Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 <br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
<br />
<br />
TÌNH TRẠNG STRESS VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở HỌC SINH <br />
TRƯỜNG THPT NAM HÀ, THÀNH PHỐ BIÊN HOÀ, TỈNH ĐỒNG NAI <br />
NĂM 2012 <br />
Phùng Đức Nhật*, Điền Ngọc Trang*, Nguyễn Nhất Chi Mai*, Nguyễn Thị Tuyết Vân*<br />
<br />
TÓM TẮT <br />
Đặt vấn đề: Ở Việt Nam, vấn đề stress học đường đang được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm bởi những hệ <br />
quả do stress gây ra đối với học sinh như trầm cảm, có hành vi gây hấn hoặc thậm chí tự sát. Trong những năm <br />
gần đây, viện Tâm thần Trung Ương, khoa tâm thần bệnh viện Nhi Trung Ương và các trung tâm tư vấn ngày <br />
càng nhận nhiều phụ huynh đưa con em đi khám, với các triệu chứng chủ yếu là kém ăn, mất ngủ, chóng mặt, <br />
khó thở, tay chân bủn rủn.<br />
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ stress ở học sinh trường THPT Nam Hà, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và <br />
các yếu tố liên quan. <br />
Phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu cắt ngang mô tả tại trường Nam Hà, thành phố Biên Hòa, <br />
tỉnh Đồng Nai năm 2012. Cỡ mẫu là 401 học sinh, được chọn theo cụm với đơn vị cụm là lớp, chọn được 9 lớp. <br />
Mỗi khối chọn ngẫu nhiên 3 lớp bằng cách bốc thăm ngẫu nhiên. <br />
Kết quả: Điểm trung bình tự cảm nhận stress của đối tượng tham gia là 23,9 +/‐ 4,35 điểm. Tỷ lệ học sinh <br />
có biểu hiện stress theo thang đo PSS‐10 (>=24 điểm) là 44,8%, trong đó stress bệnh lý nhẹ chiếm 34,8%, stress <br />
bệnh lý nặng chiếm 10%. Nghiên cứu phát hiện các yếu tố sau là yếu tố gây stress ở học sinh: lo lắng về kết qủa <br />
học tập, về tương lai; lo lắng về kinh tế gia đình, về áp lực học tập, tình hình an ninh nơi ở và thiếu bạn chia sẻ <br />
khi buồn. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ stress ở học sinh với tỷ lệ học sinh cảm thấy lo lắng về <br />
kết quả học tập, về tương lai và về bệnh của bản thân. Những học sinh lo lắng về kinh tế gia đình bị stress cao gấp <br />
1,56 lần học sinh không lo lắng về kinh tế gia đình. Học sinh lo lắng nhiều về áp lực học tập sẽ bị stress gấp 1,81 <br />
lần học sinh không lo lắng. Tỷ lệ học sinh lo lắng vì không có bạn để chia sẻ cao gấp 1,57 lần học sinh không lo <br />
lắng. Nhóm học sinh lo lắng về tình hình an ninh nơi ở bị stress gấp 1,5 lần nhóm không lo lắng. <br />
Kết luận: Tỷ lệ stress ở học sinh là 44,8%, trong đó stress bệnh lý nhẹ là 34,8%, stress bệnh lý nặng là 10%. <br />
Nghiên cứu tìm thấy mối liên quan giữa tình trạng stress của học sinh với lo lắng về: ngoại hình bản thân, kinh <br />
tế gia đình, áp lực học tập từ phía thầy cô, an ninh nơi ở, không có bạn bè để chia sẻ khi gặp chuyện buồn. Trong <br />
đó, áp lực học tập từ phía thầy cô và kinh tế gia đình là 2 yếu tố gây stress chính ở học sinh. <br />
Kiến nghị: Nhà trường cần xây dựng phòng tư vấn tâm lý và chăm sóc sức khỏe tâm thần để giải tỏa các <br />
vấn đề tâm lý cho học sinh. <br />
Từ khóa: stress, học sinh trung học phổ thông. <br />
<br />
ABSTRACT <br />
THE STATUS OF STRESS AND RELATED FACTORS OF HIGH SCHOOL STUDENTS IN NAM HA <br />
SCHOOL, BIEN HOA CITY, DONG NAI PROVINCE, 2012 <br />
Phung Duc Nhat, Dien Ngoc Trang, Nguyen Nhat Chi Mai, Nguyen Thi Tuyet Van <br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 639 ‐ 647 <br />
Background: In Viet Nam, stress in school students had been concerned by many researchers due to its <br />
* Viện Y tế công cộng TP. Hồ Chí Minh <br />
Tác giả liên lạc: Ths. Phùng Đức Nhật <br />
<br />
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng <br />
<br />
ĐT: 0818103434 <br />
<br />
Email:phungducnhat@ihph.org.vn <br />
<br />
639<br />
<br />
Nghiên cứu Y học <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014<br />
<br />
<br />
consequences such as depression, rebelious behaviors, or even suicide. Recently, the central Institute for Mental <br />
Health, the mental health department of Central Pediatrics Hospital, and many counselling centers received more <br />
and more school students accompanied by their parents coming to consult with symptoms like anorexia, <br />
insomnia, dyspnea, weakness of limbs. <br />
Objectives: To determine the proportion of students having stress in Nam Ha high school, Bien Hoa city, <br />
Dong Nai province and its related stressors. <br />
Methods: This is a cross‐sectional study at Nam Ha high school, Bien Hoa city, Dong Nai province in 2012 <br />
with a sample of 401 students by class clusters, randomly chosed 3 classes for each grades: 10th grade, 11th grade, <br />
and 12th grade. <br />
Result: The mean of self‐perceived stress score was 23,9 +/‐ 4.35. Proportion of students having stress <br />
measured by PSS‐10 scale was 44.8%, in which mild stress was 34.8% and serious stress was 10%. The study <br />
revealed stressors: worry of study achievemnt, about the future, about household economy, study pressure, living <br />
security at home, and lack of friend to share sadness feeling. There was an association between proportion of stress <br />
and worry about students’study, worry about future, and worry about their own illness. Students suffered by <br />
poor household economy have a tendency of getting stress 1.56 times higher than others. Students did worry <br />
about study pressure suffered stress 1.81 times higher than others. Proportion of students with no friend to share <br />
sadness feeling who suffered stress was 1.57 times higher others. Those students who did worry about security of <br />
their living place suffered stress 1.5 times higher those who did not worry. <br />
Conclusion: Proportion of students having stress was 44.8%, in which mild stress was 34.8% and serious <br />
stress was 10%. There were relationships among stress and these stressors: worry about physical appearrances, <br />
poor household economy, study pressure from teachers, living security, no friend to share sadness feeling. In <br />
which, study pressure from teachers and poor household economy were two main stressors. Recommendation: <br />
schools should have a counselling room for students to release their mental stress. <br />
Key words: stress, high school student. <br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ <br />
Ở Việt Nam, vấn đề stress học đường đang <br />
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm bởi những <br />
hệ quả do stress gây ra đối với học sinh như <br />
trầm cảm, có hành vi gây hấn hoặc thậm chí tự <br />
sát. Trong những năm gần đây, viện Tâm thần <br />
Trung Ương, khoa tâm thần bệnh viện Nhi <br />
Trung Ương và các trung tâm tư vấn ngày càng <br />
nhận nhiều phụ huynh đưa con em đi khám, với <br />
các triệu chứng chủ yếu là kém ăn, mất ngủ, <br />
chóng mặt, khó thở, tay chân bủn rủn. Theo các <br />
chuyên gia tâm thần học, sức ép học tập, thi cử <br />
đang đè nặng lên trẻ ngay từ khi học mẫu giáo(5).<br />
Nghiên cứu ở các trường trung học phổ <br />
thông trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh năm <br />
2007 cho thấy có 21% học sinh bị trầm cảm, 3% <br />
có hành vi cố ý tự gây thường tích, 8% đã từng <br />
bỏ nhà đi. Một nghiên cứu khác của trung tâm <br />
<br />
640<br />
<br />
Nghiên cứu Phụ nữ, đại học Quốc gia Hà Nội, <br />
năm 2008 khảo sát trên 200 học sinh lớp 12 đã <br />
chỉ ra rằng 47% học sinh bị stress từ mức độ nhẹ, <br />
vừa và nặng (3). <br />
Nghiên cứu “Tình trạng stress và các yếu tố <br />
liên quan ở học sinh trường trung học phổ thông <br />
Nam Hà, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai <br />
năm 2012” nhằm mục tiêu xác định tỷ lệ stress ở <br />
học sinh và các yếu tố liên quan dẫn đến stress. <br />
<br />
Mục tiêu nghiên cứu <br />
Mục tiêu tổng quát<br />
Xác định tỷ lệ stress ở học sinh trường THPT <br />
Nam Hà, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và <br />
các yếu tố liên quan. <br />
<br />
Mục tiêu cụ thể<br />
1. Xác định tỷ lệ stress ở học sinh trường <br />
THPT Nam Hà, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng <br />
<br />
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 <br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
<br />
Nai năm 2012. <br />
<br />
Tiêu chí chọn mẫu <br />
<br />
2. Xác định mối liên quan giữa tình trạng <br />
stress và yếu tố bản thân, môi trường học tập, <br />
yếu tố gia đình, yếu tố xã hội ở học sinh trường <br />
THPT Nam Hà, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng <br />
Nai. <br />
<br />
Tiêu chí đưa vào <br />
Học sinh có mặt tại thời điểm điều tra và <br />
đồng ý tham gia nghiên cứu. <br />
<br />
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU <br />
<br />
Những học sinh trả lời không đủ 10 câu hỏi <br />
trong bảng tự cảm nhận của Cohen. <br />
<br />
Thiết kế nghiên cứu <br />
Nghiên cứu cắt ngang mô tả. Thời gian: <br />
04/2012‐11/2012 <br />
Địa điểm: trường THPT Nam Hà, thành phố <br />
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai <br />
<br />
Tiêu chí loại ra <br />
<br />
Xử lý số liệu <br />
Số liệu được nhập bằng phần mềm EpiData <br />
3.1 và phân tích bằng phần mềm Stata 10.0. <br />
<br />
Đối tượng nghiên cứu <br />
<br />
Biến số đánh giá tình trạng bị stress: là biến <br />
nhị giá, gồm 2 giá trị: có và không. Dựa vào bảng <br />
cảm nhận stress của Cohen: <br />
<br />
Học sinh trường THPT Nam Hà, thành phố <br />
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai <br />
<br />
‐ Không bị stress hoặc phản ứng stress thích <br />
nghi: =24 điểm. <br />
<br />
Công thức tính cỡ mẫu <br />
<br />
‐ Stress bệnh lý nhẹ: từ 24 đến 29 điểm <br />
<br />
n Z 21<br />
<br />
2<br />
<br />
p 1 p <br />
*k<br />
d2<br />
<br />
<br />
Trong đó: <br />
‐ Chọn =0,05 <br />
‐ Z (1‐/2) = 1,96 <br />
‐ p: Tỷ lệ stress của học sinh trường THPT Nam Hà, do <br />
chưa có số liệu chính thức nên ước tính là 50% <br />
‐ d: độ chính xác tương đối, d=5% <br />
‐ k: hệ số thiết kế, chọn k=1,5 do chọn mẫu cụm. <br />
<br />
Vậy: n = 576 học sinh. Do cỡ mẫu n vào <br />
khoảng từ 10% tổng số học sinh trở lên, nên ta <br />
hiệu chỉnh cỡ mẫu theo kích thước quần thể. Cỡ <br />
mẫu cuối cùng là Nhc = 401 học sinh <br />
<br />
Kỹ thuật chọn mẫu <br />
Bước 1: Chọn mẫu cụm với đơn vị cụm là <br />
lớp, chọn được 9 lớp. Mỗi khối chọn ngẫu nhiên <br />
3 lớp bằng cách bốc thăm ngẫu nhiên. <br />
Bước 2: Lấy thông tin của tất cả các học sinh <br />
trong lớp được chọn. Nếu học sinh vắng mặt thì <br />
sẽ quay lại lấy thông tin vào ngày hôm sau. <br />
<br />
Công cụ và cách thu thập số liệu <br />
Bộ câu hỏi soạn sẵn, hướng dẫn cho học sinh <br />
tự điền vào bộ câu hỏi <br />
<br />
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng <br />
<br />
‐ Stress bệnh lý nặng: >= 30 điểm <br />
<br />
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU <br />
Đặc điểm phân bố mẫu nghiên cứu <br />
Bảng 1: Đặc điểm dân số ‐ xã hội của mẫu nghiên <br />
cứu (n= 400) <br />
Đặc tính<br />
Giới tính<br />
<br />
Nam<br />
Nữ<br />
Dân tộc<br />
Kinh<br />
Hoa<br />
Khác<br />
Tôn giáo<br />
Thiên chúa<br />
Tin lành<br />
Phật giáo<br />
Không có tôn giáo<br />
Khác<br />
Trình độ học<br />
Lớp 10<br />
vấn<br />
Lớp 11<br />
Lớp 12<br />
Học lực hiện<br />
Giỏi<br />
nay<br />
Khá<br />
Trung bình<br />
Yếu<br />
Kém<br />
Chỗ ở hiện tại<br />
Nhà gia đình<br />
Nhà người quen<br />
Nhà trọ<br />
Ký túc xá<br />
<br />
Tần số<br />
140<br />
260<br />
387<br />
11<br />
2<br />
54<br />
3<br />
152<br />
184<br />
7<br />
134<br />
133<br />
133<br />
55<br />
282<br />
59<br />
3<br />
1<br />
389<br />
3<br />
8<br />
0<br />
<br />
Tỷ lệ (%)<br />
35<br />
65<br />
96,8<br />
2,8<br />
0,4<br />
13,5<br />
0,7<br />
38<br />
46<br />
1,8<br />
33,5<br />
33,25<br />
33,25<br />
13,8<br />
70,5<br />
14,8<br />
0,7<br />
0,2<br />
97,2<br />
0,8<br />
2,0<br />
0<br />
<br />
641<br />
<br />
Nghiên cứu Y học <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014<br />
<br />
<br />
Tỷ lệ nữ trong mẫu nghiên cứu là 65%, tỷ lệ <br />
nam là 35%. Số học sinh nữ cao gần gấp đôi số <br />
học sinh nam. Đa số học sinh là dân tộc Kinh <br />
chiếm 96,8%, tỷ lệ học sinh là người Hoa chiếm <br />
2,8%. Phần lớn học sinh có học lực ở loại khá <br />
(70,5%), số học sinh có học lực ở mức trung bình <br />
và giỏi lần lượt chiếm tỷ lệ 14,8 và 13,8%. Có <br />
97,2% học sinh đang ở nhà của mình, số học sinh <br />
ở nhà trọ chiếm 2%. <br />
Bảng 2: Tỷ lệ stress ở học sinh (n=400) <br />
Stress<br />
Có<br />
- Bệnh lý nhẹ (24-29)<br />
- Bệnh lý nặng (>=30)<br />
Không (=24 điểm) là 44,8%, trong đó stress <br />
bệnh lý nhẹ chiếm 34,8%, stress bệnh lý nặng <br />
chiếm 10%. <br />
Bảng 3: Mối liên quan giữa tỷ lệ stress với các yếu tố <br />
thuộc về bản thân học sinh (n=400) <br />
Đặc điểm<br />
<br />
Stress (n, %)<br />
PR (KTC<br />
p<br />
95%)<br />
Có<br />
Không<br />
0,58<br />
Lo lắng về kết quả học tập<br />
Không lo lắng<br />
12 (40) 18 (60)<br />
Có lo lắng<br />
167 203 (54,9)<br />
(45,1)<br />
Lo lắng về ngoại hình bản thân<br />
Không lo lắng 56 (37,3) 94 (62,7)<br />
0,02 1,31 (1,03123<br />
1,67)<br />
Có lo lắng<br />
(49,2) 127 (50,8)<br />
Lo lắng về bệnh của bản thân<br />
Không lo lắng 37 (63,8) 21 (36,2)<br />
0,65<br />
Có lo lắng<br />
3 (75)<br />
1 (25)<br />
<br />
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa <br />
tình trạng stress ở học sinh với việc lo lắng về <br />
ngoại hình bản thân. Học sinh lo lắng nhiều về <br />
ngoại hình bản thân bị stress cao gấp 1,31 lần <br />
học sinh không lo lắng, p=0,02