intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tự chủ tài chính - chìa khóa vàng trong tự chủ đại học

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

32
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Tự chủ tài chính - chìa khóa vàng trong tự chủ đại học trình bày nội dung, vai trò của tự chủ đại học và tự chủ tài chính trong đào tạo đại học; Thực trạng tự chủ tài chính tại các cơ sở đào tạo đại học công lập của Việt Nam thời gian qua; Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tự chủ tài chính trong đào tạo đại học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tự chủ tài chính - chìa khóa vàng trong tự chủ đại học

  1. TỰ CHỦ TÀI CHÍNH - CHÌA KHÓA VÀNG TRONG TỰ CHỦ ĐẠI HỌC Nguyễn Trọng Cơ Học viện Tài chính Tóm tắt: Thực hiện cơ chế tự chủ tại các cơ sở đào tạo đại học (CSĐTĐH) là một trong những điều kiện rất cần thiết để có thể triển khai và thực hiện phương thức quản trị đại học tiến tiến, qua đó, giúp cải tiến và nâng cao chất lượng đào tạo đại học (ĐTĐH). Trong các nội dung chính của tự chủ đại học (TCĐH), tự chủ tài chính (TCTC) được xem là tiền đề quan trọng, đóng vai trò nền tảng, chi phối tới khả năng hoàn thiện toàn bộ các nội dung tự chủ khác. Theo đó, mục tiêu của bài viết này là tập trung nghiên cứu TCTC, nhằm tìm tới chiếc “chìa khóa vàng” mở ra cánh cửa TCĐH. Từ khóa: tự chủ tài chính, tự chủ đại học, cơ sở đào tạo, đào tạo đại học 1. Nội dung, vai trò của tự chủ đại học và tự chủ tài chính trong đào tạo đại học TCĐH là một khái niệm rộng, bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau. Ngoài ra, tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể về thể chế, pháp luật, chính sách, trình độ phát triển ở mỗi quốc gia mà khái niệm này có nội hàm tương ứng với bối cảnh mà giáo dục đại học ở quốc gia đó đang diễn ra. Tuy nhiên, nhìn chung TCĐH có thể được hiểu là “mức độ độc lập cần thiết đối với các can thiệp bên ngoài mà nhà trường cần để tổ chức và quản trị, phân bổ và tích lũy tài chính, tuyển dụng nhân viên, xây dựng các điều kiện phục vụ học tập, tự do giảng dạy và nghiên cứu” (International Association of Universities, 1998). Nói một cách ngắn gọn, TCĐH là sự tự do cần thiết mà các CSĐTĐH phải có để hoạt động quản lý, phát triển giảng dạy và nghiên cứu theo một cơ chế hiệu quả nhất nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội trong bối cảnh vừa tạo ra nhiều động lực vừa đáp ứng cạnh tranh để có khả năng cống hiến tốt nhất cho các đối tượng liên quan với nỗ lực đổi mới và sáng tạo tri thức tiến bộ cho nhân loại và từ đó góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế tri thức. TCĐH chính là “hơi thở”, là “cuộc sống” của các CSĐTĐH vì nó đảm bảo được xu hướng tự do trong huy động các nguồn lực về nhân sự và tài chính tốt nhất nhằm phát triển học thuật hiệu quả. TCĐH cho phép cơ sở đào tạo (CSĐT) có thể thoát ra khỏi cơ chế xin-cho, những quy định cứng nhắc, nặng nề và quan liêu về quản lý, đào tạo, tuyển sinh, tài chính, nghiên cứu khoa học,… Trong bối cảnh Việt Nam, TCĐH có thể ví như Khoán 10 trong nông nghiệp, giúp cởi trói cho CSĐT, giúp đại học làm chủ vận mệnh của mình, bởi cũng giống như người nông dân, các CSĐT phải có quyền quyết định canh tác như thế nào trên chính “mảnh đất” của mình để đạt được hiệu quả cao nhất dưới sự hướng dẫn và chiến lược phát triển chung của đất nước trong khuôn khổ Luật Giáo dục đại học. Trong bốn (04) nội dung chính của TCĐH là (i) tự chủ về tổ chức (organisational autonomy), (ii) tự chủ về tài chính (financial autonomy), (iii) tự chủ về nhân sự (staffing autonomy), (iv) tự chủ về học thuật (academic autonomy) thì tự chủ về tổ chức và tự chủ về tài chính được xem là những tiền đề quan trọng có khả năng hoàn thiện toàn bộ các nội dung tự chủ khác như tự chủ nhân sự và tự chủ học thuật vì tự chủ về tổ chức tạo ra cơ chế tập trung nguồn lực con người với phương thức lãnh đạo (leadership) 405
  2. và văn hóa (culture) đổi mới hướng đến đại học chất lượng cao, còn tự chủ tài chính cho phép huy động nguồn tài chính và duy trì nguồn lực tài chính đảm bảo việc tuyển chọn lực lượng học thuật tốt nhất nhằm phát triển học thuật theo hướng sáng tạo đổi mới theo chiến lược của CSĐT. 2. Thực trạng tự chủ tài chính tại các cơ sở đào tạo đại học công lập của Việt Nam thời gian qua 2.1. Tình hình thực hiện cơ chế tự chủ tài chính của các cơ sở đào tạo đại học công lập Việt Nam Nhìn chung, mức độ TCTC của các CSĐT ĐHCL là khá thấp. Với tỷ lệ tự chủ chi thường xuyên không cao, các CSĐT không thể đảm bảo đủ nguồn lực để tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và đảm bảo thu nhập tăng thêm cho cán bộ, giảng viên hàng năm. Đặc biệt, nhu cầu vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản để gia tăng mở rộng ký túc xá, đầu tư thêm giảng đường cải thiện điều kiện học tập của sinh viên ở các CSĐT ĐHCL hiện nay vẫn đang nằm ngoài khả năng tài chính của các CSĐT, đây là một rào cản lớn cho công tác thực hiện tự chủ tài chính hoàn toàn, nhất là ở những CSĐT ĐHCL hiện tại có cơ sở vật chất còn nhiều hạn chế, chưa hoàn thiện, di chuyển thay đổi địa điểm nơi đào tạo nhiều lần, trong bối cảnh NSNN khó khăn chưa thể bố trí vốn đáp ứng được cho nhu cầu này. Thêm vào đó, các CSĐT cơ bản chưa tự chủ về thu, đặc biệt là thu học phí, mức thu học phí vẫn theo lộ trình quy định của Nhà nước, tuy gần đây mức thu học phí có linh hoạt cho các lớp chất lượng cao nhưng điều này vẫn chưa mang tính phổ biến; việc trả lương cho giảng viên vẫn chủ yếu theo lương cấp bậc, phụ thuộc vào thang bảng lương theo quy định của Nhà nước, điều này có thể hạn chế trong việc thu hút các giảng viên tài năng trong bối cảnh doanh nghiệp đã và đang trả lương rất cao và linh hoạt. Đó là chưa kể việc ràng buộc trong cơ chế tuyển dụng các chuyên gia giảng dạy và nghiên cứu hàng đầu trên thế giới vào trường làm việc. Sở hữu bất động sản và kinh doanh tài chính đối với các CSĐT là điều không thể vì bất động sản phải tuân theo luật công sản, còn kinh doanh tài chính (có thể có chuyên môn với các CSĐT ĐHCL khối kinh tế) nhưng chưa có cơ chế rõ ràng về quyền hạn và trách nhiệm để chính thức hóa các hoạt động kinh doanh này theo mô hình doanh nghiệp. Tóm lại, các CSĐT vẫn chỉ lấy hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học là chính, còn mô hình hoạt động theo kiểu doanh nghiệp là hầu như chưa có. 2.2. Những kết quả đạt được trong thực hiện tự chủ tài chính tại các cơ sở đào tạo đại học công lập Từ thực trạng thực hiện cơ chế tự chủ tài chính tại các CSĐT ĐHCL trong những năm qua cho thấy: Thứ nhất, các văn bản pháp lý quy định cơ chế tự chủ tài chính (như Nghị định 43/2006/NĐ-CP, Nghị định 16/2015/NĐ-CP), cơ chế thu và quản lý học phí (Nghị định 49/2010/NĐ-CP, Nghị định 86/2015/NĐ-CP, Nghị định 145/2018/NĐ-CP) ngày càng được bổ sung, hoàn thiện theo hướng khuyến khích nâng cao mức độ tự chủ, xây dựng lộ trình tính đủ chi phí, giá dịch vụ công tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sự nghiệp công nói chung, các CSĐT ĐHCL nói riêng trong quá trình hoạt động, góp phần nâng cao số lượng, chất lượng dịch vụ cũng như cạnh tranh minh bạch, bình đẳng được với đơn vị sự nghiệp ngoài công lập. 406
  3. Thứ hai, thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đã khuyến khích các CSĐT ĐHCL chủ động, năng động linh hoạt hơn không ỷ lại NSNN, tăng cường khai thác các nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu, quản lý chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm các nguồn lực phục vụ hiệu quả cho công tác đào tạo giảng dạy. Thứ ba, thực hiện cơ chế tự chủ tài chính góp phần tăng thu nhập cho cán bộ giảng viên ở các trường CSĐT ĐHCL, là động lực để giảng viên, người lao động yên tâm công tác, gắn bó và công hiến cho sự nghiệp giáo dục đào tạo ở các CSĐT ĐHCL. Phần lớn các CSĐT ĐHCL vẫn đảm bảo được thu nhập tăng thêm hàng năm cho cán bộ, giảng viên, tỷ lệ thu nhập tăng thêm của cán bộ so với lương ngạch bậc mỗi CSĐT một khác nhưng cơ bản đều có những cải thiện đáng kể trong những năm gần đây. Thứ tư, các CSĐT ĐHCL đã chủ động sử dụng nguồn thu của đơn vị để chi cho các hoạt động thường xuyên và chi đầu tư theo đúng cam kết, trích lập các quỹ chuyên dùng và góp phần tăng cường cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng quản lý, giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học. 2.3. Hạn chế tồn tại trong thực hiện tự chủ tài chính tại các cơ sở đào tạo đại học công lập TCTC trong giai đoạn vừa qua đã dần trở thành con đường dẫn dắt CSĐT ĐHCL ở Việt Nam tiến gần hơn tới tự chủ đầy đủ theo cả 4 nội dung, nhằm hội nhập với khu vực và thế giới. Tuy nhiên, quá trình thực hiện TCTC tại các CSĐT ĐHCL còn nhiều vướng mắc; trong đó cần kể đến là: Một là, sự chưa đồng bộ giữa các văn bản thể chế trong đào tạo đại học, TCTC, cũng như việc thực hiện các quy định này trên thực tiễn. Ví dụ, quy định về phụ cấp đặc thù cho ngành giáo dục, hay việc thực hiện quy định về Hội đồng trường theo Luật Giáo dục đại học trên thực tiễn còn khá mờ nhạt, mang tính hình thức. Hai là, còn nhiều hạn chế ràng buộc về nguồn thu của các CSĐT. Cụ thể: Một trong những vấn đề ảnh hưởng lớn tới nguồn thu của các CSĐT đó là số lượng sinh viên, nhưng hiện tại các CSĐT vẫn không được quyết định tự chủ về chỉ tiêu tuyển sinh mà phải tuân thủ các điều kiện về việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh đối với các cơ sở giáo dục đại học theo quy định của Bộ GD&ĐT về điều kiện và giao chỉ tiêu tuyển sinh. Việc huy động được các nguồn thu khác ngoài NSNN và học phí, nhất là thu từ các hoạt động dịch vụ chuyển giao khoa học công nghệ và dịch vụ tư vấn giáo dục đào tạo theo hợp đồng cho các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước còn hạn chế. Ba là, bất cập khi quy định mức trần học phí thấp. Trong một thời gian dài, do bị khống chế về trần học phí, mức trần học phí thường thấp, thu không đủ chi, cho nên một số CSĐT ĐHCL đã xé rào, ban hành nhiều khoản thu ngoài quy định, dẫn đến thiếu công khai, minh bạch trong việc sử dụng nguồn thu. Mặt dù, trong những năm gần đây Nhà nước có điều chỉnh tăng cho phù hợp hơn với thị trường tuy nhiên quy định vẫn còn ở mức thấp, chưa đủ bù đắp. Cụ thể, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 86/2015/NĐ – CP, Nghị định 145/2018/NĐ-CP quy định về cơ chế thu, quản lý học phí, lệ phí nhưng mức tăng vẫn còn thấp. Việc duy trì mức học phí thấp, dẫn đến các CSĐT ĐHCL không có đủ nguồn để cải thiện thu nhập cho giảng viên từ nguồn học phí chính quy, không thu hút và giữ được những giảng viên có trình độ cao tham gia giảng dạy. Nguồn từ NSNN cấp cho 407
  4. giáo dục đại học lại có xu hướng giảm dần, cơ chế phân bổ NSNN vẫn mang tính bình quân giữa các CSĐT ĐHCL, chưa gắn với các tiêu chí phản ánh chất lượng và kết quả hoàn thành nhiệm vụ, kết qua đầu ra của các CSĐT. Điều này dẫn đến tình trạng thiếu động lực cạnh tranh giữa các CSĐT. Để có nguồn bổ sung thu nhập, các CSĐT phải khai thác từ các hoạt động đào tạo không chính quy, dẫn đến thời gian đứng lớp của giảng viên đại học phần lớn bị quá tải. Bốn là, hạn chế trong quy định về định mức chi. Mặc dù là TCTC, nhưng việc chi tiêu của các CSĐT ĐHCL vẫn phải tuân thủ theo các định mức, tiêu chuẩn ngành theo quy định hiện hành của Nhà nước, trong đó có nhiều quy định đã lạc hậu, không phù hợp với thực tiễn, nhiều định mức kinh tế kỹ thuật còn thiếu nhưng các CSĐT không được tự xây dựng. Việc thực hiện các hướng dẫn về xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật theo quy định tại Thông tư 14/2019/TT-BGD&ĐT còn nhiều vướng mắc. Theo quy định hiện hành, khi Nhà nước điều chỉnh các quy định về tiền lương, nâng mức lương tối thiểu, khoản tiền lương cấp bậc, chức vụ tăng thêm theo chế độ nhà nước quy định sẽ do các CSĐT tự chủ tự bảo đảm từ các nguồn thu sự nghiệp. Như vậy, mỗi khi có cải cách tiền lương, các CSĐT sẽ phải cắt giảm nguồn tài chính dành cho hoạt động đào tạo trực tiếp để tăng lương, ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng đào tạo. Năm là, thiếu đồng bộ trong quản lý tài chính, kế toán với quản lý đào tạo đại học. Hiện nay, học phí không còn chịu sự điều chỉnh của Luật phí và lệ phí mà chịu sự điều chỉnh của Luật giá. Cùng với đó là quy định về xác định giá dịch vụ theo quy định của Nghị định 16/2015/NĐ-CP, quy định lộ trình đến năm 2020 phải xác định đủ chi phí đào tạo. Bộ GD&ĐT cũng đã ban hành Thông tư 14/2019 hướng dẫn xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật làm cơ sở xác định chi phí, giá dịch vụ. Tuy nhiên, những hướng dẫn này vẫn còn rất nhiều vướng mắc trong thực hiện tại các CSĐT Sáu là, việc đánh giá, nâng cao chất lượng đào tạo gắn với chi phí đào tạo chưa được quan tâm nghiên cứu thấu đáo. Chi phí đào tạo và chất lượng đào tạo luôn có mối quan hệ ràng buộc khăng khít. Trong điều kiện kinh phí hạn hẹp, các CSĐT hiện đang buộc phải cắt giảm, tiết kiệm chi phí. Đây có thể là giải pháp tình thế, nhưng về lâu dài, việc này không những ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng đào tạo mà còn khiến các CSĐT có thể đánh mất thương hiệu, mất chỗ đứng trên thị trường đào tạo cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Bảy là, các nội dung liên quan khác tới việc đánh giá, xếp loại, phân tầng các CSĐT, xếp hạng chương trình đào tạo, đánh giá trong, đánh giá ngoài CSĐT còn nhiều khó khăn trong thực hiện. 3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tự chủ tài chính trong đào tạo đại học 3.1. Giải pháp chung nhằm nâng cao hiệu quả TCTC trong đào tạo ĐHCL là điều chỉnh lại cơ cấu ngân sách đầu tư cho ĐTĐH, trong đó cần tập trung: - Điều chỉnh cơ cấu chi NSNN theo hướng tăng chi đầu tư, giảm chi thường xuyên; đồng thời điều chỉnh cơ cấu chi NSNN giữa các ngành học, ưu tiên các ngành học có ít khả năng xã hội hóa, nhưng cần thiết cho sự phát triển của đất nước như khoa học cơ bản, kỹ thuật. - Thay đổi đối tượng tiếp nhận ngân sách chi cho ĐTĐH từ CSĐT sang người sử dụng/thụ hưởng dịch vụ ĐTĐH theo các tiêu chí xác định mức độ ưu tiên lần lượt là: 408
  5. i. Dựa trên năng lực học tập: để đảm bảo phát triển bồi dưỡng nhân tài, nguyên khí của quốc gia ii. Dựa trên khả năng chi trả của người thụ hưởng dịch vụ như sau: NSNN thực hiện bao cấp người nghèo, hỗ trợ 1 phần cho người cận nghèo, thu phí từ thấp đến cao của người có thu nhập trung bình đến giàu. Điều này nhằm đảm bảo công bằng, phát triển bền vững kinh tế xã hội và chính trị quốc gia. Tuy nhiên, để có thể thực hiện tốt được giải pháp này, cần có những hướng dẫn đặc thù chi tiết trong lập dự toán, chấp hành và quyết toán đối với CSĐT ĐHCL. - Chú trọng bố trí nguồn lực đầu tư đào tạo đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý cả số lượng và chất lượng, cả chuyên môn và đạo đức, vì đây là đội ngũ nòng cốt tác động trực tiếp vào chất lượng đào tạo. Đào tạo và xây dựng được một đội ngũ giảng viên giỏi là rất công phu và phải có cơ chế, chính sách sử dụng, đãi ngộ cho đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục có tài năng để họ cống hiến suốt đời cho sự nghiệp đào tạo - Bãi bỏ quy định trần học phí, thay vào đó là quy định sàn học phí, dựa trên kết quả xác định chi phí đào tạo, gắn với một mức chất lượng đào tạo cam kết cụ thể. Chất lượng đào tạo và chi phí đào tạo có mối quan hệ ràng buộc nhưng không biện chứng. Không phải cứ chi phí cao là có chất lượng cao, nhưng chắc chắn không thể có chất lượng đào tạo cao với chi phí đào tạo thấp. Chi phí đào tạo luôn gắn với một mức chất lượng cụ thể. Đứng trước bối cảnh nâng cao mức độ tự chủ trên tất cả các mặt hoạt động, gắn với trách nhiệm giải trình của các CSĐT, việc để các CSĐT ĐHCL tự xác định chi phí đào tạo, xác định và công bố giá dịch vụ đào tạo chính là minh chứng và biểu hiện rõ ràng nhất. 3.2. Giải pháp cụ thể nhằm tăng cường tính chủ động, đổi mới sáng tạo tại các CSĐT ĐHCL. Theo đó, các CSĐT ĐHCL cần: - Nâng cao chất lượng dịch vụ: Điều kiện tiên quyết để các CSĐT ĐHCL có thể đứng vững, tổn tại và nâng cao hiệu quả hoạt động trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt hiện nay là tăng cường chất lượng dịch vụ nói chung, gồm cả chất lượng đào tạo và phục vụ đào tạo. - Chủ động sáng tạo trong việc xác định, phân loại đối tượng sử dụng dịch vụ nhằm xác định thứ tự ưu tiên. - Kỹ thuật kế toán để xác định rõ chi phí, giá thành dịch vụ đào tạo cần chú ý: + Hạch toán riêng chi phí cho các loại đối tượng thụ hưởng + Xác định rõ các trung tâm chi phí để tập hợp chi phí, xác định giá thành cho từng loại đối tượng thụ hưởng - Xác định giá dịch vụ đào tạo, gắn với phân loại đối tượng thụ hưởng. Theo đó, ngoài hỗ trợ trực tiếp để đóng học phí của NSNN, các CSĐT cần có quỹ khuyến học, học bổng riêng đối với các đối tượng nghèo/ cận nghèo hay các đối tượng chuyên biệt như sinh viên/ học viên tài năng, có kết quả học tập xuất sắc; vì nhân tài không phân biệt hoàn cảnh kinh tế. Điều này cũng đã có chủ trương quy định của Nghị định 16/2015 cho phép các đơn vị SNCL được lập quỹ 409
  6. - Xác định được định mức chi phí cho người quản lý, cho các giảng viên ở CSĐT để đảm bảo nâng cao chất lượng ĐTĐH theo cơ chế thị trường: Giữa người quản lý giỏi, giảng viên giỏi với người quản lý/ giảng viên tốt/ trung bình, cần có định mức chi phân biệt, không theo chủ nghĩa bình quân, ngạch bậc lương. Muốn vậy, cần có hệ thống thang đo định mức tiêu chuẩn và không nhất thiết phải cơ hữu cán bộ, giảng viên trong CSĐT, vì thế có thể tạo lập cơ chế thuê ngoài, đấu thầu để có được đội ngũ quản lý, giảng viên chất lượng cao phù hợp với cơ chế thị trường định hướng XHCN. Đối tượng của cơ chế đấu thầu, đặt hàng không giới hạn, có thể là công dân Việt Nam hoặc quốc tế. Kết luận: Với tư cách cá nhân và đại diện cho Học viện Tài chính, là trung tâm nghiên cứu, kết hợp với thực tiễn đào tạo 55 năm về tài chính kế toán, tôi cho rằng TCTC chính là con đường dẫn dắt TCĐH, có ý nghĩa quyết định tới TCĐH. Những ý kiến trình bày trên đây là xuất phát từ tình hình thực tiễn tại Học viện Tài chính. Kính mong hội thảo có ý kiến tranh luận, phản biện để thúc đẩy, nâng cao hiệu quả TCTC, TCĐH tại các CSĐT ĐHCL. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hội thảo khoa học quốc tế “Đổi mới mô hình quản trị của các trường đại học khối kinh tế tại Việt Nam”, Hà Nội, 2012. 2. Học viện Tài chính (2018), Hội thảo khoa học quốc gia “Cơ sở khoa học và thực tiễn hiệu lực và hiệu quả chi NSNN cho giáo dục”, 2018. 3. Đề tài NCKH cấp Nhà nước “Phương hướng, giải pháp tăng cường hiệu lực chi NSNN cho giáo dục ở Việt Nam”, 2019 410
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2