âu<br /> <br /> Quan tâm - Không<br /> Có<br /> Chăm sóc<br /> Kiểm soát - Không<br /> Có<br /> Ap chế<br /> <br /> Vợ<br /> Điểm<br /> trung<br /> p<br /> bình<br /> 29,35 0,105<br /> 25,38<br /> 13,46 0,019<br /> 18,08<br /> <br /> Chồng<br /> Điểm<br /> trung<br /> p<br /> bình<br /> 29,74<br /> 0,309<br /> 32,20<br /> 16,95 0,065<br /> 22,40<br /> <br /> Mối tương quan giữa các hình thức đương đầu<br /> với vô sinh ở người vợ và người chồng<br /> <br /> Vợ<br /> Chồng<br /> Vợ<br /> Chồng<br /> Đương đầu Vợ<br /> Chồng<br /> chủ động<br /> <br /> Điểm<br /> trung<br /> bình<br /> 3,02<br /> 2,60<br /> 4,88<br /> 4,37<br /> 11,72<br /> 9,08<br /> <br /> Đương đầu Vợ<br /> có ý nghĩa Chồng<br /> <br /> 9,89<br /> 9,10<br /> <br /> Hình thức<br /> Nhóm<br /> đương đầu<br /> Tránh né<br /> chủ động<br /> Tránh né bị<br /> động<br /> <br /> Độ lệch<br /> chuẩn<br /> 2,463<br /> 2,563<br /> 2,517<br /> 2,570<br /> 4,510<br /> 4,676<br /> 3,187<br /> 3,396<br /> <br /> t<br /> <br /> p<br /> <br /> 1,399 0,163<br /> 1,644 0,101<br /> 4,739 0,000<br /> 1,970 0,050<br /> <br /> BÀN LUẬN<br /> 42,6% người chồng và 62,5% người vợ<br /> không thoải mái về mặt tinh thần. Riêng với<br /> tình trạng lo âu, 3,7% người chồng (5/136) và<br /> 9,6% người vợ (13/136) có lo âu. Kết quả này<br /> phù hợp với nghiên cứu của Brennan<br /> D.Peterson(6),<br /> của<br /> Beutel(10)<br /> và<br /> của<br /> (12)<br /> T.Wischmann . Điều này có thể được giải<br /> thích bởi những áp lực mà người phụ nữ phải<br /> gánh chịu nhiều hơn và nặng nề hơn so với<br /> nam giới: áp lực từ bản thân, từ xã hội, đặc<br /> biệt là từ phía người chồng và gia đình chồng.<br /> Tỷ lệ đối tượng bị lo âu trong khảo sát<br /> thấp hơn khi so sánh với nghiên cứu của<br /> H.Volgsten và cộng sự tại Thuỵ Điển(9) cho kết<br /> quả 4,9% nam giới và 14,8% phụ nữ. Riêng ở<br /> phụ nữ, một số nghiên cứu ở Châu Á như<br /> nghiên cứu của Hidehiko Matsubayashi tại<br /> Nhật Bản(6) ghi nhận 38,6% phụ nữ vô sinh bị<br /> rối loạn về mặt cảm xúc, trong khi đó tại Đài<br /> Bắc, 23,2% phụ nữ có lo âu khi đến phòng<br /> khám HTSS theo báo cáo của Ting-Hsiu<br /> Chen(3). Sự khác biệt có thể vì văn hóa khác<br /> <br /> 222<br /> <br /> nhau, cách nhìn nhận vấn đề cũng như những<br /> phương pháp hỗ trợ tâm lý về mặt xã hội<br /> cũng sẽ khác nhau; công cụ đánh giá tâm lý<br /> khác nhau; ảnh hưởng bởi những yếu tố khác<br /> (kinh tế, học vấn, lo lắng khác về công việc…)<br /> Tình trạng lo âu ở người vợ không liên<br /> quan với sự Quan tâm - Chăm sóc của chồng<br /> (p = 0,105) nhưng lại liên quan một cách có ý<br /> nghĩa với sự Kiểm soát - Ap chế của chồng (p<br /> = 0,019). Theo nghiên cứu của Gulseren L ở<br /> Thổ Nhĩ Kỳ(5), những phụ nữ vô sinh có mối<br /> quan hệ không tốt với chồng thường có biểu<br /> hiện<br /> Cách thức đương đầu với vô sinh : Nam<br /> giới thường có tâm lý vững vàng và mạnh mẽ<br /> hơn phụ nữ, bên cạnh đó, sự quan tâm của họ<br /> có lẽ cũng ít hơn nên vì thế tinh thần họ sẽ<br /> thoải mái hơn. Bằng chứng là ít nam giới hơn<br /> phụ nữ có tình trạng lo âu (3,7% so với 9,6%),<br /> ngoài ra tỷ lệ nam giới không thoải mái về<br /> mặt tinh thần cũng ít hơn phụ nữ (42,6% so<br /> với 62,5%). Chính vì vậy, họ ít khi cần phải<br /> tìm kiếm những cách thức để đương đầu với<br /> tình trạng vô sinh hay phải nhờ đến sự hỗ trợ<br /> về tâm lý để giảm bớt tình trạng lo âu. Về<br /> phía người phụ nữ, họ có xu hướng bị ảnh<br /> hưởng về mặt cảm xúc nhiều hơn nam giới<br /> khi phải đối diện với tình trạng vô sinh(5).<br /> Trong nghiên cứu này, nhóm người vợ lo âu<br /> sử dụng hình thức “Tránh né chủ động”<br /> nhiều hơn nhóm không lo âu một cách có ý<br /> nghĩa, đây là một yếu tố dự báo mức độ stress<br /> cao theo L.Schmidt(8).<br /> Tương tự nghiên cứu của Fatemeh<br /> Ramezanzadeh ở Iran(1) thời gian vô sinh<br /> trung bình của nhóm có lo âu cao hơn nhóm<br /> không lo âu, sự khác biệt này có ý nghĩa<br /> thống kê (p = 0,021); ở người chồng không tìm<br /> thấy sự tương quan này. Các nhà nghiên cứu<br /> còn ghi nhận rằng tình trạng lo âu thường<br /> xuất hiện sau 4-6 năm vô sinh và mức độ này<br /> càng trầm trọng hơn nếu thời gian vô sinh kéo<br /> <br /> Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011<br /> dài 6-7 năm. Nghiên cứu khác ở Hoa Kỳ của<br /> Berg BJ[1].<br /> Khác với nghiên cứu của Gulseren L và<br /> cộng sự ở Thổ Nhĩ Kỳ(5), chúng tôi không tìm<br /> thấy mối tương quan có ý nghĩa giữa lo âu và<br /> áp lực gia đình ở cả hai nhóm người vợ và<br /> người chồng. Kết quả này có thể được giải<br /> thích do sự khác nhau về văn hoá giữa hai<br /> quốc gia cũng như do cỡ mẫu nghiên cứu<br /> nhỏ.<br /> Tương quan giữa lo âu và điều kiện kinh<br /> tế gia đình: Qua khảo sát chúng tôi thấy rằng<br /> điều kiện kinh tế gia đình khó khăn có liên<br /> quan với tình trạng lo âu ở người vợ, nhưng<br /> sự liên quan này không được tìm thấy ở<br /> người chồng. Lý giải cho kết quả trên, chúng<br /> tôi nghĩ rằng nguồn thu nhập của gia đình có<br /> thể được làm ra từ người chồng, hay người vợ<br /> hay cả hai vợ chồng, thế nhưng việc chi tiêu<br /> trong gia đình lại thường do người vợ đảm<br /> trách. Vì thế, khi kinh tế gia đình gặp khó<br /> khăn thì việc cân đối các khoản chi tiêu cũng<br /> sẽ trở nên khó khăn đối với người vợ và điều<br /> này có thể sẽ tạo thêm áp lực cho họ trong khi<br /> quán xuyến công việc gia đình.<br /> <br /> nhận biết các yếu tố này sẽ giúp làm giảm<br /> tình trạng lo âu ở các cặp vợ chồng vô sinh<br /> cũng như góp phần nâng cao chất lượng và<br /> hiệu quả điều trị.<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1.<br /> 2.<br /> <br /> 3.<br /> <br /> 4.<br /> <br /> 5.<br /> <br /> 6.<br /> <br /> 7.<br /> <br /> 8.<br /> <br /> KẾT LUẬN<br /> Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy có<br /> tình trạng lo âu trong dân số nghiên cứu,<br /> tình trạng này chiếm 3,7% ở người chồng và<br /> 9,6% ở người vợ, trong đó 2,2% cặp lo âu cả<br /> hai vợ chồng.<br /> Tình trạng lo âu chiếm tỷ lệ cao ở phụ nữ<br /> và có liên quan đến một số yếu tố có thể làm<br /> nặng thêm tình trạng này như: điều kiện kinh<br /> tế, thời gian vô sinh, sự kiểm soát – áp chế của<br /> người chồng đối với người vợ. Do đó việc<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> 9.<br /> <br /> 10.<br /> <br /> 11.<br /> 12.<br /> <br /> Berg B. J, Wilson J.F. Psychological functioning across stages of<br /> treatment for infertility. J Behav Med. 1991 Feb;14(1):11-26.<br /> Beutel M, Kupfer J, Kirchmeyer P, Kehde S, Kohn F. M,<br /> Schroeder-Printzen I, et al. Treatment-related stresses and<br /> depression in couples undergoing assisted reproductive<br /> treatment by IVF or ICSI. Andrologia. 1999 Jan;31(1):27-35.<br /> Chen Ting Hsiu, Chang Sheng Ping, Tsai Chia Fen, Juang Kai<br /> Dih. Prevalence of depressive and anxiety disorders in an<br /> assisted reproductive technique clinic. Hum Reprod. 2004<br /> October 1, 2004;19(10):2313-8.<br /> Domar A. D, Zuttermeister P. C, Friedman R. The psychological<br /> impact of infertility: a comparison with patients with other<br /> medical conditions. J Psychosom Obstet Gynaecol. 1993;14<br /> Suppl:45-52.<br /> Gulseren L, Cetinay P, Tokatlioglu B, Sarikaya O. O, Gulseren S,<br /> Kurt S. Depression and anxiety levels in infertile Turkish<br /> women. J Reprod Med. 2006 May;51(5):421-6.<br /> Matsubayashi Hidehiko, Hosaka Takashi, Izumi Shun-ichiro,<br /> Suzuki Takahiro, Makino Tsunehisa. Emotional distress of<br /> infertile women in Japan. Hum Reprod. 2001 May 1,<br /> 2001;16(5):966-9.<br /> Peterson BD, Newton CR, Feingold T. Anxiety and sexual stress<br /> in men and women undergoing infertility treatment. Fertil Steril.<br /> 2007 Oct;88(4):911-4.<br /> Schmidt L, Holstein BE, Christensen U, Boivin J.<br /> Communication and coping as predictors of fertility problem<br /> stress: cohort study of 816 participants who did not achieve a<br /> delivery after 12 months of fertility treatment. Hum Reprod.<br /> 2005 Nov;20(11):3248-56.<br /> Vivien K VC, Hendrick,. Interfinity: Psychological Implications<br /> of diognosis and treatment. Clinical Manual of Women’s Mental<br /> Health2007. p. 115 - 25.<br /> Volgsten H, Skoog Svanberg A, Ekselius L, Lundkvist O,<br /> Sundstrom Poromaa I. Prevalence of psychiatric disorders in<br /> infertile women and men undergoing in vitro fertilization<br /> treatment. Hum Reprod. 2008 Sep;23(9):2056-63.<br /> Wilhelm K, Parker G. The development of a measure of intimate<br /> bonds. Psychol Med. 1988 Feb;18(1):225-34.<br /> Wischmann T, Scherg H, Strowitzki T, Verres R. Psychosocial<br /> characteristics of women and men attending infertility<br /> counselling. Hum Reprod. 2009 Feb;24(2):378-85.<br /> <br /> 13.<br /> <br /> Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011<br /> <br /> 223<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0