intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vài nét về giáo dục và khoa bảng ở Thái Nguyên thời phong kiến

Chia sẻ: ViNaruto2711 ViNaruto2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

60
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngày nay, Thái Nguyên được biết đến là một trung tâm lớn về đào tạo nguồn nhân lực cho khu vực trung du và miền núi phía Bắc. Địa bàn Thái Nguyên có các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp thuộc nhiều ngành khác nhau. Thành tựu giáo dục của Thái Nguyên có nền tảng từ trong lịch sử.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vài nét về giáo dục và khoa bảng ở Thái Nguyên thời phong kiến

Đỗ Hằng Nga<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 188(12/3): 47 - 52<br /> <br /> VÀI NÉT VỀ GIÁO DỤC VÀ KHOA BẢNG Ở THÁI NGUYÊN<br /> THỜI PHONG KIẾN<br /> Đỗ Hằng Nga*<br /> Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Ngày nay, Thái Nguyên được biết đến là một trung tâm lớn về đào tạo nguồn nhân lực cho khu<br /> vực trung du và miền núi phía Bắc. Địa bàn Thái Nguyên có các trường đại học, cao đẳng và trung<br /> học chuyên nghiệp thuộc nhiều ngành khác nhau. Thành tựu giáo dục của Thái Nguyên có nền<br /> tảng từ trong lịch sử. Tính từ khi thành lập Văn Miếu - Quốc Tử Giám, nền giáo dục và khoa bảng<br /> thời phong kiến ở Việt Nam kéo dài gần 10 thế kỷ. Suốt tiến trình lịch sử đó, giáo dục Thái<br /> Nguyên đã có những đóng góp đáng kể cho nền giáo dục dân tộc. Nơi đây là vùng đất còn nhiều<br /> khó khăn nhưng người dân có truyền thống hiếu học, nhiều người đỗ cao trong các khoa thi<br /> Hương, thi Hội, giữ chức vụ quan trọng trong triều đình, cống hiến cho đất nước.<br /> Từ khóa: Giáo dục, kì thi, Nho học, Thái Nguyên, phong kiến<br /> <br /> MỞ ĐẦU1<br /> Trong lịch sử, Thái Nguyên là vùng đất<br /> không xa Kinh đô Thăng Long, tiếp giáp với<br /> đất học Kinh Bắc. Điều kiện kinh tế - xã hội<br /> của Thái Nguyên còn nhiều khó khăn nhưng<br /> người dân sớm có truyền thống hiếu học, học<br /> hành đỗ đạt, cống hiến cho đất nước. Thời<br /> phong kiến, giáo dục Thái Nguyên đã có<br /> những đóng góp đáng kể cho nền giáo dục<br /> dân tộc.<br /> Đối với địa phương được coi là phên dậu phía<br /> Bắc kinh thành Thăng Long xưa, các triều đại<br /> quân chủ đã có những chính sách khuyến<br /> khích tích cực để phát triển văn hóa - xã hội<br /> nói chung, giáo dục nói riêng. Thời nhà<br /> Nguyễn, năm Tự Đức thứ 34 (1881), khi định<br /> lệ thi cử trong nước, chia sĩ tử các địa phương<br /> ra làm nhiều “thành” (10 người là một thành),<br /> mỗi thành chọn lấy 4 người thì Nhà nước vẫn<br /> cho phép Thái Nguyên 10 người được lấy 5<br /> hoặc 6 vì “số sĩ tử ít ỏi” [5, tr.49-50].<br /> Cùng với Nhà nước, các làng xã - đặc biệt là<br /> các làng xã vùng trung du ở Thái Nguyên<br /> cũng có truyền thống trọng kẻ sĩ - trọng người<br /> có học. Về danh, các nho sĩ được trọng vọng;<br /> về lợi, các nho sĩ được hưởng những ưu đãi.<br /> Hội Tư văn (hội của các nho sĩ trong làng xã)<br /> được chia các khoản tiền cheo cưới, tiền ký<br /> *<br /> <br /> Tel: 0967 968273, Email: ngadh@tnu.edu.vn<br /> <br /> táng, tiền nhập tịch; được chia phần biếu<br /> trong các dịp khao lão, khao vọng, tế lễ của<br /> làng. Nhiều làng xã quy định miễn các tạp<br /> dịch cho học trò như xã Sơn Cốt (tổng Hoàng<br /> Đàm, huyện Phổ Yên) quy định học trò đang<br /> đi học và những người thi đỗ, mở lớp dạy học<br /> thì được “dân tha phu” [3]. Xã Lợi Xá (tổng<br /> Hoàng Đàm, huyện Phổ Yên) quy định ai thi<br /> đỗ mà “khao vọng đồng dân, về sau tứ quý tại<br /> đình, nếu có sát sinh đồng dân kính biếu sinh<br /> thủ một cái để trọng đạo văn” [2].<br /> Chính sách của nhà nước quân chủ và sự đối<br /> đãi của các làng xã với nho sĩ có giá trị<br /> khuyến khích tinh thần học tập của con em<br /> Thái Nguyên thời phong kiến.<br /> NỘI DUNG<br /> Giáo dục Nho học ở Thái Nguyên thời<br /> phong kiến<br /> Khảo sát hệ thống di tích lịch sử văn hoá và<br /> các ghi chép của thư tịch cho thấy sự tồn tại<br /> của Văn Miếu, trường học, văn chỉ, đền thờ<br /> danh nhân khoa bảng, văn bia - những công<br /> trình và dấu tích phản ánh nền giáo dục thời<br /> phong kiến ở Thái Nguyên.<br /> Trong nền giáo dục thời phong kiến, trường<br /> công là trường của Nhà nước. Tiêu biểu cho<br /> trường công thời phong kiến ở Kinh đô là<br /> Quốc tử giám - cơ sở đầu tiên của nền giáo<br /> dục đại học nước ta. Từ thời Trần, Nhà nước<br /> 47<br /> <br /> Đỗ Hằng Nga<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> bắt đầu ban chiếu về việc mở mang trường<br /> học; ở cấp tỉnh có trường đốc, cấp huyện có<br /> trường huấn. Việc học hành ở cấp huyện do<br /> các quan giáo thụ và giám thư khố phụ trách,<br /> còn ở cấp tỉnh do quan đốc học trông nom.<br /> Trước thế kỷ XIX, không tài liệu nào còn lưu<br /> giữ có ghi chép về trường công trên địa bàn<br /> Thái Nguyên.<br /> Thế kỷ XIX, dưới triều Nguyễn, Thái Nguyên<br /> gồm hai phủ: Phú Bình và Thông Hóa. Cả<br /> phủ Phú Bình có chung một trường học.<br /> Trường phủ đặt ở địa phận xã Phù Liễn,<br /> huyện Động Hỉ, ngoài cửa tây tỉnh thành, có<br /> đốc học trông coi. Từ “năm Minh Mệnh 16,<br /> bỏ chức đốc học, bổ chức giáo thụ” [6,<br /> tr.165]. Cũng trong thời Minh Mệnh, toàn<br /> tỉnh Thái Nguyên được lập một cơ quan Học<br /> chính. Nhà nước đặt quan chức coi việc học ở<br /> Thái Nguyên cũng như những nơi khác, “hai<br /> huyện Bình Xuyên, Phổ Yên về phủ Phú<br /> Bình, tỉnh Thái Nguyên, mỗi huyện đều đặt<br /> một huấn đạo” [2, tr.142] coi chung về việc<br /> học. Việc trường học được mở ít ỏi là đặc<br /> điểm chung của khu vực miền núi dưới thời<br /> phong kiến. Khu vực biên giới phía Bắc thời<br /> nhà Nguyễn chỉ có một vài trường của Nhà<br /> nước mở như trường học phủ Sơn Định<br /> (Quảng Yên), trường học phủ Gia Hưng<br /> (Hưng Hóa), trường học phủ Yên Bình<br /> (Tuyên Quang), trường học phủ Trùng Khánh<br /> (Cao Bằng).<br /> Bên cạnh trường công, Văn Miếu, văn chỉ và<br /> đền Khải Thánh được nhiều làng xã ở Thái<br /> Nguyên xây dựng thờ Khổng Tử và các bậc<br /> tiên hiền để tỏ lòng tri ân với những người<br /> khai sinh, phát triển Nho học, đồng thời giáo<br /> dục truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo<br /> cho con em địa phương. Thời nhà Nguyễn,<br /> nhà nước đề cao Nho học và giáo dục. Tỉnh<br /> Thái Nguyên có một Văn Miếu và một đền<br /> khải thánh. Mục Đền Miếu của Đại Nam nhất<br /> thống chí có ghi: “Văn Miếu, đền Khải Thánh<br /> Thái Nguyên: đều ở địa phận xã Đồng Lẫm<br /> (Bẩm) về phía bắc tỉnh thành, trước ở địa<br /> phận xã Cốt Ngạnh, huyện Phổ Yên, dựng<br /> 48<br /> <br /> 188(12/3): 47 - 52<br /> <br /> năm Minh Mệnh thứ 13 (1832), năm Thiệu<br /> Trị thứ 4 (1850) dời đến chỗ hiện nay” [6,<br /> tr.167]. Tại xóm Văn Thánh, xã Đồng Bẩm,<br /> nay thuộc địa bàn thành phố Thái Nguyên,<br /> vẫn còn lưu giữ một tấm bia đá “Hạ Mã” chỉ<br /> còn lại một nửa, cao gần 1m, bằng đá thanh,<br /> đẽo gọt trau chuốt, hình dáng giống như cột<br /> cây số, được xác định là tấm bia “Hạ Mã” của<br /> di tích đền Khải Thánh từ thế kỷ XIX. Bên<br /> cạnh đền Khải Thánh, Văn Miếu của tỉnh<br /> được đặt ở xã Cốt Ngạnh của huyện Phổ Yên.<br /> Đến năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), công trình<br /> này dời đến xã Đồng Lẫm về phía bắc tỉnh<br /> thành [6, tr.177]. Đây là Văn Miếu thuộc<br /> hàng tỉnh. Thời Minh Mệnh, khi triều đình đặt<br /> cơ quan Học chính để cai quản việc học ở<br /> Thái Nguyên thì Văn Miếu này thuộc về Học<br /> chính. Như thế, cả Văn Miếu và đền Khải<br /> Thánh đều được hình thành đầu thời nhà<br /> Nguyễn, năm 1832, là giai đoạn vua Minh<br /> Mệnh đã lên ngôi được 13 năm. Nhà nước<br /> quân chủ đang trên bước đường tiếp tục củng<br /> cố, mở mang, phát triển giáo dục. Nhiều chiếu<br /> lệnh được ban hành, trong đó có chính sách<br /> giáo dục, chú trọng lựa chọn người tài qua các<br /> khoa thi. Thái Nguyên tuy thuộc khu vực khó<br /> khăn nhưng cũng được áp dụng các chính<br /> sách tôn vinh giáo dục. Việc Nhà nước cho<br /> phép dựng lại Văn Miếu và đền Khải Thánh<br /> là một minh chứng.<br /> Cùng với Văn Miếu, rải rác trong các làng xã<br /> còn xuất hiện Văn chỉ. Tư liệu địa phương<br /> cho biết Thái Nguyên có 3 huyện dựng văn<br /> chỉ là huyện Phổ Yên, huyện Tư Nông (nay là<br /> huyện Phú Bình) và huyện Động Hỉ (di tích<br /> Văn chỉ thuộc địa bàn nay là thành phố Thái<br /> Nguyên). Trong số đó, hai văn chỉ ở Nga My<br /> và An Châu (huyện Tư Nông) là lớn hơn cả.<br /> Một số nơi như xã Thù Lâm (tổng Tiên Thù,<br /> huyện Phổ Yên), xã Sơn Cốt (tổng Hoàng<br /> Đàm, huyện Phổ Yên),... tuy sự học không<br /> mấy phát triển, làng chưa có khoa bảng,<br /> nhưng vẫn dựng Văn chỉ để tỏ lòng tôn thờ<br /> đạo học và khuyến khích con cháu học hành.<br /> Xã Sơn Cốt (tổng Hoàng Đàm, huyện Phổ<br /> <br /> Đỗ Hằng Nga<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> Yên) có Văn chỉ được nhận ruộng chia từ<br /> người mua Hậu Thần. Tháng 2 và tháng 5<br /> hàng năm, dân làng đều tế lễ ở Văn chỉ [3].<br /> Các thành viên hội Tư văn sau khi chết cũng<br /> được thờ ở Văn chỉ. Văn chỉ có kết cấu đơn<br /> giản, thường được xây dựng cùng với quần<br /> thể đình, chùa, đền, miếu, nghè của làng. Quy<br /> mô nhỏ, kiến trúc bình đồ hình vuông, không<br /> có mái che, có khi chỉ là một vài cái bệ như<br /> bàn thờ đắp bằng vôi vữa, trên đặt bát hương,<br /> không có tượng.<br /> Giáo dục Nho học thời phong kiến còn thông<br /> qua việc giáo dục trong gia đình và dạy học<br /> trong dân gian của các thầy đồ. Ở Thái<br /> Nguyên, tuy không có nhiều trường của triều<br /> đình đặt, nhưng việc giáo dục trong gia đình<br /> và dạy học trong dân gian của các thầy đồ thì<br /> khá phổ biến.<br /> Trong mỗi gia đình, ông bà, cha mẹ chỉ bảo<br /> cho con cháu các lễ nghĩa, quy tắc đạo đức,<br /> ứng xử theo chuẩn mực. Con trai được dạy dỗ<br /> trở thành trụ cột gia đình, ý chí lập thân, gánh<br /> vác việc lớn, tham gia các công việc của cộng<br /> đồng, làng xã. Con gái được dạy công, dung,<br /> ngôn, hạnh của nền giáo dục truyền thống,<br /> đức tính biết chịu đựng, biết hy sinh.<br /> Trong các làng xã, lớp học của thầy đồ được<br /> mở nhiều, đáp ứng nhu cầu học tập của con<br /> em nhân dân địa phương. Đối tượng đến học<br /> thường là con nhà khá giả. Lớp học đặt tại<br /> nhà thầy hoặc nhà dân, học trò góp tiền gạo<br /> nuôi thầy. Dân gian còn lưu truyền về những<br /> lớp học của thầy đồ chủ yếu vào cuối triều<br /> Nguyễn như thôn Vân Trai (tổng Tiểu Lễ,<br /> huyện Phổ Yên) có thầy đồ Phong, đồ Quán<br /> thuộc dòng họ Trần trong thôn. Tảo Địch<br /> (tổng Tiểu Lễ, huyện Phổ Yên) có thầy đồ<br /> Chung, đồ Hiên là người từ Nam Định lên.<br /> Phù Lôi (tổng Thượng Giã, huyện Phổ Yên)<br /> có nhiều thầy đồ là người làng như đồ Cả, đồ<br /> Ba, đồ Bàng, đồ Huệ, …. Người dân địa<br /> phương còn mời thêm các thầy giỏi ở tỉnh xa<br /> như đồ Thanh (người Thanh Hóa), đồ Nghệ<br /> (người Nghệ An), đồ Tổng (người Hưng Yên)<br /> về làng dạy học,… Trò đông hay ít tùy vào<br /> <br /> 188(12/3): 47 - 52<br /> <br /> danh tiếng của thầy. Các lớp học của thầy đồ<br /> thường bao gồm: Lớp vỡ lòng - dạy đọc viết,<br /> Lớp tiểu tập - dạy viết câu đối, Lớp trung tập<br /> - hằng ngày trò nghe giảng sách, hằng tuần có<br /> buổi tập làm văn và Lớp đại tập - trò học để<br /> tham gia vào các kỳ thi.<br /> Trong tỉnh, việc học hành ở địa bàn phía nam<br /> - nơi tiếp giáp đồng bằng - có phần phát triển<br /> hơn. Khi viết về huyện trung du Phổ Yên<br /> (thuộc phủ Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên),<br /> Đồng Khánh địa dư chí khẳng định rằng<br /> “người Kinh … tổng Hoàng Đàm ở hạ du là<br /> có học hành đỗ đạt” [8, tr.797]. Ghi chép này<br /> của Đồng Khánh địa dư chí tương đồng với<br /> nội dung bia đá “Phối hưởng bi” viết ngày 29<br /> tháng 11 năm Thành Thái thứ 3 (1891) - là<br /> tấm bia văn chỉ được tìm thấy ở Hoàng Đàm đã phản ánh việc tập thể môn sinh góp công<br /> vào xây dựng nhà trường, thờ phụng thầy đồ<br /> ở địa phương. Nội dung bia cho biết ở Hoàng<br /> Đàm (huyện Phổ Yên, phủ Phú Bình), nhà<br /> trường cùng các học sinh “nghĩ điều sâu xa<br /> công đức của người thầy đã khuất nên góp<br /> tiền, góp của, lập ngôi nhà thờ phụng người<br /> thầy. Người thầy có tấm lòng lương thiện<br /> không lời nào có thể nói hết, tiếng thơm bất<br /> hủ. Lại thêm nữa bản xã, văn hội tu sửa Văn<br /> chỉ của làng, nhà trường và các học sinh vẫn<br /> nhất nhất thuận tình tôn thầy giáo đã khuất là<br /> Tiên sinh, lập bia ghi công đức. Người thầy<br /> giáo họ Hoàng tên tự Phúc Long” [9].<br /> Thành tựu khoa bảng ở Thái Nguyên thời<br /> phong kiến<br /> Trong tỉnh Thái Nguyên, phủ Phú Bình có ưu<br /> thế hơn các phủ, huyện khác về giáo dục. Tác<br /> giả Phan Huy Chú trong phần Khoa mục chí<br /> của Lịch triều hiến chương loại chí cho biết<br /> dưới triều Hậu Lê, phủ Phú Bình thuộc xứ<br /> Thái Nguyên có 10 người đỗ Tiến sĩ. Trong<br /> đó, “Huyện Phổ Yên có 1 người; huyện Động<br /> Hỉ 3 người; huyện Phú Lương 1 người; huyện<br /> Bình Tuyền 2 người; huyện Văn Lãng 1<br /> người; huyện Đại Từ 1 người; huyện Tư<br /> Nông 1 người” [1, tr.254]. Chẳng thế mà, thế<br /> kỷ XIX ban đầu “…Quảng Yên, Thái<br /> 49<br /> <br /> Đỗ Hằng Nga<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> Nguyên, Ninh Bình đều cho đặt chức Đốc học<br /> để dạy bảo học trò” [7, tr.42]. Nhưng khi<br /> nhận thấy sự hạn chế của giáo dục ở đây, nhà<br /> Nguyễn đã cho “Bỏ bớt chức Đốc học tỉnh<br /> Thái Nguyên, vì số học trò có ít”, nhưng bù<br /> lại vẫn “sai đặt chức Giáo thụ ở phủ Phú<br /> Bình. Những học trò phủ Thông Hóa thuộc<br /> tỉnh Thái Nguyên đều theo học tập ở đó” [7,<br /> tr.556]. Lịch triều hiến chương loại chí cho<br /> rằng “Về văn học, phủ Phú Bình tuy kém 4<br /> thừa tuyên và trấn Thanh Hóa, Nghệ An,<br /> nhưng 7 huyện đều có người đỗ đạt” [1, tr.254].<br /> “Bốn huyện Tư Nông, Phổ Yên, Bình Xuyên,<br /> Động Hỉ phần nào có học” [8, tr.792]. Việc<br /> khảo sát di sản Hán Nôm ở Thái Nguyên cũng<br /> cho thấy đây là vùng đất có người đỗ đạt.<br /> Các nghiên cứu đã thống kê được 9 nho sĩ<br /> đỗ đại khoa trong thời Lê sơ, thời Mạc và<br /> thời Lê mạt. 9 người đỗ đại khoa ở Thái<br /> Nguyên bao gồm:<br /> 1. Trình Hiển là người mở đầu cho truyền<br /> thống khoa bảng ở Thái Nguyên. Ông người<br /> làng Cổ Hoằng, đỗ khoa thi Hội năm Thuận<br /> Thiên thứ 2 (1429). Sau khi đỗ đạt, Trình<br /> Hiển được bổ làm Chuyển vận sứ, rồi Thị ngự<br /> sử. Đại Việt sử ký toàn thư chép về sự kiện<br /> Trình Hiển được triều đình cử làm Phó sứ<br /> trong đoàn sứ thần Đại Việt sang tiến cống<br /> nhà Minh năm 1438. Trình Hiển có tài văn<br /> chương. Toàn Việt thi lục còn lưu lại 2 tác<br /> phẩm của ông là bài thơ Dạ bạc Hoa Lư hữu<br /> cảm và Ngự cư tự thuật hoài.<br /> 2. Nguyễn Cấu (Nguyễn Đình Cấu) người<br /> làng Thanh Vân, xã Thanh Thù, tổng Tiểu Lễ<br /> (nay là làng Thanh Thù, xã Đồng Tiến, huyện<br /> Phổ Yên). Nhân dân địa phương thường gọi<br /> là “cụ Nghè Vân”. Ông đỗ Đệ tam giáp đồng<br /> tiến sĩ xuất thân năm 1463. Là người có khả<br /> năng võ bị, nên ông được chuyển sang hàng<br /> quan võ. Ông làm quan triều Lê, làm đến<br /> chức Thị vệ sứ, cầm đầu đội quân bảo vệ nhà<br /> vua và triều đình.<br /> 3. Đỗ Cận tên thật là Đỗ Viễn, người làng<br /> Thống Thượng, tổng Thống Thượng, huyện<br /> Phổ Yên. Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ<br /> 50<br /> <br /> 188(12/3): 47 - 52<br /> <br /> xuất thân năm 1478 khi đã 45 tuổi. Ông tên<br /> thật là Đỗ Viễn, nhưng khi vào dự thi Đình,<br /> vua Lê Thánh Tông yêu mến đã chính tay ngự<br /> phê cho ông là Đỗ Cận để thể hiện sự gần gũi<br /> tin yêu. Sau khi thi đỗ, Đỗ Cận được bổ dụng<br /> qua nhiều chức quan: Tham nghị xứ Thanh<br /> Hoa, rồi Thừa chính xứ Quảng Nam, năm<br /> 1483 làm Phó sứ trong đoàn sứ bộ Đại Việt<br /> sang giao hảo với nhà Minh. Đỗ Cận vẻ vang<br /> trong văn nghiệp. Nhiều tác phẩm thơ văn của<br /> ông như Kim Lăng ký viết về chuyến đi sứ ở<br /> Trung Hoa, truyện Nôm Phan Trần, hai bài<br /> thơ Thái thạch vãn bạc và Xuân yến thuộc<br /> hàng trứ tác trong kho tàng văn học trung đại<br /> Việt Nam.<br /> 4. Phạm Nhĩ sinh năm Thái Hòa thứ 8 (1450),<br /> quê ở Đồng Bẩm, Đồng Hỷ, Thái Nguyên.<br /> Ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân tại khoa<br /> thi năm Hồng Đức thứ 24 (1493) triều vua Lê<br /> Thánh Tông. Chức vụ lớn nhất mà nhà Lê<br /> giao cho Phạm Nhĩ là Phủ doãn Phủ Phụng<br /> Thiên - chức quan đứng đầu kinh thành<br /> Thăng Long về mặt hành chính.<br /> 5. Đàm Sâm, người xã Sa Kệ, huyện Văn<br /> Lãng, nay là thôn Sa Kệ, xã Văn Lăng, huyện<br /> Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. Đàm Sâm đỗ Đệ<br /> Tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân khoa thi năm<br /> Hồng Thuận thứ 3 (1511) đời vua Lê Tương<br /> Dực. Ông làm quan đến chức Thượng thư,<br /> chức quan đứng đầu một trong sáu bộ của<br /> triều đình phong kiến.<br /> 6. Trịnh Bá, người xã Cù Đàm, đỗ Đệ nhị<br /> giáp tiến sĩ xuất thân khoa thi năm Hồng Đức<br /> thứ 6 (1514). Trên con đường quan lộ, Trịnh<br /> Bá được triều Lê phong đến chức Binh Bộ<br /> hữu Thị Lang, là chức quan đứng hàng thứ 3<br /> trong việc cai quản Bộ Binh, chỉ sau Binh Bộ<br /> Thượng thư và Binh Bộ tả Thị Lang.<br /> 7. Đàm Chí quê ở huyện Đồng Hỷ, Thái<br /> Nguyên, đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân<br /> khoa thi năm Đại Chính thứ 6 (1535) đời vua<br /> Mạc Đăng Doanh. Đàm Chí làm quan tới<br /> chức Thừa chính sứ, tước Vân Trai bá.<br /> 8. Dương Ức, quê ở Hóa Trung, Đồng Hỷ, đỗ<br /> Tiến sĩ xuất thân khoa thi năm Hồng Thuận<br /> <br /> Đỗ Hằng Nga<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> thứ 6 (1514). Ông làm quan với nhà Mạc, chức<br /> vụ lớn nhất được thụ phong là Thừa chính sứ chức trưởng quan đứng đầu một đạo.<br /> 9. Đồng Doãn Giai, sinh năm 1701 tại xã<br /> Hùng Sơn, Đại Từ, Thái Nguyên. Sau khi thi<br /> đỗ 4 kỳ thi Hương, ông làm Giám sinh, học<br /> Quốc Tử Giám. Năm Vĩnh Hựu thứ 2 (1736),<br /> triều vua Lê Ý Tông, ông đỗ khoa thi Hội.<br /> Một thời gian sau, triều đình tổ chức Đình thí,<br /> Đồng Doãn Giai đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất<br /> thân. Sau khi đỗ, ông được bổ nhiệm chức<br /> Hàn lâm hiệu thảo, giữ việc tu sửa Quốc sử,<br /> về sau ông làm Đốc đồng trấn Lạng Sơn.<br /> Ngoài các vị đỗ đại khoa, tư liệu dân gian còn<br /> cho biết Thái Nguyên có một số nho sĩ thi đỗ<br /> và làm quan các cấp thấp hơn như Trần<br /> Huyền Long đỗ sinh đồ nhà Lê, làm giáo<br /> quan giảng dạy ở trường phủ Bắc Hà. Trần<br /> Ngọc Khuê, giám sinh Quốc tử giám, được<br /> phong chức Trưởng vệ Tứ thành, hàm Tòng<br /> nhị phẩm triều vua Lê Hiến Tông. Trần Thái<br /> Vận đỗ sinh đồ thời Lê được phong hàm Thập<br /> lý hầu chức xa giá trưởng vệ quan tại Thăng<br /> Long. Phạm Quang Vinh đỗ Hương cống<br /> được bổ dụng làm Tri huyện. Trần Mộng<br /> Khải đỗ Hương cống làm quan Tham biện<br /> trong triều, năm Minh Mệnh thứ 16 (1835)<br /> được bổ giữ chức Tri phủ phủ Tòng Hóa.<br /> Phạm Xuân Sắc đỗ Tam trường ở làng dạy<br /> học cho dân,.v.v..<br /> KẾT LUẬN<br /> Nếu lấy mốc Nho học bắt đầu từ cuối thế kỷ<br /> XV (với ghi chép của Thiên hạ quận quốc lợi<br /> bệnh toàn thư) đến khi nền khoa cử phong<br /> kiến chính thức cáo chung dưới thời Pháp<br /> thuộc thì giáo dục Nho học ở Thái Nguyên có<br /> lịch sử trên 400 năm, lưu lại nhiều dấu ấn<br /> trong văn hóa địa phương. So với châu thổ<br /> Bắc Bộ, giáo dục khoa bảng ở Thái Nguyên<br /> không thực sự nổi bật. Nhưng với một vùng<br /> phên dậu còn nghèo khó, thành tựu giáo dục<br /> và khoa bảng của Thái Nguyên thời phong<br /> <br /> 188(12/3): 47 - 52<br /> <br /> kiến như thế đã là đáng kể. Thái Nguyên có<br /> những người chiếm vị trí cao trong các khoa<br /> thi Hương, thi Hội. Nhiều người giữ những<br /> chức vụ quan trọng trong triều đình. Trải qua<br /> thời gian, việc lưu trữ sách cổ bị thất lạc nên<br /> chưa thể phản ánh hết việc học hành, khoa<br /> bảng của tiền nhân.<br /> Từ nền tảng sẵn có trong lịch sử, ngày nay<br /> giáo dục Thái Nguyên càng khẳng định vị thế<br /> của mình trong nền giáo dục dân tộc, trở<br /> thành trung tâm giáo dục đào tạo lớn của cả<br /> nước cùng với Hà Nội và Thành phố Hồ Chí<br /> Minh. Đại học Thái Nguyên, với hơn 20 đơn<br /> vị thành viên, là đại học đa ngành, đa lĩnh<br /> vực, góp phần không nhỏ cho sự phát triển<br /> kinh tế - văn hoá - xã hội của Thái Nguyên<br /> nói riêng và khu vực trung du, miền núi phía<br /> Bắc nói chung.<br /> Bài báo là sản phẩm của Đề tài Khoa học và<br /> công nghệ cấp Bộ mã số B2017-TNA-53 do<br /> tác giả là chủ nhiệm đề tài<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1. Phan Huy Chú (2014), Lịch triều hiến chương<br /> loại chí, tập 1 (Dư địa chí), Nxb Trẻ, Thành phố<br /> Hồ Chí Minh.<br /> 2. Hương ước xã Lợi Xá, tổng Hoàng Đàm, huyện<br /> Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên năm 1942.<br /> 3. Hương ước xã Sơn Cốt, tổng Hoàng Đàm,<br /> huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên năm 1942.<br /> 4. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (1993), Đại<br /> Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,<br /> bản dịch của Viện Khoa học xã hội Việt Nam.<br /> 5. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại<br /> Nam hội điển sự lệ, Nxb Thuận Hóa, Huế.<br /> 6. Quốc Sử quán triều Nguyễn (1997), Đại Nam<br /> nhất thống chí - tập 4, Nxb Thuận Hóa, Huế.<br /> 7. Quốc Sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam<br /> thực lục, tập 2 (bộ 10 tập), Nxb Giáo dục, Hà Nội.<br /> 8. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe<br /> Papin (2003), Đồng Khánh địa dư chí, Nxb Thế<br /> giới, Hà Nội.<br /> 9. Văn bia “Phối hưởng bi” ở xã Nam Tiến,<br /> huyện Phổ Yên viết ngày 29 tháng 11 năm Thành<br /> Thái 3 Tân Mão (1891).<br /> <br /> 51<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2