Tự chủ tài chính tại các cơ sở giáo dục đại học công lập Việt Nam
lượt xem 7
download
Bài viết Tự chủ tài chính tại các cơ sở giáo dục đại học công lập Việt Nam đề cập đến những nội dung cơ bản về tự chủ tài chính, những khó khăn đặt ra và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cơ chế tự chủ tài chính tại các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tự chủ tài chính tại các cơ sở giáo dục đại học công lập Việt Nam
- TỰ CHỦ TÀI CHÍNH TẠI CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP VIỆT NAM Nguyễn Thị Phúc Hậu Học viện Ngân hàng – Phân viện Phú Yên Tóm tắt Tài chính là nguồn lực rất quan trọng để thúc đẩy mọi sự phát triển, trong đó có phát triển của giáo dục đại học. Bỡi có nguồn lực tài chính mới có cơ sở để phát triển các nguồn lực khác như phát triển con người, phát triển cơ sở vật chất… (những yếu tố quyết định đến chất lượng giáo dục). Hiện nay, trong điều kiện nguồn ngân sách dành cho giáo dục đại học ở Việt Nam còn hạn hẹp thì việc thực hiện tự chủ tài chính của các trường đại học công lập là một tất yếu để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đồng thời vận động các nguồn lực của xã hội cho phát triển giáo dục đại học. Thời gian qua, việc thực hiện tự chủ tài chính tại các trường đại học công lập đã được triển khai và đã có những kết quả ban đầu, tuy nhiên việc triển khai còn gặp nhiều khó khăn. Xuất phát từ thực tiễn đó, bài viết đề cập đến những nội dung cơ bản về tự chủ tài chính, những khó khăn đặt ra và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cơ chế tự chủ tài chính tại các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam. Từ khóa: Tự chủ tài chính, giáo dục đại học công lập, tài chính. 1. Nội dung cơ bản về tự chủ tài chính của cơ sở giáo dục đại học Tự chủ đại học bao gồm: Tự chủ trong quản lý điều hành, tự chủ tài chính, tự chủ về nhân sự và tự chủ về học thuật. Trong đó tự chủ tài chính (TCTC) được xem là một trong những tiền đề quan trọng có ảnh hưởng đến khả năng hoàn thiện toàn bộ nội dung tự chủ khác. TCTC cho phép các cơ sở giáo dục đại học (CSGDĐH) huy động và duy trì nguồn lực tài chính để đảm bảo việc tuyển chọn lực lượng học thuật tốt nhất và phát triển theo hướng sáng tạo, đổi mới phù hợp với chiến lược của từng CSGDĐH. Tự chủ về tài chính được hiểu là khả năng đơn vị tự thực hiện các hành vi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép trong lĩnh vực tài chính và chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Khi TCTC, các đơn vị được quyền quyết định các hoạt động tài chính, gồm: hoạt động thu, chi, quản lý và phân phối kết quả hoạt động; Huy động vốn, quản lý các quỹ chuyên dụng, quản lý tài sản, quản lý nợ phải trả của đơn vị và các hoạt động tài chính khác theo quy định của pháp luật. Trong các CSGDĐH công lập, TCTC bao gồm: Quyết định mức học phí; Quyết định mức lương trả cho giảng viên theo thành tích nghiên cứu và giảng dạy; Phân bổ ngân sách độc lập; Sở hữu bất động sản và tài sản tài chính; Vay mượn và đầu tư trên thị trường tài chính. Dựa vào mức độ tự đảm bảo kinh phí hoạt động của đơn vị, có bốn loại hình thể hiện mức độ TCTC trong các đơn vị sự nghiệp công (ĐVSNC), bao gồm: (1) ĐVSNC tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư; (2) ĐVSNC tự đảm bảo chi thường xuyên, (3) ĐVSNC tự đảm bảo một phần chi thường xuyên; (4) ĐVSNC do nhà nước đảm bảo chi thường xuyên. Trong bốn loại hình trên thì loại hình tự chủ đảm bảo chi thường 475
- xuyên và chi đầu tư là mức TCTC cao nhất, loại hình này bao gồm các quy định cụ thể như sau: - Về nguồn thu: Các nguồn thu của đơn vị gồm nguồn thu từ hoạt động dịch vụ sự nghiệp công (bao gồm cả nguồn ngân sách nhà nước đặt hàng); Nguồn thu phí theo pháp luật về phí, lệ phí để lại theo quy định; Nguồn thu khác theo quy định của pháp luật (nếu có); Nguồn kinh phí của Nhà nước cấp cho hoạt động không thường xuyên (nếu có) và các khoản vốn vay, tài trợ, viện trợ theo quy định của pháp luật. - Về sử dụng nguồn tài chính: + Đối với các khoản chi đầu tư từ Quỹ đầu tư phát triển sự nghiệp, nguồn vốn vay và các nguồn tài chính phù hợp khác: Căn cứ nhu cầu đầu tư và khả năng cân đối các nguồn tài chính, đơn vị chủ động xây dựng danh mục các dự án đầu tư, báo cáo cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. + Đối với các khoản chi thường xuyên: Đơn vị được quyền chủ động trong việc sử dụng nguồn tài chính cho các khoản chi sau đây: * Chi tiền lương: Đơn vị chi trả lương theo ngạch, bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp do Nhà nước quy định đối với ĐVSNC. Khi Nhà nước điều chỉnh tiền lương, đơn vị phải tự đảm bảo tiền lương tăng thêm từ nguồn thu của đơn vị mà không được ngân sách cấp bổ sung. * Chi hoạt động chuyên môn, quản lý: Đối với các khoản chi có quy định mức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, căn cứ vào khả năng tài chính, đơn vị được quyết định mức chi cao hơn, hoặc thấp hơn mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền và quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị. Đối với các nội dung chi chưa có định mức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì căn cứ vào khả năng tài chính, đơn vị tự xây dựng mức chi phù hợp với quy chế chi tiêu nội và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình. * Trích khấu hao tài sản cố định: Tiền trích khấu hao tài sản cố định hình thành từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, hoặc có nguồn gốc từ ngân sách thì được hạch toán vào Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp. + Chi nhiệm vụ không thường xuyên: Đơn vị chi theo quy định của Luật ngân sách nhà nước và pháp luật hiện hành đối với từng nguồn kinh phí. + Đơn vị phải thực hiện đúng các quy định của nhà nước về mức chi, tiêu chuẩn, định mức về nhà làm việc, trang bị điện thoại công vụ tại nhà riêng, điện thoại di động; chế độ công tác phí nước ngoài, tiếp khách nước ngoài và hội thảo quốc tế ở Việt Nam. - Về phân phối kết quả tài chính: Kết quả tài chính trong năm của đơn vị được phân phối như sau: + Việc trích lập các quỹ của đợn vị: Hàng năm, sau khi hạch toán đầy đủ các khoản chi phí, nộp thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước khác (nếu có) theo quy định, phần chênh lệch thu lớn hơn chi thường xuyên (nếu có) được trích vào các quỹ theo trình tự sau: * Trích tối thiểu 25% để lập Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp; * Trích lập Quỹ bổ sung thu nhập: Đơn vị được tự chủ mức trích Quỹ bổ sung thu nhập (không khống chế mức trích); 476
- * Trích lập Quỹ khen thưởng và Quỹ phúc lợi tối đa không quá 3 tháng lương thực hiện trong năm của đơn vị; * Trích lập Quỹ khác theo quy định của pháp luật; * Phần chênh lệch thu lớn hơn chi còn lại (nếu có) sau khi trích lập các quỹ theo quy định được bổ sung vào Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp. + Việc sử dụng các quỹ: Được thực hiện theo quy định như sau: * Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp: Chi cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc, phát triển năng lực hoạt động sự nghiệp; chi áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ; đào tạo nghiệp vụ chuyên môn cho người lao động trong đơn vị; góp vốn liên doanh với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao và các khoản chi khác (nếu có) * Quỹ bổ sung thu nhập: Chi bổ sung thu nhập cho người lao động trong năm và dự phòng chi bổ sung thu nhập cho người lao động năm sau trong trường hợp nguồn thu bị giảm. Việc bổ sung thu nhập cho người lao động trong đơn vị được thực hiện theo nguyên tắc gắn với số lượng, chất lượng và hiệu quả công tác. Hệ số thu nhập tăng thêm của chức danh lãnh đạo đơn vị không quá 2 lần thu nhập tăng thêm bình quân thực hiện của người lao động trong đơn vị. * Quỹ khen thưởng: Chi thưởng định kỳ, đột xuất cho tập thể, cá nhân trong và ngoài đơn vị (ngoài chế độ khen thưởng theo quy định của Luật thi đua khen thưởng) theo hiệu quả công việc và thành tích đóng góp vào hoạt động của đơn vị. Mức thưởng do thủ trưởng đơn vị quyết định theo quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị. * Quỹ phúc lợi: Chi xây dựng, sửa chữa các công trình phúc lợi, các hoạt động phúc lợi tập thể của người lao động trong đơn vị, trợ cấp khó khăn đột xuất cho người lao động. Mức trích cụ thể vào các quỹ và sử dụng do thủ trưởng đơn vị quyết định và quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ. 2. Tình hình thực hiện tự chủ tài chính tại các cơ sở giáo dục đại học công lập Việt Nam Các CSGDĐH công lập đang thực hiện quyền TCTC theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP trước đây và hiện nay là Nghị định số 16/2015/NĐ-CP. Việc thí điểm đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các CSGDĐH công lập giai đoạn 2014-2017 được thực hiện theo Nghị quyết 77/NQ-CP. Trong khi chờ đợi Bộ tài chính đang dự thảo Nghị định cơ chế TCTC của ĐVSNC thay thế Nghị định số 16/2015/NĐ-CP nhằm phù hợp với tình hình thực tiễn, thì các CSGDĐH công lập tiếp tục thực hiện cơ chế tự chủ theo nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ “Quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập”. Thực hiện Nghị quyết 77/2014/NQ-CP cuả Chính phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các CSGDĐH công lập giai đoạn 2014-2017, đã có 23 trường đại học trong tổng số 235 trường đại học cả nước thực hiện thí điểm tự chủ hoàn toàn về tài chính, trường có thể tự lo 100% kinh phí, tự chủ trong việc thu học phí, tự chủ trong 477
- việc chi thường xuyên và chi đầu tư. Theo khảo sát từ 23 trường này cho biết hầu hết các trường có chênh lệch thu lớn hơn chi và đảm bảo được hoạt động chi thường xuyên, thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người học thông qua miễn giảm học phí cho các đối tượng chính sách, trích học bỗng khuyến khích theo quy định, thu nhập bình quân của cán bộ giảng viên tại các trường tăng lên so với trước khi thực hiện tự chủ. Về nguồn thu: Nguồn thu của các trường có xu hướng tăng lên, nguồn thu từ học phí, lệ phí tăng 4,29% so với thời điểm trước khi tự chủ (đây vẫn là nguồn thu chính). Mặc dù nguồn thu tăng lên, nhưng cơ cấu nguồn thu vẫn chưa có sự thay đổi nhiều so với trước khi thực hiện tự chủ. Nguồn thu của các trường bao gồm thu sự nghiệp chủ yếu từ học phí và lệ phí của người học chiếm tỷ trọng khoảng 70%. Nguồn thu từ ngân sách nhà nước cấp chiếm khoảng 30%, chủ yếu là nguồn kinh phí cho các dự án đang triển khai từ trước khi tự chủ, hỗ trợ miễn giảm học phí đối với sinh viên thuộc đối tượng chính sách. Nguồn thu từ hoạt động nghiên cứu khoa học, cung cấp dịch vụ hay tư vấn chiếm tỷ trọng rất nhỏ và có xu hướng giảm trong cơ cấu nguồn thu. Về cơ cấu nguồn thu cho thấy nguồn thu của các trường chủ yếu phụ thuộc vào quy mô đào tạo và mức tăng học phí của người học. Như vậy nếu nguồn thu không được tạo ra từ nội lực mà phụ thuộc vào các yếu tố khách quan thì về lâu dài sẽ gây bất lợi cho chất lượng đào tạo khi các trường gặp khó khăn trong tuyển sinh. Việc thực hiện thí điểm tự chủ của 23 trường đại học đã kết thúc năm 2017, nhưng theo Nghị quyết 117 về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10/2017, các đơn vị này vẫn tiếp tục thực hiện cho tới khi có Nghị định của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của CSGDĐH công lập. Việc xác định học phí của các đơn vị này tiếp tục thực hiện theo Nghị định 86/2015/NĐ-CP ban hành ngày 02/10/2015 của Chính phủ quy định về cơ thế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn giảm, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ năm học 2015-2016 đến năm học 2020-2021. Mức học phí được xác định trên tinh thần tính đúng, tính đủ chi phí đào tạo cho một sinh viên (chi trả tất cả mọi thứ có liên quan đến hoạt động đào tạo sinh viên, gồm: thù lao giảng viên, công tác quản lý, nghiên cứu, thực hành, thực tập, điện nước, khấu hao tài sản, dịch vụ khác…). Như vậy, so với mức học phí dành cho các trường chưa TCTC ở cùng thời điểm năm học 2020 – 2021, học phí trường tự chủ cao gấp 2 đến 3,5 lần tùy thuộc mỗi trường và nhóm ngành khác nhau. Ví dụ, năm học 2020 – 2021, học phí nhóm ngành Y – Dược ở trường chưa tự chủ tài chính là 14,3 triệu đồng/năm/sinh viên, trong khi các trường tự chủ có thể lên tới từ 30 - 70 triệu đồng/năm (như trường Đại học Y dược TP. HCM). Trường Đại học Kinh tế TP. HCM công bố mức học phí năm học 2020 – 2021 và lộ trình tăng học phí từng năm học. Cụ thể, học phí chương trình Đại trà bậc đại học bình quân 20,5 triệu đồng/năm. Học phí có thể tăng mỗi năm là 10% theo quy định của Chính phủ. Chương trình Cử nhân Chất lượng cao học phí bình quân từ 32 – 40 triệu đồng/năm tùy theo chương trình đào tạo và mức học phí này không thay đổi trong toàn khóa học. Đây cũng là mức phí được tính toán dựa trên chi phí đào tạo thực tế của trường đã tự chủ toàn bộ kinh phí chi thường xuyên. Về sử dụng nguồn tài chính: Cơ cấu thay đổi theo hướng tăng chi hoạt động sự nghiệp và giảm chi dịch vụ. Trong đó, chi sự nghiệp tăng từ 70,6% (giai đoạn trước tự chủ) lên 72,4% (giai đoạn sau tự chủ). Phần lớn nguồn thu sự nghiệp (khoảng 75%) dùng để chi thường xuyên, song với tỷ lệ này khó có thể đảm bảo đủ nguồn lực để đầu tư cơ sở vật chất và thu nhập tăng thêm cho người lao động hàng năm. Để tự cân đối bù đắp chi thường xuyên, các trường phải trông chờ vào nguồn thu từ các hệ đào tạo khác như liên kết, đào tạo văn bằng 2, đào tạo bồi dưỡng và các nguồn thu khác theo quy 478
- định của trường. Các trường vẫn đảm bảo thu nhập cho người lao động cao hơn 1 lần lương. Về phân phối kết quả tài chính: Ngoài sử dụng nguồn thu để đảm bảo các khoản chi hoạt động thường xuyên và đầu tư theo cam kết, các trường cũng đã chủ động trong việc trích lập các quỹ (mức trích lập được quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ của từng trường). Trong đó Quỹ đầu tư phát triển hoạt động sự nghiệp được trích tối thiểu 25% phần chênh lệch thu lớn hơn chi. Nhìn chung, cơ chế TCTC tại các trường đại học thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả tích cực, giúp các trường tự chủ động hơn trong khai thác nguồn thu và quản lý chi tiêu, mở rộng và quảng bá chương trình đào tạo chất lượng cao, liên kết, đào tạo ngắn hạn, dịch vụ tư vấn nhằm nâng cao chất lượng và uy tín để thu hút sinh viên trong và ngoài nước. Các trường thực hiện thí điểm TCTC cũng đã xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, xây dựng các quy chế, định mức chi tiêu phù hợp hơn. 3. Những khó khăn trong quá trình thực hiện cơ chế tự chủ tài chính Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình thực hiện cơ chế TCTC còn gặp nhiều khó khăn và vướng mắc như sau: Thứ nhất, Chính phủ chưa có định hướng và quy định cụ thể cho việc chuyển tiếp từ giai đoạn thí điểm tự chủ (theo Nghị quyết 77/2014/NQ-CP) sang giai đoạn thực hiện chính thức, chưa có hướng dẫn cụ thể về tự chủ khi xác định các mức chi tiêu cho các hoạt động như: nghiên cứu khoa học, xây dựng chương trình đào tạo… gây khó khăn cho việc xây dựng kế hoạch đầu tư dài hạn về cơ sở vật chất và nhân sự của các CSGDĐH công lập khi thực hiện tự chủ. Thứ hai, nguồn học phí vẫn là nguồn thu chủ yếu của các CSGDĐH công lập, trong đó nguồn thu học phí của hệ chính quy vẫn phải tuân theo các định mức khung theo quy định của Nhà nước. Mặc dù lộ trình tăng học phí trong thời gian qua đã được thực hiện theo nghị định 49/2010/NĐ-CP (áp dụng cho giai đoạn 2010 – 2015) và Nghị định 86/2015/NĐ-CP (áp dụng cho năm học 2015 – 2016 đến năm học 2020 – 2021). Tuy nhiên trần học phí theo quy định vẫn quá thấp, chưa đủ bù đắp chi phí đào tạo thực tế, nhất là đối với các nhóm ngành, các bậc đào tạo đòi hỏi phải đầu tư lớn về thiết bị, phòng thí nghiệm và các điều kiện giảng dạy, nghiên cứu hiện đại. Mặt khác, việc khống chế trần học phí của Nhà nước, thu không đủ chi nên một số CSGDĐH công lập xé rào, ban hành nhiều khoảng thu ngoài quy định, dẫn đến thiếu công khai, minh bạch trong việc sử dụng nguồn thu. Việc duy trì mức học phí thấp, dẫn đến các CSGDĐH công lập không có đủ nguồn để cải thiện thu nhập cho giảng viên, điều này dẫn đến không thu hút và giữ chân được những giảng viên có trình độ tham gia giảng dạy. Thứ ba, một số quy định về chế độ tiền lương của Nhà nước gây khó khăn đối với các trường đại học trong việc thực hiện tự chủ: Theo quy định, khi Nhà nước có sự điều chỉnh về tiền lương như nâng mức lương tối thiểu, tăng lương cấp bậc, chức vụ thì các đơn vị phải tự đảm bảo từ nguồn thu sự nghiệp. Điều này khiến các trường phải giảm bớt nguồn tài chính cho hoạt động đào tạo để bù đắp khoản tiền lương tăng thêm, gây ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo, nhất là đối với các trường đang gặp khó khăn về tài chính. Bên cạnh đó, việc quy định các khoản đầu tư tài sản cố định phục vụ việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học không được sử dụng từ nguồn học phí do 479
- không được tính là chi phí thường xuyên, gây khó khăn và ảnh hưởng trực tiếp đến điều kiện trang thiết bị dạy và học. Thứ tư, nguồn thu chính của các trường chủ yếu thu từ học phí, và các trường bị khống chế chỉ tiêu tuyển sinh của Bộ giáo dục và Đào tạo, nên dù khả năng nguồn lực của trường có cao cũng không thể vượt qua mức quy định này. Một số trường thuộc nhóm ngành có nhu cầu thấp, ít được quan tâm của xã hội thì việc tuyển sinh sẽ gặp khó khăn, điều này ảnh hưởng đến nguồn thu của đơn vị, về lâu dài ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo. Thứ năm, nguồn thu từ các hoạt động nghiên cứu khoa học và dịch vụ chuyển giao công nghệ còn thấp. Chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học của các CSGDĐH công lập hiện nay chưa cao, làm cho nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ chuyển giao khoa học công nghệ và dịch vụ tư vấn giáo dục đào tạo theo hợp đồng cho các tổ chức, cá nhân trong nước chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ và thậm chí có xu hướng giảm trong cơ cấu nguồn thu của đơn vị (trung bình vào khoảng 3% trong tổng nguồn thu của các CSGDĐH công lập, trong khi ở nhiều trường đại học trên thế giới nguồn thu này chiếm tỷ trọng khá lớn) 4. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện cơ chế tự chủ tài chính tại các cơ sở giáo dục đại học công lập Việt Nam Về phía Nhà nước: Một là, khẩn trương ban hành các quy định cụ thể cho việc chuyển tiếp từ giai đoạn thí điểm sang giai đoạn thực hiện chính thức trên cơ sở tổng kết tình hình thực hiện thí điểm tự chủ của các trường đại học giai đoạn 2014 – 2017 theo tinh thần Nghị quyết 77/2014/NQ-CP. Sớm ban hành các văn bản quy định hướng dẫn cụ thể về cơ chế tự chủ đối với các CSGDĐH công lập theo tinh thần Nghị định 16/2015/NĐ-CP. Đẩy nhanh tiến trình thực thi theo đúng tiến độ Chính phủ và các ban, ngành đề ra. Hai là, từng bước tăng quyền TCTC cho các CSGDĐH công lập, tùy thuộc tình hình thực tế của các trường trên cơ sở cân đối thu – chi để Nhà nước xem xét và phê duyệt mức tự chủ sao cho phù hợp. Trao quyền tự chủ cho các CSGDĐH công lập trong việc xác định mức thu học phí, lệ phí nhằm tính đúng, tính đủ chi phí tiền lương và chi phí hoạt động thường xuyên trong giá dịch vụ trên cơ khung giá do Nhà nước quy định, chi phí khấu hao tài sản cố định, đảm bảo nguyên tắc lấy thu đủ bù đắp chi phí đào tạo. Đồng thời Nhà nước thực hiện các chính sách hỗ trợ đối với người nghèo, dân tộc thiểu số, người vùng sâu, vùng xa về mức học phí… tạo điều kiện cho mọi người đều được tiếp cận giáo dục đại học (nghĩa là Nhà nước chuyển việc hỗ trợ gián tiếp cho các đối tượng chính sách thông qua các cơ sở đào tạo sang hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng này để họ được lựa chọn cơ sở đào tạo phù hợp nhất). Đối với các chương trình đào tạo theo nhu cầu của xã hội, theo đơn đặt hàng, các cơ sở đào tạo được quyết định các mức học phí để đủ trang trải toàn bộ chi phí đào tạo, đồng thời có tích lũy để tái đầu tư, tăng cường và hiện đại hóa cơ sở vật chất phục vụ đào tạo. Cho phép các trường đại học công lập thu hút các nguồn vốn từ xã hội, để phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học dưới hình thức liên doanh, liên kết. Ba là, hoàn thiện chính sách lao động tiền lương, công chức, viên chức, học bổng, chính sách đầu tư công, xã hội hóa giáo dục đại học, thành lập các doanh nghiệp trực thuộc trường đại học. Xem xét việc nới lỏng các quy định về tài chính để các CSGDĐH công lập hoạt động theo cơ chế như một doanh nghiệp. Theo đó các trường 480
- có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh gắn với ngành nghề đào tạo và phù hợp với năng lực của mỗi trường, sử dụng có hiệu quả nguồn lực của trường để gia tăng nguồn thu, đảm bảo các chương trình đào tạo luôn được cải tiến phù hợp với tình hình thực tiễn. Bốn là, cần có sự quản lý Nhà nước đối với các trường sau khi giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm tài chính, nhất là công tác kiểm tra, giám sát, yêu cầu tính công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình của các trường đại học nhằm đảm bảo các trường đại học hoạt động theo đúng pháp luật. Về phía các trường công lập: Một là, các CSGDĐH công lập cần tăng cơ cấu nguồn thu từ các chương trình đào tạo khác nhau, dịch vụ đào tạo, tư vấn chính sách, chuyển giao công nghệ,…trên cơ sở lợi thế có sẵn về nguồn nhân lực, cơ sở vật chất của nhà trường. Huy động nguồn lực từ các tổ chức, cá nhân bên ngoài, các cựu sinh viên đã thành đạt tài trợ tạo quỹ hỗ trợ cho hoạt động đào tạo, nghiên cứu và hỗ trợ người học. Xây dựng chương trình đào tạo theo hướng tăng cường gắn kết với doanh nghiệp, nhằm nâng cao chất lượng theo hướng ứng dụng, tạo điều kiện cho các giảng viên, nhà khoa học tìm kiếm được nguồn tài trợ từ dự án nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, tăng thêm nguồn thu cho trường từ hoạt động này. Hai là, tiếp tục đổi mới toàn diện: Xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ mang tính chi tiết, đảm bảo tính công khai, dân chủ và công bằng. Xây dựng được hệ thống tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động của từng người lao động. Trong đó chú trọng giải pháp chi trả thu nhập theo hiệu quả công việc, khuyến khích, thu hút người có năng lực, trình độ. Đặc biệt phải xây dựng được chiến lược tài chính hợp lý cho đầu tư cơ sở vật chất trong ngắn và dài hạn. Ba là, bên cạnh TCTC của các CSGDĐH công lập cần thực hiện đồng bộ với tự chủ trên các lĩnh vực khác, như tự chủ trong tuyển sinh và tuyển dụng. Các trường giới hạn chỉ tiêu tuyển sinh đồng nghĩa với việc hạn chế nguồn thu. Do đó, đi kèm với TCTC thì các trường phải được quyết định số lượng tuyển sinh. Bộ giáo dục và Đào tạo giám sát chất lượng, đưa ra thước đo chuẩn chất lượng, từ đó có căn cứ để kiểm tra số lượng tuyển sinh. Trong tuyển sinh, các trường chủ động dự trù cơ sở vật chất, năng lực đội ngũ lao động để định ra chỉ tiêu tuyển sinh báo cáo Bộ Giáo dục và Đào tạo duyệt. Bốn là, xây dựng chế độ lương, thưởng và phúc lợi hợp lý để tạo động lực thu hút các nhà khoa học và giảng viên có năng lực về nghiên cứu và giảng dạy cho trường, tránh tình trạng nhiều giảng viên sau khi kết thúc các khóa đào tạo nước ngoài không trở về trường công tác mà chuyển đến những đơn vị có điều kiện chính sách đãi ngộ tốt hơn. Trả lương theo vị trí công việc gắn với số lượng và chất lượng công việc. Mức lương được hưởng phải tương xứng với giá trị sức lao động được thị trường thanh toán. Có cơ chế khen thưởng, phúc lợi phải tương xứng với hiệu quả và đủ sức tạo động lực để người lao động cống hiến hết mình cho sự phát triển của nhà trường. Tóm lại, TCTC có tầm quan trọng rất lớn đối với sự phát triển của các CSGDĐH công lập, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, phát huy tính chủ động sáng tạo từ các trường đại học. Vì vậy để công cuộc TCTC tại các CSGDĐH công lập đi đúng hướng, có hiệu quả cần phải có vai trò quản lý của Nhà nước để hướng dẫn về quy định, cách thức, lộ trình trong TCTC là xương sống cho các CSGDĐH công lập lấy làm cơ sở để triển khai. Vì vậy cơ quan quản lý Nhà nước cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn 481
- cụ thể về cơ chế TCTC, từng bước tăng quyền TCTC, hoàn thiện chính sách lao động, tiền lương cho các CSGDĐH công lập. Bên cạnh đó, các CSGDĐH công lập cũng cần phát huy tính chủ động, sáng tạo trong việc tìm kiếm đa dạng hóa để tăng nguồn thu, đổi mới toàn diện trong mọi lĩnh vực hoạt động. Mục đích chung là để từng bước đưa giáo dục đại học nói riêng và kinh tế tri thức nói chung về đúng với giá trị cao quý đích thực. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chính phủ (2006), Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. 2. Chính phủ (2014), Nghị quyết 77/2014/NQ-CP ngày 24/10/2014 quy định thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017. 3. Chính phủ (2015), Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập. 4. Chính phủ (2015), Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ năm 2015-2016 đến năm học 2020-2021. 5. Chính phủ (2016), Nghị định số 141/2016/NĐ-CP ngày 10/10/2016 Quy chế cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác. 6. Nguyễn Thị Nguyệt (2019), “ Cơ chế tự chủ tài chính của những đơn vị sự nghiệp công lập”, truy cập từ: http://www.tapchicongthuong.vn/bai-viet/co-che-tu-chu-tai- chinh-cua-nhung-don-vi-su-nghiep-cong-lap-60970.htm 7. Trịnh Xuân Thắng (2017), “Tự chủ đại học nhìn từ góc độ tự chủ tài chính”, truy cập tại: https://tuyensinhtoanquoc.com/tin-giao-duc/tu-chu-dai-hoc-nhin-tu-goc-do- tu-chu-tai-chinh-o-cac-truong-cong-lap/ 8. Mai Thị Sen (2017), “Vấn đề tự chủ tài chính của các trường đại học công lập Việt Nam”, truy cập tại: http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/tai-chinh-doanh- nghiep/van-de-tu-chu-tai-chinh-cua-cac-truong-dai-hoc-cong-lap-viet-nam- 118192.html 9. Đỗ Minh Thông (2019), “Thực trạng tự chủ tài chính đại học công lập và một số đề xuất, kiến nghị”, truy cập tại: http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/thuc- trang-tu-chu-tai-chinh-dai-hoc-cong-lap%C2%A0va-mot-so-de-xuat-kien-nghi- 313646.html 482
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Cơ sở pháp lý về tự chủ tài chính với giáo dục đại học và những vấn đề đặt ra
4 p | 65 | 8
-
Các yếu tố ảnh hưởng đến tự chủ tài chính ở các trường đại học công lập
5 p | 34 | 7
-
Tự chủ tài chính tại các cơ sở giáo dục đại học - kinh nghiệm ở các nước và bài học cho Việt Nam
6 p | 19 | 7
-
Nâng cao năng lực tự chủ tài chính của tổ chức phi chính phủ quốc tế tại Việt Nam
7 p | 43 | 6
-
Thực tiễn thực hiện tự chủ tài chính tại các cơ sở giáo dục đại học công lập hiện nay ở nước ta – một số giải pháp gợi ý trong thời gian tới
10 p | 30 | 6
-
Nâng cao hiệu quả cơ chế tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập ở Việt Nam
3 p | 22 | 5
-
Tự chủ tài chính trong các trường đại học của Việt Nam: Thực trạng và những khuyến nghị
6 p | 17 | 5
-
Nâng cao hiệu quả tự chủ tài chính ở các trường đại học công lập Việt Nam
3 p | 13 | 4
-
Tự chủ tài chính - chìa khóa vàng trong tự chủ đại học
6 p | 31 | 4
-
Đào tạo đại học từ cơ chế tự chủ tài chính tại các trường đại học công lập ở Việt Nam trong bối cảnh mới
3 p | 7 | 3
-
Tự chủ tài chính để thực hiện đổi mới giáo dục đại học
8 p | 5 | 3
-
Các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện cơ chế tự chủ tài chính của các trường phổ thông công lập thành phố Hà Nội
6 p | 8 | 2
-
Kinh nghiệm tự chủ tài chính trong các trường đại học ở Trung Quốc và khuyến nghị cho Việt Nam
6 p | 13 | 2
-
Nâng cao hiệu quả tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp giáo dục công huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu
3 p | 34 | 2
-
Tự chủ tài chính ở các trường đại học, cao đẳng công lập
3 p | 6 | 1
-
Tự chủ tài chính tại các cơ sở giáo dục đại học công lập trong xu thế toàn cầu hóa
8 p | 9 | 1
-
Tác động của tự chủ tài chính đến nguồn tài chính tại các trường Đại học Công lập Việt Nam
9 p | 1 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn