intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với tinh hoa Nho giáo

Chia sẻ: Giap Long | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:2

187
lượt xem
42
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trước hết cần phân biệt đạo đức Hồ Chí Minh với tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Khi nói đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta chỉ nói đến các hành vi ứng xử mẫu mực, hết sức giản dị, trong sáng trong hoạt động thực tiễn của Người. Còn khi nói tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta phải đề cập cả một hệ thống quan điểm, bao gồm nhiều nội dung Người lựa chọn từ các hệ thống tư tưởng đạo đức từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây để vận dụng sáng tạo phù hợp với dân...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với tinh hoa Nho giáo

  1. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với tinh hoa Nho giáo Trước hết cần phân biệt đạo đức Hồ Chí Minh với t ư t ưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Khi nói đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta chỉ nói đến các hành vi ứng xử m ẫu m ực, h ết sức giản d ị, trong sáng trong hoạt động thực tiễn của Người. Còn khi nói t ư t ưởng đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta ph ải đ ề cập cả một hệ thống quan điểm, bao gồm nhiều nội dung Người l ựa ch ọn t ừ các h ệ thống t ư t ưởng đạo đức từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây để vận dụng sáng tạo phù hợp với dân t ộc mình, th ời đ ại mình. Bài viết này chỉ trình bày một số suy nghĩ về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với tinh hoa Nho giáo. 1. Khổng Tử là một nhà đạo đức lớn. Ông truyền bá thuyết nhân chính (m ột nền chính trị l ấy đ ạo nhân làm gốc). Ông là một trong những nhà t ư t ưởng đầu tiên của nhân loại biết t ập trung s ự chú ý của con người vào những vấn đề thuần túy của con người, là m ột trong nh ững b ậc th ầy l ớn nh ất đã giúp loài người tiến lên thành “người”. Ông là nhà nhân văn ch ủ nghĩa đ ầu tiên theo đúng nghĩa của nó! Hồ Chí Minh đặt Khổng Tử ngang hàng với Giê-su, Các Mác, Tôn Dật Tiên. Ng ười còn g ọi Kh ổng Tử là:“Đức Khổng Tử vĩ đại”. Trong các bài nói , bài viết của mình, Hồ Chí Minh trích d ẫn nguyên văn hoặc mượn ý Khổng Tử và các môn đồ gấp nhiều lần trích dẫn ý ki ến của Mác, Enghen, Lênin. Ch ỉ riêng những câu nói về tu dưỡng đạo đức, đã có thể thấy Người mượn ý rất nhi ều, đôi khi trích d ẫn nguyên văn, chẳng hạn: “ Tăng Tử nói: “Kẻ sĩ cần phải có chí khí rộng lớn và cương nghị. Là vì gánh thì n ặng mà đ ường thì xa...”(Luận ngữ - Thái Bá). Hồ Chí Minh viết: “Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành nhi ệm v ụ m ột cách v ẻ vang.”(1) .Tu dưỡng đạo đức là một quá trình công phu. Khổng Tử nói: “ Bậc quân tử như người thợ làm đồ ngà, cần phải cắt, phải cứa; như người thợ chuốt ngọc, cần ph ải dùi, ph ải mài ” (Luận ngữ - Học nhi).Hồ Chí Minh viết: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống... Cũng nh ư ng ọc càng mài, càng sáng, vàng càng luyện, càng trong ” (2) Khổng Tử và Hồ Chí Minh đều có nếp sống mẫu mực. Khổng Tử nói: “ Nếu tự mình giữ theo chính đạo, thì chẳng đợi ra lệnh dân cũng ăn ở theo chính pháp. Còn n ếu nh ư t ự mình ch ẳng gi ữ theo chính đạo thì dẫu ra lệnh buộc dân theo, dân cũng không theo ” (Luận ngữ - Tử Lộ). Hồ Chí Minh viết: “Tự mình phải chính trước mới giúp người khác chính. Mình không chính mà mu ốn ng ười khác chính là vô lý” (3). “Mình trước hết phải siêng năng trong sạch mới bảo người ta trong s ạch siêng năng được” (4)v.v... Mạnh Tử nêu cao khí phách của bậc trượng phu: “ Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (Đằng Văn Công- hạ). Trong bài phát biểu nhân lễ ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam tại Việt Bắc (3 - 1951) Hồ Chí Minh đã nhắc lại nguyên vẹn lời đó c ủa Mạnh T ử và Ng ười d ịch như sau: “Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không th ể chuyển lay, uy l ực không th ể khu ất phục”. Như vậy, Hồ Chí Minh đã nhất trí với Khổng – Mạnh nhấn mạnh vai trò đ ạo đ ức, nh ấn mạnh s ự tu dưỡng đạo đức của người quân tử xưa và của người cán bộ cách m ạng ngày nay. Nhưng cần lưu ý: đạo đức của người quân tử xưa là đạo đức cũ; đạo đức của ng ười cán b ộ cách mạng ngày nay là đạo đức mới. Theo Hồ Chí Minh: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững đ ược d ưới đ ất, đ ầu ngẩng lên trời...”(5) 2.Dùng lại khái niệm Khổng - Mạnh nhưng Người đã cấp cho nó một ý nghĩa hoàn toàn m ới mẻ. Nội dung cơ bản của tư tưởng đạo đức Nho giáo là luân thường.Luân có 5 đi ều (ngũ luân), trong đó có 3 điều lớn là tam cương tức là 3 mối quan hệ: vua - tôi, cha- con, ch ồng - v ợ. Nếu rút g ọn m ột l ần n ữa thì chỉ còn hai: vua – tôi, cha – con, trong đó nghĩa của b ầy tôi đối v ới vua bi ểu hi ện b ằng ch ữ Trung; đạo của con đối với cha biểu hiện bằng chữ Hiếu. Trung Hiếu được mọi kẻ sĩ Việt Nam, Trung Hoa xưa tuyệt đối tuân thủ: Bui một tấc lòng trung mấy hiếu/ Mài chẳng khuyết, nhuộm ch ẳng đen (Nguyễn Trãi). Khái niệm Trung Hiếu được Hồ Chí Minh thay vào nội dung mới khác về chất:Trung với nước, hoặc trung v ới Đảng; Hiếu với dân. Người giải thích chữ Hiếu: “Hiếu là hiếu với nhân dân, ta thương cha mẹ ta mà còn phải thương cha mẹ người, phải làm cho mọi người đều biết thương cha mẹ”(6) Ngũ thường (năm nét đức hạnh hằng xuyên) của Nho giáo là: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Th ật ra, m ới đầu Khổng Tử chỉ nêu ra ba đức hạnh: Trí, Nhân, Dũng. (Trí, Nhân, Dũng, tam gi ả, thiên h ạ chi đ ạt đức dã). Từ ba đức , Mạnh Tử chuyển thành: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. Đổng Trọng Th ư thời Hán b ổ sung thêm chữ Tín nữa gọi là ngũ thường. Hồ Chí Minh s ử d ụng nguyên v ẹn ba ch ữ c ủa Kh ổng T ử, một chữ của Mạnh Tử, và thêm vào chữ Liêm mà xưa không ai đặt vào ngũ thường c ả, thành ra: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm. Nhưng điều quan trọng hơn rất nhiều là Người đã cấp cho các khái ni ệm này nh ững nội dung khác hẳn. Chẳng hạn chữ Nhân, hạt nhân cơ bản của Nho giáo. Nhân là gì? Gần 30 thế k ỷ đã trôi qua
  2. nhưng người ta vẫn còn tranh luận về khái niệm này. Tuy vậy, cũng có th ể nói g ắn gọn mà không s ợ xa đề: Nhân là lòng yêu thương con người và là mối quan hệ t ốt đ ẹp gi ữa ng ười và ng ười trên c ơ s ở lòng yêu thương, tôn trọng con người.Còn theo Hồ Chí Minh: “Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí, đồng bào. Vì thế mà kiên quyết ch ống lại nh ững ng ười, nh ững vi ệc có h ại đ ến Đảng, đến nhân dân. Vì thế mà sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi ng ười, h ưởng h ạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền” (7). Ở một chỗ khác, Người lại giải thích: “Nhân nghĩa là nhân dân. Trong bầu trời không gì quý b ằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết c ủa nhân dân. ” ( 8) Ở đây Hồ Chí Minh đã dùng khái niệm Dân để định nghĩa khái niệm Nhân. Mà Nhân và Dân là hai khái ni ệm quen thuộc của Nho giáo. Khổng Tử chưa coi trọng Dân. Nhưng Mạnh Tử thì nói: “ Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (Tận tâm- hạ). Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc đã dịch câu này trong m ột bài báo vi ết cho Tạp chí Cộng sản (Tiếng Pháp): Lợi ích của nhân dân là trước hêt, thứ đến là lợi ích c ủa qu ốc gia, còn lợi ích của vua là không đáng kể. Như vậy, Nhân , Dân, hay Nhân dân của Hồ Chí Minh đều là các khái niệm mác – xít. 3.Bình sinh Khổng Tử là người “Học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện”(Học không biết chán, dạy không biết mỏi). Ông là nhà giáo dục lớn, nhà văn hóa l ớn có công to l ớn xây d ựng m ột n ền văn hóa dựa trên học thức, và một bộ máy nhà nước t ừ trên xuống dưới bao g ồm nh ững nhà trí th ức. Bình sinh Hồ Chí Minh cũng là người hiếu học và hết sức coi trọng giáo d ục nói riêng và văn hóa nói chung. Ngay sau ngày tuyên bố độc lập, Người đã nêu khẩu hi ệu chống giặc d ốt ngang hàng với khẩu hiệu chống giặc đói, chống giặc ngoại xâm trong bối cảnh gi ặc đói vừa giết h ại h ơn 2 tri ệu người và giặc ngoại xâm đang đặt dân ta trước họa sống còn của Tổ quốc. Khi học tập, phấn đấu để đạt đạo người ta có niềm vui cực lớn ngay trong lòng mình, nên Kh ổng T ử nói “Sớm nghe đạo, chiều chết cũng cam”. Hồ Chí Minh thì trả lời các nhà báo: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta đ ược hoàn toàn t ự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được h ọc hành” (9) Cả Khổng Tử và Hồ Chí Minh đều dạy: học đi đôi với hành, l ời nói đi đôi v ới việc làm. R ất nhi ều vị có chức, có quyền ngày nay thường nói một đằng, làm một nẻo, vì vậy ng ười dân kh ủng ho ảng ni ềm tin! Hồ Chí Minh thì nói và làm thống nhất. Xin dẫn lời bà Xpenxơn (Josephine Spenson) trình bày trong cuộc hội thảo về “Hồ Chí Minh, danh nhân văn hóa thế gi ới”: “Tôi là nhà sử học đã lật ra những trang ghi của các nhà chính khách mỗi khi đến tham quan chiêm ngưỡng tượng Thần Tự Do. Nguyễn Tất Thành cũng đến Nữu Ước, đến tượng Thần Tự Do, cũng ghi vào sổ lưu niệm. Nguyễn Tất Thành cũng là khách nh ư các nhà chính khách. Trong quy ển sách đó, chính khách nào cũng chiêm ngưỡng ngôi sao tỏa sáng trên vòng nguyệt qu ế t ượng Th ần T ự Do...ca ngợi hêt lời. Duy có Nguyễn Tất Thành là người đến tượng Thần Tự Do & nhìn xu ống chân Th ần T ự Do. Người ghi: “Ánh sáng trên đầu Thần Tự Do tỏa sáng trời xanh, còn d ưới chân t ượng Th ần T ự Do này thì người da đen đang bị chà đạp, số phận người phụ nữ đang bị chà đ ạp. Bao gi ờ ng ười da đen được bình đẳng với người da trắng, bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân t ộc, bao gi ờ ng ười ph ụ n ữ được bình đẳng với người nam giới?”. Duy có Nguyễn Tất Thành nhìn xu ống chân t ượng Th ần T ự Do, nhìn số phận con người, không chiêm ngưỡng hào quang trên t ượng Th ần T ự Do. Chính vì th ế tôi tìm tới con người này, xem nói và làm có tương ph ản không? H ồ Chí Minh qu ả th ật nói và làm đi đôi. Tôi đã đến nhà của Người, lục tìm của riêng của Người. Người không có c ủa riêng. R ất là l ạ. Chính khách nào lên cầm quyền đều ra sắc lệnh quyền bình đ ẳng cho ph ụ n ữ, nh ưng khi s ắc l ệnh ký xong thì ban đêm họ đi nhà thổ, họ phát triển kỹ nghệ đàn bà. Th ậm chí m ột v ị T ổng th ống có 3 – 4 tình nhân. Thành ra người ta nói một đằng làm một n ẻo. Duy có Nguyễn T ất Thành nói đi ều đó khi mình còn lầm than. Khi mình làm Chủ tịch nước & khi Người qua đời trên gi ường Ng ười v ẫn v ắng h ơi ấm đàn bà” (10) 4. Hồ Chí Minh sinh ra trong gia đình Nho học xứ Nghệ. Trong con ng ười Hồ Chí Minh có m ột v ị chân Nho, thậm chí có người nói: một vị chân Nho xứ Nghệ (Nguyễn Đình Chú).Ng ười đã s ử d ụng sáng tạo một số nhân tố hợp lý trong tư tưởng đạo đức Nho giáo, cũng như Người đã s ử d ụng rất tài tình tinh hoa của Phật giáo và của tư tưởng Lão Trang; lòng nhân ái của Giê- su; tinh hoa c ủa t ư t ưởng đạo đức phương Tây và tư tưởng Mác – Lênin kết hợp nhuần nhuyễn với truyền th ống đ ạo đ ức t ốt đẹp của văn hóa dân tộc để xây dựng nên tư tưởng đạo đức cách m ạng Hồ Chí Minh.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1