Tóm tắt Luận án tiến sĩ Kỹ thuật: Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản tại Vịnh Vân Phong tỉnh Khánh Hoà
lượt xem 3
download
Luận án đã xây dựng bộ dữ liệu toàn diện về khai thác thuỷ sản tại vịnh Vân Phong bao gồm thực trạng số lượng tàu thuyền các nghề, cơ cấu các nghề. Đặc biệt, những nghề gây hại đến nguồn lợi như là: khai thác bằng chất nổ, khai thác sử dụng chất độc, nghề lưới kéo và các tàu có công suất ≥ 20CV mặc dù đã bị cấm (theo Nghị định số 33/2010/NĐ-CP ngày 31/3/2010 của Chính phủ và quyết định số 05/2014/QĐ-UBND ngày 10/02/2014 của UBND tỉnh Khánh Hoà) nhưng vẫn hoạt động khai thác thuỷ sản trong vịnh Vân Phong.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án tiến sĩ Kỹ thuật: Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản tại Vịnh Vân Phong tỉnh Khánh Hoà
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG ------------------------------------- VŨ KẾ NGHIỆP GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỢI THUỶ SẢN TẠI VỊNH VÂN PHONG TỈNH KHÁNH HOÀ Ngành đào tạo: Kỹ thuật Khai thác thuỷ sản Mã số: 62620304 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHÁNH HOÀ - 2017
- Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Nha Trang Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Phan Trọng Huyến 2. TS. Trần Đức Phú Phản biện 1: TS. Hoàng Hoa Hồng Phản biện 2: TS. Nguyễn Long Phản biện 3: TS. Thái Văn Ngạn Luận án được bảo vệ tại Hội đồng đánh giá luận án cấp trường họp tại Trường Đại học Nha Trang vào hồi ngày tháng năm 2017. Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia và Thư viện Trường Đại học Nha Trang
- TÓM TẮT NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN Đề tài luận án: Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản tại Vịnh Vân Phong tỉnh Khánh Hoà Ngành: Kỹ thuật khai thác thủy sản Mã số: 62620304 Nghiên cứu sinh: Vũ Kế Nghiệp Khoá: 2010 Người hướng dẫn: 1. TS. Phan Trọng Huyến 2. TS. Trần Đức Phú Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Nha Trang Nội dung: 1. Luận án đã xây dựng bộ dữ liệu toàn diện về khai thác thuỷ sản tại vịnh Vân Phong bao gồm thực trạng số lượng tàu thuyền các nghề, cơ cấu các nghề. Đặc biệt, những nghề gây hại đến nguồn lợi như là: khai thác bằng chất nổ, khai thác sử dụng chất độc, nghề lưới kéo và các tàu có công suất ≥ 20CV mặc dù đã bị cấm (theo Nghị định số 33/2010/NĐ-CP ngày 31/3/2010 của Chính phủ và quyết định số 05/2014/QĐ-UBND ngày 10/02/2014 của UBND tỉnh Khánh Hoà) nhưng vẫn hoạt động khai thác thuỷ sản trong vịnh Vân Phong. 2. Luận án đã sử dụng phương pháp hiện đại để tính toán cường lực, sản lượng khai thác bền vững tối đa cho vùng biển vịnh Vân Phong. Đã xác định tương đối chính xác cường lực, sản lượng khai thác tại vịnh Vân Phong hiện nay vượt quá ngưỡng cường lực và sản lượng khai thác bền vững tối đa. 3. Luận án đã phân tích, đánh giá toàn diện các nguyên nhân làm cho nguồn lợi thuỷ sản ở vịnh Vân Phong ngày càng cạn kiệt. Từ đó, đã đề ra năm nhóm giải pháp nhằm hạn chế những nguy cơ trên. - Giải pháp 1: Điều chỉnh hoạt động khai thác thuỷ sản thông qua ngăn ngừa hoạt động của tàu lưới kéo, tàu có công suất ≥20CV trong vùng biển vịnh Vân Phong bằng cách điều chỉnh tổng cường lực nhỏ hơn mức cường lực khai thác hợp lý và biện pháp tuyên truyền giáo dục, chủ tàu đăng ký vùng hoạt động cho tàu của mình, chủ tàu cam kết thực hiện đúng bản đăng ký và kiểm tra, giám sát việc thực hiện. - Giải pháp 2: Điều chỉnh lại cơ cấu các nghề khai thác bằng cách cắt giảm 220 tàu lưới kéo có công suất dưới 20CV và phân bổ số tàu này cho các nghề nghề lưới vây, nghề lưới rê, nghề câu và nghề khác. Đồng thời đề tài cũng đã đề xuất 2 bước để thực hiện việc cắt giảm các tàu thuyền làm nghề lưới kéo hoạt động trong vịnh Vân Phong (là nghề đã bị cấm hoạt động trong vịnh Vân Phong theo quyết định số 05/2014/QĐ-UBND ngày 10/02/2014 của UBND tỉnh Khánh Hoà). - Giải pháp 3: Xử lý đối với số tàu thuyền dôi dư sau khi cơ cấu lại các nghề khai thác bằng cách chuyển đổi số tàu thuyền nêu trên sang nghề khác ít gây hại đối với nguồn lợi thuỷ sản ở vùng biển vịnh Vân Phong hoặc cải hoán, nâng cấp vỏ tàu, máy tàu để khai thác tại vùng lộng và vùng khơi. - Giải pháp 4: Phục hồi, tái tạo một số nơi cư trú điển hình của các loài hải sản bằng cách: trồng mới, trồng bổ sung để phục hồi các khu vực rạn san hô, cỏ biển và rừng ngập mặn đã bị tàn phá ở vịnh Vân Phong; giáo dục tuyên truyền để người dân xung quanh vịnh Vân Phong thấy rõ tầm quan trọng của rừng ngập mặn, thảm cỏ biển và rạn san hô đối với môi trường và nguồn lợi thuỷ sản. - Giải pháp 5: Đã xây dựng được phân vùng khai thác thuỷ sản với tổng diện tích mặt nước là 151,8 km2. Trong đó vùng khai thác của nghề lưới vây - 68,05 km2; nghề lưới rê - 57,52 km2 và nghề câu - 26,23km2. Người hướng dẫn Nghiên cứu sinh TS. Phan Trọng Huyến TS. Trần Đức Phú Vũ Kế Nghiệp 1
- MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Vùng biển vịnh Vân Phong (VVP) là nơi có nhiều nguồn lợi thủy sản đa dạng và phong phú với nhiều hệ sinh thái, rạn san hô, cỏ biển, rừng ngập mặn. Đây là nơi sinh sản, nuôi dưỡng ấu trùng, cá con để cung cấp nguồn lợi cho vùng biển ven bờ, vùng lộng, vùng khơi [22,27]. Nguồn lợi cá ở VVP đa dạng về chủng loại: có 351 loài cá thuộc 19 bộ, 100 họ và 215 giống; nhóm cá đáy ven bờ và cá rạn san hô có 283 loài, nhóm cá nổi có 68 loài. Trong đó, loài có giá trị kinh tế là 68 loài như cá thu, cá ngừ, cá mú, cá cơm, cá trích, cá đối, cá phèn, cá nhồng…[19]. Các rạn san hô trong VVP không còn duy trì ở tình trạng tốt: độ phủ san hô sống chỉ xếp ở mức trung bình (26,1 ± 3,6%), san hô cứng chiếm ưu thế (19,7 ± 3,3%) và san hô mềm chiếm không đáng kể (6,4 ± 2,3%) [26]. Cỏ biển ở VVP khá đa dạng với 9 loài cỏ biển, phổ biến và chiếm ưu thế là loài cỏ lá dừa, cỏ vích. Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Xuân Hoà và nhóm nghiên cứu thì diện tích và cấu trúc của các thảm cỏ biển tại Bến Rong (Tuần Lễ, xã Vạn Thọ) và Xuân Hà (xã Vạn Hưng) tiếp tục suy giảm giai đoạn 2007-2013 [18]. Diện tích rừng ngập mặn suy giảm nghiêm trọng, hiện chỉ còn các dải rừng nhỏ hẹp phân bố rất rải rác dọc theo đường bờ biển, sông, lạch và trong vùng ao, đìa nuôi thủy sản ở các xã Vạn Thọ, Vạn Khánh, Vạn Hưng, Ninh Thọ với tổng diện tích khoảng 17,7 ha). Diện tích rừng ngập mặn Tuần Lễ (năm 2001) có khoảng 15 ha, đến năm 2009 chỉ còn lại 8,83 ha và tiếp tục thu hẹp diện tích tính đến tháng 6/2013 do người dân phá rừng để làm nhà, nuôi trồng thuỷ sản [18]. Qua khảo sát sơ bộ trong nhiều năm qua VVP là ngư trường thuận lợi cho các hộ dân sống xung quanh VVP với tổng số tàu thuyền là 1068 tàu của các nghề lưới kéo, lưới vây, lưới rê, nghề câu và các nghề khác. Điều này làm cho áp lực khai thác đã vượt 3,23 lần so với quy hoạch tổng thể ngành thuỷ sản đến 2020 [13]. Đặc biệt, ở đây có những nghề khai thác gây hại đối với nguồn lợi thuỷ sản, phá hoại rạn san hô như nghề khai thác bằng chất nổ, khai thác sử dụng chất độc. Bên cạnh đó, mặc dù Nghị định 33/2010/NĐ-CP [12], Thông tư 02/2006/TT-BTS [8] và quyết định 05/2014/QĐ- UBND [35] đã quy định cấm các nghề lưới kéo, các tàu có công suất ≥20CV hoạt động trong VVP nhưng các tàu này vẫn ngang nhiên hoạt động với số lượng lớn ở VVP. Với thực trạng đó nguồn lợi thuỷ sản ở VVP đang có dấu hiệu cạn kiệt, các nơi trú ẩn (rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biện) đang bị phá huỷ và diện tích đang bị thu hẹp dần. Từ những lý do nêu trên việc nghiên cứu đề tài "Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản tại vịnh Vân Phong tỉnh Khánh Hoà" là cần thiết. Luận án tập trung vào các nội dung chính sau: thực trạng khai thác thuỷ sản tại vịnh Vân Phong; những yếu tố ảnh hưởng đến nguồn lợi thuỷ sản tại vịnh Vân Phong; giải pháp bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản trong vịnh Vân Phong. 2. Mục tiêu của luận án 2.1. Mục tiêu chung: Bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản tại vịnh Vân Phong. 2.2. Mục tiêu cụ thể: - Điều tra và đánh giá thực trạng hoạt động khai thác thuỷ sản ở vịnh Vân Phong. - Điều tra và đánh giá thực trạng hoạt động bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản ở vịnh Vân Phong. 2
- - Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản tại vịnh Vân Phong. 3. Đối tượng nghiên cứu Hoạt động khai thác thủy sản, hoạt động bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản tại vịnh Vân Phong. 4. Phạm vi nghiên cứu - Không gian: + Các địa phương hoạt động khai thác thuỷ sản, cộng đồng ngư dân các xã sống xung quanh vịnh Vân Phong (Vạn Giã, Vạn Phước, Vạn Long, Vạn Thọ, Vạn Lương, Vạn Thắng, Vạn Thạnh, Vạn Hưng của huyện Vạn Ninh; Ninh Hải và Ninh Thuỷ của huyện Ninh Hoà). + Vùng biển vịnh Vân Phong - Thời gian: 2010-2015 5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án 5.1. Ý nghĩa khoa học - Bổ sung nguồn dữ liệu về thực trạng cho lĩnh vực khoa học khai thác thuỷ sản Việt Nam. - Bổ sung phương pháp khoa học hiện đại để xác định sản lượng, cường lực khai thác bền vững tối đa trong lĩnh vực khai thác thuỷ sản, phương pháp xác định số lượng tàu thực tế hoạt động trong vùng biển nghiên cứu. 5.2. Ý nghĩa thực tiễn - Giúp địa phương có cơ sở khoa học để quy hoạch nghề khai thác thủy sản, sắp xếp cơ cấu nghề nghiệp, tổ chức quản lý khai thác thủy sản hợp lý trong VVP. - Tổ chức, quản lý có hệ thống các hoạt động nghề cá để đem lại hiệu quả và bền vững. - Khai thác hợp lý, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản bền vững cung cấp nguồn thức ăn và sinh kế ổn định lâu dài, góp phần xóa đói giảm nghèo cho dân cư sống tại khu vực vịnh Vân Phong. 3
- CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1 Đặc điểm tự nhiên vịnh Vân Phong 1.1.1 Vị trí địa lý Vịnh Vân Phong (VVP) là vịnh nửa kín nằm giới hạn trong phạm vi 12028'- 12050'N và 109010'-109030'E. Vịnh cách Nha Trang về phía Bắc hơn 30 km theo đường chim bay, 60 km đường bộ và 40 hải lý theo đường biển. Phía Tây VVP là phần kéo dài của dãy Trường Sơn, cửa vịnh nằm ở phía Đông Nam rộng 17 km thông ra biển Đông. Phía Đông Bắc là bán đảo Hòn Gốm gồm các dãy núi nhỏ và cồn cát kéo dài. Nằm giữa bán đảo Hòn Gốm, Hòn Lớn và đảo Cổ Cò là lạch Cổ Cò có chiều rộng 200 m có độ sâu trung bình 25 m [22,27]. Diện tích mặt nước vùng vịnh khoảng 80.000 ha, nằm trên địa giới hành chính của huyện Vạn Ninh và thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Khu vực này có hệ thống đảo, bán đảo, vịnh sâu và kín gió và là khu vực có hệ sinh thái đa dạng như rừng ngập mặn, khu hệ sinh vật đáy ở biển nông ven bờ [32]. Toàn bộ khu vực VVP được chia thành 7 khu vực chức năng chính theo các quyết định số 92/2006/QĐ-TTg, 380/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ [11,15]: - Khu vực 1: Trung tâm bán đảo Hòn Gốm và trên đảo Hòn Lớn - Khu vực 2: Tuần Lễ - Hòn Ngang - Khu vực 3: Từ Tu Bông đến phía Nam đèo Cổ Mã - Khu vực 4: Thị trấn Vạn Giã và vùng phụ cận - Khu vực 5: Đông Bắc Ninh Hòa và Lạc An - Khu vực 6: Dốc Lết - Khu vực 7: Khu vực phía Đông và Đông Bắc Hòn Hèo 1.1.2 Đặc điểm địa hình ven bờ và đáy biển 1.1.2.1 Đặc điểm địa hình ven bờ Vùng ven bờ vịnh Vân Phong có đặc điểm địa hình khá đặc biệt: hầu như toàn bộ dải bờ phía bắc, phía tây, phía nam của vịnh bị che chắn bởi các dãy núi có độ cao trung bình 700m. Các sông bắt nguồn từ các dãy núi này đổ ra vịnh Vân Phong đều có phương tây bắc - đông nam, ngắn, dốc và lưu lượng biến đổi mạnh theo mùa (lũ vào mùa mưa và khô kiệt vào mùa khô) [22]. Do sự có mặt của bán đảo Hòn Gốm ở phía đông bắc, núi Tiên Du ở phía nam cùng với bán đảo Hòn Khói, đảo Hòn Lớn, về mặt hình thái tổng thể vịnh Vân Phong thực tế được cấu tạo bởi ba phần [27]: - Phần vụng Bến Gỏi, độ sâu < 20m - Phần vụng Lạch Cổ Cò và Cửa Bé, độ sâu < 20m - Phần vịnh Vân Phong, độ sâu 20-30m 1.1.2.2 Đặc điểm địa hình đáy vịnh Dựa vào hình thái, độ dốc và các mặt cắt địa hình, có thể phân đáy biển vịnh Vân Phong ra ba phần tương ứng với đáy vụng Bến Gỏi, đáy vịnh Vân Phong và đáy lạch 4
- Cổ Cò - Cửa Bé. Ranh giới phân định đáy vịnh Vân Phong và đáy vụng Bến Gỏi là dãy đồi ngầm, bãi cạn và đảo kéo dài theo hướng vĩ tuyến. Địa hình vụng Bến Gỏi nhìn chung không phức tạp lắm, chỉ những nơi san hô phát triển, đáy vụng mới có sự gồ ghề, lồi lõm. Độ sâu lớn nhất trong vụng đạt 18m. Đặc điểm nổi bật và khác biệt với các thành phần đáy khác là sự phân bố các đường đẳng sâu theo một khoảng cách tương đối đồng đều, gần như song song với đường bờ. Do sự có mặt của các đảo Hòn Bịp, Hòn Mạo, Hòn Được, đáy vụng có thể phân ra 2 phần dưới dạng hai rãnh máng. Một từ bờ tây ra đến dãy đảo và rãnh kia từ đáy đảo đến bờ phía đông vụng. Đáy của các rãnh này bằng phẳng, hai bên bờ có độ dốc lớn. Nhìn toàn cục, đáy vụng Bến Gỏi có độ sâu tăng dần từ bờ ra giữa và đỉnh ra cửa . Địa hình đáy vịnh Vân Phong hoàn toàn khác với địa hình đáy vụng Bến Gỏi. Hình thái đáy vịnh tương đối bằng phẳng tạo thành một máng lớn, lòng máng thoải, độ dốc nghiêng dần về phía cửa vịnh. Nét đặc trưng của bờ mặt đáy vịnh được thể hiện rõ ràng trong sự phân bố các đường đẳng sâu và độ dốc đáy. Các đường đẳng sâu có dạng ngoằn nghèo, uốn lượn, phân khoảng không đều. Ở phía tây, chúng dày xít và gần song song với đường bờ, ở phía đông các đường đẳng sâu giãn ra, mức độ ngoằn nghèo, uốn lượn cũng tăng lên rõ rệt. Độ sâu tăng dần từ đỉnh ra cửa. Do đặc điểm này cùng với hiện trạng bề mặt địa hình và độ dốc cho thấy có sự giao lưu của khối nước thuộc vụng Bến Gỏi chủ yếu qua lạch Cổ Cò - Cửa Bé . Địa hình đáy lạch Cổ Cò, Cửa Bé được tạo ra do sự có mặt của đảo Hòn Lớn và bán đảo Hòn Gốm. Địa hình đáy ở đây rất đơn giản: độ sâu tăng từ hai bờ lạch ra giữa dòng. Trắc diện ngang hình chữ V với độ sâu lớn nhất đạt hơn > 20m. Do kích thước hẹp, tốc độ lưu thông nước trong lạch lớn nên đáy lạch ít có khả năng tích tụ vật liệu mới. 1.2 Nguồn lợi thủy sản ở vịnh Vân Phong Theo kết quả nghiên cứu của Viện Hải dương học Nha Trang thì tại Vịnh có các loại hình sinh thái phong phú, khác nhau ở dưới biển, ven bờ, cửa sông và các đảo, điển hình là loại hình sinh thái đáy cứng phủ bọc bởi san hô và các vùng đáy mềm bùn cát có năng suất sinh học cao. Một trong các hệ sinh thái đặc trưng của vịnh Vân Phong là rừng ngập mặn và thảm cỏ biển. Các hệ sinh thái này góp phần quan trọng làm nên tính đa dạng sinh học trong vịnh. Nhờ lớp phủ thực vật của đất ngập nước, sự cân bằng giữa O2 và CO2 trong khí quyển khiến vi khí hậu địa phương được ổn định đặc biệt là nhiệt độ và lượng mưa; làm giảm sức gió của bão và bào mòn đất của dòng chảy mặt và được coi như “bể lọc” tự nhiên, nó có tác dụng giữ lại những chất lắng đọng và chất độc. Ngoài ra khu vực này là nơi trú ngụ, kiếm ăn của các loài thủy sản có giá trị kinh tế, đồng thời là nơi cung cấp nguồn giống quan trọng phục vụ cho nghề nuôi trồng thủy sản [27]. Kết quả điều tra, nghiên cứu về tính đa dạng loài của nguồn lợi cá khai thác ở VVP của Trần Thị Hồng Hoa và nhóm nghiên cứu [19] cho thấy: có 351 loài cá thuộc 19 bộ, 100 họ và 215 giống, chủ yếu là nhóm cá đáy ven bờ và nhóm cá rạn san hô (283 loài, chiếm 80,63%), nhóm cá nổi có 68 loài (chiếm 19,37%). Bộ cá vược (Perciformes) gồm 50 họ (chiếm 60,68%) với sự ưu thế là họ cá khế (Carangidae) có 19 loài. Trong số 351 loài cá khảo sát được, có 68 loài có giá trị kinh tế như cá thu, cá ngừ, cá mú, cá cơm, cá trích, cá đối, cá phèn, cá nhồng…Trong 5 nghề khai thác chính ở VVP, nghề giã cào đánh bắt được 237 loài, nghề lặn: 140 loài, lưới rạn: 158 loài, lưới giũ: 12 loài và lưới vây: 47 loài. Số lượng loài khai thác trong vụ cá Nam (342 loài, chiếm 97,4%) cao hơn so với vụ cá Bắc (269 loài, chiếm 76,6%) [19]. 5
- 1.3 Một số hệ sinh thái đặc trưng trong vịnh Vân Phong 1.3.1 Hệ sinh thái rạn san hô Tổng hợp kết quả điều tra, nghiên cứu về phân bố và diện tích rạn san hô vào các năm 2005, 2006, 2013 và 2014 của Viện Hải Dương Học Nha Trang [26] cho thấy, rạn san hô ở VVP phân bố khá rộng, không đồng nhất và chủ yếu tập trung ở các khu vực dọc ven bờ ở phía Nam vịnh như Xuân Tự, Ninh Phước, Ninh Tịnh, xung quanh các đảo Hòn Lớn (phía Nam và Đông Nam), Điệp Sơn, Hòn Ông, Hòn Đen, Hòn Mỹ Giang và các đảo nhỏ trong vũng Bến Gỏi, và dọc bán đảo Hòn Gốm (Khải Lương, Vũng Cổ Cò), hoặc một số rạn độc lập như Rạn Trào, Rạn Mạn. Kết quả giải đoán từ nguồn ảnh vệ tinh và ảnh máy bay kết hợp với khảo sát ngầm và đánh giá nhanh thực hiện vào năm 2006 ghi nhận tổng diện tích rạn san hô phân bố trong VVP ước tính vào khoảng 1.618 ha, trong đó các khu vực có diện tích lớn gồm Vũng Ké (113 ha), Hòn Bịp (107 ha) và Xuân Tự (240 ha) [30]. Tuy nhiên, ở những khu vực có diện tích lớn này chủ yếu là các bãi san hô chết và có rải rác một số tập đoàn san hô sống phân bố [26]. Các rạn san hô trong vịnh không còn duy trì trong tình trạng tốt với độ phủ san hô sống chỉ xếp ở mức trung bình (26,1 ± 3,6%), trong đó san hô cứng chiếm ưu thế (19,7 ± 3,3%) và san hô mềm chiếm không đáng kể (6,4 ± 2,3%). Các khu vực có độ phủ san hô cứng cao gồm Hòn Đỏ, Tây Rạn Trào, Bắc Mỹ Giang và Lạch Cổ Cò, trong khi đó độ phủ san hô mềm có giá trị cao tại Cùm Meo, Bắc Rạn Trào, Lạch Cổ Cò (bảng 1.2). Một số khu vực có tình trạng rạn còn duy trì tương đối tốt là Rạn Trào, Hòn Đen, Bãi Tre, Lạch Cổ Cò, Hòn Mỹ Giang và Hòn Đỏ. Việc khai thác quá mức, khai thác hủy diệt, sự bùng nổ của sinh vật địch hại (sao biển gai, ốc gai), lắng đọng trầm tích, ô nhiễm được xem là những tác động làm suy giảm chất lượng và gây suy thoái các rạn san hô ở đây [26]. 1.3.2 Rừng ngập mặn và thảm cỏ biển Kết quả nghiên cứu hiện trạng, biến động của rừng ngập mặn và thảm cỏ biển ở VVP của Nguyễn Xuân Hoà, Nguyễn Nhật Như Thuỷ năm 2013[18] cho thấy, thành phần loài cây ngập mặn ở VVP khá nghèo với 24 loài được xác định, trong đó có 14 loài cây ngập mặn thật sự (true mangroves). Các loài đước (Rhizophora apiculata), giá (Excoecaria agallocha), bần trắng (Sonneratia alba), mắm trắng (Avicennia alba), mắm biển (Avicennia marina) rất phổ biến (bảng 1.3). Diện tích rừng ngập mặn đã bị suy giảm nghiêm trọng, hiện chỉ còn các dải rừng nhỏ hẹp phân bố rất rải rác dọc theo đường bờ biển, sông, lạch và trong vùng ao, đìa nuôi thủy sản ở các xã Vạn Thọ, Vạn Khánh, Vạn Hưng, Ninh Thọ với tổng diện tích khoảng 17,7 ha (hình 1.4). Chỉ còn một số khu vực phân bố rừng ngập mặn cần được quan tâm quản lý và phục hồi gồm: Khu vực Tuần Lễ (xã Vạn Thọ, huyện Vạn Ninh) và khu vực vùng cửa sông Xuân Tự (xã Vạn Hưng) [18]. Cỏ biển ở VVP khá đa dạng với 9 loài cỏ biển được xác định. Trong đó các loài cỏ lá dừa (Enhalus acoroides), cỏ vích (Thalassia hemprichii) rất phổ biến và thường chiếm ưu thế trong các thảm cỏ biển. Các thảm cỏ biển có diện tích lớn được thấy phân bố ở vùng biển ven bờ thôn Xuân Tự - Xuân Hà (xã Vạn Hưng), Hòn Bịp, Tuần Lễ - Xóm Mới (xã Vạn Thọ), vụng Hòn Khói (xã Ninh Thọ), Mỹ Giang (xã Ninh Phước) với tổng diện tích khoảng 600 ha. 6
- Dựa trên kết quả phân tích ảnh viễn thám của Nguyễn Xuân Hoà về sự biến động rừng ngập mặn ở các thời điểm khác nhau [17] cho thấy: năm 2001 diện tích rừng ngập mặn Tuần Lễ có khoảng 15 ha, đến năm 2009 chỉ còn lại 8,83 ha, trong đó nhiều cây bần cổ thụ bị chết do lấp đất làm nhà, xây dựng ao tôm cản trở lưu thông nước biển. Trong đợt khảo sát vào tháng 6/2013 đã ghi nhận khu rừng ngập mặn ở Tuần Lễ tiếp tục bị thu hẹp do sự lấn chiếm, san nền làm nhà cửa. Thảm cỏ biển ở khu vực trước thôn Mỹ Giang và Tây Nam hòn Mỹ Giang đã bị biến mất, thảm cỏ biển còn lại phía Đông hòn Mỹ Giang có mật độ và độ phủ rất thấp (diện tích thảm cỏ biển ở Mỹ Giang chỉ còn khoảng 24 ha); có sự suy thoái đáng kể về diện tích và cấu trúc của các thảm cỏ biển tại Bến Rong (Tuần Lễ, xã Vạn Thọ) và Xuân Hà (xã Vạn Hưng), VVP theo thời gian giữa năm 2007 và 2013 [18]. 1.4 Tổng quan các công trình nghiên cứu trong nước và ngoài nước 1.4.1 Các công trình nghiên cứu ngoài nước 1.4.1.1 Nghiên cứu áp dụng các mô hình toán và khai thác theo hạn ngạch trong quản lý khai thác thuỷ sản Per Sparre và Siebren C. Venema [49] cũng đề cập đến việc đánh giá trữ lượng dựa vào sản lượng và cường lực khai thác. Trong đó, mô hình Schaefer và mô hình Fox là hai mô hình chính trong mô hình Holistic. Các mô hình cũng dựa trên các mô hình phân tích và lý thuyết cơ bản của F.I Baranov. Đặc điểm của các mô hình toán này là đơn giản, yêu cầu ít số liệu hơn nhằm dự báo sơ bộ đàn cá khai thác và cũng phù hợp, áp dụng phổ biến với nghề cá nước ta có đặc điểm đa nghề, đa loài. Hai mô hình này được áp dụng khi có các số liệu đánh giá về tổng sản lượng đàn cá, hiệu quả khai thác (sản lượng/cường lực khai thác) và cường lực khai thác của nhiều năm. Kết quả tính toán sẽ có độ tin cậy hơn khi số liệu thu thập của các năm càng nhiều. Ở Châu Á, mô hình này đã được sử dụng để tính toán giá trị cường lực và sản lượng khai thác bền vững tối đa cho nghề khai thác cá thu ở Campuchia trên cơ sở sử dụng giá trị cường lực khai thác và sản lượng từ 1996-2006 [46]. Đầu những năm 1980, do nguồn lợi thuỷ sản càng ít trong khi đó số lượng thuyền khai thác quá nhiều. Ngành công nghiệp khai thác New Zealand và chính phủ nhận thấy rằng cần phải có một hệ thống quản lý mới trong khai thác thuỷ sản. Vào tháng 10/1986, sau 2 năm lập kế hoạch và thẩm định, hệ thống quản lý hạn ngạch được áp dụng. Nguyên tắc của khai thác hạn ngạch là các cá nhân hay công ty đăng ký sẽ được quyền khai thác với một số lượng nhất định của một loài nào đó. Hạn ngạch đã trở thành một dạng tài sản và có thể cho thuê, bán và chuyển nhượng [45]. Việc nghiên cứu xây dựng các mô hình toán, hạn ngạch khai thác đã góp phần đáng kể vào công tác quản lý và khai thác hợp lý nguồn lợi thuỷ sản. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu về khai thác theo hạn ngạch không đề cập đến việc bảo vệ sinh cảnh, đa dạng sinh học và ngư cụ mang tính huỷ diệt. Một số lượng lớn cá đã bị vứt ra trước khi đưa vào bờ do khai thác vượt hạn ngạch, vì thế mà quản lý khai thác theo hạn ngạch cũng không thể đảm bảo tính bền vững, mặc dù nó đã cải thiện quản lý nguồn lợi tốt [45]. 1.4.1.2 Các nghiên cứu về cường lực và sản lượng khai thác bền vững tối đa Công trình nghiên cứu “Tiềm năng quản lý nguồn lợi thủy sản nghề khai thác cá Thu ở Campuchia” của tác giả Em Puthy, năm 2007 [46]. Tác giả đã sử dụng mô hình Schaefer và Fox để tính toán cường lực, sản lượng khai bền vững tối đa của nghề 7
- khai thác cá thu ở Campuchia trên cơ sở sử dụng giá trị cường lực khai thác và sản lượng từ 1996-2006. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra: Cường lực khai thác bền vững tối đa tính theo mô hình Schaefer là 152 tàu, tính theo mô hình Fox là 151 tàu. Giá trị cường khai thác bền vững tối đã tính toán theo hai mô hình đã vượt quá giá trị cường lực khai thác bền vững tối đa của năm 2005. Sản lượng khai thác bền vững tối đa tính theo mô hình Schaefer là 5876 tấn, tính theo mô hình Fox là 5249 tấn. Sản lượng khai thác hiện tại thấp hơn sản lượng khai thác bền vững tối đa tính toán theo mô hình Schaefer và Fox. Trong công trình nghiên cứu “Quản lý cường lực khai thác ở Trung Quốc: Lý thuyết và quan điểm thực tiễn” của tác giả Huiguo Yu và Yunjun Yu, năm 2008 [51]. Phương pháp nghiên cứu sử dụng là quy hoạch thực nghiệm căn cứ vào số liệu về cường lực, sản lượng và khả năng cho phép khai thác nguồn lợi trên các vùng biển của Trung Quốc giai đoạn 1979-2003. Kết quả nghiên cứu cho thấy: để đảm bảo cường lực khai thác phù hợp là 192.390 tàu thuyền vào năm 2010 so với năm 2002 (là 222.390 tàu) thì cần phải thu hồi giấy phép và tháo dỡ khoảng 30000 tàu (giảm 3.750 tàu mỗi năm). Tổng công suất tàu thuyền giảm 1.269.663 kW, từ 12.696.631 kW cuối năm 2002 xuống còn 11.426.968 kW năm 2010 (giảm 158.708 kW mỗi năm). Nhóm nghiên cứu đã xác định được cường lực khai thác phù hợp trên cơ sở khả năng cho phép khai thác nguồn lợi trên các vùng biển của Trung Quốc. Tuy nhiên, số lượng tàu thuyền khai thác ở vùng biển ven bờ quá nhiều cùng với việc thực thi các chính sách quản lý tàu thuyền khai thác thuỷ sản chưa hiệu quả nên tình hình khai thác quá mức nguồn lợi thuỷ sản ở Trung Quốc vẫn gia tăng. Bên cạnh đó, công trình “Sử dụng mô hình sản xuất thặng dư đa loài để ước lượng sản lượng bền vững tối đa mức độ hệ sinh thái“, của tác giả Franz, Mueter J. and Bernard, Megrey A., năm 2006 [43]. Nhóm nghiên cứu sử dụng mô hình sản xuất thặng dư Graham-Schaefer và mô hình Pella- Tomlinson trên cơ sở số liệu về sinh khối và sản lượng giai đoạn 1977-2004 để tính toán giá trị sản lượng khai thác bền vững tối đa của nghề cá khai thác cá đáy ở phía đông biển Bering (khu vực đảo Aleutian) và vịnh Alaska. Kết quả nghiên cứu cho thấy giá trị sản lượng khai thác bền vững tối đa ở Aleutian (biển Bering) khoảng 2,5 triệu tấn và ở vịnh Alaska là 330 nghìn tấn. Tuy nhiên, giá trị sản lượng khai thác bền vững tối đa tính toán cho giai đoạn 1977-2004 nhỏ hơn nhiều so giá trị sản lượng khai thác bền vững tối đa đã tính toán trước đây. Do đó, giá trị sản lượng khai thác bền vững tối đa cho Vịnh Alaska cần phải được đánh giá lại để phản ánh đúng với điều kiện thực tế hiện nay. Ngoài ra, trong công trình “Ước tính sản lượng bền vững tối đa của nghề đánh bắt cá chẽm ở vùng biển phía bắc Ả Rập“ của tác giả Memon và cộng tác viên [44], nhóm nghiên cứu đã sử dụng các mô hình Fox, Schaefer và Pell-Tomlinson với ba giả định về sai số để tính toán giá trị sản lượng khai thác bền vững tối đa (đối với nghề khai thác cá chẽm của Pakistan ở vùng biển phía bắc Ả Rập) trên cơ sở dữ liệu về cường lực khai thác từ năm 1995-2009. Kết quả tính toán giá trị sản lượng khai thác bền vững tối đa (bằng phần mềm ASPIC) của nghề khai thác cá chẽm khi sử dụng mô hình Schaefer là 118 ± 10,856 tấn và Fox là 109±10,384 tấn; trong khi đó giá trị tính toán sản lượng khai thác bền vững tối đa (bằng phần mềm CEDA) của nghề khai thác cá chẽm đối với ba mô hình Schaefer, Fox và Pell-Tomlinson là 107-117±(8,131- 15,206) tấn. Các giá trị tính toán sản lượng khai thác bền vững tối đa của nghề khai 8
- thác cá chẽm theo theo ba mô hình trên đều cho thấy sản lượng khai thác hiện tại vượt quá sản lượng khai thác bền vững tối đa. Nhóm nghiên cứu cũng đề nghị điều chỉnh giảm cường lực khai thác đối với nghề khai thác cá chẽm của Pakistan. Các nghiên cứu trên đã đưa ra các mô hình tính toán, các giả thiết đối với từng mô hình để xác định cường lực và sản lượng khai thác bền vững tối đa. Tuy nhiên, một số mô hình tính toán không phù hợp với nghề cá của nước ta (đa loài và sử dụng nhiều loại ngư cụ khác nhau). 1.4.1.3 Nghiên cứu giảm lượng tàu cá khai thác và chuyển đổi nghề nghiệp Năm 2004, số lượng tàu cá trên thế giới có khoảng 4,1 triệu chiếc, Châu Á chiếm tỷ lệ 85%, Châu Âu là 8,9% và khu vực Bắc và Trung Mỹ chiếm tỷ lệ 6,1% tổng số lượng tàu cá trên toàn thế giới [42]. Trước sự gia tăng ngày một nhiều về cả công suất và số lượng tàu cá trên thế giới, một số quốc gia đã thực hiện cắt chương trình cắt giảm số lượng tàu khai thác cỡ lớn. Việc cắt giảm này đã góp phần đáng kể vào công tác quản lý và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản tại các quốc gia này. Trung Quốc đã nỗ lực cắt giảm số lượng tàu cá, số lượng người khai thác để hạn chế việc khai thác quá mức. Tính đến năm 2007, số lượng người giảm khoảng 2% và có khoảng 4% lực lượng khai thác thuỷ sản được chuyển qua làm việc khác. Bên cạnh đó, Trung Quốc tiếp tục loại bỏ một số tàu cá cũ, kém hiệu quả, tăng cường tập huấn và trang bị cho những người chuyển đổi nghề kiến thức về nuôi trồng thuỷ sản và giúp họ ổn định trong công việc mới. Tính đến năm 2002 số người tham gia nuôi trồng thuỷ sản tăng 6% so với năm 2000 và nguồn lợi đã dần được khôi phục [51]. Xu hướng chuyển đổi lực lượng khai thác thuỷ sản sang nuôi trồng cũng được thực hiện ở nhiều quốc gia khác. Đặc biệt là Nhật bản và châu Âu, lực lượng lao động trong khai thác thuỷ sản giảm qua các năm qua. Số lượng người lao động thuỷ sản ở Nhật liên tục giảm từ năm 1991, chỉ còn 243.320 người năm 2002. Đây là kết quả các chương trình cắt giảm cường lực khai thác và áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào lĩnh vực khai thác thuỷ sản [42]. Khối liên minh châu Âu cắt giảm 2% số tàu khai thác thuỷ sản hàng năm. Số lượng tàu cá của liên minh châu Âu giảm từ 96.000 chiếc (năm 2000) xuống còn 88.701 chiếc (năm 2003). Trong đó có 13% là tàu lưới kéo, 6% lưới rùng, 3% lưới rê, 16% câu giăng, còn lại là các loại nghề khai thác khác (Davidse, 200). Hà Lan đã giảm 32% lượng tàu cá và 7% cường lực khai thác từ năm 1983 đến năm 1998 [50]. Nauy có 9.569 chiếc tàu khai thác đăng ký vào 12/2002, giảm 48% số lượng tàu khai thác so với năm 2000 [42]. Việc cắt giảm số lượng tàu thuyền và chuyển đổi nghề nghiệp cho những người không tham gia vào hoạt động khai thác thuỷ sản đã góp phần đáng kể đến việc bảo vệ và khôi phục nguồn lợi ở một số quốc gia. 1.4.2 Các công trình nghiên cứu trong nước 1.4.2.1 Các nghiên cứu có liên quan đến môi trường và nguồn lợi thuỷ sản ở khu vực Vịnh Vân Phong Trong công trình ”Nghiên cứu phân vùng chức năng cho khu bảo tồn Biển Rạn Trào - Vạn Ninh” của Hoàng Xuân Bền, năm 2005[4]. Phương pháp nghiên cứu sử dụng: phương pháp nghiên cứu tài liệu; phương pháp nghiên cứu phi thực nghiệm; phương pháp phân tích; phương pháp nghiên cứu nguồn giống, trứng cá-cá bột, động 9
- vật và thực vật phù du để phân tích và đánh giá về về đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội, chất lượng môi trường nước, nguồn lợi tự nhiên để làm cơ sở phân vùng các vùng chức cho năng khu bảo tồn rạn Trào. Kết quả nghiên cứu cho thấy: - Rạn Trào là nơi tập trung nhiều hệ sinh thái quan trọng và là vùng biển có tính đa dạng sinh học rất cao so với vịnh Vân Phong cũng như một số vùng biển khác ở Miền Trung. - Chất lượng môi trường: các kết quả thu được tại thời điểm khảo sát có thể nói môi trường nước khu vực ven bờ Xuân Tự và lân cận rạn còn khá tốt, về tác động của hoạt động nuôi trồng thuỷ sản thì có hai điểm đáng quan ngại là: hiện tượng nhiễm bẩn vi sinh (coliform và vibrio) và hàm lượng chlorophyll cao ở gần bờ Xuân Tự - đây có thể là nguyên nhân gây ảnh hưởng chính đến việc nuôi trồng thuỷ sản. - Phân vùng chức năng: dựa trên kết quả nghiên cứu khu vực Xuân Tự được phân thành 5 vùng chức năng: Vùng bảo vệ nghiêm ngặt, Vùng phục hồi nguồn lợi và phát triển du lịch, Vùng bảo tồn các thảm cỏ biển, Vùng nuôi trồng hải sản, Vùng khai thác hợp lý. Trên cơ sở các vùng đã phân cho khu bảo tồn biển Rạn Trào, để tạo cơ sở pháp lý vững chắc, có hiệu lực mạnh và có sự phối hợp giữa các cơ quan thì kết quả phân vùng chức năng cần được phê duyệt ở cấp tỉnh, và giao cho các cơ quan ban ngành như Sở Khoa học Công nghệ, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Tài nguyên Môi trường và các cơ quan ban ngành địa phương của Huyện Vạn Ninh cùng phối hợp đề xuất các quy định bảo vệ cụ thể, các văn bản về bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản của tỉnh và nguyên tắc bảo vệ của từng vùng chức năng đã được đề xuất. Hiện tại Rạn Trào đang được một số ngành chức năng và cộng đồng bảo vệ, thành lập một ban quản lí và tìm kinh phí từ các nguồn khác nhau để tiếp tục duy trì công tác bảo tồn các hệ sinh thái tại khu vực này. Công trình nghiên cứu ”Tổng quan hiện trạng môi trường nguồn lợi và những tác động của các hoạt động kinh tế tại vịnh Vân Phong - Bến Gỏi” của Nguyễn Thiết Hùng, năm 2007 [22]. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng: phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp nghiên cứu phi thực nghiệm, phương pháp phân tích, phương pháp tính toán và biểu diễn dữ liệu để phân tích, đánh giá về về đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội, chất lượng môi trường nước, nguồn lợi tự nhiên tác động của một số hoạt động kinh tế chủ yếu đến môi trường và nguồn lợi tại vịnh Vân Phong - Bến Gỏi. Đề tài đã xây dựng được cơ sở dữ liệu GIS bao gồm các dữ liệu thô về môi trường và tài nguyên ở vịnh Vân Phong. Để tiến tới khai thác có hiệu quả tốt cơ sở dữ liệu phục vụ cho việc ra các quyết định quản lý hiệu quả các hoạt động kinh tế ở vịnh Vân Phong, cần tiếp tục có các nghiên cứu chuyên sâu hơn nữa hướng tới sự phát triển bền vững tại vịnh Vân Phong và kết hợp hài hoà 3 mục tiêu Kinh tế - Xã hội - Môi trường. Quản lý phát triển ở vịnh Vân Phong cần được tiếp cận theo phương pháp tổng hợp, đa ngành có chiến lược phân định một cách có hiệu quả những nguồn tài nguyên thiên nhiên trong hoàn cảnh cạnh tranh sử dụng ở nhiều lĩnh vực khác nhau, mà trước hết phải giảm đến mức tối thiểu các tác động có hại đến môi trường và các nguồn lợi tài nguyên thiên nhiên trong quá trình xây dựng và khai thác sử dụng không gian, dựa trên cơ sở hiểu biết sâu sắc cơ bản về bản chất của vùng vịnh, dựa vào các thành tựu công nghệ cao và một hệ thống kiểm soát, giám sát có hiệu quả. Ngoài ra còn có công trình ”Đánh giá sơ bộ rủi ro môi trường khu vực Vịnh Vân Phong tỉnh Khánh Hoà, Báo cáo tổng kết đề tài” của Nguyễn Kỳ Phùng, năm 2009 10
- [27]. Phương pháp nghiên cứu sử dụng: phương pháp nghiên cứu tài liệu; phương pháp điều tra xã hội học; phương pháp quan trắc và phân tích các yếu tố môi trường. Đề tài đã phân tích đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội, đánh giá hiện trạng chất lượng môi trường vùng vịnh Vân Phong - Bến Gỏi; thống kê và dự báo các nguồn thải ven bờ, đánh giá hồi cố rủi ro môi trường, dự báo rủi ro khu vực Vịnh Vân Phong; dự báo quá trình lan truyền các chất tại vịnh Vân Phong trên cơ sở mô hình hoá và GIS; đánh giá, so sánh rủi ro và tính không chắc chắn từ đó đề xuất các giải pháp quản lý rủi ro phục vụ phát triển bền vững khu vực vịnh Vân Phong. 1.4.2.2 Các nghiên cứu về cường lực và sản lượng khai thác bền vững tối đa Trong công trình nghiên cứu ”Nghiên cứu đề xuất các giải pháp phát triển bền vững nghề khai thác hải sản ven bờ Việt Nam” của Thái Ngọc Chiến, năm 2010 [9]. Phương pháp nghiên cứu sử dụng: phương pháp điều tra ngẫu nhiên theo mẫu, phương pháp đánh giá nhanh nông thôn, phương pháp ước tính sản lượng và cường lực khai thác bền vững tối đa theo mô hình Schaefer [49]. Kết quả nghiên cứu cho thấy: - Hầu hết các đội tàu khai thác tại các địa phương nghiên cứu đều nằm trong tình trạng vượt ngưỡng cho phép. Tổng số tàu khai thác hải sản ven bờ cần duy trì trên cả nước là 58.322 chiếc, số lượng tàu vượt mức cho phép (hay số lượng tàu cần cắt giảm) là 51.102 chiếc. Đề tài đã đề xuất hệ thống chính sách và các giải pháp nhằm quản lý bền vũng nghề khai thác hải sản ven bờ Việt Nam dựa vào kết quả nghiên cứu của đề tài. Tuy nhiên, đề tài mới chỉ tiến hành điều tra chi tiết về kinh tế xã hội và khai thác hải sản tại 14 tỉnh để bổ sung cơ sở dữ liệu có dung lượng khá nhỏ (chỉ có 1 tháng mùa mưa và một tháng mùa khô). Đề tài không đề cập đến vấn đề điều chỉnh cơ cấu đội tàu, cơ cấu nghề nghiệp khai thác hải sản theo Nghị định 33/2010/NĐ-CP [12]. Công trình ”Nghiên cứu cơ sở khoa học phục vụ cho việc điều chỉnh cơ cấu đội tàu và nghề nghiệp khai thác hải sản” của Nguyễn Văn Kháng, năm 2011 [24]. Các phương pháp nghiên cứu sử dụng: phương pháp thống kê mô tả, phương pháp diện tích, phương pháp thuỷ âm, phương pháp đánh giá năng suất khai thác của FAO [41], phương pháp chuyên gia để phân tích, đánh giá nguồn lợi, hiện trạng khai thác hải sản và tính toán cường lực, sản lượng khai thác bền vững tối đa cho bốn vùng biển nghiên cứu (vùng biển vịnh Bắc Bộ, vùng biển Miền Trung, vùng biển Đông Nam Bộ, vùng biển Tây Nam Bộ). Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra: Tính tổng thể trên 04 vùng biển toàn quốc hoạt động khai thác sẽ bền vững với ngưỡng cường lực tương ứng là 103.187 chiếc tàu thuộc các đội tàu được lựa chọn làm tàu chuẩn. Từ các kết quả nghiên cứu tác giả và nhóm nghiên cứu đã đề xuất một số giải pháp sắp xếp đội tàu khai thác hải sản hợp lý với từng vùng biển nhằm phát triển bền vững nghề khai thác hải sản theo ba giai đoạn. Tuy nhiên, trong quá trình tính toán, đề tài vẫn chưa tính toán chi tiết cho từng nhóm công suất máy tàu đặc biệt là đội tàu khai thác xa bờ. Việc gộp tất cả các đội tàu khai thác xa bờ có công suất máy > 90CV thành một nhóm tàu sẽ làm hạn chế các kết quả tính toán do các nhóm tàu lớn có công suất máy khác nhau khi hoạt động sẽ cho năng suất, sản lượng khai thác cũng như hiệu quả hoạt động khác nhau. Bên cạnh đó, trong công trình nghiên cứu ”Nghiên cứu biến động và phân bố cường lực khai thác hải sản ở vùng biển xa bờ Đông Nam Bộ” của Bùi Văn Tùng, năm 2014 [33]. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng: phương pháp điều tra mẫu của FAO [41], phương pháp tính toán cường lực và sản lượng khai thác bền vững tối đa 11
- theo mô hình Schaefer [49] cho các nhóm nghề lưới kéo, nghề lưới vây, nghề lưới rê, nghề câu, nghề khác được chia theo các nhóm công suất (50-89)CV, (90-149)CV, (150-249)CV, ≥250CV. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra: - Cường lực khai thác bền vững tối đa theo các đội tàu thực ở vùng biển xa bờ Đông Nam Bộ là 14.912 tàu. Cường lực khai thác của nghề lưới kéo hiện nay ở vùng biển xa bờ Đông Nam Bộ vượt ngưỡng cường lực khai thác bền vững tối đa khoảng 56,3%, tương ứng với khoảng 2.823 tàu; các nghề còn lại có cường lực khai thác thấp hơn cường lực khai thác bền vững tối đa. Sản lượng khai thác bền vững tối đa theo các đội tàu thực ở vùng biển xa bờ Đông Nam Bộ là 1.146.140 tấn. Đề tài cũng đã đề xuất các giải pháp quản lý cường lực khai thác hải sản ở vùng biển xa bờ Đông Nam Bộ theo hướng bền vững, cụ thể: quản lý dựa trên cường lực khai thác bền vững tối đa; điều chỉnh cường lực khai thác; điều chỉnh cơ cấu nghề khai thác; xác định ngư trường khai thác phù hợp; hỗ trợ chuyển đổi nghề, chuyển đổi ngư cụ đánh bắt; nâng cao năng lực kiểm tra, kiểm soát. Các công trình nghiên cứu về cường lực và sản lượng khai thác bền vững tối đa bước đầu cho thấy xu thế biến động về nguồn lợi; tình trạng khai thác quá mức đang diễn ra tại các vùng biển cũng như các số liệu cụ thể về cường lực và sản lượng khai thác bền vững tại các vùng biển (vùng biển vịnh Bắc Bộ, vùng biển Trung Bộ, vùng biển Đông Nam Bộ, vùng biển Tây Nam Bộ). Kết quả nghiên cứu của các công trình là cơ sở khoa học cho các nghiên cứu sâu hơn về khai thác hợp lý thuỷ sản về mặt cường lực. 1.4.2.3 Các nghiên cứu về bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản Trong công trình khoa học "Đánh giá hiện trạng và đề xuất các biện pháp bảo vệ trứng cá, cá con và ấu trùng tôm, tôm con ở vùng ven bờ Đông Tây Nam Bộ" của Phạm Quốc Huy, năm 2008 [23]. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng: phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp phân tích, phương pháp nghiên cứu nguồn giống, trứng cá-cá con, ấu trùng tôm-tôm con để phân tích và đánh giá về điều kiện, nguồn lợi tự nhiên. Từ những kết quả nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đã xác định khu vực cấm khai thác là vùng sinh sản hoặc vùng ương nuôi của các loài hải sản [23]. Bên cạnh đó, trong công trình nghiên cứu "Nghiên cứu, đánh giá nguồn lợi thuỷ sản và đa dạng sinh học của một số vùng rừng ngập mặn điển hình để khai thác hợp lý và phát triển bền vững" của Nguyễn Quang Hùng, năm 2011 [21] đã tiến hành nghiên cứu về nguồn lợi thuỷ sản, đa dạng sinh học của bốn rừng ngập mặn điển hình: Đồng Rui - Quảng Ninh, Hưng Hoà - Nghệ An, Long Sơn - Bà Rịa -Vũng Tàu và Vườn Quốc gia mũi Cà Mau. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng: Phương pháp phân tích sinh học, phương pháp ước tính trữ lượng và khả năng khai thác bền vững, phương pháp đánh giá mức độ tương đồng loài, phương pháp lượng giá kinh tế rừng ngập mặn, ...Dựa trên những kết quả nghiên cứu, đề tài đã đề xuất khoanh vùng một số khu vực bãi bồi và lạch rừng tại các vùng rừng ngập mặn Đồng Rui (Quảng Ninh), Long Sơn (VũngTàu) và Vườn Quốc gia mũi Cà Mau (Cà Mau) nhằm bảo vệ các bãi đẻ tiềm năng trong mùa sinh sản. Đây là nơi cung cấp nguồn giống thuỷ sản tự nhiên chủ yếu cho toàn vùng rừng ngập mặn và các vùng biển xung quanh vùng rừng ngập mặn, tăng cường khả năng tái tạo quần đàn tự nhiên các loài thuỷ sản kinh tế chủ yếu. Các nghiên cứu này đã phân tích, đánh giá về đặc điểm và nguồn lợi tự nhiên tại các khu vực nghiên cứu, từ đó xác định các khu vực cấm hoặc hạn chế khai thác cũng như thời gian cấm hoặc khoanh vùng một số khu vực là các bãi đẻ tiềm năng, hạn chế 12
- khai thác đối với các khu vực là bãi sinh sản và bãi ương nuôi. Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu đưa ra những đề xuất, kiến nghị với các cơ quan chức năng trong việc bảo vệ và phát triển nguồn lợi ở các khu vực này. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu chưa đưa ra được những giải pháp cụ thể và tổng hợp để bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản tại khu vực nghiên cứu. 1.4.2.4 Các nghiên cứu về áp dụng mô hình đồng quản lý trong quản lý nguồn lợi thuỷ sản Trong công trình nghiên cứu ”Nghiên cứu xây dựng mô hình quản lý dựa vào cộng đồng cho nghề cá quy mô nhỏ tỉnh Thừa Thiên Huế” của Nguyễn Quang Vinh Bình, năm 2008 [5]. Tác giả đã sử dụng phương pháp tiếp cận tiếp cận tổng hợp gồm nhiều nhóm phương pháp cụ thể khác nhau phù hợp với mỗi giai đoạn: phương pháp nghiên cứu lý thuyết (tài liệu) và phi thực nghiệm để xây dựng các luận điểm nghiên cứu và tìm ra các luận cứ có tính xác thực đã được công nhận; phương pháp nghiên cứu thực nghiệm tại cộng đồng xã hội, tổ chức thực hiện mô hình, kiểm nghiệm các giả thuyết, luận điểm nghiên cứu trong thực tiễn; Tiếp tục sử dụng nhóm nghiên cứu lý thuyết và phi thực nghiệm để kiểm chứng, chứng minh các giả thuyết khoa học đã đưa ra, sau khi thực hiện mô hình. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Mô hình quản lý dựa vào cộng đồng cho nghề cá quy mô nhỏ tỉnh Thừa Thiên Huế đã đạt được những thành tựu nhất định trên góc độ quan tâm từ phía cộng đồng ngư dân và Nhà nước: - Các cộng đồng ngư dân mong muốn được giúp đỡ xây dựng hội nghề nghiệp để tập trung lực lượng giúp đỡ nhau trong sản xuất và đời sống. - Cơ quan quản lý thuỷ sản cũng mong muốn có hệ thống tổ chức ngư dân cấp cơ sở để làm cầu nối giữa Nhà nước và ngư dân trong việc quản lý thuỷ sản: chống khai thác huỷ diệt, ô nhiễm môi trường,... mục tiêu ổn định và phát triển sản xuất nâng cao đời sống ngư dân đầm phá. Tuy nhiên, ở góc độ quản lý nguồn lợi thuỷ sản mô hình này chỉ tập trung ở chi hội nghề nghiệp, bố trí lại phân bố nghề nghiệp trên khu vực mặt nước giao, chưa đi sâu vào công tác bảo vệ nguồn thuỷ sản chung cho cộng đồng dân cư, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương và việc bổ sung tái tạo nguồn lợi cho khu vực này chưa được đề cập. Mặt khác mô hình này nghiêng về hành chính, chưa thể hiện rõ vai trò cộng đồng. Công trình nghiên cứu ”Một số kết quả bước đầu trong việc xây dựng các mô hình đồng quản lý nghề cá tại Bình Định” của Trần Văn Vinh, năm 2009 [37]. Phương pháp nghiên cứu sử dụng: phương pháp điều tra ngẫu nhiên theo mẫu phiếu điều tra; phương pháp nghiên cứu tài liệu; phương pháp thống kê. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra là sau 03 năm (2006-2008) thực hiện việc xây dựng mô hình đồng quản lý nguồn lợi thuỷ sản tại đầm Trà Ổ, mô hình này đang được nhân rộng và tiếp tục thực hiện tại các đầm: Thị Nại, Đề Gi. Nguồn tài chính để tiếp tục thực hiện mô hình này được cụ thể hoá trong các quy chế, quy định. Các mô hình đồng quản lý bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản đề xuất này dựa trên các luận cứ khoa học, thực tiễn từ các mô hình đồng quản lý thuỷ sản quy mô nhỏ tại Việt Nam và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của cộng đồng dân cư tại đầm Trà Ổ và đầm Thị Nại nhằm khuyến khích sự tham gia tích cực của cộng đồng trong việc quản lý và sử dụng nguồn lợi thuỷ sản có hiệu quả, bền vững. Bên cạnh đó, trong công trình ”Nghiên cứu đánh giá mô hình đồng quản lý khu bảo tồn biển Rạn Trào, xã Vạn Hưng, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa” của Bùi 13
- Quang Thỉnh, năm 2005 [31]. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng: phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp chuyên gia, phương pháp phỏng vấn hồi cố, phương pháp thống kê và phương pháp điều tra nhanh nông thôn có sự tham gia của cộng đồng. Kết quả nghiên cứu cho thấy sau ba năm thực hiện, mô hình đồng quản lý KBTB Rạn Trào đã trở thành một trong những KBTB đầu tiên của Việt Nam do địa phương quản lý góp phần quản lý bền vững nguồn lợi ven bờ. 1.5 Đánh giá chung các công trình nghiên cứu trong nước và ngoài nước 1.5.1 Về phương pháp nghiên cứu Các công trình nghiên cứu sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu để tổng hợp, phân tích đánh giá số liệu đã được công bố từ các báo cáo, công trình nghiên cứu trước đó, và số số liệu của các cơ quan quản lý nghề cá và các nguồn tài liệu thứ cấp về: Điều kiện tự nhiên, môi trường, nguồn lợi thuỷ sản; các tài liệu báo cáo về định hướng và phát triển kinh tế, xã hội...; số liệu thống kê hiện về trạng nghề khai thác thuỷ sản; các thể chế có liên quan đến công tác bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản - Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm tại cộng đồng xã hội, điều tra phỏng vấn (hộ gia đình, nhóm ngư dân theo) theo phiếu điều tra mẫu, tổ chức thực hiện mô hình, kiểm nghiệm các giả thuyết, luận điểm nghiên cứu trong thực tiễn. - Phương pháp chuyên gia, phương pháp phỏng vấn hồi cố, phương pháp điều tra nhanh nông thôn có sự tham gia của cộng đồng để phân tích, đánh giá về điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội, nguồn lợi tự nhiên, chất lượng môi trường để làm cơ sở xây dựng mô hình đồng quản lý phù hợp. - Sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu các tài liệu và phi thực nghiệm để xây dựng các luận điểm nghiên cứu và tìm ra các luận cứ có tính xác thực đã được công nhận, kiểm chứng, chứng minh các giả thuyết khoa học đã đưa ra, sau khi thực hiện mô hình. - Sử dụng phương pháp toán thống kê để xử lý số liệu điều tra. - Các phương pháp xã hội học: điều tra kinh tế xã hội, lấy ý kiến tham vấn cộng đồng theo các phiếu điều tra của các cơ quan quốc tế (WB, ADB) có điều chỉnh cho phù hợp với nội dung điều tra nhằm thu thập thông tin trực tiếp từ các hộ gia đình, các đơn vị nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất kinh doanh... 1.5.2 Về nội dung và kết quả nghiên cứu Các công trình nghiên cứu thực hiện với nhiều nội dung khác nhau có liên quan đến công tác bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản: - Nghiên cứu áp dụng các mô hình toán và khai thác theo hạn ngạch trong quản lý khai thác thuỷ sản. - Xác định khu vực cấm khai thác, giảm lượng tàu cá khai thác và chuyển đổi nghề nghiệp đối với những người dân không hoạt động nghề khai thác thuỷ sản. - Nghiên cứu xây dựng mô hình quản lý dựa vào cộng đồng cho nghề cá quy mô nhỏ. - Nghiên cứu phân vùng chức năng cho khu bảo tồn biển, áp dụng mô hình quản lý nguồn lợi thuỷ sản có sự tham gia của cộng đồng trong quản lý và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản tại các khu bảo tồn biển, các đầm. Kết quả mà các nghiên cứu này đạt được: 14
- - Việc nghiên cứu xây dựng các mô hình toán, hạn ngạch khai thác đã góp phần đáng kể vào công tác quản lý và khai thác hợp lý nguồn lợi thuỷ sản. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu về khai thác theo hạn ngạch không đề cập đến việc bảo vệ sinh cảnh, đa dạng sinh học và ngư cụ mang tính huỷ diệt, vì thế mà quản lý khai thác theo hạn ngạch cũng không thể đảm bảo tính bền vững, mặc dù nó đã cải thiện quản lý nguồn lợi tốt. Việc tiến hành cắt giảm số lượng tàu thuyền và chuyển đổi nghề nghiệp cho những người không tham gia vào hoạt động khai thác thuỷ sản đã góp phần đáng kể đến việc bảo vệ và khôi phục nguồn lợi ở một số quốc gia. Tuy nhiên, việc xác định cơ cấu, số lượng nghề nghiệp và quy mô của từng nghề trong quá trình chuyển đổi nghề nghiệp vẫn chưa thấy nêu rõ trong kết quả nghiên cứu. Mô hình quản lý dựa vào cộng đồng cho nghề cá quy mô nhỏ đã đạt được những thành tựu nhất định trên góc độ quan tâm từ phía cộng đồng ngư dân và Nhà nước. Tuy nhiên, về góc độ quản lý nguồn lợi mô hình này chỉ tập trung ở chi hội nghề nghiệp, bố trí lại phân bố nghề nghiệp trên khu vực mặt nước giao, chưa đi sâu vào công tác bảo vệ nguồn thuỷ sản chung cho cộng đồng dân cư, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương và việc bổ sung tái tạo nguồn lợi cho khu vực này chưa được đề cập. Mặt khác mô hình này nghiêng về hành chính, chưa thể hiện rõ vai trò cộng đồng. Việc nghiên cứu các mô hình đồng quản lý bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản ở các nước, cho ta thấy rằng việc triển khai và ứng dụng mô hình đồng quản lý mỗi lãnh thổ, mỗi vùng nước, phạm vi đều có một cách triển khai phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội, nguồn lợi và môi trường, phong tục tập quán, trình độ văn hoá, quyền sử dụng mặt nước của cộng đồng...Tất cả các mô hình đều đạt được những kết quả nhất định như: nhận thức của cộng đồng ngư dân trong việc khai thác và sử dụng nguồn lợi thuỷ sản được nâng lên, nguồn lợi thuỷ sản được phục hồi và cộng đồng ngư dân có trách nhiệm cùng với chính quyền trong việc bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản. Mô hình hình này đang được tiếp tục thực hiện, nhân rộng tại một số quốc gia trong đó có Việt Nam. 1.5.3 Những điểm kế thừa cho đề tài nghiên cứu 1.5.3.1 Về phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài nghiên cứu của mình nghiên cứu sinh sẽ kế thừa các phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu để tổng hợp, phân tích đánh giá số liệu đã được công bố từ các báo cáo, công trình nghiên cứu trước đó, và số số liệu của các cơ quan quản lý nghề cá và các nguồn tài liệu thứ cấp về: Điều kiện tự nhiên, môi trường, nguồn lợi thuỷ sản; các tài liệu báo cáo về định hướng và phát triển kinh tế, xã hội...; số liệu thống kê hiện về trạng nghề khai thác thuỷ sản; các thể chế có liên quan đến công tác bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản - Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm tại cộng đồng xã hội, điều tra phỏng vấn (hộ gia đình, nhóm ngư dân theo) theo phiếu điều tra mẫu, tổ chức thực hiện mô hình, kiểm nghiệm các giả thuyết, luận điểm nghiên cứu trong thực tiễn. - Phương pháp chuyên gia, phương pháp phỏng vấn hồi cố, phương pháp điều tra nhanh nông thôn có sự tham gia của cộng đồng để phân tích, đánh giá về điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội, nguồn lợi tự nhiên, chất lượng môi trường để làm cơ sở xây dựng mô hình đồng quản lý phù hợp. 15
- - Phương pháp toán thống kê để xử lý số liệu điều tra. 1.5.3.2 Về kết quả nghiên cứu Kết quả nghiên cứu của các công trình [9,24,31,33,37,38] cho thấy việc tính toán giá trị cường lực và sản lượng khai thác bền vững tối đa đối với từng loại nghề theo các dải công suất khác nhau dựa trên giá trị về cường lực khai thác đã được chuẩn là hoàn toàn có cơ sở khoa học. Bên cạnh đó, các mô hình đồng quản lý bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản đề xuất được dựa trên các luận cứ khoa học, thực tiễn từ các mô hình đồng quản lý thuỷ sản quy mô nhỏ tại Việt Nam và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của cộng đồng dân cư của các địa phương, khu vực và các vùng nước nhằm khuyến khích sự tham gia tích cực của cộng đồng trong việc quản lý và sử dụng nguồn lợi thuỷ sản có hiệu quả, bền vững. Từ những kết quả này nghiên cứu sinh sẽ vận dụng vào đề tài luận án của mình để tính toán giá trị cường lực và sản lượng khai thác bền vững tối đa và đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản phù hợp tại vịnh Vân Phong. Để thực hiện đề tài luận án, nghiên cứu sinh tiếp thu có chọn lọc của các công trình nghiên cứu có liên quan đã phân tích ở trên và tập trung làm rõ một số nội dung: - Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động khai thác thủy sản tại vịnh Vân Phong. - Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản trong vịnh Vân Phong. - Nghiên cứu xác định cường lực, sản lượng khai thác bền vững tối đa của một số nghề khai thác chính trong vịnh Vân Phong. - Đề xuất giải pháp, biện pháp triển khai thực hiện nhằm bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản tại vịnh Vân Phong. 16
- CHƯƠNG 2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Phương pháp thu thập số liệu 2.1.1 Phạm vi khảo sát số liệu Trong quá trình điều tra, chúng tôi đã tổng hợp được 18 tàu có công suất từ 90- 150CV và 3 tàu có công suất lớn hơn 150CV. Tuy nhiên số lượng tàu có công suất lớn hơn 90CV không nhiều (21 tàu) so với số tàu có công suất từ 90CV trở xuống đang hoạt động trong vịnh Vân Phong (phụ lục 3), vì vậy nghiên cứu sinh chỉ tập trung vào nghiên cứu nhóm tàu có công suất từ 90CV trở xuống. Hơn nữa, số tàu có công suất lớn hơn 90CV này thường hoạt động khai thác bên ngoài khu vực vịnh Vân Phong theo chủ trương khai thác xa bờ của UBND tỉnh Khánh Hòa và huyện Vạn Ninh (theo quyết định số 05/2014 của UBND tỉnh Khánh Hoà). Điều này đã củng cố thêm cơ sở cho nghiên cứu sinh chỉ tập trung khảo sát số tàu có công suất trong phạm vi từ 90CV trở xuống. Xuất phát từ những luận điểm này, nghiên cứu sinh xác định phạm vi công suất tàu cần khảo sát đang hoạt động trong vịnh Vân Phong gồm 2 nhóm: nhóm dưới 20cv và nhóm 20÷89CV. Nghiên cứu sinh không khảo sát 21 tàu có công suất từ 90CV trở lên. 2.1.2 Thu thập số liệu tàu thuyền hoạt động khai thác thủy sản trong vịnh Vân Phong Qua khảo sát chúng tôi nắm được số tàu thuyền làm nghề khai thác thủy sản của 7 xã, 1 thị trấn và 2 phường nằm trên bờ vịnh Vân phong. Trong số những tàu này, có tàu hoạt động trong vịnh Vân Phong và có tàu lại đi ra ngoài vịnh Vân Phong để khai thác vùng lộng, vùng khơi và tỉnh bạn. Ngược lại, cũng có một số tàu từ các địa phương ở ngoài vịnh Vân Phong như Nha Trang, Phú Yên....vào hoạt động khai thác thủy sản trong vịnh. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để xác định chính xác số lượng tàu thực tế hoạt động khai thác thủy sản trong vịnh Vân Phong. Đây là việc làm khó nhưng để đạt được điều đó chúng tôi đã tiến hành như sau: Bước 1: Dựa vào số liệu thống kê của Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Khánh Hoà để nắm được số lượng tàu theo nghề, theo công suất của từng địa phương (xã, phường, thị trấn). Bước 2: Dựa vào sổ nhật ký của đồn biên phòng 358 (Đầm Môn - Vạn Thạnh) và đồn biên phòng 362 (Vạn Hưng) để nắm được các thông tin: - Những tàu nào từ các địa phương trong vịnh đi ra ngoài vịnh sản xuất và loại trừ các tàu của địa phương nằm trên bờ vịnh Vân Phong nhưng không hoạt động đánh bắt trong vịnh. Dựa vào số đăng ký của những tàu này chúng tôi ra soát và loại bớt những tàu này ra khỏi danh sách chung. - Ngược lại, những tàu nào từ địa phương khác như Phú Yên, Nha Trang...vào trong vịnh hoạt động khai thác thủy sản thì chúng tôi lại bổ sung số lượng vào dòng mới "Địa phương khác". Bước 3: Dựa vào nhật ký hoạt động thanh tra giám sát nguồn lợi thủy sản và biên bản xử lý vi phạm của Đội số 3 và Đội số 4 (Thanh tra sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Khánh Hoà) để nắm được danh sách một số tàu đã thực sự hoạt động khai thác thủy sản trong vịnh. Đây là cách làm mang tính kiểm tra xác suất các tàu của địa phương hoạt động đánh bắt trong vịnh. 17
- Bước 4: Dựa vào kết quả điều tra bằng phiếu hỏi các hộ ngư dân chúng tôi sẽ biết được tàu nào hoạt động ở vùng biển nào. Qua số liệu này chúng tôi sẽ loại bớt hoặc bổ sung thêm số lượng tàu thực tế hoạt động trong vịnh. Bước 5: Chúng tôi thuê tàu tự tổ chức đi thực tế trên vịnh Vân Phong vào 2 đợt vào ngày 8-9/7/2015 và ngày 8-9/11/2015. Trong từng đợt đi thực tế chúng tôi làm 2 việc: - Trông thấy tàu nào nhưng không tiếp cận được thì ghi lại số đang ký của tàu, nghề khai thác và dựa vào danh sách để biết thêm các thông tin khác như công suất, kích thước, địa chỉ chủ tàu... - Một số tàu tiếp cận thuận lợi thì chúng tôi lấy thêm thông tin về sản lượng, sản phẩm khai thác. Từ những cách làm như trên, chúng tôi xác định số lượng tàu thuyền thực tế hoạt động trong vịnh Vân Phong (Phụ lục 3). 2.1.3 Xác định số lượng mẫu điều tra Số lượng mẫu điều tra để phục vụ cho nghiên cứu được xác định theo công thức tính cỡ mẫu của Yamane (1967) [52]: N n= 1+ N × e2 (2.1) Trong đó: - n là số lượng mẫu cần điều tra về tàu thuyền thực tế khai thác trong vịnh Vân Phong phục vụ cho nghiên cứu (mẫu). - N là tổng số tàu thuyền thực tế khai thác trong vịnh Vân Phong. - e là mức độ sai số cho phép (trong nghiên cứu này chúng tôi chọn e = 5%). Thay các giá trị vào công thức (2.1), ta sẽ tính ra được số tàu thuyền thực tế khai thác trong vịnh Vân Phong cần điều tra để phục vụ cho nghiên cứu. Để tính toán sự phân bố số lượng mẫu điều tra đối với từng loại nghề tương ứng với các địa phương, nghiên cứu sinh sử dụng phương pháp phân bố mẫu ngẫu nhiên, phân bố mẫu tỷ lệ thuận với quy mô tổng thể [36]. Khi đó công thức tính số mẫu điều tra của từng loại nghề khai thác tương ứng với các xã, phường như sau: Nt nt = n N (2.2) Trong đó: t - địa bàn cần điều tra nt - số mẫu của loại nghề cần điều tra tại địa bàn t Nt - Số tàu thuyền theo nghề tại địa bàn thứ t cần điều tra n - số lượng mẫu cần điều tra phục vụ cho nghiên cứu (tính theo công thức 2.1) N - Tổng số tàu thuyền thực tế khai thác trong vịnh Vân Phong Qua khảo sát sơ bộ cho thấy ở VVP có các nghề hoạt động: nghề lưới kéo, nghề lưới vây, nghề lưới rê, nghề câu, nghề lặn, nghề te xiệp, nghề lờ dây. Đề tài chỉ nghiên cứu các nghề có số lượng tàu thuyền hoạt động ở VVP nhiều nhất, phổ biến ở các địa phương xung quanh VVP để tiến hành điều tra mẫu, phục vụ cho nghiên cứu. Trên cơ sở đó nghiên cứu sinh chỉ xem xét các nghề: lưới kéo, lưới vây, lưới rê, nghề câu và các nghề còn lại sẽ xếp vào nhóm nghề khác. 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 303 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy vật lý cho học sinh thông qua phương pháp mô hình với sự hỗ trợ của máy tính trong dạy học chương động lực học chất điểm vật lý lớp 10 trung học phổ thông
219 p | 288 | 35
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 179 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 266 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 222 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 175 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 53 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 198 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 148 | 7
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 135 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 170 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn