Triết học cổ điển Đức từ Kant đến Hegel – Phần VII
lượt xem 151
download
Chương VII - KHOA HỌC TUYỆT ĐỐI (Triết học) Hệ thống triết học Hegel là hệ thống khái niệm qua 3 giai đoạn: 1. Luận lý học là tư tưởng thuần túy phát triển trong phạm vi khái niệm. Kết quả của công cuộc phát triển của tư tưởng thuần tuý càng ngày càng cụ thể. Nếu mức cụ thể tuyệt đối thì biến thành tự nhiên. 2. Tự nhiên. Với những mâu thuẫn trong nội bộ phát triển chuyển lên tinh thần. Đây là tinh thần cụ thể của người ta chứ không phải là tư tưởng thuần túy...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Triết học cổ điển Đức từ Kant đến Hegel – Phần VII
- Triết học cổ điển Đức từ Kant đến Hegel – Phần VII Chương VII - KHOA HỌC TUYỆT ĐỐI (Triết học) Hệ thống triết học Hegel là hệ thống khái niệm qua 3 giai đoạn: 1. Luận lý học là tư tưởng thuần túy phát triển trong phạm vi khái niệm. Kết quả của công cuộc phát triển của tư tưởng thuần tuý càng ngày càng cụ thể. Nếu mức cụ thể tuyệt đối thì biến thành tự nhiên. 2. Tự nhiên. Với những mâu thuẫn trong nội bộ phát triển chuyển lên tinh thần. Đây là tinh thần cụ thể của người ta chứ không phải là tư tưởng thuần túy nữa. 3. Tinh thần gồm 3 phần: a) Tinh thần chủ quan (tâm lý cá nhân) b) Tinh thần khách quan (ý thức xã hội) c) Tinh thần tuyệt đối (mỹ thuật, tôn giáo và triết học)
- Phê phán Từ tự nhiên lên là một quá trình diễn biến cụ thể và có thực, tuy rằng quan niệm theo duy tâm. Nhưng bước quá độ chuyển từ khái niệm tư tưởng thuần túy sang tự nhiên lại là một điểm huyền bí. Theo Hegel, tư tưởng xuất phát từ khái niệm đơn giản nhất là khái niệm thực tại (phạm trù thực tại). Do những mâu thuẫn trong thực tại nó chuyển lên thực chất. Vì thực tại gồm những sự vật xuất hiện một cách trực tiếp, vậy phải có liên quan với nhau. Do những liên quan ấy, ta phải nhận định rằng nó có thực chất. Trong thực chất lại xuất hiện mâu thuẫn nội bộ: mâu thuẫn giữa thực chất và hiện tượng, giữa bên trong và bên ngoài. Nếu thực chất và hiện tượng là một, thì hai cái không còn mâu thuẫn với nhau nữa, và nó chuyển lên khái niệm, tức là thực chất có thật, thực chất nắm được thực tế. Khái niệm lên đến ý niệm thì bao gồm toàn bộ thực tế, vậy ý niệm tức là tự nhiên. Đó là bước chuyển từ ý niệm sang tự nhiên. Marx và Lénine có phê bình đoạn chuyển biến này. Cách chuyển biến này chứng minh rằng tự nhiên là chân lý của ý niệm. Do đó, tư tưởng phải bắt đầu bằng tự nhiên chứ không thể bắt đầu bằng lý luận được. Ý nghĩa chân chính của nó là ý nghĩa duy vật, và không thể nào ta giữ được lập trường tư tưởng thuần túy. Vì chính lập trường tư tưởng thuần túy cũng bắt buộc ta phải chuyển sang tự nhiên. Nhưng tại sao Hegel đảo lộn cái chân lý ấy, và cho rằng chính tự nhiên xuất phát từ tư tưởng thuần túy? Trở lại nguồn gốc của hệ thống triết học Hegel trong cuốn Hiện tượng luận của Tinh thần, ta sẽ thấy cơ sở của lập trường duy tâm tuyệt đối. Cơ sở đó là toàn bộ kinh nghiệm của lịch sử tư tưởng loài người từ Cổ đại đến thời kỳ cách mạng tư sản. Hegel thu thập những kinh nghiệm ấy, nhưng lại đứng về phe thống trị để mà phê phán. Hegel có bộc lộ những mâu thuẫn trong xã hội nô lệ, rồi xã hội phong kiến, nhưng Hegel đã đứng trên lập trường của chủ nô và phong kiến. Rồi sau này, Hegel lại đứng trên lập trường giai cấp tư sản mà bộc lộ những mâu thuẫn của xã hội tư bản trong đó con người bị tha hóa. Mâu thuẫn cuối
- cùng trong tư tưởng tư sản là mâu thuẫn giữa lý tưởng và thực tế. Trong cách mạng thì giai cấp tư sản đề ra khẩu hiệu đấu tranh chống phong kiến, để thống nhất xã hội trên cơ sở tự do bình đẳng. Nhưng trong thực tế khách quan, khi cách mạng đã hoàn thành, thì nó làm ngược lại. Trong khi trình bày và phê phán mâu thuẫn đó, Hegel vẫn đứng trên lập trường tư sản: Hegel công nhận rằng lý tưởng ấy không thể thực hiện được trong thực tế, nhưng Hegel duy trì nó, và nói rằng nó có thể thực hiện được trong tinh thần. Theo Hegel, sở dĩ nó thực hiện được là nhờ có ý thức bản ngã của tinh thần, tức là tôn giáo chuyển lên hình thái triết học duy tâm tuyệt đối. Hegel đã giải quyết những mâu thuẫn của tư tưởng giai cấp thống trị trên cơ sở giai cấp thống trị. Do đó, Hegel biện chính cho chế độ thống trị trong tinh thần, trong phạm vi tư tưởng, vậy nhất định cũng phải biện chính nó trong thực tế. Xét hệ thống triết học duy tâm tuyệt đối, ta thấy Hegel đi đến chỗ biện chính cho chế độ chính trị hiện hành, tức là chế độ quân chủ lập hiến của Nhà nước Phổ[14] lúc bấy giờ. Hegel đã bác bỏ những thành tích tương đối tiến bộ của cách mạng tư sản trong giai đoạn «tự do tuyệt đối và chế độ khủng bố» và cho rằng tự do tuyệt đối không thể thực hiện được. Rồi một khi đã phát triển hệ thống triết học, ông lại kết luận rằng chính Nhà nước Phổ đã thực hiện được tự do tuyệt đối. Vì sao với một phương pháp tư tưởng có phần căn bản chân chính, có bộc lộ được những mâu thuẫn thực sự trong lịch sử mà Hegel lại đi đến chỗ bảo thủ, đề cao chế độ Nhà nước Phổ là chế độ phản động nhất nhì ở Âu châu, sau Nga Hoàng? Tại sao Hegel lại kết luận rằng chính chế độ quân chủ lập hiến của Phổ đã thực hiện được ý niệm tự do tuyệt đối? Đó là vì phương pháp biện chứng ngay từ đầu đã bị lộn ngược. Ngay từ đầu, Hegel đã đứng trên lập trường của phe thống trị mà bộc lộ mâu thuẫn, từ chủ nô đến phong kiến đến tư sản. Đến giai đoạn tư sản thống trị thi Hegel đề cao tất cả những chế độ thống trị cũ, cho rằng những chế độ ấy đều là đúng, và những tôn
- giáo cũ đều là chân chính cả. Trong đó còn có những phần thiếu sót mà Hegel tự đảm nhận trách nhiệm sửa chữa và hoàn thành. Nhưng dù sao, với cách sử dụng biện chứng pháp đó Hegel cũng có nắm được những phạm trù phổ cập nhất của thực tại biển chuyến, và chính những phạm trù đó lộn lại sẽ thành cái tiền đề cho phương pháp biện chứng duy vật. Marx và Engels đã có công trình rút kinh nghiệm của biện chứng pháp duy tâm và bộc lộ phần chân chính của nó, phát triển biện chứng pháp duy vật. 12-6-1956 GHI CHÚ (Phần Hegel) Schelling Bản ngã không là tuyệt đối mà cả tự nhiên nữa. Tự nhiên và bản ngã là 2 mặt của thực thể tuyệt đối (khác Fichte cho bản ngã là tuyệt đối), nhưng đây là cái Tôi tuyệt đối đã đặt ra cái tôi cá nhân và khách quan. Cái tôi tuyệt đối là tôi đặt ra chân lý và nó bao gồm tự nhiên và cái tôi cá nhân. So sánh với Schelling, Kant còn cho cái tôi là hữu hạn, không biết được thế giới tự tại. Tôi của Descartes là cá nhân và nhờ Thượng đế bảo đảm. Hai mệnh đề của Fichte hiểu theo duy vật: «Chính quá trình sáng tạo của nhân loại đã đặt ra quan hệ của tự nhiên và cá nhân». Cả 2 quan hệ về mặt thực tiễn và lý luận đều phải thông qua cái chủ quan nhân loại - cái tôi, phổ cập và tuyệt đối - Fichte nhằm phê phán sự kiện con người sáng tạo ra xã hội tự nhiên trong đó có cá nhân.
- - Đề cao lao động trí óc. Kant còn hạn chế (vật tự tại), Fichte không còn hạn chế nhưng nội dung còn nghèo nàn và bị hạn chế trong 2 phương diện: khoa học, thực tiễn. Tôi xây dựng thế giới trong khoa học - thực hiện nhiệm vụ. Hegel còn thêm khoa học xã hội thống nhất khoa học tự nhiên và nhiệm vụ. Hegel là người sáng lập hệ thống triết học duy tâm. Marx đã bắt nguồn một phần ở đây. + Schelling đối với Jacobins[15]. Thể hiện 2 điểm: - Duy tâm hơn Fichte là không công nhận chủ quan là tuyệt đối, vì như thế là đề cao sự sáng tạo của giai cấp tư sản. Schelling phê phán giai đoạn xuống của tư sản, chuyển biện chứng pháp chủ quan vào khách quan. Khách quan đây có tính chất thần bí ở chỗ vận dụng biện chứng pháp một cách lúng túng, không cơ sở. Trong Schelling: tuyệt đối là một quá trình biện chứng của mỹ thuật là có thể hình dung được. Schelling sáng tác vào giai đoạn xuống của cách mạng Pháp: Barras[16] truy tố Jacobins. - Napoléon[17] 2 lần cũng vì sợ Jacobins, không dám kêu gọi nhân dân lúc ở Đức về, không nghe lời Lazare Carnot[18] lần 2 lúc ở đảo Elbe[19] về. + Phong trào Bavery[20] vượt quá mức tư sản nữa. + Biện chứng pháp của Schelling không dựa vào ý thức mà vô ý thức, còn Fichte là biện chứng pháp của ý thức «tôi» đặt... Trong Schelling, ý thức là một động cơ căn bản, không là nguồn gốc như với Fichte.
- + Kant: yếu tố biện chứng căn bản là chủ quan sáng tạo ra khách quan - sinh ra mâu thuẫn. Chủ quan tạo ra khách quan là cái mâu thuẫn với nó. Nhưng mâu thuẫn trong Kant còn máy móc, chỉ mới có hạt nhân, chưa vận dụng được phương pháp biện chứng. Fichte kế tục, không lấy lại những mâu thuẫn này nhưng dùng phương pháp. + Đả phá tư tưởng duy tâm: căn bản để đưa về duy ngã, vậy thì nói với ai? - Dùng lịch sử để chứng minh là duy tâm cũng có tính chất duy vật, vì có phê phán một giai đoạn lịch sử và giai cấp nhất định. Đến một trình độ nào tư tưởng Kant hạn chế khoa học: - Thực tế khoa học tự nhiên bị bế tắc (sinh vật... vì không có điều kiện xây dựng một số thực nghiệm hay đặt một số vấn đề). + Ý thức cảm giác: Căn bản là sự tranh luận giữa hai phái cảm giác và khái niệm. Phái cảm giác cho cái căn bản là cảm giác, còn khái niệm và lý luận là suông (có cả duy tâm và duy vật). Phái khái niệm là hệ thống từ Platon-Hegel cho cái mà nắm vững là đại thể, khái niệm. (Liên hệ: cảm giác chủ nghĩa và hình thức chủ nghĩa, lý luận suông). Truyền thống có từ Cổ đại cho đến bây giờ. Hegel tổng kết thôi: Hegel lấy cảm giác với ngay nội dung của nó. Phân tích và nêu mâu thuẫn trong nó. Cảm giác thay đổi luôn, không có gì nắm vững chắc (Phật cho thế gian là mơ hồ), cái mà ta tưởng nắm được trong cảm giác có tính cá thể thì sự thực chỉ là khái niệm, đại thể. Đối tượng cảm giác biến chuyển luôn, nên tư tưởng ngây thơ của cảm giác thực ra rất mơ hồ. Lúc cảm giác muốn định nghĩa một cá thể phải dùng những khái niệm đại thể. (Cuộc tranh luận Platon-Héraclite)
- Phê phán của Hegel từ trong, nằm trong cảm giác trên mâu thuẫn của nó. Điểm duy tâm của Hegel là chỉ nêu mâu thuẫn trong tinh thần, và chỉ tinh thần thôi, nên đi đến chỉ có đại thể là thực tại, thoát hẳn kinh nghiệm. Hegel lộn đầu: một khái niệm là do một mức của phát triển sản xuất, lúc đó ta mới có mâu thuẫn trong cảm giác, và đòi hỏi một sự nắm vững chắc, nhưng Hegel không thấy sự phản ánh thực tế đó, mà cho quá trình ấy hoàn toàn ở tinh thần, không dựa vào đâu, nên duy tâm lộn đầu. + Tri giác: đã nắm được đại thể nhưng còn có tính chất cảm giác, những thuộc tính mà ta nhằm trong cảm giác - mâu thuẫn tính đại thể của thuộc tính và tính cá thể của vật có thuộc tính đó. Do sự gắn liền với cảm giác với cá thể nên tri giác vẫn chưa nắm được. Giải quyết: lấy sự thay đổi theo cá thể là do sai lầm chủ quan như thô sơ xây dựng được một đối tượng có tính chất khách quan. Nhưng lại xuất hiện mâu thuẫn mới: những vật mà tôi định nghĩa là những vật cá thể có liên quan với nhau, vậy cái gì là chân lý, vật ấy hay quan hệ của chúng. Thực ra vật thể luôn biến đổi, vậy nó không thể là chân lý, vậy có quan hệ của chúng là có nghĩa, quan hệ này là siêu giác, ta tính toàn bằng trí tuệ. Thực tế, khoa học cận đại phát hiện quan hệ là khẳng định và bổ túc thêm sự tồn tại của thực tế, nhận định tri giác và cảm giác trên cơ sở của chúng, nhưng Hegel phủ định hoàn toàn và chỉ giữ lấy quan hệ hoàn toàn trong tinh thần nên phủ định thực tại. Về điểm này Hegel chỉ tổng kết triết học duy tâm cận đại thôi (Descartes, Kant: phê phán quan niệm thuộc tính, đặt quan hệ toán pháp là nội dung thực tế - phê phán tri giác). Nhưng Hegel đã mô tả đúng trong tinh thần, và đặc sắc là cách vận dụng phương pháp (cái bàn nếu định nghĩa bằng chất gỗ, vuông, tròn thì ta chưa thực nắm được mà bằng công thức của gỗ và những phản ứng của nó chẳng hạn
- thì chúng ta nắm được tính chất hơn, nhưng Hegel cho chỉ định nghĩa theo cách 2 mới nắm được còn cách đầu bị phủ định). + Không phải học thuyết triết học như Hegel quan niệm: ví dụ phương pháp cảm giác tức phương pháp luận lý triết học lấy cảm giác làm căn cứ. + Ý thức bản ngã Mâu thuẫn đại thể và cá thể trong Hoài nghi: Đại thể là chân lý giá trị, cá thể là vô giá trị. Hoài nghi cho mọi cái là vô giá trị, nhưng như thế nó có một giá trị tuyệt đối (tự đề cao). Thực ra, lúc phê phán sự việc cũng là tự phê phán, nhưng nó vẫn đi đôi với tự đề cao về phương diện cảm thức. Ý thức hoài nghi đi từ cái nọ sang cái kia, nhưng nó nắm cả 2 (phê phán và đề cao) - trong lịch sử tư tưởng, để đáp lại Hoài nghi có một cách: «Chủ nghĩa hoài nghi có giá trị không?» - Lúc đặt hai vấn đề một lượt là chuyển sang tư tưởng gian khổ. (Trong lịch sử, các nhà hoài nghi không đáp: Pyrrhon[21] - hoài nghi nổi tiếng đi vấp vào tường không biết có đau không). + Nhiều thứ anh hùng cá nhân: phong kiến nhằm hiển vinh Thái ấp và cuối cùng lên vua. Còn tư sản thì dựa vào quan niệm tốt xấu cá nhân, nhận định chủ quan mà cải tạo thế giới. + Khi ý thức nhận được phê phán và đề cao cùng một lúc thì cũng là lúc Hoài nghi đi từ cái này sang cái kia để thoải mái hơn (từ đại thể sang cá thể, và khi sang Tâm hồn gian khổ thì không bao giờ hưởng được gì: nhận thấy tôi là có giá trị nhưng lại thấy không xứng đáng với giá trị đó. (Pascal[22]: «Nếu tự cao, tôi dìm nó xuống, nếu tự ti, tôi kéo nó lên»). Sự thực, từ Hoài nghi lên Tâm hồn gian khổ không phải tự nó mà là do sự khủng hoảng cuối nô lệ, lúc đầu nó bị đe dọa và còn tin tưởng vì có Khắc kỷ. Khi trầm trọng hơn và trong tầng lớp thấp hơn, sinh ra Hoài nghi: tự bảo vệ, tiêu cực. Đó là
- thái độ của thống trị khi tan rã. Khi phủ nhận cái cũ thì sự thực là phần nào, một cách tiêu cực, nó công nhận một tình thế mới. Đến lúc tan rã hẳn và sang chế độ mới, nó phải có biện pháp 2 giai đoạn: công nhận chế độ mới một cách tích cực (tự thấy vô giá trị - chủ nô đồng hóa với nô lệ: thời Hoàng đế La Mã), đồng thời nó vẫn giữ ý thức thống trị cũ với tính chất một giá trị đã mất đi rồi, đã xa xôi, nó đã từ Thiên đường xuống thế gian (Pêché originel, tội tổ tông). Bị trị: cá nhân vô giá trị. Hồi tưởng Thiên đường cũ xa xôi: giá trị đại thể xa. + Tái lập quyền thống trị dưới hình thức phong kiến công nhận phần nào quyền làm người của bị trị dưới hình thức ban ơn. Thể hiện trong tư tưởng: nó đã xa chân lý, nhưng chân lý chỉ là nó thôi, Thượng đế cũng là ta thôi (chế độ phong kiến: Thượng đế - bọn chúa phong kiến vẫn là thống trị, lệ nông là người); nhân loại được cứu thế sau khi Gia Tô lên trời. Sau giao ước thì chủ nô trở thành Chúa và nô lệ được thành người, nhưng chỉ cứu thế ở trên trời thôi, bình đẳng ở Thiên đường (sức hấp dẫn của Gia tô là ở chỗ đó). + Cấm dục là của phong kiến chống lại cá nhân chủ nghĩa. Chịu ảnh hưởng phong kiến, tiểu tư sản và tư sản cũng sử dụng hình thức này để phục vụ các quyền lợi giai cấp của mình, nhưng trong ý thức thì quá trình diễn biến là như Hegel trình bày. + Hegel: Trong quan niệm thì làm ăn là do Thượng đế ban ơn nhưng thực ra là tự nó. Nhưng trong thực tế bấy giờ, mọi người sản xuất vẫn quan niệm do Chúa nên phải tìm công lao của mình, «đưa về cho Chúa». Đến một lúc nào đấy người là chính. Người là bản ngã ý thức trong Tâm hồn gian khổ, thấy mình bị đầy trong thế giới rồi đi đến quan niệm thế giới là mình. Nhưng Hegel nói ngược lại: mình là thế giới - duy tâm hóa ý thức bản ngã tự cho mình là thế giới. Sự phê phán của Hegel là có thực, nhưng không cho thấy là phương thức sản xuất mới quy định thế giới mà cho
- là ý thức bản ngã tự thực hiện mình. Quá trình phong trào chống phong kiến thì đã trở thành quá trình diễn biến của Lý tính. + Lý tính là sự phê phán trong cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản trên 3 mặt: Khoa học tự nhiên góp phần phát triển sản xuất. Sự phát triển khoa học thế kỷ XVI, XVII, XVIII có tác dụng đấu tranh giai cấp thực sự chống kinh viện (Vũ trụ quan). Đạo đức: Chống đạo đức và trật tự xã hội phong kiến bằng hưởng lạc và anh hùng cá nhân và chủ nghĩa đạo đức (hy sinh cá nhân để cải tạo thế giới và đặt thành nhiệm vụ chung). Thế giới quan: lấy quan niệm đời sống mới chống lại quan niệm đời sống cũ: quan niệm cá nhân chủ nghĩa lấy sự kiểm nghiệm cá nhân làm chân lý: «tôi làm ra sự nghiệp, và sự nghiệp của tôi là tôi». Lấy luật pháp mình đặt ra: sự cụ thể hóa lương tâm bằng một số mệnh đề, pháp luật (đây là tư tưởng tương đương với thái độ anh hùng); như thế nào là người sinh cá nhân (mệnh pháp phổ cập). + Ghi chú ở chương 5 - Lý tính - Sinh hoạt tôn giáo gồm 3 mặt: Sùng bái - nhiệt tín Làm ăn - lao động, hưởng thụ Tự phạt, cấm dục. - Nơi sinh hoạt thực tế: lao động và tổ chức sản xuất đều ở trong Gia Tô nên nó thành một giai đoạn ý thức.
- + Khi các lương tâm cá nhân va chạm nhau tự do, ai cũng cho mình là tốt nhất, nên đi đến tự cao điên cuồng. + Mọi hưởng lạc, một mặt, có thỏa mãn chủ quan, nhưng lại theo quy luật khách quan mất tự chủ, phụ thuộc vào sự hấp dẫn: lôi cuốn của hưởng lạc ấy. Những quy luật khách quan ấy, mình không định rõ được nó, có vẻ mù quáng lôi kéo mình đi, đó là Định mệnh (trong ham mê nó rõ rệt hơn). Đây là một hiện tượng tinh thần có thực mà Hegel diễn tả đúng, nhưng không thấy nguồn gốc thực của nó là cơ sở kinh tế hàng hóa (trong nô lệ và phong kiến nó chắc là của bọn thống trị trong giai cấp phong kiến và chủ nô, nhưng tới đầu Tư sản nó mới thành phổ biến và thành một luân lý chung), khác với nô lệ và phong kiến là ở chỗ không phải hưởng lạc vì hưởng lạc mà Hưởng lạc để giải phóng cá nhân. + Định mệnh là một quy luật khách quan mình không nắm được, Hegel cho là khi nắm được thì mình đã có trong mình một quy luật phổ cập không dựa vào đó xây dựng pháp lý: anh hùng cá nhân (Les Brigands của Schiller[23]). Thực ra cơ sở của nó là sự đấu tranh đã lên một mức cao hơn, căn cứ vào chủ quan cải tạo xã hội. + Theo Hegel sự thất bại của cá nhân là do trong căn bản. Ví dụ: dùng Đạo đức chống xã hội, nhưng Đạo đức là xây dựng tài năng, nhưng tài năng là xã hội - không vì yếu mà do nội dung mà thất bại. Hegel cho kinh nghiệm là: thời cuộc và cá nhân không đối lập, mà xã hội là mình đấy. Cái mà anh nhằm trong chủ quan cũng chính là sự nghiệp khách quan của anh đấy, không phải gì khác. + Giới động vật của tinh thần : gọi giới động vật vì là một thế giới trong đó mỗi cá nhân chỉ biết mình (đúng với xã hội tư sản), nhưng lại là tinh thần vì sự nghiệp là tinh thần. Sự nghiệp cá nhân ấy có tác dụng và ý nghĩa xã hội, nhưng vẫn là ý thức cá nhân. Khi ý thức bản ngã đã nhận thấy mình có một ý nghĩa phổ cập, đã tiến lên hình thái tinh thần, nghĩa là lý tính đã thấy mình là đại thể (tinh thần đây cũng như
- tinh thần dân tộc - thống nhất chủ quan và khách quan). Tinh thần là ý thức đại thể trong đó cảm thấy có mình. + Nhà khoa học duy tâm hay nhà cách mạng tư sản tin tưởng thế giới là mình nhưng chỉ thực hiện được trong «tinh thần». Chủ quan và khách quan là thống nhất: chủ quan của xã hội là xã hội ấy đấy. Lý tính và tinh thần nội dung giống nhau nhưng xét về phương diện cá nhân chủ quan và về phương diện xã hội là đại thể. Tinh thần thể hiện trong lịch sử. Tinh thần là tin tưởng chủ quan của cá nhân nhưng nó có tính chất đại thể, chung cho xã hội. + Marx cho tư tưởng dân tộc là: «L’existence sociale dans la conscience»[24]. Hegel không thấy cơ sở thực tế đó và còn phủ định nó nữa, ví dụ cho sự tan rã của thành thị Hy Lạp do mâu thuẫn trong tinh thần dân tộc của công dân Hy Lạp. Hegel cho chiến tranh củng cố đại thể, đồng thời phân tán đấu tranh tư sản đến một đại thể mới, không có tính chất của nó nữa chỉ còn có cá nhân. + Trạng thái tha hóa trong tư bản chủ nghĩa: nó biến dạng, nhưng sự thực nó phát triển sự đối lập cá nhân và xã hội, mâu thuẫn chủ quan và khách quan. Trong tình trạng đó, tư sản mong muốn trở lại tinh thần tự nhiên thời Hy Lạp (Goethe, Hegel). Sự xa cách ở Trung Cổ còn tương đối mà đến tư bản trở nên tuyệt đối. Hegel xây dựng lý luận che lấp tình trạng tha hóa đó để củng cố tư bản. Hegel xây dựng một lý tưởng duy tâm của chế độ tư bản, trong đó không có mâu thuẫn nữa và ở đây cũng hết tác dụng tiến bộ của triết học Hegel, hết biện chứng. Trần Đức Thảo (Lịch sử Tư tưởng trước Marx, tr. 424-491) Chú thích
- [1] Ludwig Andreas Feuerbach (1804-1872), triết gia duy vật Đức. Tác phẩm chính: Contribution à la critique de la philosophie hégélienne (1839), L'Essence du christianisme (1841), L'Essence de la religion (1845), Spiritualisme et Matérialisme (1858). PTL [2] Johann Gottleib Fichte (1762-1814), triết gia duy tâm Đức. Tác phẩm chính: Principes fondamentaux de la Doctrine de la science (1794), Fondements du Droit naturel (1796-1797), Destination de l'homme (1800), Discours à la nation allemande (1807-1808). PTL [3] Friedrich Wilhelm Joseph von Schelling (1775 – 1854), triết gia duy tâm Đức. Tác phẩm chính: Idées pour une philosophie de la nature (1797), Système de l'idéalisme transcendantal (1800). PTL [4] Marc Aurèle (Marcus Aelius Aurelius Verus, 121-180), hoàng đế và triết gia La Mã. Tư tưởng chính được ghi lại trong: Pensées pour moi-même. PTL [5] In nhầm là Epiotete trong sách. Epictète (Epíktêtos, 50-130). Tư tưởng chính được ghi lại trong: Entretiens; Manuel d’Epictete. PTL [6] Nông nô. [7] Jean-Jacques Rousseau (1712-1778), nhà văn và triết gia Pháp. Tác phẩm chính: Discours sur les sciences et les arts (1750), Discours sur l'origine et les fondements de l'inégalité parmi les hommes (1755), Du contrat social (1762), Émile ou De l'éducation (1762), Les Confessions (1765-1770)... PTL [8] Maximilien de Robespierre (1758-1794), luật sư và nhà chính trị Pháp. Trong cuộc cách mạng 1789, cầm đầu câu lạc bộ Jacobins và nhóm đại biểu Montagnards (vì trong nghị trường, họ ngồi ở những hàng ghế cao nhất), ông khởi động giai đoạn Khủng bố (Terreur, 9-1793 đến 7-1974) của cuộc cách mạng nhằm
- bảo vệ một hình thức dân chủ nhân dân cực đoan, chặt đầu rất nhiều địch thủ, nhưng cuối cùng cũng bị địch thủ hạ bệ và chặt đầu. PTL [9] Michel Eyquem de Montaigne (1533-1592) nhà chính trị và triết gia Pháp thời Phục Hưng. Tác phẩm chính: Essais (viết từ 1572 và bổ sung liên tục cho đến khi mất). PTL [10] René Descartes (1596-1650), nhà khoa học và triết gia Pháp đã đặt nền cho triết học hiện đại. Tác phẩm triết chính: Règles pour la Direction de l’Esprit (1628), Discours de la Méthode (1637), Méditations métaphysiques (1641). PTL [11] Johann Wolfgang von Goethe (1749 –1832), văn hào, triết gia và nhà khoa học Đức. Tác phẩm tiêu biểu: Les Souffrances du jeune Werther (1774), La métamorphose des plantes et autres écrits botaniques (1790), Le serpent vert (1795), Traité des couleurs (1810), Faust I (1808), và Faust II (1832). PTL [12] In nhầm là... xuống cấp. Đã sửa lại trong bài. PTL [13] In nhầm là trên. Đã sửa trong bài. PTL [14] Một quốc gia lịch sử ở phía Đông Âu châu, đã trải qua nhiều hình thức chính quyền, và có ảnh hưởng đáng kể trên lịch sử nước Đức cận đại nói riêng và Âu châu nói chung. Nhà nước Phổ của Hegel nói trên là Vương quốc Phổ (1701- 1918), sau Thế chiến thứ nhất trở thành một phần của nước Đức mới trong nền Cộng Hòa Weimar (1918-1947), để cuối cùng bị xoá sổ trên thực tế bởi chính quyền Quốc Xã (1934), và trên pháp lý bởi quân Đồng Minh sau Thế chiến thứ hai (1947, vì bị xem là chiếc nôi của chủ nghĩa quân phiệt Đức). PTL. [15] Nhóm chính trị lúc đầu mang tên là Club breton (vì do các đại biểu vùng Bretagne thành lập năm 1789), sau gọi là Club des Jacobins (vì địa điểm họp nằm trên đường St Jacques), tuy tên chính thức của nhóm là Hội những người Bạn của
- Hiến Pháp (quân chủ lập hiến). Sau khi vua Louis XVI bỏ trốn (1791), nhóm bị phân hóa, các phần tử ôn hòa thành lập Club des Feuillants (tên một tu viện cũ lấy làm nơi hội họp), còn phần lớn đại biểu theo Robespierre chuyển sang dân chủ triệt để, lập ra Hội những người Bạn của Tự do và Bình đẳng, đóng vai trò chuyên chính chủ chốt trong giai đoạn Khủng bố (9-1793 đến 7-1794) dưới thời Hội nghị Quốc Ước (Convention nationale, 9-1792 đến 10-1795), cho đến khi Robespierre bị lật đổ và chặt đầu, thì tổ chức mới bị dẹp (1794). PTL [16] Paul Barras (1755-1829), tướng lĩnh và nhà chính trị Pháp thuộc nhóm Jacobins. Là đại biểu thời Hội nghị Quốc Ước, ông đã bỏ phiếu xử giảo Louis XVI và giữ vai trò bản lề trong cuộc chuyển hướng về Hội đồng Chấp chính (Directoire, 10-1795 đến 11-1799), nhờ đã quyết liệt đánh dẹp các cuộc nổi dậy của phe bảo hoàng. Thành viên của Hội đồng này, ông là một trong 3 nhân vật đã hạ bệ Robespierre, rồi đảo chính (9-1797) để loại các đich thủ khác và cai trị như nhà độc tài, cho đến khi bị Bonaparte lật đổ (1799) và đày đi Bruxelles rồi Rome. PTL [17] Napoléon Bonaparte (Napoléon Ier, 1769-1821), danh tướng, kẻ chinh phục, Tổng tài (1799-1804) và Hoàng đế Pháp (1804-1814). PTL [18] Lazare Carnot (1753-1823) tướng lĩnh và nhà chính trị Pháp. Về quân sự, có công trong việc xây dựng quân đội và có tài thao lược. Về chính trị, ông là đại biểu của Hội nghị Quốc Ước, và ủy viên của Hội đồng Bảo an năm 1793. Thành viên của Hội đồng Chấp chính, ông phải trốn sang Đức sau cuộc đảo chính của Barras; khi Napoléon lật đổ Barras, ông được gọi về, song lại bị đày vào năm 1816. PTL [19] Hòn đảo nẳm giữa đảo Corse và vùng Toscane, bị Pháp sáp nhập năm 1802. Napoléon Bonaparte bị đày ra đây từ ngày 4-5-1814, và vượt đảo về Paris ngày 1- 3-1915. Elbe thuộc chủ quyền của Ý từ năm 1860 đến nay. PTL.
- [20] ??? [21] Pyrrhon xứ Elis (khg 365-270 tCn), triết gia cổ Hy Lạp. Pyrrho không viết gì cả, tư tưởng của ông chỉ được biết qua tập thơ châm biếm của đệ tử là Timon xứ Phlionte (khg 320-230 tCn) và một quyển sách của Sextus Empiricus (khg 160- 210 sCn). PTL [22] Blaise Pascal (1623-1662), nhà khoa học, triết học và thần học Pháp. Tác phẩm triết học chính: Les Provinciales (1656-1657), Pensées (1670). PTL [23] Friedrich von Schiller (1759-1805), nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch Đức. Les Brigands (Die Raüber, 1781) là tên của một vở kịch. [24] Tồn tại xã hội trong ý thức. [25] Nhóm chính trị lúc đầu mang tên là Club breton (vì do các đại biểu vùng Bretagne thành lập năm 1789), sau gọi là Club des Jacobins (vì địa điểm họp nằm trên đường St Jacques), tuy tên chính thức của nhóm là Hội những người Bạn của Hiến Pháp (quân chủ lập hiến). Sau khi vua Louis XVI bỏ trốn (1791), nhóm bị phân hóa, các phần tử ôn hòa thành lập Club des Feuillants (tên một tu viện cũ lấy làm nơi hội họp), còn phần lớn đại biểu theo Robespierre chuyển sang dân chủ triệt để, lập ra Hội những người Bạn của Tự do và Bình đẳng, đóng vai trò chuyên chính chủ chốt trong giai đoạn Khủng bố (9-1793 đến 7-1794) dưới thời Hội nghị Quốc Ước (Convention nationale, 9-1792 đến 10-1795), cho đến khi Robespierre bị lật đổ và chặt đầu, thì tổ chức mới bị dẹp (1794). [26] Paul Barras (1755-1829), tướng lĩnh và nhà chính trị Pháp thuộc nhóm Jacobins. Là đại biểu thời Hội nghị Quốc Ước, ông đã bỏ phiếu xử giảo Louis XVI và giữ vai trò bản lề trong cuộc chuyển hướng về Hội đồng Chấp chính (Directoire, 10-1795 đến 11-1799), nhờ đã quyết liệt đánh dẹp các cuộc nổi dậy của phe bảo hoàng. Thành viên của Hội đồng này, ông là một trong 3 nhân vật đã
- hạ bệ Robespierre, rồi đảo chính (9-1797) để loại các đich thủ khác và cai trị như nhà độc tài, cho đến khi bị Bonaparte lật đổ (1799) và đày đi Bruxelles rồi Rome. [27] Napoléon Bonaparte (Napoléon Ier, 1769-1821), danh tướng, kẻ chinh phục, Tổng tài (1799-1804) và Hoàng đế Pháp (1804-1814). PTL [28] Lazare Carnot (1753-1823) tướng lĩnh và nhà chính trị Pháp. Về quân sự, có công trong việc xây dựng quân đội và có tài thao lược. Về chính trị, ông là đại biểu của Hội nghị Quốc Ước, và ủy viên của Hội đồng Bảo an năm 1793. Thành viên của Hội đồng Chấp chính, ông phải trốn sang Đức sau cuộc đảo chính của Barras; khi Napoléon lật đổ Barras, ông được gọi về, song lại bị đày vào năm 1816. PTL [29] Hòn đảo nẳm giữa đảo Corse và vùng Toscane, bị Pháp sáp nhập năm 1802. Napoléon Bonaparte bị đày ra đây từ ngày 4-5-1814, và vượt đảo về Paris ngày 1- 3-1915. Elbe thuộc chủ quyền của Ý từ năm 1860 đến nay. PTL. [30] ??? [31] Pyrrhon xứ Elis (khg 365-270 tCn), triết gia cổ Hy Lạp. Pyrrho không viết gì cả, tư tưởng của ông chỉ được biết qua tập thơ châm biếm của đệ tử là Timon xứ Phlionte (khg 320-230 tCn) và một quyển sách của Sextus Empiricus (khg 160- 210 sCn). PTL [32] Blaise Pascal (1623-1662), nhà khoa học, triết học và thần học Pháp. Tác phẩm triết học chính: Les Provinciales (1656-1657), Pensées (1670). PTL [33] Friedrich von Schiller (1759-1805), nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch Đức. Les Brigands (Die Raüber, 1781) là tên của một vở kịch. [34] Tồn tại xã hội trong ý thức.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Câu hỏi ôn tập triết học
15 p | 1592 | 695
-
Triết học cổ điển Đức từ Kant đến Hegel
11 p | 472 | 208
-
Bài tập triết học
10 p | 502 | 106
-
Triết học cổ điển Đức từ Kant đến Hegel Phần II
11 p | 232 | 104
-
Triết học cổ điển Đức từ Kant đến Hegel Phần IV
11 p | 228 | 102
-
Triết học cổ điển Đức từ Kant đến Hegel Phần III
9 p | 191 | 93
-
Triết học cổ điển Đức từ Kant đến Hegel Phần V
5 p | 189 | 90
-
Tài liệu về Triết học cổ điển Đức từ Kant đến Hegel
10 p | 219 | 87
-
Tiểu luận BẢN CHẤT KHOA HỌC VÀ CÁCH MẠNG LÀ CỘI NGUỒN SỨC SỐNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
8 p | 474 | 66
-
Bản chất phép biện chứng và lịch sử tư duy phép biện chứng của nhân loại - 2
6 p | 207 | 44
-
Nét cơ bản của lịch sử hình thành phép biện chứng -4
7 p | 152 | 24
-
Bài giảng triết học 1
5 p | 168 | 23
-
Tư tưởng của Immanuel Kant về biện chứng của quá trình nhận thức
5 p | 223 | 16
-
Chủ thể nhận thức trong triết học Immanuel Kant
8 p | 76 | 7
-
Đạo đức học hiện sinh và những hàm ý giáo dục của nó
10 p | 12 | 5
-
Imanuen Kant bàn về cái cao cả
8 p | 38 | 4
-
Quan điểm của Ludwig Feuerbach về vấn đề hạnh phúc
7 p | 27 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn