
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn học nước ngoài: Ẩn dụ ý niệm về cái chết trong tiểu thuyết trinh thám của Thomas Harris
lượt xem 1
download

Luận án "Ẩn dụ ý niệm về cái chết trong tiểu thuyết trinh thám của Thomas Harris" được hoàn thành với mục tiêu nhằm tìm hiểu ẩn dụ ý niệm về “cái chết”, luận án khẳng định giá trị và sự thành công đặc biệt của tiểu thuyết trinh thám của Thomas Harris nằm ở sự gắn bó trong biểu đạt và ý niệm của chúng đối với văn hóa, tâm lý, tư duy của người trong xã hội đương đại Mỹ và trong xã hội hiện đại nói chung.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn học nước ngoài: Ẩn dụ ý niệm về cái chết trong tiểu thuyết trinh thám của Thomas Harris
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN MINH THU ẨN DỤ Ý NIỆM VỀ CÁI CHẾT TRONG TIỂU THUYẾT TRINH THÁM CỦA THOMAS HARRIS Ngành: Văn học nước ngoài Mã số: 9220242 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI HÀ NỘI – 2025
- Công trình được hoàn thành tại: Học viện khoa học xã hội Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Phương Chi Phản biện 1: …………………………………………… Phản biện 2: …………………………………………… Phản biện 3: …………………………………………… Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại ……………………………………………… vào hồi …… giờ ……phút ……, ngày……tháng……năm 2025 Có thể tìm thấy luận án tại thư viện: …………………………………………………………………….
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Sức hấp dẫn của thể loại tiểu thuyết trinh thám thường được cho là vì cách thức biểu đạt bí mật, quá trình giải mã và khám phá bí mật. Việc trói chặt người đọc bằng sợi dây ngôn từ, sau đó lôi kéo trí tò mò của họ giở từng trang sách để từ từ gỡ những nút thắt bí ẩn trong tiểu thuyết của mình được coi là thành công của tác giả. “Tác giả đưa ra các chi tiết, tình huống, những mong đánh lạc hướng độc giả; ngược lại, trong khi vừa đọc vừa suy luận, độc giả lại tìm cách “bắt thóp” tác giả. Và kết quả của một bộ truyện trinh thám thành công là độc giả bị tác giả “đặt bẫy”, bị “bẻ lái” đầy bất ngờ mà vẫn tấm tắc khi biết mình nhận một “cú lừa ngoạn mục”. Những điều này được thể hiện một cách thành công trong tác phẩm trinh thám kinh điển tiêu biểu như Sherlock Holmes của Sir Arthur Conan Doyle (1859-1930) và chuỗi tác phẩm của Agatha Christie (1890-1976). Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ và xã hội, thể loại văn học trinh thám cũng vận động và sinh sôi thêm nhiều hình thái khác nhau như trinh thám đen, trinh thám chính trị, trinh thám tâm lý hay phản trinh thám. Trong bối cảnh đầy sôi động ấy, trinh thám kinh dị cũng là một hình thái mới độc đáo có sức mạnh phong tỏa giới hạn về tri thức, sức tưởng tượng của người đọc và khả năng sáng tạo văn chương. 1.2. Tác phẩm trinh thám của nhà văn Mỹ Thomas Harris (1940-) thường được cho là nổi bật và đặc biệt so với các kinh điển trinh thám ở Mỹ ở việc xây dựng nhân vật phản diện nổi tiếng là Tiến sĩ Hannibal Lecter. Các tiểu thuyết trinh thám của Thomas Harris có thể kể đến như Ngày chủ nhật đen tối (Black Sunday, 1975), Rồng đỏ (Red Dragon, 1981), Sự im lặng của bầy cừu (The Silence of the Lambs, 1988), Hannibal (Hannibal, 1999)… Cách tân về mặt thể loại trong tác phẩm của Thomas Harris được ghi nhận ở sự biểu đạt cái kinh dị và việc tập trung vào sự bất bình thường trong tâm lí của nhân vật tội phạm. Hầu hết các tác phẩm của Thomas Harris được chuyển thể thành phim điện ảnh và phim truyền hình đạt được nhiều giải thưởng uy tín trong đó có giải thưởng Oscar của Viện Hàn Lâm Điện ảnh Mỹ. Điều này đã góp phần đưa tên tuổi của Thomas Harris trở thành cái tên tiêu biểu trên văn đàn Âu-Mỹ. Nói tóm lại, hầu hết các nghiên cứu lý giải sự thành công của tiểu thuyết 1
- Thomas Harris tập trung vào yếu tố cốt truyện, tình huống, hình ảnh kinh dị, sự kỳ bí, bất bình thường trong tâm lí nhân vật. 1.3. Luận án này cho rằng ẩn dụ ý niệm về cái chết, hay những cách biểu đạt gián tiếp ý niệm về cái chết, là một phương diện ngôn ngữ quan trọng làm nên giá trị và sự thành công của tiểu thuyết trinh thám Thomas Harris. Chính sự gắn bó với những ý niệm về cái chết trong văn hóa Mỹ, những vấn đề sinh tồn trong xã hội đương đại của Mỹ nói riêng và thế giới đương đại nói chung khiến cho tác phẩm trinh thám của Thomas Harris được tiếp nhận một cách đặc biệt như vậy. 1.4. Hơn nữa cái chết, đi cùng với nhân vật điều tra viên và thủ phạm là những yếu tố thiết yếu của một tác phẩm trinh thám. Có nhiều tiểu thuyết gia đã sử dụng cái chết để làm tăng tình huống bí mật trong tác phẩm của mình. Phân tích ý nghĩa triết học, văn hóa, xã hội của các biểu đạt về cái chết trong các tiểu thuyết của Thomas Harris góp phần làm nổi bật giá trị nhiều mặt của cái chết trong thể loại trinh thám và của chính thể loại này. Đó là giá trị của tác phẩm trinh thám không chỉ dừng lại ở bố cục cốt truyện chặt chẽ hay sự sắp xếp tình tiết khoa học mà còn phản ánh và gắn bó đa chiều với văn hóa, tâm lý, tư duy và con người trong một bối cảnh cụ thể và trong bối cảnh toàn cầu. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án Tìm hiểu ẩn dụ ý niệm về “cái chết”, luận án khẳng định giá trị và sự thành công đặc biệt của tiểu thuyết trinh thám của Thomas Harris nằm ở sự gắn bó trong biểu đạt và ý niệm của chúng đối với văn hóa, tâm lý, tư duy của người trong xã hội đương đại Mỹ và trong xã hội hiện đại nói chung. Đồng thời, luận án muốn chứng minh văn học trinh thám có liên kết với đa dạng các khía cạnh khác liên quan đến đời sống con người, có tính chất liên ngành và giá trị chiều sâu, không đơn thuần là hành trình phá án của nhân vật thám tử. Văn học trinh thám có thể trở thành công cụ để phản chiếu những giá trị khác của con người. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Từ mục đích nghiên cứu, luận án xác định những nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản 2
- như sau: - Làm rõ khái niệm ẩn dụ ý niệm trong ngôn ngữ học tri nhận. Xuất phát từ khái niệm trung gian về ẩn dụ ý niệm, chúng tôi nỗ lực đề xuất khái niệm ẩn dụ ý niệm trong văn học trinh thám và thể nghiệm chúng với vấn đề trừu tượng là cái chết. - Chứng minh tiềm năng của nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhận và ẩn dụ ý niệm chỉ “cái chết” trong nghiên cứu văn học. Việc áp dụng ẩn dụ ý niệm chỉ “cái chết” vào tiểu thuyết của Thomas Harris cung cấp nhiều hơn một tầng lớp ý nghĩa cho cái chết và cho chính tác phẩm. - Xác định các cấu trúc ẩn dụ ý niệm về “cái chết” trong tiểu thuyết của Thomas Harris theo hai loại là ẩn dụ cấu trúc và ẩn dụ bản thể. Các ý nghĩa sâu hơn đằng sau “cái chết” trong tác phẩm được chứng minh qua phép ẩn dụ ý niệm và chúng phản ánh các khía cạnh tâm lí, tư duy, văn hóa, xã hội của con người trong bối cảnh nước Mỹ đương đại. - Nhấn mạnh giá trị của văn học trinh thám là thể loại văn học có giá trị đa chiều và sâu sắc, mang tính liên ngành chặt chẽ với các bình diện khác của đời sống con người. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án Đối tượng nghiên cứu của luận án là ẩn dụ ý niệm về cái chết trong tiểu thuyết của Thomas Harris. 3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án Luận án này khảo sát văn bản tiếng Anh các tiểu thuyết trinh thám của Thomas Harris. Cụ thể, đó là các văn bản Rồng đỏ (Red dragon, Penguin Publishing Group, 2009, USA), Sự im lặng của bầy cừu (The silence of the lambs, St. Martin’s Publishing Group, 1991, USA) và Hannibal (Hannibal, Random House Publishing Group, 2000, USA). Lý do của việc khảo sát văn bản tiếng Anh mà không phải là bản dịch ra tiếng Việt là do luận án này tập trung vào vấn đề hình thức biểu đạt, cụ thể là vấn đề ngôn ngữ, của các tiểu thuyết. Sự gắn bó bản chất của ngôn ngữ gắn liền với văn hóa, tư 3
- duy khiến cho việc khảo sát trên văn bản gốc là một yêu cầu thiết yếu trong việc tìm hiểu sự gắn bó của việc biểu đạt “cái chết” trong tác phẩm Thomas Harris với ý niệm, tâm thức, văn hóa của xã hội Mỹ đương đại. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án Luận án này sử dụng phương pháp luận ngôn ngữ học tri nhận trong đó đề cập đến lý thuyết về ẩn dụ ý niệm. Để thực hiện luận án, chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu chính sau đây: Phương pháp ngữ nghĩa học: phân tích ý nghĩa của từ hoặc câu dựa trên bối cảnh sử dụng, bao gồm bối cảnh văn hóa, xã hội, lịch sử và tình huống giao tiếp. Các câu từ được dùng để phân tích ý niệm, cơ chế ánh xạ, các thuộc tính tương tác, tính nghiệm thân trong các ẩn dụ ý niệm. Phương pháp liên ngành: xem xét, tiếp cận từ những điểm nhìn khác nhau như: tâm lý học, văn hóa, phân tâm học... qua đó thấy được bản chất cũng như các biểu hiện các giá trị văn hóa trong đời sống. Cụ thể, chúng tôi đặt những ẩn dụ ý niệm về “cái chết” trong tiểu thuyết Thomas Harris trong hệ thống biểu đạt cái chết trong văn hóa Mỹ và trong bối cảnh xã hội đương đại Mỹ cũng như trong những cách biểu đạt về cái chết phổ biến trong các nền văn hóa trên thế giới để chỉ ra sự đặc sắc và ý nghĩa đa tầng trong ẩn dụ ý niệm về cái chết của nhà văn trinh thám Mỹ này. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án 5.1. Luận án trình bày ý nghĩa sâu xa hơn về cái chết thông qua các cấu trúc ẩn dụ ý niệm về “cái chết” trong tiểu thuyết của Thomas Harris trong tương quan với các khía cạnh về tâm lý, tư duy, văn hóa, xã hội của con người Mỹ trong xã hội đương đại. Từ đó, khẳng định văn học trinh thám có thể giải đáp các câu hỏi về bản chất hiện thực xã hội và phản ánh ý niệm trong tâm thức của con người. 5.2. Luận án nghiên cứu tương đối có hệ thống về văn học trinh thám kinh dị của Thomas Harris tại Việt Nam, từ đó hy vọng mang tác phẩm của nhà văn này cùng với thể loại trinh thám kinh dị - một khuynh hướng sáng tác có xu thế phát triển rộng rãi - đến gần hơn với văn chương Việt Nam. Bên cạnh đó, luận án thể nghiệm lý thuyết ẩn dụ ý niệm trong ngôn ngữ học 4
- tri nhận vào việc nghiên cứu một hiện tượng của văn học trinh thám, vì vậy, đây sẽ là công trình mang tính gợi mở cho những công việc tiếp theo của các nhà nghiên cứu khác. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Những kết quả tìm được trong luận án góp phần khẳng định tiềm năng ứng dụng của ngữ nghĩa học tri nhận nói chung và lý thuyết ẩn dụ ý niệm nói riêng trong nghiên cứu văn học. Luận án hy vọng không chỉ góp phần mở rộng hướng nghiên cứu văn học tuy đã khá phổ biến trên thế giới nhưng lại còn mới mẻ ở Việt Nam mà còn thúc đẩy việc nghiên cứu khuynh hướng lý thuyết về ngôn ngữ học tri nhận ở Việt Nam. Từ đó, ẩn dụ ý niệm không chỉ là hình thái tu từ của thơ ca mà còn là vấn đề của tư duy, là một công cụ quan trọng giúp nhà nghiên cứu học nhìn vào trí não của con người và cách con người tương tác với thế giới. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả thu được từ luận án sẽ mở ra triển vọng giải nghĩa về cái chết trong văn học theo cách tiếp cận mới; đóng góp cho việc giảng dạy văn học, văn hóa và ngôn ngữ học, đặc biệt là trong chuyên ngành văn học nước ngoài. Ngoài ra, luận án cũng góp phần làm sáng tỏ một số đặc điểm tư duy, văn hóa, văn học, ngôn ngữ Anh-Mỹ giúp cho việc soạn thảo, giảng dạy và biên - phiên dịch sát với yêu cầu thực tế trong quá trình hội nhập hiện nay. 7. Cấu trúc luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án được kết cấu làm 4 chương. Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về tiểu thuyết của Thomas Harris và ẩn dụ ý niệm về cái chết trong văn học Chương 2: Truyện trinh thám kinh dị của Thomas Harris và ẩn dụ ý niệm về cái chết trong văn học trinh thám Chương 3: Ẩn dụ cấu trúc về cái chết trong tiểu thuyết của Thomas Harris Chương 4: Ẩn dụ bản thể về cái chết trong tiểu thuyết của Thomas Harris 5
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về tiểu thuyết của Thomas Harris và ẩn dụ ý niệm về cái chết trong văn học 1.1. Tình hình nghiên cứu tiểu thuyết của Thomas Harris ở nước ngoài Từ hướng tiếp cận thi pháp học, các học giả quốc tế nghiên cứu văn bản tiểu thuyết của Thomas Harris trên phương diện nghệ thuật xây dựng cốt truyện - tình huống và nghệ thuật xây dựng nhân vật. Một trong những nghiên cứu theo xu hướng này là Mổ xẻ Hannibal Lecter: Nghiên cứu về tiểu thuyết của Thomas Harris (2008) của Benjamin Szumskyj; Sự hóa thân: Đi tìm Mr. Hyde trong Jame Gumb và Francis Dolarhyde (2016) của Shaoni Dasgupta; Trường hợp kỳ lạ của Francis Dolarhyde và Rồng: Quan điểm kể chuyện xen kẽ và nguồn kiến thức trong Rồng đỏ của Thomas Harris (2018) của Justyna Stiepanow. Từ phương diện so sánh văn học và điện ảnh, tác giả Marcos Antonio Staub trong luận văn thạc sĩ với tiêu đề Hannibal, từ văn học đến điện ảnh (2020) đã so sánh giữa văn bản Hannibal của Thomas Harris với bộ phim chuyển thể cùng tên của đạo diễn Ridley Scott; bài báo Cảnh cắt tử tế nhất: Chuyển thể Hannibal của Thomas Harris (2007) của David Schmid tập trung vào bộ phim chuyển thể Hannibal của Ridley Scott; luận văn Các nét khác lạ quái dị trong những tiểu thuyết về Hannibal Lecter của Thomas Harris và tác phẩm phim chuyển thể (2017) của Aron Karasek lại so sánh tiểu thuyết của Thomas Harris và các bộ phim chuyển thể từ tác phẩm của ông dưới góc độ quái dị; Từ Peter Pan đến Hannibal Lecter: Những khuôn mặt nam tính khác nhau trong điện ảnh đại chúng (1997) của Dianne Gregory. Từ phương diện nghiên cứu khoa học ngành tâm lý học và xã hội học, một số nghiên cứu được tìm thấy đó là Phân tích tâm lý nhân vật Hannibal Lecter và Buffalo Bill trong Sự im lặng của bầy cừu và Hannibal trỗi dậy của Thomas Harris của Panji Perdana Putra (2012); Bệnh tâm thần trong Hannibal Rising của Thomas Harris (2016) của Aulia Dhian Rakhmadhani; Thiện và Ác: Nghiên cứu tâm lý học về các nhân vật trong tiểu thuyết Rồng đỏ (2015) của Natasa Zgajner. Từ phương diện nghiên cứu ẩn dụ ý niệm, hiện chỉ có một nghiên cứu đã tiếp cận bộ phim chuyển thể Hannibal sử dụng lý thuyết ẩn dụ ý niệm về việc ăn thịt 6
- người để phân tích tình trạng tiêu dùng của xã hội Mỹ thời bấy giờ. Đó là bài nghiên cứu của Astrid Schwegler-Castañer mang tên Nghệ thuật ăn thịt người: ẩn dụ ý niệm của sự tiêu dùng trong Hannibal (2018). 1.2. Tình hình nghiên cứu tiểu thuyết của Thomas Harris trong nước Ở Việt Nam, Thomas Harris và tiểu thuyết của ông được biết đến rộng rãi song vẫn chưa nhận được nhiều chú ý từ giới nghiên cứu. Về hướng tiếp cận thi pháp học ở văn bản văn học, có một số nghiên cứu tập trung vào phân tích nhân vật, đó là nghiên cứu Hannibal Lecter – kẻ sát nhân máu lạnh hay con người bị tổn thương? của Trần Phụng Linh (2020) và Nhân vật chấn thương trong tiểu thuyết của Thomas Harris (2020) của Lê Thị Thu Hương. Từ hướng tiếp cận so sánh văn học và điện ảnh, khóa luận tốt nghiệp Sự im lặng của bầy cừu: từ văn học đến điện ảnh (2018) của Lục Khánh Linh đã lí giải thành công các yếu tố đã tạo nên thành công vang dội cho Sự im lặng của bầy cừu ở cả hai địa hạt văn học và phim ảnh. Từ phương diện phân tâm học, Cao Thu Phương (2015) đã phân tích nhân vật phản diện trong luận văn thạc sĩ Từ cái nhìn phân tâm học so sánh nhân vật Perry Smith trong “Máu lạnh” của Truman Capote với Hannibal Lecter trong “Hannibal” của Thomas Harris. Tiểu kết Sau khi khảo sát các xu hướng nghiên cứu liên quan đến tiểu thuyết của Thomas Harris trong và ngoài nước, chúng tôi nhận ra rằng các học giả đã tìm hiểu dưới đa dạng các góc nhìn, mỗi góc nhìn có thể tìm được nhiều hơn hai bài nghiên cứu. Tuy nhiên, dưới ánh sáng của ngôn ngữ học tri nhận, hiện chỉ có một công trình nghiên cứu mà chúng tôi tìm được. Luận án này chọn tiểu thuyết trinh thám của Thomas Harris làm đối tượng nghiên cứu với hy vọng chứng minh được nét độc đáo, đặc sắc trong lối viết của Thomas Harris nhằm tạo nên sức sống riêng của thể loại truyện trinh thám. 7
- Chương 2: Truyện trinh thám kinh dị của Thomas Harris và ẩn dụ ý niệm về cái chết trong văn học trinh thám 2.1. Văn học trinh thám kinh dị và tác phẩm của Thomas Harris 2.1.1. Khái niệm văn học trinh thám và thể loại truyện trinh thám kinh dị Nhà văn viết về tội phạm người Mỹ S.S. Van Dine, trong cuốn Hai mươi quy tắc viết truyện trinh thám (1976), đã định nghĩa tiểu thuyết trinh thám là một “trò chơi”, là tác phẩm văn học xoay quanh một vụ án, một hành trình điều tra. Đặc trưng của truyện trinh thám là đề cao lý tính, đề cao việc suy luận, chắp nối thông tin để đưa ra lời giải xác đáng cho một vụ án nào đó. Dòng trinh thám kinh dị là một bộ phân của văn học trinh thám. Nó tổng hòa hai yếu tố trinh thám và kinh dị. 2.1.2. Tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Thomas Harris Thomas Harris là một trong những nhà văn đương đại tiêu biểu trên văn đàn Âu-Mỹ. Ông là tác giả của các cuốn tiểu thuyết Ngày chủ nhật đen tối (Black Sunday – 1975), Rồng đỏ (Red Dragon – 1981), Sự im lặng của bầy cừu (The Silence of the Lambs – 1988), Hannibal (Hannibal – 1999) và Sự trỗi dậy của Hannibal (Hannibal Rising – 2006). Hầu hết các tiểu thuyết của ông đều được chuyển thể sang phim điện ảnh. Thomas Harris thành công trong sự nghiệp sáng tác của mình với hình tượng nhân vật phản diện Hannibal Lecter xuất hiện trong chuỗi tiểu thuyết trinh thám Rồng đỏ, Sự im lặng của bầy cừu, Hannibal. Có thể nói rằng, các tác phẩm của Thomas Harris là đại diện tiêu biểu cho dòng trinh thám kinh dị, vừa trung thành với thể loại trinh thám truyền thống, vừa sử dụng yếu tố kinh dị để đáp ứng được nhu cầu thị hiếu của độc giả. 2.2. Vấn đề ẩn dụ ý niệm của ngôn ngữ học tri nhận và sự áp dụng trong nghiên cứu văn học 2.2.1. Ẩn dụ ý niệm trong ngôn ngữ học tri nhận Ngôn ngữ học tri nhận (Cognitive Linguistics) là một nhánh của ngôn ngữ học tập trung vào mối quan hệ giữa ngôn ngữ và nhận thức. Đây là một lĩnh vực nghiên cứu liên ngành, kết hợp giữa ngôn ngữ học, tâm lý học, triết học, và các khoa học 8
- nhận thức khác. Trong lý thuyết khoa học tri nhận, ẩn dụ ý niệm (conceptual metaphor) là hiện tượng ý niệm hóa trong cách nhìn, cách nghĩ về thế giới của con người – nhìn đối tượng này thông qua một đối tượng khác. Kövecses (2010) đã công thức hóa ẩn dụ ý niệm bằng MIỀN Ý NIỆM A (hay còn gọi là miền đích), MIỀN Ý NIỆM B (hay còn gọi là miền nguồn), sự tương đồng (correspondence) giữa hai miền ý niệm và ánh xạ (mapping). Một cách viết tắt thuận tiện để nắm bắt quan điểm ẩn dụ này là như sau: MIỀN Ý NIỆM A LÀ MIỀN Ý NIỆM B. Miền mang tính cụ thể được gọi là miền nguồn (miền B), trong khi miền mang tính trừu tượng hơn là miền đích (miền A). Miền nguồn là nơi cung cấp tri thức để hiểu được miền đích và được ký hiệu bằng chữ in hoa. Ẩn dụ ý niệm được chia làm 3 loại chính: ẩn dụ cấu trúc, ẩn dụ bản thể, ẩn dụ định hướng. Thứ nhất, ẩn dụ cấu trúc là loại ẩn dụ có ý niệm đích được cấu trúc theo lối ẩn dụ trên cơ sở ý niệm nguồn. Trong ẩn dụ cấu trúc, giữa ý niệm nguồn và ý niệm đích có một hệ thống yếu tố tương ứng nào đó, ở những phương diện nào đó. Hệ thống yếu tố tương ứng này là kết quả ánh xạ từ cấu trúc của ý niệm nguồn sang cấu trúc của ý niệm đích. Cấu trúc của ý niệm nguồn là cơ sở giúp cho ta hiểu cấu trúc của ý niệm đích. Thứ hai, ẩn dụ bản thể được hình thành từ kinh nghiệm của con người trong khi tri giác những đối tượng vật lý và các chất liệu; chúng tạo nên một cơ sở để ngữ nghĩa hóa các ý niệm vượt ra ngoài ranh giới những vật thể giản đơn thông thường. Chức năng tri nhận của ẩn dụ bản thể là đưa ra một cương vị bản thể mới cho các phạm trù; nó khái quát về các ý niệm “đích trừu tượng” và đưa lại những thực thể trừu tượng mới - chúng ta tưởng tượng được các trải nghiệm của mình thông qua các vật thể, vật chất và vật chứa mà không cần phải xác định chính xác kiểu loại của chúng. Đây là hai thể loại ẩn dụ ý niệm mà luận án này sẽ tập trung xây dựng cấu trúc và tìm hiểu ý nghĩa đằng sau chúng. 2.2.2. Ẩn dụ ý niệm và việc nghiên cứu văn học Bằng cách xác định và phân tích các phép ẩn dụ được sử dụng trong các tác phẩm văn học, chúng ta có thể hiểu sâu hơn về các nhân vật, cốt truyện và các chủ đề cơ bản của câu chuyện, cũng như các giá trị văn hóa và xã hội được phản ánh trong tác phẩm. Do vậy, nghiên cứu ẩn dụ ý niệm trong tác phẩm văn học cụ thể đã 9
- được thực hiện và rút ra được các giá trị đa chiều về văn học, ngôn ngữ học, văn hóa, xã hội và con người. Nhìn nhận được tính khả thi của việc sử dụng lý thuyết tri nhận để khai thác các văn bản văn học, một hướng nghiên cứu mới đầy triển vọng đã được mở ra cho các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ và văn chương. Là một lý thuyết quan trọng của ngôn ngữ học tri nhận, ẩn dụ ý niệm đã được chứng minh là có tồn tại trong tác phẩm văn học, không chỉ dừng lại ở việc miêu tả mà còn cho thấy khả năng giải thích cơ chế hình thành và vận dụng ngôn ngữ trong từng bối cảnh cụ thể. Thêm vào đó, áp dụng ẩn dụ ý niệm vào nghiên cứu văn học hứa hẹn mang lại nhiều ý nghĩa mới trong quá trình diễn giải giá trị của tác phẩm. Điều này có ý nghĩa đặc biệt trong việc khẳng định vị trí của một thể loại văn học được sinh ra từ chính tư duy của con người như văn học trinh thám. 2.2.3. Ẩn dụ ý niệm trong thơ ca và tiểu thuyết Nghiên cứu ẩn dụ ý niệm trong thơ ca và tiểu thuyết đòi hỏi những cách tiếp cận khác nhau do sự khác biệt về hình thức, chức năng, và tác động lên người đọc. So với thơ, việc áp dụng lý thuyết của ngôn ngữ học tri nhận vào tiểu thuyết sẽ đảm bảo phạm vi phân tích để hiểu sâu hơn về cấu trúc tư duy và ngôn ngữ và làm rõ mối liên hệ giữa văn bản và bối cảnh văn hóa xã hội của tiểu thuyết. Từ những nghiên cứu trên có thể thấy đa số các nghiên cứu liên quan đến ngôn ngữ học tri nhận trong văn học đều chọn các khái niệm trừu tượng như tình yêu, cảm xúc, cuộc đời, con người… làm đối tượng nghiên cứu. Điều này có thể là do các đối tượng này phổ biến, gắn liền với tư duy con người hoặc do kiến thức tri nhận về chúng rõ ràng hơn thông qua trải nghiệm của con người. Vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu xem xét các khái niệm trừu tượng khác như cái chết. Tìm hiểu ẩn dụ ý niệm về cái chết là cần thiết vì cái chết tồn tại và đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng mô hình tri nhận và văn hóa của con người. 2.3. Ẩn dụ ý niệm về “cái chết” trong thể loại văn học trinh thám và cái chết trong truyện trinh thám của Thomas Harris Sau khi thực hiện khảo sát các nghiên cứu trong nước và quốc tế về ẩn dụ ý niệm chỉ cái chết trong văn học, ẩn dụ ý niệm chỉ cái chết được chứng minh là tồn 10
- tại ở cả văn xuôi và thơ ca. Bên cạnh những khái niệm trừu tượng như tình yêu, cuộc đời, thời gian…, việc nghiên cứu ẩn dụ ý niệm chỉ cái chết trong tiểu thuyết được tin rằng không những sẽ diễn giải sâu sắc hơn về ý nghĩa của tác phẩm văn học mà còn phá vỡ giới hạn tri thức của con người về cái chết. Cái chết được tìm thấy phổ biến nhất ở thể loại văn học trinh thám. Truyện trinh thám chứa mô hình bộ ba tam giác nhân vật. Gắn liền với các nhân vật này là các khái niệm trừu tượng mà ẩn dụ ý niệm có thể lý giải: tội phạm (cảm xúc, dục vọng, tinh thần…) - nạn nhân (sự sống, cái chết…) - thám tử (thời gian, sự thật…). chúng tôi đề xuất một quan niệm về ẩn dụ ý niệm trong thể loại văn học trinh thám. Ẩn dụ ý niệm trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị không những soi chiếu cách con người bình thường tri nhận thế giới xung quanh mà còn mô tả những khả năng nằm ngoài nhận thức thông thường của con người, khả năng có thể mang hoặc không mang nhân tính, được thực hiện bởi con người trong một thế giới thực. Ẩn dụ ý niệm trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị thâm nhập vào những góc khuất, mảng tối của con người, đề cập đến những trải nghiệm chưa hề được mô tả hoặc nằm trong phạm vi kiêng kỵ. Luận án này tìm hiểu phép ẩn dụ “cái chết” trong văn bản trinh thám kinh dị của Thomas Harris từ góc nhìn của khoa học nhận thức, chính xác hơn là ngôn ngữ học tri nhận. Lăng kính ngôn ngữ học tri nhận giúp soi chiếu cách thức tư duy của con người thông qua cái chết được thể hiện trong tác phẩm của Harris; từ đó giải quyết những câu hỏi sâu sắc liên quan đến bản chất của xã hội, lịch sử và con người nói chung trong mối liên hệ với văn học trinh thám. 2.4. Quy trình nhận diện biểu thức ẩn dụ ý niệm Để tìm ra các cấu trúc ẩn dụ ý niệm trong tác phẩm của Thomas Harris, chúng tôi tiến hành nhận diện ẩn dụ theo quy trình nhận dạng ẩn dụ MIP (Metaphor Identification Procedure) do Pragglejaz (2007) đề xuất. Pragglejaz là một nhóm nghiên cứu tiêu biểu thời kỳ đầu những năm 2000 và tên nhóm này là viết tắt của 10 thành viên (Peter Crisp, Raymond Gibbs, Elena Semin, Gerard Steen, Alan Cienki, Joe Grady, Zoltan Kövecses, Lynne, Alice Deignan, Graham Low). Đây là quy trình 11
- được ứng dụng cao, được công nhận khá rộng rãi và được đánh giá là vô cùng hữu ích để xác lập các từ ngữ sử dụng theo lối ẩn dụ (metaphorically used words) và từ đó giúp các nhà nghiên cứu nhận diện các cấu trúc ẩn dụ ý niệm. Quy trình MIP được tác giả luận án thực hiện với 4 bước cụ thể như sau: Bước 1: Đọc toàn bộ các tác phẩm để tìm hiểu nghĩa tổng thể của văn bản. Bước 2: Xác định các từ ngữ có tiềm năng sử dụng theo lối ẩn dụ và các từ ngữ liên quan trong ngữ cảnh Bước 3: Xác định dạng thức của biểu thức có từ ngữ ẩn dụ tiềm năng, đối chiếu các từ ngữ ẩn dụ tiềm năng, tham chiếu các từ ngữ ẩn dụ tiềm năng với các miền nguồn để gọi tên miền nguồn, miền đích, từ đó, xác định xem liệu biểu thức tìm được có phải là biểu thức ẩn dụ hay không. Bước 4: Gọi tên các biểu thức ẩn dụ: Các từ ngữ ẩn dụ tiềm năng lúc nãy sẽ trở thành từ biểu lộ ẩn dụ (metaphorically used words/ phrases). 2.5. Tiểu kết Thomas Harris là một tác giả nổi bật trong thể loại trinh thám kinh dị, đặc biệt nổi danh với khả năng xây dựng các nhân vật phản diện có sự phức tạp và chiều sâu tinh tế, tạo nên một sự cân bằng độc đáo giữa yếu tố kinh dị và sự thu hút. Tác phẩm của Thomas Harris thường khai thác sâu sắc tâm lý các nhân vật, đặc biệt là những kẻ giết người hàng loạt, qua đó xây dựng nên những câu chuyện phức tạp và hấp dẫn. Người viết truyện không chỉ khơi gợi cảm giác kinh dị qua các hành động bạo lực, mà còn thông qua sự thông minh và mưu trí của các nhân vật, kết hợp yếu tố trí tuệ với yếu tố kinh dị để tạo ra một loại cảm giác hồi hộp độc đáo. Trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Thomas Harris, cái chết không chỉ đơn thuần là một yếu tố của cốt truyện mà còn mang nhiều ý nghĩa sâu sắc. Đặc biệt, những cái chết do các kẻ giết người hàng loạt gây ra là công cụ mà nhà văn sử dụng để khám phá tâm lý con người, từ góc độ của cả kẻ sát nhân lẫn những người điều tra. Thông qua cái chết, Thomas Harris mô tả sự méo mó và biến dạng của tâm lý, 12
- cũng như những động lực sâu xa và bệnh hoạn của kẻ giết người. Ông sử dụng cái chết để phơi bày mặt tối của xã hội, từ sự suy đồi đạo đức đến những bất công mà con người trong xã hội Mỹ phải gánh chịu. Cái chết trong tác phẩm của ông thường là kết quả của những yếu tố xã hội và tâm lý phức tạp, trở thành một yếu tố trung tâm và có sức nặng, không chỉ tạo ra sự hồi hộp và căng thẳng mà còn mang lại chiều sâu và sự phức tạp cho câu chuyện. Tiếp cận cái chết thông qua lý thuyết ẩn dụ ý niệm của ngôn ngữ học tri nhận là một hướng đi mới đầy tiềm năng cho phép các nhà nghiên cứu nhìn nhận văn bản văn học dưới góc độ mới, từ đó phát hiện ra những ý nghĩa tiềm ẩn mà có thể bị bỏ qua khi chỉ sử dụng các phương pháp phân tích truyền thống. Ẩn dụ ý niệm về cái chết đã được triển khai ở cả nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhận và nghiên cứu văn học. Dựa trên các nghiên cứu sẵn có, luận án đề xuất một quan niệm về ẩn dụ ý niệm trong văn học trinh thám và ứng dụng nó vào tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Thomas Harris để tìm hiểu về cách con người Mỹ tri nhận về cái chết, cùng với đó là những giá trị nghệ thuật vẫn còn tiềm ẩn trong các tác phẩm. 13
- Chương 3: Ẩn dụ cấu trúc về cái chết trong tiểu thuyết trinh thám của Thomas Harris 3.1. CÁI CHẾT LÀ BẮT ĐẦU CUỘC ĐỜI MỚI Ẩn dụ ý niệm CÁI CHẾT LÀ BẮT ĐẦU CUỘC ĐỜI MỚI trong tác phẩm của Thomas Harris đã cụ thể hóa miền đích CÁI CHẾT dưới ánh sáng của niềm tin tôn giáo, thứ tồn tại trong các nền văn hóa. Nỗi sợ hãi truyền thống trước sự chết chóc dần nhường chỗ cho thái độ cởi mở hơn, đặc biệt trong bối cảnh người Mỹ bắt đầu chủ động thảo luận về cái chết cũng như các bước chuẩn bị cho giai đoạn cuối đời. Thông qua việc nhận thức cái chết như là khởi nguyên của một cuộc đời mới, các nhân vật trong tiểu thuyết của Thomas Harris được xây dựng với độ chân thực cao từ hành động đến tư duy. Điều này khẳng định tài năng xuất sắc của nhà văn trong việc tạo dựng một sự kết nối sâu sắc giữa thế giới hư cấu và thực tại. Nó cũng cho thấy tác phẩm của Thomas Harris và thể loại trinh thám có khả năng làm cho con người suy ngẫm về bản chất của cái chết như là một trạng thái nhân sinh của con người. 3.2. CÁI CHẾT LÀ TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT Ẩn dụ cấu trúc CÁI CHẾT LÀ TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT phóng chiếu ý niệm về cái chết của nhân vật phản diện trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị của Thomas Harris. Việc coi cái chết là nghệ thuật là một cách để họ đối diện với những khía cạnh khó khăn và phức tạp của cuộc sống, đồng thời tìm thấy vẻ đẹp và ý nghĩa trong những điều tưởng chừng như đen tối nhất. Ẩn dụ này có thể phản ánh một cơ chế của con người khi đối diện với cái chết và tìm thấy ý nghĩa trong sự tồn tại trong cái chết. Nhờ có ẩn dụ ý niệm này mà người đọc có thể hiểu hơn về tư duy của nhân vật phản diện. Hành động và tư duy tri nhận về cái chết của họ nằm ngoài quy tắc đạo đức của con người. Điều này chính là điểm đặc sắc trong tiểu thuyết của Thomas Harris. Các nhân vật phản diện vừa đem lại tính kinh dị, kỳ quái cho tác phẩm vừa tạo ra một cách nhìn độc đáo về một vấn đề nhân sinh phức tạp. 14
- 3.3. CÁI CHẾT LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH Ẩn dụ ý niệm CÁI CHẾT LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH thể hiện rõ ràng khuynh hướng tâm lý phức tạp của nhân vật phản diện khi họ chủ ý kéo dài nỗi đau của nạn nhân. Việc ép buộc nạn nhân tiến tới cái chết như một hành trình cho phép kẻ thủ ác trải nghiệm cảm giác quyền lực và sự kiểm soát tuyệt đối. Đồng thời, hành trình này cũng đóng vai trò như một biểu tượng cho góc khuất trong tâm trí của nhân vật phản diện. Từ đó, cấu trúc ẩn dụ này giúp độc giả thấu hiểu sâu hơn về tâm lý và tư duy của kẻ thủ ác, lý giải tại sao họ không nhanh chóng kết liễu nạn nhân mà lại cố ý kéo dài quá trình, để nạn nhân phải chịu đựng nỗi đau một cách từ từ trước khi đối diện với cái chết. 3.4. CÁI CHẾT LÀ SỰ HIẾN TẾ Ẩn dụ ý niệm CÁI CHẾT LÀ SỰ HIẾN TẾ phác họa tư duy của nhân vật phản diện, cho rằng cái chết sẽ mang lại cho họ quyền lực, sự bảo vệ, hoặc phúc lợi từ các thế lực siêu nhiên. Những cá nhân mắc rối loạn tâm thần có thể trải qua các ảo giác hoặc ảo tưởng, khiến họ tin rằng việc hiến tế là cần thiết hoặc được yêu cầu bởi một thực thể siêu nhiên. Hệ tư tưởng này đóng vai trò thiết yếu trong việc xây dựng nhân vật phản diện trong tiểu thuyết trinh thám kinh dị, đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố trinh thám và kinh dị, duy trì nét đặc trưng của thể loại và đồng thời mang lại trải nghiệm độc đáo cho người đọc. 3.5. Tiểu kết Thông qua bốn ẩn dụ cấu trúc này, có thể thấy rằng ẩn dụ ý niệm trong tiểu thuyết trinh thám đã khai thác được những khía cạnh bất khả thể hiện trong cách tri nhận, tư duy và biến đổi tâm lý con người trong xã hội hiện đại. Dưới ngòi bút của Thomas Harris, cái chết đi trật ra khỏi quỹ đạo hiểu biết thông thường. Cái chết dưới ánh sáng của ẩn dụ ý niệm còn soi chiếu được tư duy của con người Mỹ, ảnh hưởng từ gốc rễ văn hóa, sự phát triển xã hội và niềm tin tôn giáo. Cùng với việc phá vỡ 15
- mô hình nhân vật phản diện trong truyện trinh thám truyền thống, tiểu thuyết của Thomas Harris đòi hỏi khắt khe kinh nghiệm thẩm mỹ, kiến thức xã hội của độc giả trong quá trình giải mã những giá trị nghệ thuật, nhân sinh mà nhà văn gửi vào truyện kể. Nhờ vậy, thể loại trinh thám không còn đơn giản là tiến trình đi tìm thủ phạm của thám tử điều tra nữa mà chúng ẩn chứa những giá trị vô hình về tư duy, tâm hồn, mối quan hệ giữa con người với con người và phản ánh thực trạng xã hội. 16
- Chương 4: Ẩn dụ bản thể về cái chết trong tiểu thuyết trinh thám của Thomas Harris 4.1. CÁI CHẾT LÀ SỰ MẤT MÁT Ẩn dụ ý niệm CÁI CHẾT LÀ SỰ MẤT MÁT phản ánh quan điểm phổ biến của con người khi họ đối mặt với cái chết của người thân trong gia đình. Qua việc khắc họa nhân vật Bella và Jack Crawford, tác giả đã dùng ẩn dụ này để mô tả quy luật tất yếu của tự nhiên, trong đó cái chết là mẫu số chung của tất cả mọi người. Đối với những cá nhân có tâm lý bình thường, cái chết gắn liền với sự mất mát về con người, cảm giác đau buồn và những ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe tinh thần. Thông qua việc sử dụng cấu trúc ẩn dụ này, Thomas Harris đã nêu bật sự khác biệt hiển nhiên giữa tư duy của những người bình thường và những người có vấn đề về tâm lý. Chỉ những người có tâm lý bình thường mới trải nghiệm được nỗi đau buồn và tan nát từ cái chết. Ngược lại, những cá nhân có tư duy lệch lạc không thấu hiểu sự mất mát do cái chết gây ra, mà thay vào đó lại tìm thấy lý lẽ mới, ý nghĩa mới cho cuộc sống, hoặc thậm chí là sự thỏa mãn từ cái chết của người khác. 4.2. CÁI CHẾT LÀ SỰ KẾT THÚC Ẩn dụ ý niệm CÁI CHẾT LÀ SỰ KẾT THÚC mô tả việc chấm dứt mạng sống của các nạn nhân và chính kẻ thủ ác, tập trung chủ yếu ở bốn dạng là chết vì súng đạn, chết vì dao, chết vì bị ăn thịt và chết vì treo cổ. Sự kết thúc khả năng sinh tồn của nạn nhân phản chiếu tính vô nhân đạo của các nhân vật phản diện. Cái chết của Francis Dolarhyde và Jame Gumb không đơn thuần là cái kết truyền thống của các nhân vật sát nhân trong truyện trinh thám mà nó còn là hồi chuông cảnh tỉnh cho con người đang sống ở xã hội Hoa Kỳ thời bấy giờ. Cái chết của họ kích hoạt chế độ “thức tỉnh” của con người để giúp họ nhận ra giá trị của gia đình, sự lạnh lẽo của tình người và bản năng hủy diệt khi con người đã bước ra khỏi đường biên của đạo đức. Thêm vào đó, từ góc độ hiện sinh mà ý niệm CÁI CHẾT LÀ SỰ KẾT THÚC trong nhân vật tiến sĩ ăn thịt người không dừng ở cái chết bản thể con người mà còn là cái chết của cái xấu, cái tồi tệ cần phải loại trừ. 17
- 4.3. CÁI CHẾT LÀ TIỀN BẠC Ẩn dụ ý niệm CÁI CHẾT LÀ TIỀN BẠC có thể lý giải được ý niệm của con người về cái chết khi họ coi cái chết như một thứ có thể chi trả được. Đây thường là nhân vật có quyền lực, hiểu được sức mạnh của đồng tiền và biết cách sử dụng tiền bạc để đạt được mưu cầu của bản thân, kể cả việc lấy tiền để mua cái chết của người khác. Miền nguồn TIỀN BẠC không những làm sáng tỏ ý niệm của con người về cái chết mà còn khai mở bản chất đen tối của con người ở thời đại xã hội mới. Ở một xã hội coi trọng vật chất, người có quyền lực có thể bị tiền bạc ăn sâu vào tâm trí và bao trùm lên nhân tính. Những con người bình thường thì làm điều bất lương, bất chấp mọi luật lệ, tự biến mình thành con rối của kẻ có tiền và cuối cùng là nô lệ của đồng tiền. Tác phẩm của Thomas Harris không chỉ giải mã cái chết dưới góc độ bản thể mà còn cho thấy giá trị mạng sống của mỗi con người trở nên rẻ rúng hơn bao giờ hết. 4.4. Tiểu kết Chương 4 này tập trung vào các biểu thức diễn đạt cái chết để xây dựng các cấu trúc của ẩn dụ bản thể trong ba tiểu thuyết của Thomas Harris, đó là Rồng đỏ, Sự im lặng của bầy cừu và Hannibal. Kết quả khảo sát cho thấy có ba ẩn dụ bản thể được thành lập là CÁI CHẾT LÀ SỰ MẤT MÁT, CÁI CHẾT LÀ SỰ KẾT THÚC và CÁI CHẾT LÀ TIỀN BẠC. Ẩn dụ bản thể CÁI CHẾT LÀ SỰ MẤT MÁT chỉ được tìm trong biểu thức ngôn ngữ của nhân vật chính diện. Nói cách khác, nhân vật phản diện không thể hiện sự mất mát, đau xót nào về cái chết thông qua ngôn từ của họ. Điểm đặc biệt này cho thấy sự khác biệt giữa bản chất của hai loại người, thiện và ác. Cái chết đối với nhân vật chính diện là sự mất mát, tổn thương và có thể trở thành nỗi day dứt lâu dài. Ngược lại, nhân vật phản diện trong tiểu thuyết của Thomas Harris cảm nhận khoái cảm, hân hoan và sức mạnh hoang tưởng thông qua cái chết của người khác. Ẩn dụ ý niệm này nhấn mạnh rõ nhất về sự khác nhau giữa tư duy của con người bình thường và con người có tâm lý bất ổn. Ẩn dụ ý niệm CÁI CHẾT LÀ SỰ KẾT THÚC và CÁI CHẾT LÀ TIỀN BẠC đã mở đường cho độc giả đi sâu hơn vào thế giới nội tâm của nhân vật để hiểu hơn về hành động giết người của các nhân vật phản diện. Cái chết với họ là sự tạm nghỉ 18

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế quốc tế: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp môi trường tại Việt Nam
27 p |
54 |
2
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lý luận văn học: Cổ mẫu trong Mo Mường
38 p |
49 |
2
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Ẩn dụ miền nguồn chiến tranh trong tiếng Anh và tiếng Việt
28 p |
49 |
1
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Phát triển năng lực dạy học tích hợp cho sinh viên ngành Giáo dục tiểu học thông qua các chủ đề sinh học trong học phần Phương pháp dạy học Tự nhiên và Xã hội
61 p |
48 |
1
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Nghiên cứu đối chiếu thành ngữ bốn thành tố Hàn - Việt (bình diện ngữ nghĩa xã hội, văn hóa)
27 p |
55 |
1
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Du lịch: Nghiên cứu phát triển du lịch nông thôn tỉnh Bạc Liêu
27 p |
27 |
1
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn ngữ thể hiện nhân vật trẻ em trong một số bộ truyện tranh thiếu nhi tiếng Việt và tiếng Anh theo phương pháp phân tích diễn ngôn đa phương thức
27 p |
26 |
1
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý thực tập tốt nghiệp của sinh viên các chương trình liên kết đào tạo quốc tế tại các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam
31 p |
48 |
1
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Vật lý: Tính chất điện tử và các đặc trưng tiếp xúc trong cấu trúc xếp lớp van der Waals dựa trên MA2Z4 (M = kim loại chuyển tiếp; A = Si, Ge; Z = N, P)
54 p |
52 |
1
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học chính trị: Năng lực lãnh đạo của cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Quảng Bình
27 p |
50 |
1
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quốc tế học: Hợp tác Việt Nam - Indonesia về phân định biển (1978-2023)
27 p |
50 |
1
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Đối chiếu ngôn ngữ thể hiện vai trò của người mẹ trong các blog làm mẹ tiếng Anh và tiếng Việt
27 p |
52 |
1
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản lý khoa học và công nghệ: Chính sách thúc đẩy sự phát triển của loại hình doanh nghiệp spin-off trong các trường đại học
26 p |
50 |
1
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Chính trị học: Thực thi chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp huyện người Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long
30 p |
55 |
1
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Chính trị học: Cải cách thể chế chính trị Trung Quốc từ 2012 đến nay
27 p |
54 |
1
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động dạy học trực tuyến ở các trường đại học trong bối cảnh hiện nay
30 p |
56 |
1
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế chính trị: Thu hút FDI vào các tỉnh ven biển của Việt Nam trong bối cảnh tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
26 p |
53 |
1
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Báo chí học: Xu hướng sáng tạo nội dung đa phương tiện trên báo điện tử Việt Nam
27 p |
50 |
1


Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
