Tóm tắt Luận án tiến sĩ Văn hóa học: Ghi ta trong đời sống giới trẻ hiện nay tại Hà Nội
lượt xem 6
download
Mục tiêu của luận án là thông qua việc chỉ ra vai trò của ghi ta và các hoạt động xung quanh cây đàn trong đời sống văn hoá tinh thần của giới trẻ ở Hà Nội, luận án góp phần khám phá một số khía cạnh trong đời sống của giới trẻ dưới tác động của toàn cầu hoá, và những thay đổi trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án tiến sĩ Văn hóa học: Ghi ta trong đời sống giới trẻ hiện nay tại Hà Nội
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ THỊ THANH TRÀ GHI TA TRONG ĐỜI SỐNG GIỚI TRẺ HIỆN NAY TẠI HÀ NỘI Chuyên ngành: VĂN HOÁ HỌC Mã số: 62 31 06 40 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ VĂN HOÁ HỌC Hà Nội - 2017
- Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Quỳnh Phương TS. Đỗ Lan Phương Phản biện 1: PGS.TS. Bùi Hoài Sơn Phản biện 2: PGS.TS. Trần Đức Ngôn Phản biện 3: PGS.TS. Bùi Huyền Nga Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại: Học viện Khoa học Xã hội Vào hồi ......... giờ.........ngày.........tháng.........năm 2017 Có thể tìm thấy luận án tại: - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Thư viện Học viện Khoa học Xã hội
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Giới trẻ là thuật ngữ chỉ một nhóm người trong xã hội có những đặc điểm riêng về tâm sinh lý và nhu cầu sinh tồn. Giới trẻ không hẳn là một bộ phận dân cư đồng nhất, mà đa dạng từ độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, định hướng giá trị, cách ứng xử... Họ thường được xem là lớp người năng động, chủ động, tích cực trong việc chuẩn bị hành trang cho tương lai của bản thân, có đóng góp nhiều vào lịch sử phát triển của quốc gia - dân tộc. Bên cạnh những ảnh hưởng do tiếp nhận những sự trao truyền, giáo dục của thế hệ đi trước, họ luôn có những lựa chọn của riêng mình. Trong thời đại toàn cầu hoá hiện nay giới trẻ Việt Nam nói chung và giới trẻ sống ở Hà Nội nói riêng chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố văn hoá, tri thức, kinh nghiệm, giá trị từ bên ngoài, từ những cá nhân và các cộng đồng khác trên thế giới. Giới trẻ là nhóm đối tượng được quan tâm đặc biệt của ngành Nghiên cứu Văn hoá (Cultural Studies) – một ngành được hình thành từ những năm 60 của thế kỷ XX và đã tạo nên dấu ấn đặc sắc riêng bởi cách tiếp cận riêng biệt về những vấn đề văn hoá. Với cách tiếp cận liên ngành, nhấn mạnh đến yếu tố quyền lực, tính chính trị của văn hoá và bản sắc nhóm, ngành Nghiên cứu Văn hoá quan tâm đặc biệt đến giới trẻ như một “tiểu văn hoá” (subculture). Những hình thức âm nhạc, phong cách thời trang, hoạt động giải trí, những điệu múa và ngôn ngữ riêng biệt gắn liền với tuổi trẻ đã trở thành những chủ đề quan trọng từ cách tiếp cận của ngành ở một khía cạnh nào đó, những “tiểu văn hoá” này được xem như những thể hiện có tính kháng cự mang tính biểu tượng đối với trật tự xã hội. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, với sự phát triển chung của kinh tế và xã hội, sự lên ngôi của truyền thông xã hội, tác động của toàn cầu hoá, giới trẻ bị phân hoá ngày càng rõ ràng và đời sống của giới trẻ có những biến đổi mạnh mẽ về nhiều mặt, trong đó có đời sống văn hoá tinh thần. Đặc biệt, những sinh hoạt văn hoá nghệ thuật và cách thưởng thức, các hình thức giải trí, thị hiếu nghệ thuật...vv của giới trẻ nói chung và của giới trẻ đang sinh sống và làm việc tại Hà Nội nói riêng ngày càng đa dạng trong đó có những nhóm chơi ghi ta. Là một người làm việc trong lĩnh vực nghệ thuật âm nhạc, có 1
- nhiều năm chơi và giảng dạy ghi ta, tác giả nhận thấy ghi ta là một nhạc cụ được một bộ phận giới trẻ lựa chọn sử dụng trong các hoạt động giải trí của mình, từ môi trường chuyên nghiệp và không chuyên ở các trung tâm âm nhạc, các câu lạc bộ (CLB) của các trường Đại học (ĐH). Và không đơn thuần là một hoạt động giải trí, hoạt động ghi ta đã như một phương tiện hữu hiệu để nhóm trẻ đó thể hiện mình, đồng thời tạo nên bản sắc nhóm (cùng sở thích). 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Thông qua việc chỉ ra vai trò của ghi ta và các hoạt động xung quanh cây đàn trong đời sống văn hoá tinh thần của giới trẻ ở Hà Nội, luận án góp phần khám phá một số khía cạnh trong đời sống của giới trẻ dưới tác động của toàn cầu hoá, và những thay đổi trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay. Vấn đề nghiên cứu chính trong luận án này là tìm hiểu vai trò của ghi ta trong việc tạo dựng nên văn hoá của một bộ phận giới trẻ tại Hà Nội. 3. Đối tượng, địa bàn và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là các hoạt động ghi ta được thực hành bởi thanh thiếu niên độ tuổi 16 – 30 trong các vai trò: người dạy đàn, người chơi đàn (chuyên nghiệp hay không chuyên nghiệp), đặc biệt chú ý đến các CLB ghi ta và nhóm học sinh, sinh viên, công chức. 3.2. Địa bàn và phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu này chọn địa bàn là Hà Nội, cụ thể là nội thành Hà Nội. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án Chúng tôi sử dụng cách tiếp cận văn hoá học có tính liên ngành như quan tâm đến khía cạnh nghệ thuật học, lịch sử, tâm lý học, tiếp cận dân tộc học... Chúng tôi sử dụng các phương pháp cụ thể sau: nghiên cứu tài liệu thứ cấp; Phương pháp nghiên cứu định tính, thông qua điền dã dân tộc học, quan sát tham dự và phỏng vấn sâu. Với đặc thù nghề nghiệp là thiên về thực hành ít viết, ít lý luận. Cùng với những bỡ ngỡ, thiếu kinh nghiệm khi lần đầu làm công tác nghiên cứu, đã gặp một số khó khăn này sinh trong quá trình khảo sát như: khó có thể xác nhận được số thành viên trong các CLB, khó 2
- khăn về nguồn tài liệu… Tuy vậy tôi cũng đã cố gắng khắc phục tham gia và gặp gỡ nhiều hơn, trao đổi thông tin và cảm nghĩa của mình gợi ra những vấn đề mang tính tranh luận từ những thông tin phỏng vấn khác. Từ đó các cuộc phỏng vấn – nói chuyện sẽ có được những thông tin sâu hơn, phong phú hơn… 5. Đóng góp của luận án - Luận án là công trình đầu tiên tìm hiểu vai trò của nhạc cụ ghi ta từ góc nhìn văn hoá học. Luận án đã phác thảo chiều dài lịch sử du nhập của ghi ta và vai trò của nó trong đời sống lịch sử, văn hoá, xã hội của Việt Nam. Đặc biệt, thông qua việc phân tích vai trò của ghi ta trong đời sống của một bộ phận giới trẻ Hà Nội, luận án góp thêm một khía cạnh phác hoạ sự phong phú và đa dạng của đời sống giới trẻ Việt Nam hiện nay và những biến đổi của đời sống giới trẻ trong bối cảnh toàn cầu hoá và những thay đổi xã hội đang diễn ra nhanh chóng. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Luận án là một nghiên cứu trường hợp, góp thêm luận cứ cho thấy vai trò của âm nhạc và giải trí trong việc tạo dựng đời sống văn hoá của giới trẻ. - Luận án có thể làm nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên, giảng viên những nhà nghiên cứu văn hoá học, những người quan tâm đến giới trẻ và âm nhạc nói chung và những người yêu thích nhạc ghi ta ở Việt Nam nói riêng. 7. Cơ cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án được kết cấu thành 4 chương sau đây: Chương 1: Tổng quan cơ sở lý luận và vấn đề nghiên cứu Chương 2: Ghi ta và sự du nhập vào Việt Nam Chương 3: Những hoạt động ghi ta của giới trẻ tại Hà Nội Chương 4: Ghi ta - sự kết nối và tạo dựng bản sắc giới trẻ CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Những khái niệm cơ bản 1.1.1.Khái niệm giới trẻ “Giới trẻ” là một thuật ngữ được hiểu theo nhiều nghĩa (về mặt sinh học hay văn hoá), nhưng thường được xem là để chỉ những người ở độ tuổi thanh thiếu niên. Theo pháp luật Việt Nam, vị thành 3
- niên là dưới 18 tuổi nhưng theo điều lệ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, thanh niên là người có độ tuổi từ 15-30 nhưng có thể sinh hoạt Đoàn tới năm 35 tuổi. Vì vậy, nhiều nghiên cứu thường giới hạn độ tuổi của “giới trẻ” khác nhau như: (Bùi Hoài Sơn 2006, Phan Thị Oanh 2013), Phạm Hồng Tung (2008), Nguyễn Thị Như Thuỷ (2014:34) thì “trên thế giới và ở nước ta khi nói đến giới trẻ là nói đến những người trong độ tuổi thanh thiếu niên, năng động, sáng tạo, thường tò mò, thích khám phá và ham học hỏi”. Tuy nhiên, khái niệm “giới trẻ” còn có thể nằm ngoài qui định độ tuổi sinh học. “Giới trẻ” có thể được nhìn nhận từ ba quan điểm: là một phạm trù sinh học, một nhóm xã hội nổi bật và một cấu trúc văn hoá. Theo Mary Bucholtz (2002), ngoài việc đưa ra giới hạn độ tuổi của giới trẻ hay được phân chia theo nhóm tuổi sinh học, ngành nhân học cho rằng thời thanh niên như một giai đoạn sinh học và tâm lý học trong sự phát triển của con người,và hơn nữa coi giới trẻ như một phạm trù văn hoá. Trong nghiên cứu này, do đối tượng khảo sát chính của chúng tôi là giới học sinh sinh viên, nên “giới trẻ” được hiểu là có độ tuổi trùng với độ tuổi thanh niên 1 6 - 3 0 tuổi, theo luật Thanh niên được thông qua (29/11/2015) tại kì họp thứ 8 quốc hội khoá XI, quyết định số 24/2005/L/CTN ngày 9/12/2015. 1.1.2. Khái niệm về “đời sống” và “đời sống giới trẻ” Theo Từ điển tiếng Việt (2010:454), đời sống “là toàn bộ nói chung những hoạt động trong một lĩnh vực nào đó của con người, của xã hội. Đời sống giới trẻ cũng nằm trong tổng thể đời sống của các thành viên xã hội hay đời sống của một xã hội. Trong đề tài này, chúng tôi quan tâm đến đời sống giới trẻ, với hàm ý mọi khía cạnh hoạt động sống, cả đời sống tinh thần và đời sống vật chất, của một nhóm những người trẻ cùng chia sẻ một sở thích chung, đó là ghi ta. 1.2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 1.2.1 Những nghiên cứu về giới trẻ Trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu đề cập tới thanh niên từ nhiều khía cạnh (Tyyska 2005, Bucholtz 2002, Bassani 2007, Wyn và Woodman 2006). Theo Mary Bucholtz (2002) trong tác phẩm Youth and cultural practice (Giới trẻ và thực hành văn hoá), nghiên cứu về giới trẻ là trọng tâm trong nhân học nửa đầu thế kỷ XX. Cherylynn Bassani trong tác phẩm Five Dimensions of Social Capital 4
- Theory as they Pertain to Youth Studies (Năm khía cạnh của lý thuyết vốn xã hội có liên quan đến nghiên cứu giới trẻ) (2007) nghiên cứu 5 thành tố của thuyết nguồn vốn xã hội. Wyn và Woodman trong bài trao đổi Researching Youth in a Context of Social Change: A Reply to Roberts (Nghiên cứu giới trẻ trong bối cảnh của sự biến đổi xã hội: trao đổi với Roberts) (2007) sử dụng lăng kính “thế hệ xã hội” để nhìn nhận về giới trẻ. Ở Việt Nam, cũng đã có rất nhiều các nghiên cứu tìm hiểu những vấn đề chung của thanh niên (Đặng Cảnh Khanh 2006, Đặng Vũ Cảnh Linh 2003), (Đinh Thị Vân Chi 2003, Phan Thanh Tá 1997, Hương Ly 2008), (Phạm Hồng Tung 2011, Bùi Thị Vân Anh, 2012), (Bùi Hoài Sơn, Nguyễn Thị Phương Châm 2013, Đặng Cảnh Khanh 2006), (Nguyễn Thị Phương Hoa 2014, Nguyễn Thị Hoa. 2013). Ở đây chúng tôi sẽ điểm qua một số hướng nghiên cứu này. 1.2.1.1 Nghiên cứu về lối sống của giới trẻ Các tác giả Việt Nam viết về chủ đề này cho rằng trong thời đại mới, thanh niên Việt Nam khá phân hoá, bên cạnh những xu hướng lành mạnh cũng có những mặt khá tiêu cực. Theo Phạm Hồng Tung (2011:502) trong tác phẩm Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước thay đổi, thanh niên Việt Nam luôn đứng trước nhiều lựa chọn khó khăn, nhiều cơ hội và thách thức mà các thế hệ trước đó chưa từng gặp. Qua nghiên cứu về tình hình thanh niên hiện nay tác giả cho rằng bên cạnh phần lớn thanh niên Việt Nam hướng tới những giá trị tốt đẹp thì vẫn còn không ít những thanh niên đang chịu ảnh hưởng và theo những xu hướng tiêu cực, không lành mạnh, sa vào những tệ nạn xã hội. Nhiều bài viết cũng đồng quan điểm cho rằng trong quá trình hội nhập quốc tế, dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường, sự bùng nổ công nghệ thông tin, nhiều giá trị sống cũng bị thay đổi làm ảnh hưởng đến đạo đức lối sống của thanh niên trong bài viết Bàn về đạo đức lối sống của thanh niên trí thức nước ta hiện nay, với đối tượng hẹp là thanh niên trí thức, Nguyễn Thị Phương Hoa (2014:50). Một số nghiên cứu khác lại trăn trở với việc tìm hiểu trách nhiệm xã hội của thanh niên hiện nay Tác giả Lê Thị Thanh Hương (2014:13) cho rằng thanh niên là lứa tuổi có nhiều hoài bão, không chỉ muốn khẳng định mình trong cuộc sống mà còn khát khao được góp sức cho sự phát triển chung của cả dân tộc, nhân loại: “thanh niên Việt Nam hiện nay về cơ bản thể hiện 5
- thái độ chính trị và trách nhiệm xã hội của mình như một lẽ tự thân. 1.2.1.2 Nghiên cứu về giới trẻ từ góc độ nhu cầu giải trí Nhiều nghiên cứu chỉ ra nhu cầu giải trí của thanh niên rất đa dạng. Trong tác phẩm Nhu cầu giải trí của thanh niên, tác giả Đinh Thị Vân Chi (2003:123) khẳng định nhu cầu giải trí là động cơ của hoạt động giải trí, giải trí là “nhu cầu” của con người vì nó đáp ứng những đòi hỏi từ cá nhân. Khi đáp ứng và thoả mãn được nhu cầu giải trí thì đó là một trong những phương tiện giúp con người phát triển toàn diện, vì thế mà vai trò của giải trí với thanh niên là rất cần thiết. Dựa trên lý thuyết về thời gian rỗi tác giả đưa ra cái nhìn nhận chung về các khuôn mẫu giải trí của thanh niên. Và để góp phàn làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận về thời gian rỗi và hoạt động vãn hoá trong thời gian rỗi, luận văn thạc sĩ văn hoá học “Thời gian rỗi và hoạt động văn hoá của thanh niên Hà Nội hiện nay” (Phan Thanh Tá, 1997) đã nghiên cứu nhu cầu hoạt động văn hoá của thanh niên Hà Nội, khảo sát thực trạng những hoạt động văn hoá chủ yếu của thanh niên trong thời gian rỗi từ đó đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục văn hoá cho thanh niên, hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hoá nhằm thu hút các thế hệ trẻ vào những hoạt động lành mạnh, bài trừ các tệ nạn, văn hoá độc hại, phát huy bản sắc văn hoá và truyền thống đạo đức của dân tộc. Đồng tình với quan niệm về nhu cầu giải trí, trong luận văn thạc sĩ “Múa với đời sống sinh hoạt văn hoá của sinh viên thủ đô hiện nay ” Nguyễn Thị Hiền Trang (2014:12) cũng dùng khái niệm về nhu cầu giải trí làm cơ sở cho nghiên cứu của mình, “nhu cầu giải trí không chỉ nhằm mục đích giải toả sự căng thẳng tinh thần để đạt tới sự thư dãn, thanh thản trong tâm hồn. Và ở mức độ cao hơn, những hoạt động đó sẽ tạo nên sự rung cảm về thẩm mỹ”. Cũng bàn về nhu cầu giải trí trên tạp chí Tâm lý học, số 5 (2014) có bài: “Thực trạng nhu cầu giải trí của thanh niên dân tộc thiểu số vùng tây Nam Bộ hiện nay” của tác giả Tô Thuý Hạnh, tác giả chỉ ra nhu cầu giải trí là một trong những nhu cầu tinh thần được thanh niên dân tộc thiểu số quan tâm, nội dung rất đa dạng bên cạnh nhu cầu thuyền thống xem ti vi thì nhu cầu giải trí bên ngoài cộng đồng, tham gia vào các lễ hội, qua các hình thức mạng xã hội, truy cập internet hay đi du lịch ... là những hoạt động được các bạn trẻ quan tâm. 6
- 1.2.1.3 Nghiên cứu bản sắc giới trẻ trong bối cảnh công nghệ và toàn cầu hoá Trong các công trình, các tác giả chỉ ra rằng văn hoá nghe nhìn hay những tiến bộ của khoa học, đặc biệt là internet, đều là hình thức văn hoá mới của xã hội công nghiệp hiện đại bởi những tiện ích cũng như sức hấp dẫn do các phương tiện đó mang lại vô cũng to lớn (Đỗ Nam Liên chủ biên 2005, Bùi Hoài Sơn 2006, Nguyễn Thị Phương Châm 2013). “Giới trẻ với những đặc điểm về phát triển tâm lý có những nhu cầu riêng và là người tiếp nhận tích cực những tiến bộ khoa học kỹ thuật, đồng thời cũng chịu sự tác động của các phương tiện nghe nhìn nhiều nhất trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực. Văn hoá nghe nhìn đã trở thành một phần không thể thiếu các phương tiện này đã đưa lại một phong cách, một nhịp sống mới, khác với những gì thế hệ ông cha họ đã từng trải qua” (Đỗ Nam Liên chủ biên, 2005:343). Hơn nữa, internet đã và đang tạo ra không gian mới cho sự kết nối và thể hiện của giới trẻ, không chỉ vậy không gian internet còn mở ra một không gian bản sắc rất đa chiều và sinh động cho giới trẻ. (Nguyễn Thị Phương Châm, 2013). 1.2.1.4 Nghiên cứu về vai trò của âm nhạc nghệ thuật trong việc kiến tạo bản sắc giới trẻ Bài báo của hai tác giả Tracy Shildrick & Robert MacDonald: In Defence of Subculture; Young People, Leisure anh Social Divisions (Các quan điểm ủng hộ tiểu văn hoá: Giới trẻ, giải trí và sự phân chia xã hội) đưa ra một quan điểm cho rằng trọng tâm đặc biệt của thời kỳ hậu tiểu văn hoá về âm nhạc, nghệ thuật nhảy và phong cách đã phủ nhận một sự khám phá đầy đủ và chính xác về các bản sắc văn hoá và các trải nghiệm của phần lớn thanh niên. Một trong những luận điểm trung tâm của bài báo là: để hiểu một cách đúng đắn và toàn diện về giới trẻ, cần quan sát kỹ đời sống văn hoá và giải trí của họ giao thoa với các khía cạnh trong tiểu sử của họ như thế nào. Một nghiên cứu của Fred Blake (2007) về Trung Quốc - Love songs and the Great Leap: the role of a youth culture in the revolutionaryphase of China's economic development (Những bản tình ca và bước đại nhảy vọt: Vai trò của văn hóa trẻ trong giai đoạn cách mạng phát triển kinh tế Trung Hoa) chỉ ra rằng, âm nhạc được sử dụng trong việc truyền bá các thông điệp chính trị đến giới trẻ. Chủ nghĩa cộng sản Trung Hoa cho rằng phát triển kinh tế phải gắn 7
- chặt việc những người trẻ cam kết với những giá trị văn hóa hay chính trị nhất định. Ở Việt Nam, những câu chuyện về âm nhạc Việt Nam cũng cho chúng ta hiểu được giới trẻ ở những giai đoạn thời kỳ lịch sử. Tác giả Jason Gibbs (2008) đã đề cập đến những câu chuyện trong lịch sử âm nhạc Việt Nam từ góc nhìn văn hoá. Trong bài viết “Điệu Rumba trên dòng Cửu Long: Bolero - một dạng ca khúc phổ thông Việt Nam”, tác giả chỉ ra khiêu vũ được du nhập vào Việt Nam thông qua tầng lớp thanh niên con nhà quyền thế du học ở Tây. “Tuy nhiên, những tầng lớp thấp hơn thông qua thị trường âm nhạc đã tìm thấy một phép màu của khiêu vũ ở vũ trường mà họ có thể thưởng thức được - đầu tiên là mambo, nhưng quan trọng hơn cả là điệu rumba/bolero. Bolero có thể hoà nhập vào giới bình dân mà không băn khoăn chuyện học hội với vũ sư. (Gibbs, 2008:141). . Bên cạnh đó cho thấy họ là những nhạc sĩ, ca sĩ, hay những người thưởng thức âm nhạc đặc biệt là những thế hệ trẻ, họ không tạo ra dòng nhạc phổ thông mà tạo ra âm nhạc Việt Nam. Họ băn khoăn suy nghĩ về âm nhạc của đất nước mình đang có nguy cơ không tiến lên mà sẽ có thể ngày một mất đi. Với sức trẻ, đầy nhiệt huyết, họ đã và đang rất tận tâm với việc giữ gìn và phát huy âm nhạc truyền thống làm sao có được tiến bộ trong bối cảnh xã hội hiện nay. 1.2.2.Những nghiên cứu về ghi ta Có thể kể một số cuốn sách như: Lê Xuân Tùng- Nhất Phương (2002), Phương pháp chơi đàn ghi ta lead của Gary Turner (Việt Thư dịch, 2007); Kĩ thuật solo ghi ta của Hoàng Hạc (2010).... Gần đây, có luận văn thạc sĩ âm nhạc học như: Nguyễn Thúy Anh (2010), Vi Minh Huy (2006), Lương Đức Thắng (2006), Nguyễn Thị Hà (2007), Nguyễn Thị Hà (2010), Nguyễn Quang Tùng (2013), Nguyễn Thị Hà (2017), Nguyễn Văn Phúc (2011), Nguyễn Văn Phúc (2014), Nguyễn Văn Phúc (2015), Cao Sỹ Anh Tùng (2014), Cao Sỹ Anh Tùng, (2015) ...thường đề cập đến nhiều về tình hình cũng như phương pháp, phương hướng giảng dạy tại các cơ sở đào tạo trên theo chuyên môn của người viết luận văn, do đó mà yếu tố văn hóa không được chú ý. Đặc biệt, trong năm 2013, cuốn sách Nghệ thuật trình tấu ghi ta cổ điển tại Hà Nội do Vũ Bảo Lâm, Trịnh Minh Cường, Nguyễn Trung, Cao Minh Khanh biên soạn đã giới thiệu chân dung cũng như cuộc đời của những cây đại thụ ghi ta đầu tiên của Hà Nội, 8
- 1.3. Cơ sở lý luận Theo Tyyska (2005) trong bài viết Conceptualizing and Theorizing Youth: Global Perspectives, (Khái niệm hoá và lý thuyết hoá giới trẻ: những khía cạnh toàn cầu), đã có nhiều lý thuyết liên quan đến giới trẻ ví dụ như cách tiếp cận sinh học-xã hội (socio- biology), tiếp cận chức năng cấu trúc (structural functionalism), và tiếp cận chu kỳ cuộc đời (life-course), nhưng các cách tiếp cận này đều có hạn chế là đặt áp lực lên giới trẻ. Dick Hebdige (1979) với tác phẩm Subculture in the Meaning of Style (Tiểu văn hóa trong ý nghĩa của phong cách). Theo Michael Brake thì các tiểu văn hóa của giới trẻ có thể được định nghĩa là những hệ thống biểu đạt ý nghĩa (meaning systems), những mô thức tự bộc lộ bản thân mình (modes of expression) hay phong cách sống (lifestyle) do các nhóm yếu thế trong xã hội tạo nên nhằm để đối phó với các hệ thống đang chiếm vai trò chủ đạo trong xã hội - và điều này phản ánh những nỗ lực nhằm giải quyết những mâu thuẫn có tính cấu trúc hình thành từ những môi trường xã hội rộng lớn hơn. Đây là cách tiếp cận và thao tác nghiên cứu của trường phái xã hội học chức năng (functionalist sociology) khá thịnh hành ở phương Tây sau Thế chiến II. Tuy nhiên, cách tiếp cận này vẫn có những hạn chế. Tracy Shildrick & Robert MacDonald (2006) chỉ ra trong bài viết In Defence of Subculture: Young People, Leisure and Social Divisions (Bảo vệ tiểu văn hoá: Giới trẻ, giải trí và sự phân chia xã hội), lý thuyết tiểu văn hoá vẫn có giá trị. Một khía cạnh lý thuyết khác cũng được quan tâm trong nghiên cứu này, đó là văn hoá nhóm. Một số quan điểm cho rằng văn hóa nhóm dùng để chỉ nền văn hóa riêng nhỏ hơn tiểu văn hóa. Theo Cohen và Orbuch (1995), một nhóm là một số người nào đó tham gia một cách tự nguyện và trở thành thành viên của nhóm một cách có ý thức trên cơ sở sự mong đợi hành vi chung. Văn hoá nhóm được hình thành từ khi các mối quan hệ trong nhóm được thiết lập. Nó tạo ra các giá trị, quan niệm, niềm tin, thực hành trong nhóm. Tất cả các nhóm nhỏ đều có văn hóa của mình, nhưng đồng thời cũng là một phần của nền văn hóa toàn xã hội. Bên cạnh đó, quan niệm về thị hiếu của Pierre Bourdieu cũng giúp làm nền tảng lý luận cho nghiên cứu. Trong công trình nghiên cứu nổi tiếng Disctinction: A social Critique of the Judgement of Taste (Sự khu biệt: phê phán xã 9
- hội đối với sự đánh giá về thị hiếu). Mặt khác, ghi ta còn góp phần tạo nên bản sắc chung của một nhóm thanh thiếu niên có cùng sở thích. Văn hoá của họ dựa trên sự đồng dạng (McPherson, Lynn Smith – Lovin, 1987). Trong luận án này, chúng tôi còn quan tâm đến lý thuyết “mạng lưới xã hội” (Lê Minh Tiến, 2010:131). Như vậy, để hiểu được vai trò của ghi ta trong đời sống giới trẻ, chúng tôi sẽ vận dụng cách phân tích về nhu cầu giải trí của thanh niên, thị hiếu của họ trong mối liên hệ với bản sắc cá nhân và bản sắc nhóm, tạo dựng VXH và mạng lưới xã hội. 1.4. Khái quát về đời sống giới trẻ Hà Nội hiện nay Đời sống văn hóa giới trẻ hiện nay có nhiều thay đổi so với trước đây do những biến đổi của bối cảnh Việt Nam cả về chính trị, kinh tế, xã hội kể từ sau 1986. Do kinh tế phát triển, đời sống vật chất được nâng cao so với trước đây. Có thể thấy, chính vì điều kiện tiếp cận của giới trẻ ngày càng nhiều lên, nên giới trẻ Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng cũng ngày càng đa dạng và phân hoá thành nhiều nhóm, có những quan niệm sống, hệ giá trị, sở thích và lối sống khác nhau. Trong quá trình mở cửa hội nhập văn hóa hiện nay, các xu hướng, trường phái, các nhạc cụ phương tây, các phong cách âm nhạc của nhiều nước trên thế giới đã du nhập và có tác động không nhỏ vào âm nhạc Việt Nam mà giới trẻ tiếp xúc trực tiếp. Trong đó, ghi ta đã trở thành một trong những nhạc cụ không thể thiếu trong cuộc sống âm nhạc của nhiều người, đặc biệt là lứa tuổi sinh viên, học sinh. Tiểu kết Chương viết này chỉ ra cùng với sự thay đổi của đời sống xã hội và cơ hội tiếp cận ngày càng nhiều, giới trẻ Hà Nội không phải là một nhóm đồng nhất mà ngày càng đa dạng và phân hoá. Từ góc độ lý thuyết, giới trẻ là đối tượng nghiên cứu với nhiều khía cạnh, từ hướng tiếp cận lối sống, nhu cầu giải trí, đến tiếp cận bản sắc, tiểu văn hóa..v.v... Các nghiên cứu cũng cho thấy vai trò của âm nhạc trong việc kiến tạo bản sắc giới trẻ. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu đề cập đến âm nhạc gắn với một nhạc cụ, tác động như thế nào đến đời sống của xã hội nói chung, của giới trẻ nói riêng. Những tài liệu về ghi ta lại thiên về lịch sử hình thành và phát triển, kỹ thuật chơi ghi ta. Nghiên cứu này sẽ vận dụng một số lý thuyết đã 10
- được sử dụng thành công trong các nghiên cứu về văn hoá giới trẻ như lý thuyết về “tiểu văn hoá”, thị hiếu và sự khu biệt.... để tìm hiểu khía cạnh văn hoá của cây đàn ghi ta liên quan đến đời sống của giới trẻ. CHƯƠNG 2. GHI TA VÀ SỰ DU NHẬP VÀO VIỆT NAM Theo cuốn “Handbook of American Popular Culture” (Sổ tay về văn hoá phổ thông của Hoa Kỳ) do Inge chủ biên (1978), ghi ta có thể coi là thuộc loại hình “văn hóa phổ thông” hay “văn hoá đại chúng” dựa vào sức hấp dẫn phổ biến và đại trà của nó đối với đại đa số người tiêu dùng. Khái niệm văn hoá phổ thông được hiểu khá rộng, bao hàm một số lượng đa dạng các hiện tượng, loại hình văn hoá và các sản phẩm phổ biến trong một xã hội nào đó hay các vật phẩm văn hóa được phân bố rộng rãi trong mọi tầng lớp xã hội, được dùng để tiêu khiển thời gian, gần giống với các loại hình văn hóa đại chúng. Sức sống của ghi ta và sự lan toả của nó không chỉ dựa trên những tính năng riêng của cây đàn mà nhiều hoạt động âm nhạc ghi ta còn như một loại hình văn hóa đại chúng. 2.1. Ghi ta trên thế giới 2.1.1. Sơ lược về nguồn gốc ghi ta Cho tới nay, đã có một số nhà nghiên cứu viết về nguồn gốc và sự phát triển của ghi ta trên thế giới và ở Việt Nam. Hầu hết các tài liệu này đều có thông tin thống nhất rằng, ghi ta xuất hiện rất sớm ở châu Âu. Tuy nhiên, theo các tác giả Nguyễn Thành Phương (1998), Lương Đức Thắng (2006), Nguyễn Thị Hà (2010), Nguyễn Quang Tùng (2013), Nguyễn Thị Hà (2017) và một số bài viết trên các trang mạng thì sự xuất hiện của ghi ta có ba giả thuyết chính. Tóm lại, dù chưa thống nhất về nguồn gốc xuất sứ nhưng có thể khẳng định ghi ta có lịch sử lâu đời và trải qua nhiều giai đoạn phát triển. 2.1.2. Sơ lược lịch sử phát triển của ghi ta trên thế giới Ghi ta trước hết hình thành và phát triển ở các nước Châu Âu sau đó lan rộng sang các châu lục khác trong đó có Châu Á. Vào khoảng thế kỷ XVI là nhạc cụ đầu tiên mang đầy đủ những đặc trưng của cây ghi ta “cổ điển”. Đến giữa thế kỷ XVIII cây đàn ghi ta hoàn hảo nhất đã ra đời dưới bàn tay tài hoa của nghệ nhân bậc thầy Antonio de Torres. Sang thế kỷ XX, cây ghi ta sáu dây đã có sự phát triển mạnh mẽ với một số trường phái và khuynh hướng nhạc ghi ta. 11
- Ngoài ra tiếng đàn ghi ta đã rẽ sang một nhánh ghi ta tồn tại được phổ biến và lan toả mạnh mẽ trong giới bình dân với phong trào Hippy. 2.2. Sự du nhập của ghi ta và vai trò của nó trong đời sống văn hoá nghệ thuật Việt Nam Đàn ghi ta xuất hiện ở Việt Nam từ khi nào cho đến nay vẫn chưa có lời giải đáp chính xác. Tuy nhiên, phần lớn được nhiều người đồng ý là ghi ta đã theo chân các cha cố người Pháp và các thương gia du nhập Việt Nam từ đầu thế kỉ XIX . 2.2.1. Sự du nhập và quá trình phát triển của ghi ta ở Việt Nam Một trong những dấu ấn mở đầu cho sự phát triển của ghi ta ở Việt Nam là sự xuất hiện phong trào “lời ta điệu tây” vào đầu những năm 30 của thế kỉ XX, ghi ta là biểu tượng văn hóa mới trở nên quen thuộc với thanh niên Việt Nam. Sau này, ghi ta còn được các nghệ sĩ tài tử nam bộ cải tiến khoét lõm các phím đàn gọi là ghi ta phím lõm, làm thay đổi thanh âm của mỗi dây đàn dựa trên 5 âm (pentatonic: hò, xự, xang, xế, công, tương đương với các nốt đồ, rê, pha, sol, la) để diễn tấu các bản nhạc mang đậm âm nhạc dân tộc của cư dân vùng Nam Bộ như: Cải lương, các điệu lý, điệu hò. Các trường âm nhạc dạy dàn ghi ta cũng được mở và tạo điều kiện cho ghi ta phát triển một cách chuyên nghiệp hơn. Đất nước thống nhất năm 1975 nghệ sỹ ghi ta ở hai miền có dịp gặp nhau, trao đổi kinh nghiệm, bài bản và kỹ thuật, từ đó tạo cơ sở cho nghệ thuật ghi ta non trẻ của Việt Nam có dịp phát triển lên một trình độ mới. Kể từ sau năm 1990, ghi ta cổ điển cũng như nghệ thuật ghi ta nói chung dường như bước vào thoái trào. Đến đầu thế kỉ XXI cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, mạng internet sự giao lưu của những người yêu ghi ta đã không bị giới hạn trong một vùng cụ thể mà có thể thường xuyên tìm hiểu trao đổi học hỏi với bên ngoài, trong một không gian văn hóa nghệ thuật rộng hơn trước rất nhiều. 2.2.2. Ghi ta phát triển ở Hà Nội Cùng với hành trình vào Việt Nam, ghi ta xuất hiện ở Hà Nội từ những năm 20 của thế kỉ XX. Từ năm 1945, cây ghi ta đã trở thành bạn đường thân thiết của các nhạc sĩ kháng chiến, giới học sinh sinh viên và nhiều người yêu nhạc. Nhiều nhạc sĩ đồng thời là người đệm ghi ta rất giỏi đã xuất hiện như: Hoàng Vân, Trọng Bằng, Tô Vũ, Văn Chung, Nguyễn Văn Tý, Nguyễn Xuân Khoát, Đỗ Nhuận, 12
- Phạm Duy, Văn Ký.... Qua kí ức của các nghệ sĩ Thiện Tơ, Nguyễn Quang Tôn, Nguyễn Tỵ của nhóm ‘‘Thất cầm’’ có thể thấy được hành trình của cây đàn ghi ta tại Hà Nội. Nhóm “Thất cầm” được coi là những người thắp lửa cho tình yêu ghi ta tại Hà Nội Ngoài những nghệ sĩ tên tuổi của thế hệ trước thì đến nay có nhiều nghệ sĩ ghi ta vẫn tiếp bước cha ông duy trì, thắp sáng vì một nền nghệ thuật ghi ta của Hà Nội được phát triển. Họ là Đặng Ngọc Long, Phan Đình Tân, Phạm Văn Phương, Nguyễn Lan Anh… và sau này là thế hệ của Tuấn Khang, Nguyễn Phương Hà, Nguyễn Văn Phúc, Nguyễn Hùng Phong…v…v… 2.2.3. Vị trí, vai trò của ghi ta trong đời sống văn hóa Việt Nam Ghi ta có âm sắc rất gần gũi, phù hợp với tâm lý, tính cách, phong tục tập quán của người Việt. Không những vậy, cấu tạo của cây đàn ghi ta rất gọn nhẹ, đơn giản nên có thể di chuyển ở bất cứ không gian nào để biểu diễn, là nhạc cụ dễ học, không chỉ dành cho các nghệ sỹ chuyên nghiệp mà những người không chuyên. Ghi ta có rất nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển và có vị trí, vai trò vững chắc trong đời sống văn hóa - xã hội của Việt Nam. Trong suốt những năm tháng kháng chiến chống Pháp, Mỹ, ghi ta đã đi cùng một thế hệ thanh niên, hành trang của người lính như trong các tác phẩm âm nhạc “Cây đàn ghi ta của đại đội Ba”. Hình ảnh cây ghi ta cùng cây súng trên vai người chiến sĩ đã như một biểu tượng của sức trẻ, nhiệt huyết, tràn đầy khát vọng sống. Cũng với ý nghĩa có tính biểu tượng này bài thơ “Đàn ghi ta của Lorca”, Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người, Đêm Trường Sơn nhớ Bác, Người Hà Nội, Sông Lô, Tiếng hát giữa rừng Pác Pó, Chào mừng Đảng cộng sản Việt Nam... Tiếng đàn ghi ta còn góp phần quan trọng trong việc thể hiện thân phận của con người, đồng thời cũng là cách nhìn nhận của người nghệ sỹ trước thời cuộc của đất nước. Trong các nghệ sỹ gắn liền với tiếng đàn ghi ta, phải kể đến Trịnh Công Sơn. Tiểu kết Đàn ghi ta được du nhập vào Việt Nam từ đầu thế kỉ XX là minh chứng cho quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa thế giới, từ đó đã mang lại cho văn hóa Việt Nam một làn gió mới. Trong quá trình hình thành và phát triển cho đến nay, ghi ta đã có một “đời sống” phong phú, vừa cho thấy tính quốc tế của nhạc Việt, vừa mang bản 13
- sắc văn hóa Việt Nam. Hơn thế, nó đã trở thành một biểu tượng trong đời sống văn hoá nghệ thuật Việt nam, gắn với sức trẻ và sự nhiệt huyết của tuổi trẻ. Chính vì thế, ghi ta tuy được xem là một nhạc cụ bình dân nhưng đã thu hút giới trẻ mọi thế hệ, được thấy từ sự lựa chọn của thế hệ nhạc sĩ, nghệ sĩ đầu tiên ở Việt Nam và Hà Nội. Thời kì chiến tranh, ghi ta theo chân các nghệ sĩ ra chiến trường, động viên tinh thần chiến sĩ. Trong thời bình, đàn ghi ta với tính phổ cập, đại chúng đã mang âm nhạc đi sâu vào đời sống tinh thần của nhân dân. Quá trình du nhập của ghi ta vào Việt Nam cũng như các giai đoạn phát triển của nó không chỉ cho thấy quá trình Việt hóa một nhạc cụ nước ngoài mà còn cho thấy vai trò và mối quan hệ của nó với giới trẻ cũng nhu cầu nghệ thuật của họ, các giá trị văn hóa mới nảy sinh, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay. CHƯƠNG 3. NHỮNG HOẠT ĐỘNG GHI TA CỦA GIỚI TRẺ TẠI HÀ NỘI Trong những năm gần đây, công chúng trẻ Hà Nội dần quen với hình ảnh những chàng trai trẻ chơi đàn ghi ta cùng nhau tổ chức những buổi “Du ca đường phố” để được đàn, được hát cho mọi người nghe. Họ là thành viên của những CLB âm nhạc. Các buổi trình diễn ghi ta ấy đã góp thêm vào các loại hình giải trí khác nhau, đa dạng hơn ở thủ đô. 3.1. Hoạt động ghi ta chuyên nghiệp Tại Hà Nội, có nhiều cơ sở dạy đàn ghi ta chuyên nghiệp như: Học viện âm nhạc Quốc gia Việt Nam, ĐH văn hóa nghệ thuật Quân đội, Cao đẳng văn hóa nghệ thuật Hà Nội, ĐH Văn hóa,... Một trong những tiêu chí đào tạo tại các trường âm nhạc chuyên nghiệp là tạo ra các nghệ sĩ, nhạc công ở các bộ môn nhạc cụ khác nhau, vừa mang tính chuyên sâu từng nhạc cụ vừa mang tính phổ cập về kiến thức âm nhạc. Bên cạnh đó là sự ra đời các trung tâm, cơ sở đào tạo âm nhạc là sự đòi hỏi tất yếu của cuộc sống và thể hiện tính xã hội hóa trong việc đào tạo âm nhạc. Đông đảo quần chúng có dịp tiếp cận những kiến thức âm nhạc cơ bản mà không cần phải theo học khóa đào tạo chuyên nghiệp. 3.2. Các CLB và Trung tâm ghi ta Trên địa bàn trung tâm thành phố Hà Nội hiện nay có hàng trăm CLB ghi ta lớn, nhỏ, với đủ mọi tầng lớp lứa tuổi theo học. Đó 14
- là hệ thống CLB ghi ta cổ điển của các nghệ sĩ tên tuổi đứng ra giảng dạy, các CLB đàn ghi ta của các trường ĐH đóng trên địa bàn thủ đô Các trung tâm dạy nhạc dành cho trẻ em như Cung thiếu nhi Hà Nội, Trung tâm âm nhạc Yamaha, Nhà văn hóa quận, và chưa kể các CLB tự phát do các giáo viên ghi ta hoặc những người có khả năng chơi đứng ra tổ chức và mở lớp dạy. Hiện nay có khá nhiều các CLB ghi ta sinh viên. Với các trường ĐH, trường cao đẳng đóng trên địa bàn Hà Nội, có khoảng hơn 10 CLB ghi ta trực thuộc. Đó là các CLB đàn ghi ta của trường: ĐH Bách Khoa, ĐH Thương mại, ĐH Xây dựng, ĐH Kinh tế, ĐH Y, ĐH Kiến trúc, ĐH Hà Nội, ĐH Luật, ĐH Quốc gia Hà Nội, ĐH Ngoại thương, ĐH Mở, ĐH Giao thông, Cao đẳng sư phạm....Các CLB này được hình thành từ Hội sinh viên của các trường. Các CLB này không chỉ hoạt động đơn lẻ trong phạm vi trường mà còn tổ chức nhiều cuộc giao lưu, hội ngộ giữa các trường trong những dịp đặc biệt, hoặc trong một sự kiện có ý nghĩa xã hội nào đó như ngày kỉ niệm thành lập Đoàn, đêm nhạc vì trẻ em khó khăn, hoặc ủng hộ những nơi gặp thiên tai, v.v.... Họ thường tổ chức bốn hoạt động lớn sau: theo hình thức nội bộ và bên ngoài; Hoạt động nội bộ là hoạt động quan trọng nhất và thường xuyên bao gồm sinh hoạt hàng tuần, tổ chức teambuilding, tổ chức sinh nhật Hoạt động thứ 2 là giao lưu nhỏ Hoạt động thứ 3 là đi biểu diễn Hoạt động thứ tư là du ca Sinh viên tham gia CLB ghi ta trong trường ĐH thường khá đông, khoảng trên dưới 70 thành viên cả nam và nữ. Địa điểm sinh hoạt, tập luyện, giao lưu của các CLB thường là ở trường, có thể là công viên một nơi trên đường phố.... Thời gian sinh hoạt của các CLB là từ 5h30 chiều đến 7h30 tối hoặc muộn hơn, một tuần sinh hoạt từ 1đến 2 buổi, tuỳ vào mỗi CLB. Thể loại âm nhạc của nhóm sinh viên đam mê ghi ta thì muôn hình vạn trạng, với nhóm học chuyên nghiệp thì có các hệ thống bài bản tự chọn và bắt buộc theo khung của nhà trường: những bản nhac nhạc cổ điển, nhạc Việt Nam, Jazz, Pop... Nhắc đến CLB, nhóm không thể không nhắc tới người khởi xướng, chủ nhiệm CLB và các thành viên. Một CLB, nhóm có nhiều thành viên tham gia nhưng họ 15
- là những người đồng dạng với nhau (cùng có sở thích âm nhạc, thích học ghi ta, thích nghe nhạc ghi ta, có bạn thì tham gia vào CLB này để được thực tập với chuyên môn của mình). Chủ nhiệm CLB có vai trò quan trọng quyết định sự hình thành, tồn tại và phát triển của CLB, nhóm, có nghĩa là họ là những người có “quyền lực” nhất trong mối quan hệ với các thành viên của CLB. Cây ghi ta được xem như “linh hồn” của CLB. Người dạy ghi ta (có thể là các thầy dạy, thuê từ bên ngoài, hoặc chính là các thành viên của ban chuyên môn của CLB). Đông đảo nhất là các thành viên (tham gia với vai trò là người học ghi ta, ca sĩ, nhạc công, những người tham gia trong ban truyền thông, đối ngoại, hậu cần...). Với việc thực hành tổ chức duy trì CLB, các bộ phận âm thanh ánh sáng, các shop đàn ghi ta, các nghệ sĩ ghi ta và các tổ chức bán đàn ghi ta kiêm dạy đànghi ta – là những nhà tài trợ tiềm năng cho mỗi hoạt động của CLB. Bên cạnh nhà tài trợ chính còn có các nhà bảo trợ truyền thống cho các hoạt động từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc. Đó là các trang báo, trang tin, các fanpage, wedsite như: Kenh14, Zing, Hoa học trò..... Phương tiện được giới trẻ sử dụng là đàn ghi ta. Chắc chắn rằng mỗi người đều có sở thích riêng về âm nhạc nhưng đến với CLB ghi ta thì giới trẻ đều có sở thích chung là ghi ta, tạo nên sự khác biệt với những hoạt động giải trí khác. Nhìn chung, hoạt động của các CLB ghi ta sinh viên có nhiều điểm tương đồng. Ngoài các CLB ghi ta sinh viên thì trong các đơn vị bộ đội đóng trên địa bàn Hà Nội thì ghi ta cũng gắn bó với đời sống văn nghệ của họ. Hiện nay đất nước công nghiệp hoá – hiện đại hoá đã thúc đẩy sự phát triển của công nghệ thông tin, mạng internet, đây là kênh xã hội mà giới trẻ có thêm cơ hội để quảng bá mình. Nó giúp cho tất cả mọi đối tượng muốn tìm hiểu về ghi ta để luyện tập dễ dàng hơn, chủ động và tiết kiệm được thời gian. 3.3. Các cuộc thi và giao lưu nghệ thuật ghi ta chuyên nghiệp và không chuyên Những hoạt động biểu diễn ghi ta ở Hà Nội đã phản ánh thẩm mĩ cũng như nhu cầu thưởng thức âm nhạc của người dân. Từ những buổi biểu diễn mang chất lượng nghệ thuật cao đến những buổi biểu diễn mang tính chất giao lưu quần chúng đã tạo điều kiện nâng cao sự hiểu biết về nghệ thuật ghi ta, vừa đáp ứng niềm đam mê của những người yêu thích chơi ghi ta cũng như những người mê nghe 16
- nhạc ghi ta. Có thể kể đến một số hoạt động biểu diễn tiêu biểu như Dự án “Giao lưu ghi ta Bắc- Nam” do nghệ sĩ ghi ta Tuấn Khang khởi xướng, ngoài ra là các cuộc thi ghi ta mở rộng, các đêm diễn của hệ thống CLB ghi ta cổ điển, tại nhà hát Tuổi Trẻ Hà Nội đã diễn ra cuộc thi liên hoan quốc tế và biểu diễn của dòng nhạc fingerstyle. 3.4 Hoạt động trình diễn và thưởng thức nhạc ghi ta của các CLB Có thể nói, hoạt động của CLB ghi ta cổ điển Hà Nội và một số CLB trường ĐH là những hoạt động âm nhạc mang tính văn hóa xã hội. Không chỉ tổ chức những buổi trình diễn nghệ thuật của riêng CLB mình họ còn tổ chức những buổi biểu diễn giao lưu, những buổi có tính chất từ thiện. Ở đó các cây ghi ta của cácc trường đại học có cơ hội giao lưu học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau, giao lưu với các nghệ sĩ ghi ta có tiếng ở Hà thành. Đồng thời các đêm nhạc còn quyên góp từ thiện cho các hoạt động tình nguyện. Bên cạnh đó là âm nhạc đường phố là một trong những nét văn hoá của nhiều nước phát triển. Nhóm “Du ca đường phố” xuất hiện với đông đảo các thành viên và tạo nên lực hút với cộng đồng. 3.5. Sinh hoạt ghi ta ở các tụ điểm vui chơi, giải trí Ngoài những cơ sở đào tạo âm nhạc, các trung tâm, CLB, nhà văn hoá, những sân khấu mang tính chất hàn lâm, học thuật thì các không gian âm nhạc khác như các quán cafe, quán trà, nhạc ghi ta cũng hiện diện như một phần tất yếu. Tới đây, nhiều nhóm trẻ không chỉ “nhâm nhi” đồ uống, trò chuyện, thư giãn với bạn bè mà còn chia sẻ tình yêu âm nhạc, cùng nhau thưởng thức những giai điệu lãng mạn êm ái trong không gian gần gũi, trẻ trung. Âm nhạc mà những quán cà phê lựa chọn thường là các dòng nhạc có tiết tấu chậm rãi, êm ái, phù hợp với số đông. Tiểu kết Qua những khảo sát cụ thể các hình thức hoạt động ghi ta, bức tranh toàn cảnh về đời sống âm nhạc và đời sống tinh thần gắn với đàn ghi ta của người dân sống tại địa bàn Hà Nội hiện lên thật phong phú và đa dạng. Đó là sự hoạt động của những CLB, nhà văn hóa, trung tâm dạy ghi ta, hoạt động biểu diễn chuyên nghiệp hay sự trình diễn ghi ta tại các quán café, phòng trà ca nhạc của cả những nghệ sĩ chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp. Đặc biệt, các sinh hoạt ghi ta giao lưu văn hóa, kết bạn của giới trẻ chủ yếu tầng lớp học sinh, sinh viên hay của các bạn trẻ nói chung, đã làm cho “đời sống” của họ cùng với cây đàn này thêm phong phú cũng như làm cho các hoạt 17
- động văn hóa nghệ thuật của lớp trẻ đa dạng hơn. Nó góp phần không nhỏ làm giàu thêm tri thức về nghệ thuật âm nhạc nói chung và nghệ thuật ghi ta nói riêng, đồng thời cũng làm giàu thêm đời sống tinh thần của giới trẻ. CHƯƠNG 4. GHI TA – SỰ KẾT NỐI VÀ TẠO DỰNG BẢN SẮC GIỚI TRẺ Nhiều học giả đã chỉ ra, để hiểu một cách đúng đắn và toàn diện về giới trẻ, cần quan sát kỹ đời sống văn hoá và giải trí của họ (Tracy Shildrick & Robert MacDonald 2006). Giải trí không chỉ là để thoả mãn nhu cầu thư giãn mà còn là phương tiện kết nối và thể hiện căn tính cá nhân. Mặt khác, trong bối cảnh toàn cầu hoá, giới trẻ Việt Nam ngày càng đa dạng và có sự phân hoá rất mạnh. Mỗi nhóm trẻ tìm thấy cho mình một thị hiếu riêng, sở thích riêng, những hình thức giải trí riêng, và chính những điều này cũng làm nên sự khu biệt giữa các nhóm. 4.1. Bối cảnh xã hội và đời sống âm nhạc Việt Nam hiện nay Sau 30 năm đổi mới (từ 1986), từ một đất nước có nền kinh tế với 90% dân số làm nông nghiệp, đến nay đất nước ta đã có nhiều thay đổi. Toàn cầu hoá là một trong những tác nhân có ảnh hưởng lớn đến hiện trạng xã hội hiện nay. Toàn cầu hoá đã đem lại những luồng gió mới, tác động trực tiếp tới giới trẻ. Giới trẻ hiện nay có thể tiếp cận được tri thức nhân loại ở mọi lúc, mọi nơi qua internet. Giới trẻ luôn được coi là những người tiên phong, đi đầu trong những xu hướng, nắm bắt những mẫu mã, phong cách trong thời trang, âm nhạc nói riêng. Mặt khác, một số nghiên cứu đánh giá rằng bối cảnh hội nhập đã khiến không ít bạn trẻ xa rời các giá trị đạo đức truyền thống mà hình thành những tư tưởng hưởng thụ, ăn chơi, đua đòi, lối sống lạnh lùng, vô cảm, thiếu hụt những đam mê và khát vọng vốn là tài sản quý báu của tuổi trẻ. Trong bối cảnh giới trẻ bị phân hoá như vậy, nhu cầu vui chơi giải trí của giới trẻ cũng rất phong phú, với nhiều hình thức đa dạng ở những không gian và thời gian khác nhau. 4.2. Ghi ta như một phương tiện kết nối Đàn ghi ta có thể đem đến những mối quan hệ rộng mở cho tất cả tầng lớp, lứa tuổi, giới tính trong xã hội từ học sinh, sinh viên, già, trẻ, gái, trai khi mọi người đến với ghi ta. Tiếng đàn dễ làm cho mọi người có được sự tâm giao. Có thể nói, nó là một phương tiện giao tiếp đặc biệt trong xã hội, giúp con người gần gũi nhau hơn, được cảm thông, chia sẻ. 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 303 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy vật lý cho học sinh thông qua phương pháp mô hình với sự hỗ trợ của máy tính trong dạy học chương động lực học chất điểm vật lý lớp 10 trung học phổ thông
219 p | 288 | 35
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 179 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 266 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 222 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 175 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 53 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 198 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 148 | 7
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 135 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 170 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn