intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tình trạng stress và các yếu tố liên quan ở học sinh trường THPT Nam Hà, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai năm 2012

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

98
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài này được tiến hành nhằm xác định tỷ lệ stress ở học sinh trường THPT Nam Hà, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và các yếu tố liên quan. Đây là nghiên cứu cắt ngang mô tả tại trường Nam Hà, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai năm 2012. Cỡ mẫu là 401 học sinh, được chọn theo cụm với đơn vị cụm là lớp, chọn được 9 lớp. Mỗi khối chọn ngẫu nhiên 3 lớp bằng cách bốc thăm ngẫu nhiên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tình trạng stress và các yếu tố liên quan ở học sinh trường THPT Nam Hà, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai năm 2012

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br />  <br /> <br /> TÌNH TRẠNG STRESS VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở HỌC SINH <br /> TRƯỜNG THPT NAM HÀ, THÀNH PHỐ BIÊN HOÀ, TỈNH ĐỒNG NAI <br /> NĂM 2012 <br /> Phùng Đức Nhật*, Điền Ngọc Trang*, Nguyễn Nhất Chi Mai*, Nguyễn Thị Tuyết Vân*<br /> <br /> TÓM TẮT <br /> Đặt vấn đề: Ở Việt Nam, vấn đề stress học đường đang được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm bởi những hệ <br /> quả do stress gây ra đối với học sinh như trầm cảm, có hành vi gây hấn hoặc thậm chí tự sát. Trong những năm <br /> gần đây, viện Tâm thần Trung Ương, khoa tâm thần bệnh viện Nhi Trung Ương và các trung tâm tư vấn ngày <br /> càng nhận nhiều phụ huynh đưa con em đi khám, với các triệu chứng chủ yếu là kém ăn, mất ngủ, chóng mặt, <br /> khó thở, tay chân bủn rủn.<br /> Mục tiêu: Xác định tỷ lệ stress ở học sinh trường THPT Nam Hà, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và <br /> các yếu tố liên quan. <br /> Phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu cắt ngang mô tả tại trường Nam Hà, thành phố Biên Hòa, <br /> tỉnh Đồng Nai năm 2012. Cỡ mẫu là 401 học sinh, được chọn theo cụm với đơn vị cụm là lớp, chọn được 9 lớp. <br /> Mỗi khối chọn ngẫu nhiên 3 lớp bằng cách bốc thăm ngẫu nhiên. <br /> Kết quả: Điểm trung bình tự cảm nhận stress của đối tượng tham gia là 23,9 +/‐ 4,35 điểm. Tỷ lệ học sinh <br /> có biểu hiện stress theo thang đo PSS‐10 (>=24 điểm) là 44,8%, trong đó stress bệnh lý nhẹ chiếm 34,8%, stress <br /> bệnh lý nặng chiếm 10%. Nghiên cứu phát hiện các yếu tố sau là yếu tố gây stress ở học sinh: lo lắng về kết qủa <br /> học tập, về tương lai; lo lắng về kinh tế gia đình, về áp lực học tập, tình hình an ninh nơi ở và thiếu bạn chia sẻ <br /> khi buồn. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ stress ở học sinh với tỷ lệ học sinh cảm thấy lo lắng về <br /> kết quả học tập, về tương lai và về bệnh của bản thân. Những học sinh lo lắng về kinh tế gia đình bị stress cao gấp <br /> 1,56 lần học sinh không lo lắng về kinh tế gia đình. Học sinh lo lắng nhiều về áp lực học tập sẽ bị stress gấp 1,81 <br /> lần học sinh không lo lắng. Tỷ lệ học sinh lo lắng vì không có bạn để chia sẻ cao gấp 1,57 lần học sinh không lo <br /> lắng. Nhóm học sinh lo lắng về tình hình an ninh nơi ở bị stress gấp 1,5 lần nhóm không lo lắng. <br /> Kết luận: Tỷ lệ stress ở học sinh là 44,8%, trong đó stress bệnh lý nhẹ là 34,8%, stress bệnh lý nặng là 10%. <br /> Nghiên cứu tìm thấy mối liên quan giữa tình trạng stress của học sinh với lo lắng về: ngoại hình bản thân, kinh <br /> tế gia đình, áp lực học tập từ phía thầy cô, an ninh nơi ở, không có bạn bè để chia sẻ khi gặp chuyện buồn. Trong <br /> đó, áp lực học tập từ phía thầy cô và kinh tế gia đình là 2 yếu tố gây stress chính ở học sinh. <br /> Kiến nghị: Nhà trường cần xây dựng phòng tư vấn tâm lý và chăm sóc sức khỏe tâm thần để giải tỏa các <br /> vấn đề tâm lý cho học sinh.  <br /> Từ khóa: stress, học sinh trung học phổ thông.  <br /> <br /> ABSTRACT <br /> THE STATUS OF STRESS AND RELATED FACTORS OF HIGH SCHOOL STUDENTS IN NAM HA <br /> SCHOOL, BIEN HOA CITY, DONG NAI PROVINCE, 2012 <br /> Phung Duc Nhat, Dien Ngoc Trang, Nguyen Nhat Chi Mai, Nguyen Thi Tuyet Van  <br /> * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 639 ‐ 647 <br /> Background:  In  Viet  Nam,  stress  in  school  students  had  been  concerned  by  many  researchers  due  to  its <br /> * Viện Y tế công cộng TP. Hồ Chí Minh <br /> Tác giả liên lạc: Ths. Phùng Đức Nhật <br /> <br /> Chuyên Đề Y Tế Công Cộng <br /> <br /> ĐT: 0818103434 <br /> <br /> Email:phungducnhat@ihph.org.vn <br /> <br /> 639<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014<br /> <br />  <br /> consequences such as depression, rebelious behaviors, or even suicide. Recently, the central Institute for Mental <br /> Health, the mental health department of Central Pediatrics Hospital, and many counselling centers received more <br /> and  more  school  students  accompanied  by  their  parents  coming  to  consult  with  symptoms  like  anorexia, <br /> insomnia, dyspnea, weakness of limbs. <br /> Objectives: To determine the proportion of students having stress in Nam Ha high school, Bien Hoa city, <br /> Dong Nai province and its related stressors. <br /> Methods: This is a cross‐sectional study at Nam Ha high school, Bien Hoa city, Dong Nai province in 2012 <br /> with a sample of 401 students by class clusters, randomly chosed 3 classes for each grades: 10th grade, 11th grade, <br /> and 12th grade. <br /> Result:  The  mean  of  self‐perceived  stress  score  was  23,9  +/‐  4.35.  Proportion  of  students  having  stress <br /> measured by PSS‐10 scale was 44.8%, in which mild stress was 34.8% and serious stress was 10%.  The study <br /> revealed stressors: worry of study achievemnt, about the future, about household economy, study pressure, living <br /> security at home, and lack of friend to share sadness feeling. There was an association between proportion of stress <br /> and  worry  about  students’study,  worry  about  future,  and  worry  about their  own illness.  Students  suffered  by <br /> poor  household  economy  have  a  tendency  of  getting  stress  1.56  times  higher  than  others.  Students  did  worry <br /> about study pressure suffered stress 1.81 times higher than others. Proportion of students with no friend to share <br /> sadness feeling who suffered stress was 1.57 times higher others. Those students who did worry about security of <br /> their living place suffered stress 1.5 times higher those who did not worry. <br /> Conclusion: Proportion of students having stress was 44.8%, in which mild stress was 34.8% and serious <br /> stress was 10%. There were relationships among stress and these stressors: worry about physical appearrances, <br /> poor  household  economy,  study  pressure  from  teachers,  living  security,  no  friend  to  share  sadness  feeling.  In <br /> which,  study  pressure  from  teachers  and  poor  household  economy  were  two  main  stressors.  Recommendation: <br /> schools should have a counselling room for students to release their mental stress. <br /> Key words: stress, high school student. <br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ <br /> Ở Việt Nam, vấn đề stress học đường đang <br /> được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm bởi những <br /> hệ  quả  do  stress  gây  ra  đối  với  học  sinh  như <br /> trầm cảm, có hành vi gây hấn hoặc thậm chí tự <br /> sát.  Trong  những  năm  gần  đây,  viện  Tâm  thần <br /> Trung  Ương,  khoa  tâm  thần  bệnh  viện  Nhi <br /> Trung Ương và các trung tâm tư vấn ngày càng <br /> nhận nhiều phụ huynh đưa con em đi khám, với <br /> các  triệu  chứng  chủ  yếu  là  kém  ăn,  mất  ngủ, <br /> chóng mặt, khó thở, tay chân bủn rủn. Theo các <br /> chuyên gia tâm thần học, sức ép học tập, thi cử <br /> đang đè nặng lên trẻ ngay từ khi học mẫu giáo(5).<br /> Nghiên  cứu  ở  các  trường  trung  học  phổ <br /> thông trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh năm <br /> 2007 cho thấy có 21% học sinh bị trầm cảm, 3% <br /> có hành vi cố ý tự gây thường tích, 8% đã từng <br /> bỏ  nhà  đi.  Một  nghiên  cứu  khác  của  trung  tâm <br /> <br /> 640<br /> <br /> Nghiên  cứu  Phụ  nữ,  đại  học  Quốc  gia  Hà  Nội, <br /> năm  2008  khảo  sát  trên  200  học  sinh  lớp  12  đã <br /> chỉ ra rằng 47% học sinh bị stress từ mức độ nhẹ, <br /> vừa và nặng (3). <br /> Nghiên cứu “Tình trạng stress và các yếu tố <br /> liên quan ở học sinh trường trung học phổ thông <br /> Nam  Hà,  thành  phố  Biên  Hòa,  tỉnh  Đồng  Nai <br /> năm 2012” nhằm mục tiêu xác định tỷ lệ stress ở <br /> học sinh và các yếu tố liên quan dẫn đến stress.  <br /> <br /> Mục tiêu nghiên cứu <br /> Mục tiêu tổng quát<br /> Xác định tỷ lệ stress ở học sinh trường THPT <br /> Nam Hà, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và <br /> các yếu tố liên quan. <br /> <br /> Mục tiêu cụ thể<br /> 1.  Xác  định  tỷ  lệ  stress  ở  học  sinh  trường <br /> THPT Nam Hà, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng <br /> <br /> Chuyên Đề Y Tế Công Cộng <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br />  <br /> Nai năm 2012.  <br /> <br /> Tiêu chí chọn mẫu <br /> <br /> 2.  Xác  định  mối  liên  quan  giữa  tình  trạng <br /> stress  và  yếu  tố  bản  thân,  môi  trường  học  tập, <br /> yếu tố gia đình, yếu tố xã hội ở học sinh trường <br /> THPT Nam Hà, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng <br /> Nai. <br /> <br /> Tiêu chí đưa vào  <br /> Học  sinh  có  mặt  tại  thời  điểm  điều  tra  và <br /> đồng ý tham gia nghiên cứu. <br /> <br /> ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU <br /> <br /> Những học sinh trả lời không đủ 10 câu hỏi <br /> trong bảng tự cảm nhận của Cohen. <br /> <br /> Thiết kế nghiên cứu <br /> Nghiên  cứu  cắt  ngang  mô  tả.  Thời  gian: <br /> 04/2012‐11/2012 <br /> Địa điểm: trường THPT Nam Hà, thành phố <br /> Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai <br /> <br /> Tiêu chí loại ra  <br /> <br /> Xử lý số liệu  <br /> Số liệu được nhập bằng phần mềm EpiData <br /> 3.1 và phân tích bằng phần mềm Stata 10.0. <br /> <br /> Đối tượng nghiên cứu <br /> <br /> Biến số đánh giá tình trạng bị stress: là biến <br /> nhị giá, gồm 2 giá trị: có và không. Dựa vào bảng <br /> cảm nhận stress của Cohen:  <br /> <br /> Học sinh trường THPT Nam Hà, thành phố <br /> Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai <br /> <br /> ‐ Không bị stress hoặc phản ứng stress thích <br /> nghi: =24 điểm. <br /> <br /> Công thức tính cỡ mẫu <br /> <br /> ‐ Stress bệnh lý nhẹ: từ 24 đến 29 điểm <br /> <br /> n  Z 21<br /> <br /> 2<br /> <br /> p 1  p <br /> *k<br /> d2<br />  <br /> <br /> Trong đó: <br /> ‐ Chọn =0,05 <br /> ‐ Z (1‐/2) = 1,96 <br /> ‐ p: Tỷ lệ stress của học sinh trường THPT Nam Hà, do <br /> chưa có số liệu chính thức nên ước tính là 50% <br /> ‐ d: độ chính xác tương đối, d=5% <br /> ‐ k: hệ số thiết kế, chọn k=1,5 do chọn mẫu cụm. <br /> <br /> Vậy:  n  =  576  học  sinh.  Do  cỡ  mẫu  n  vào <br /> khoảng  từ  10%  tổng  số  học  sinh  trở  lên,  nên  ta <br /> hiệu chỉnh cỡ mẫu theo kích thước quần thể. Cỡ <br /> mẫu cuối cùng là Nhc = 401 học sinh <br /> <br /> Kỹ thuật chọn mẫu <br /> Bước  1:  Chọn  mẫu  cụm  với  đơn  vị  cụm  là <br /> lớp, chọn được 9 lớp. Mỗi khối chọn ngẫu nhiên <br /> 3 lớp bằng cách bốc thăm ngẫu nhiên. <br /> Bước 2: Lấy thông tin của tất cả các học sinh <br /> trong lớp được chọn. Nếu học sinh vắng mặt thì <br /> sẽ quay lại lấy thông tin vào ngày hôm sau. <br /> <br /> Công cụ và cách thu thập số liệu  <br /> Bộ câu hỏi soạn sẵn, hướng dẫn cho học sinh <br /> tự điền vào bộ câu hỏi <br /> <br /> Chuyên Đề Y Tế Công Cộng <br /> <br /> ‐ Stress bệnh lý nặng: >= 30 điểm <br /> <br /> KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU <br /> Đặc điểm phân bố mẫu nghiên cứu <br /> Bảng 1: Đặc điểm dân số ‐ xã hội của mẫu nghiên <br /> cứu (n= 400)  <br /> Đặc tính<br /> Giới tính<br /> <br /> Nam<br /> Nữ<br /> Dân tộc<br /> Kinh<br /> Hoa<br /> Khác<br /> Tôn giáo<br /> Thiên chúa<br /> Tin lành<br /> Phật giáo<br /> Không có tôn giáo<br /> Khác<br /> Trình độ học<br /> Lớp 10<br /> vấn<br /> Lớp 11<br /> Lớp 12<br /> Học lực hiện<br /> Giỏi<br /> nay<br /> Khá<br /> Trung bình<br /> Yếu<br /> Kém<br /> Chỗ ở hiện tại<br /> Nhà gia đình<br /> Nhà người quen<br /> Nhà trọ<br /> Ký túc xá<br /> <br /> Tần số<br /> 140<br /> 260<br /> 387<br /> 11<br /> 2<br /> 54<br /> 3<br /> 152<br /> 184<br /> 7<br /> 134<br /> 133<br /> 133<br /> 55<br /> 282<br /> 59<br /> 3<br /> 1<br /> 389<br /> 3<br /> 8<br /> 0<br /> <br /> Tỷ lệ (%)<br /> 35<br /> 65<br /> 96,8<br /> 2,8<br /> 0,4<br /> 13,5<br /> 0,7<br /> 38<br /> 46<br /> 1,8<br /> 33,5<br /> 33,25<br /> 33,25<br /> 13,8<br /> 70,5<br /> 14,8<br /> 0,7<br /> 0,2<br /> 97,2<br /> 0,8<br /> 2,0<br /> 0<br /> <br /> 641<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014<br /> <br />  <br /> Tỷ lệ nữ trong mẫu nghiên cứu là 65%, tỷ lệ <br /> nam là 35%. Số học sinh nữ cao gần gấp đôi số <br /> học  sinh  nam.  Đa  số  học  sinh  là  dân  tộc  Kinh <br /> chiếm 96,8%, tỷ lệ học sinh là người Hoa chiếm <br /> 2,8%.  Phần  lớn  học  sinh  có  học  lực  ở  loại  khá <br /> (70,5%), số học sinh có học lực ở mức trung bình <br /> và  giỏi  lần  lượt  chiếm  tỷ  lệ  14,8  và  13,8%.  Có <br /> 97,2% học sinh đang ở nhà của mình, số học sinh <br /> ở nhà trọ chiếm 2%. <br /> Bảng 2: Tỷ lệ stress ở học sinh (n=400) <br /> Stress<br /> Có<br /> - Bệnh lý nhẹ (24-29)<br /> - Bệnh lý nặng (>=30)<br /> Không (=24  điểm)  là  44,8%,  trong  đó  stress <br /> bệnh  lý  nhẹ  chiếm  34,8%,  stress  bệnh  lý  nặng <br /> chiếm 10%.  <br /> Bảng 3: Mối liên quan giữa tỷ lệ stress với các yếu tố <br /> thuộc về bản thân học sinh (n=400)  <br /> Đặc điểm<br /> <br /> Stress (n, %)<br /> PR (KTC<br /> p<br /> 95%)<br /> Có<br /> Không<br /> 0,58<br /> Lo lắng về kết quả học tập<br /> Không lo lắng<br /> 12 (40) 18 (60)<br /> Có lo lắng<br /> 167 203 (54,9)<br /> (45,1)<br /> Lo lắng về ngoại hình bản thân<br /> Không lo lắng 56 (37,3) 94 (62,7)<br /> 0,02 1,31 (1,03123<br /> 1,67)<br /> Có lo lắng<br /> (49,2) 127 (50,8)<br /> Lo lắng về bệnh của bản thân<br /> Không lo lắng 37 (63,8) 21 (36,2)<br /> 0,65<br /> Có lo lắng<br /> 3 (75)<br /> 1 (25)<br /> <br /> Có  mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống  kê  giữa <br /> tình  trạng  stress  ở  học  sinh  với  việc  lo  lắng  về <br /> ngoại hình bản thân. Học sinh lo lắng nhiều về <br /> ngoại  hình  bản  thân  bị  stress  cao  gấp  1,31  lần <br /> học  sinh  không  lo  lắng,  p=0,02
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2