Giáo dục vì sự phát triển của vị thành niên về giới tính: Phần 2
lượt xem 86
download
Tương lai của một đất nước, một dân tộc phụ thuộc vào thế hệ trẻ được giáo dục đúng đắn để đáp ứng những kỳ vọng của cộng đồng. Có thể nói đó là vấn đề tồn tại hay không tồn tại của một dân tộc. Tiếp theo nội dung ở phần 1, phần 2 của Tài liệu Giáo dục giới tính vì sự phát triển của vị thành niên trình bày một số vấn đề về giáo dục sức khoẻ sinh sản cho vị thành niên, các phương tiện chuyển tải của giáo dục giới tính và vài nét về bệnh học tuổi vị thành niên. Mời các bạn cùng tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giáo dục vì sự phát triển của vị thành niên về giới tính: Phần 2
- Chương I I I G I Á O D Ụ C S Ứ C K H O Ẻ SINH S Ả N Bài đọc m thêm 3 vì SAO CẦN QUAN TÂM ĐẾN SỨC KHOỀ SINH SẢN VỊ THÀNH NIÊN? Không riêng ở nước ta mà ở nhiểu nước trong khu vực và trên thếgiới,những vấn để liênquan đến sức khoẻ sinh sản của vị thành niên đang nổi lên như những quan tâm lớn của cộng dồng vìhai lído sau: - Trước h ế t, bối c ầ n h xã h ộ i hiện đại có nhiều nguy cơ đe doạ SKSS của VTN. Nhất là ỏ những nước đang phát triển, nhiều hoàn cảnh cám dỗ và tiêu cực có ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của VTN (đua đòi lốisống hưởng thụ, xa ròi truyền thông văn hoá dân tộc...); sự đe dọa thường trực của nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS mà VTN chưa ý thức được đầy đủ; sự cần thiết phải khống chế gia tăng dân sò'mà VTN cần phải được giáo dục để có thể nhập cuộc có hiệu quả. Những nỗ lực của xã hội nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo vệ nòi giống và xây dựng nếp sống có văn hoá càng đòi hỏi phải quan tâm đến VTN. 101
- Những điểu tra. khảo sát ở nước ta trong những nám gần đây về hành vi tình dục VTN đã cung cấp những thông tinđáng longại: quan hệ tình dục sớm dẫn đến hậu quả làgia tăng tỷ ]ệ nạo thai, mang thai, sinh đẻ và những biếnchứng tức thìvà lâu dài của những động thái này. Nếu VTN hành động theo bản năng thô thiển, không phù hợp với những giá trịvăn hoá, đạo đức thì sẽ ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống sức khoẻ. đạo đức, phong tụctập quán, chất lượng nòigiông, kiểm soátdân số, và mối quan hệ nam nữ lành mạnh và cótrách nhiệm. Việc nạo hút thai, nhất làphá thai muộn ở VTN, đẻ con rồi bỏ con hoặc phải bỏ nhà ra đi, phải nuôi con trong diều kiện thiếu thốn có thể tiềm ẩn những hậu quả và biến chứng rất nghiêm trọng đến SKSS, sức khoẻ tình dục (SKTD) và sức khoẻ tinh thần (SKTT) của các em, đấy là chưa nói đến những tai biến tức thời đã cướp đi nhiều sinh mạng do bị nhiễm khuẩn nặng, thủng tử cung, chảy máu... Rất nhiều bi kịch đã đến với những cô gái lầm lỡvà cả những đứa con mà họ sinh ra trong điều kiện không mong muốn, nhiều người đã tìm đên cái chết hoặc bị xô đẩy vào cuộc sống buông thả nghiện hút hoặc phải sống bằng cách buôn bán thân thể mình, còn những đứa trẻ thì lốn lên và phát triển trong hoàn cảnh thiếu dinh dưỡng, thiếu tình thương, sự âu yếm, chăm sóc cho nên đã không thể hình thành được một nhân eách như xã hội mong muôn (tự tin, tự ti'ọng,biếtyêu thưưng, có niềm tin,có hoài bão, có trách nhiệm đốivớibản thân và xã hội...). Chương trình hành động của Hội nghị quốc tếvề dân sốvà phát triển họp ở Cairo (1994) cũng đã cảnh báo về nguy cơ của hành vitìnhdục sốm ởVTN: “Việc trở thành người mẹ ở tuổi quá trẻ là nguyên nhân làm tăng nguv cơ tử vong mẹ và con của những người mẹ trẻ 102
- này. Có thai sớm tiếp tục gây trỏ ngại cho việc cải thiện vị thê xã hội. kinh tê và học vấn của phụ nữ ở mọi nơi trên thê giới. Với tấtcả phụ nữ trẻ.kết hôn sớm và làm mẹ sớm có ảnh hưởng nghiêm trọng đến cơhội học hành và kiếm việc làm, và có thểcó tác (ỉộng xấu về lâu dài đến chất lượng cuộc sông của chính họ và con cái họ”(Phần 7.4). - Giáo dục SKSS vừa đem lại lợi ích, vừa phát huy được tiềm năng của chính VTN: + Lợi ích trước tiên đôi với VTN là nhộn thức được giá trị nhân bản của khái niệm SKSS: VTN là lớp người trẻ tuổi, sô đông đã sẵn có một VỎ11 kiến thức cơ bản về tự nhiên và xã hội nên nhạy cám vói cái mới. có nhu cầu cao vê hiểu biết, dễ tiếp thụ những cáiđượccoilàtiếnbộ và hiện dại. + VTN một khi đã ý thức được nội dung và yêu cầu của SKSS có thể trở thành những tuyên truyền viên, những hạt nhân của cuộc vận động dân số-KHHGĐ và phòng chống AIDS một cách tíchcực nhất. + VTN cũng là những người tiêu biểu nhất, gương mẫu nhất của mô hình văn hoá mới về bình đẳng nam nữ trong đời sông và trong mọi vấn đề liênquan đến SKSS. + VTN chuẩn bịbước vào cuộc sống xã hội và gia đình, phải trực tiếp đối diện với những vấn để về nghĩa vụ, bổn phận, trách nhiệm, đời sống vợchồng... vì vậy trong hành trang kiến thứccần cónhững kiên thứcvê SKSS -một nội dung quan trọng trong việc chuấn bịđể trởthành con ngưòi pháttriểntoàndiện. Vì những lído nói trên, quan tâm giáo dục và bảo vệ SKSS VTN đã trở nên một vấn để cấp bách không chỉ là nhiệm vụ của ngành y tê mà của toàn xã hội và thực sự cần thiết trong chiến lượcgiáodục toàndiện,kiểm soátdân sôvà bảovệsứckhoẻVTN. 103
- Bài 19 TUỔI TRỀ CẦN HIỂU BIẾT VỀ CHÍNH BẢN THÂN Cung cấp những hiểu biếtvề cơ thểcó lẽlànhững bước đầu tiên của cha mẹ khi dẫn dắt trẻ đến vối những vấn để về giói tính... Ngay từkhi mối khoảng 1tuổi, trẻđã được học nhận biết, vị trínhững bộ phận trên khuôn mặt và cứ thế phát triển dần sự nhận biết những phần khác của cơ thể. Tới tuổi dậy thì, các em khám phá và hiểu biết nhiêu hơn vê thê giới xung quanh nhưng nhiều khi lại thiếu hiểu biết về những biến đổi rất nhanh, rất nhiều ở ngay chính cơthể mình. Thiếu hiểu biết đồng nghĩa với thiếu học vấn là một trong những nguyên nhân lớn gây hại cho sức khoẻ con người. Danton (nhà hoạt động chính trịPháp thếkỉ XVĨI1) dă nói: “Sau bánh mì, học vấn làthứ cần thiết nhất”.Sự hiểu biết có tác dụng to lớn đến sự nghiệp bảo vệ sức khoẻ và nâng cao dân tríquả thực cũng là một sự nghiệp vô cùng gian nan. Chỉ cần nói đến một chân líđơn giản của bảo vệ sức khoẻ làvi khuẩn gây bệnh luôn có quanh ta, vì thế phải thực hành vệ sinh ăn uống, sử dụng nước sạch để tránh các bệnh đường tiêu hoố, bệnh đau mắt hột... thế mà sau gần nửa thê kỉvận động, giáo dục (chỉ tính từ khi khu vực V tếnông thôn bắt đầu được chú ý dưới chế độ của ta), ai dám đảm bảo rằng mọi người dã nhặn thức được điều này, nhất là người dân ở các vùng nông thôn, miền núi... Xem đó đủ thấy giáodục cộng đồng làcông việcđòi hỏi sự kiên nhẫn, bền bỉbiếtchừng nào. 104
- Trong những cái không biết thì sự không biết quý trọng bàn thân là một nguy hại lớn mà điều này lại hay gặp ở tuổi trẻ -thực chất là biểu hiện của một nhân cách kém cỏi, vô trách nhiệm. Sự thiếu hiểu biếtcủa thanh thiếu niên vê'sinh lísinh sản là nguyên nhân dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng cho sức khoẻ. Toà soạn các báo thường ngày nhận được nhiều thư của thanh thiếu niên nam nữ hỏi về những vấn đề liên quan đến sức khoẻ sinh sản của các em một cách thật chân thành, nhưng củng có nhiểu cáu hỏi thật ngây ngô, điều đó gửi đến những người lốn có trách nhiệm một thông điệp rất quan trọng: các em cần hiểu biết về chính bản thân mình để tránh những sai lầm do không hiểu biết gây ra. Tuổi của các em là tuổi của những biên động dữ dội của cơ thể và tâm lí,các em cần biết những gì có thể xảy ra trên cơ thể mình cũng như phải làm gìđể giữ gìn sức khoẻ cho mình. Cung cấp những hiểu biết để thanh thiêu niên biết tự bảo vệ không chỉ là những kiến thức về tình dục, về phòng tránh thai, về các bệnh lây truyền qua đường tình dục, gồm cả HIV/AIDS mà quan trọng hơn, bền vững hơn, chính làcung cấp những hiểu biếtcơbản vê sinh lísinh sản theo hướng ứng dụng chứ không phải đơn thuần líthuyết, nghĩa làsự hiểu biếtcần đi kèm vói kĩ năng biết đánh giá, nhận biếtvà giải thích được các dấu hiệu xảy ra trên chính cơ thể mình. Ví dụ một em gái cần hiểu kinh nguyệt không chỉ làsự ra máu hàng tháng mà còn là dấu hiệu chứng tỏ cơ thể đă bước vào tuổi sinh sản, rằng sự ra kinh thường kèm theo nhiều biến đổi về cơthể và tâm límà các em có thể nhận biếtvà cần cóthói quen ghichép, theo dõi -điểu 105
- đó sẽ đem lạilợiích cho các em là biết tự phát hiên những bất thường và thực hiện quyển làm chủ trong quyết định sinh đẻ sau này. Với nam thanh thiếu niên cũng vậy, giáo dục nhận thức về sinh sản ứng dụng giúp các em hiểu rõ hơn tiềm năng sinh sản của bản thân, những thay đổi trong tuổi dậy thì cũng như khi đã trưởng thành, tránh những ngộ nhận ngây ngô. sai lầm do bạn bè cung cấp. Giáo dục sinh lísinh sản nhấn mạnh đến kĩnăng ứng dụng còn có ý nghĩa tích cực không chỉ về mặt tự bảo vệ của mỗi người mà còn nâng cao nhận thức về mối quan hệ bình đẳng và có trách nhiệm giữa hai giói:khi được hiểu biếtvê'sự kháo biệt giữa nam -nữ vể sinh lívà giảiphẫu, người nam hiểu rõ hơn về vai trò của mỗi giới, tính hợp lícủa phân công lao động trong gia đình và xã hội như là một sự bổ sung cho nhau, người nam cũng hiểu rằngyếu tốquyết định để sinh con traihay con gáilà ở phía người nam (để không đổ lỗicho những phụ nữ sinh con một bể), rằng sức khoẻ của phụ nữ không chỉ do phụ nữ gây ra mà còn có trách nhiệm của nam giới (lây nhiễm bệnh cho vợ, không tham gia thực hiện các biện pháp kế hoạch hoá gia đình...), rằng phòng bệnh cho phụ nữ nông thôn không thể coi nhẹ việc tạo diều kiện vệ sinh cho họ (xây dựng nhà tắm kín đáo, ấm áp, sạch sẽ,có nước sạch...). Tuổi trẻcủa thời đại tin học ngày nay được trang bị nhiều kiến thức hiện đại, họ say mê nghiên cứu, khám phá những bí mật của thê giớivĩmô nhưng cókhi họ ngây thơ, thiêu hiểu biết vốinhiều điểuđringiản ởchính bản thân họ. 106
- B à i 2 0 Cơ Sỏ SINH HỌC VÀ XÂ HỘI CỦA Sự• HÌNH THÀNH HÀNH VI TÍNH DỤC 9 Nếu như tuổi vị thành niên (VTN) được xem là sự tái sinh, sự ra đời lần thứ hai - thể hiện một nhân cách mới -thì lứa tuổi này cũng là sự đoạn tuyệt với tuổi thơ đổ bưóc vào thế giớicủa ngưòi lớn với nhiều biến đổi dữ dội về thể chất và tâm lí.Và những biến đổi này đặt ra nhiều vấn đề vê bảo vệ sức khoe cho các em cũng như để hiểu về cơ chế hình thành bản năng tính dục. S ự p h á t triển sin h hoc ở tuổi V TN có đặc diểm gi? Nhanh, thay đổi nhiều và rất nhạy cảm. Những thay đổi đó cùng vóisự xuất hiện các đặc tính giớithứ phát và nhu cầu tính dục đã làm cho các em dễ có những khó khăn vê mặt tâm lí cũng như những trạng thái dau đớn, khó chịu trong cơ thể: nữ thì phải đối diện với tính dỏng đảnh của kinh nguyệt (thất thường, đau), vú cương đau, viêm âm đạo; nam thì đau lưng, sai khớp háng, đau cẳng chân, đau khớp gôì (do cơ thể phát triển quá nhanh), vẹo cột sống, chít bao quy đầu... Vì thế cha mẹ cần quan tâm đến những khó khăn có thể có ở con em mình vê những phương diện àu uống, vận dộng và nghỉ ngơi. - Vê ăn uống: Nên ăn 3-4 bữa mỗi n g ày, uống ítnhất 1 lít nước ngoài bữa ăn. Thịt,cá, trứng, sữa nên ăn vào cácbữa trong ngày, bữa tôinên ăn nhẹ (rau quả. ngũ cốc). Nên cân đôi trong khẩu phần nhưng tránh ăn nhiều chất ngọt vì sự bài tiết insulinđể biến dường thành mõ làm cho cơthể mệt mỏi. 107
- -Vê vận động: Thể dục th ể thao làm cho ta có ý thức về cơ thể của mình. Những môn thể thao tập thể giúp phát triển những phẩm chất của mỗi người, để thích nghi và khẳng định mình trong tập thể. Thể thao cũng rèn luyện ý chí và tinh thần kỉluậtvìtaphải thắng được sự lườinhác và phải tuân theo luật chơi của nó. - Vế nghỉ ngơi:Ngủ và thức là 2 quá trình đi theo nhau suốt cả cuộc dời ta. Nên tránh những lído làm rối nhiễu giấc ngủ (do lốisống không diều độ, không lành mạnh). Nói chung mỗi tốingủ 7 tiếnglàđủ (nhiều người cónhu cầu ngủ 9 tiếng). Trên cơ sở của sự phát triển sinh học là những thay đổi về hành vi tính dục. Những thay đổi về đặc tính giới thứ phát ở tuổidậy thìởcả hai giớilànhững dấu hiệu rõ rệt nhất chứng tỏ cơ thể đã trưởng thành về mặt thể chất, tuy nhiên đây mới chỉ là bề ngoài, còn hời hợt. Cấu trúc sinh học cơ bản để có những đáp ứng tính dục đã cóngay từ khi mối sinh ra. Những hóc-môn như androgen, progesterone đã có và đã hoạt động ngay cả trong thòi kì phát triển của thai nhi. Androgen có vai trò quyết định đến sự hình thành cơquan sinh dục và cấu trúc thần kinh chỉ huy các đáp ứng khác nhau ở nam và nữ. Ví dụ, nếu làm thay đổi từ rất sớm cân bằng nội tiết bằng cách tăng nồng độ androgen cho con cái ngay sau khi sinh ra thì đáp ứng tính dục đặc thù ở con cáicũng biến đổi:con chuột cái trở nên có hành vi tính dục đặc thù giống con đực, nghĩa là nó cũng phủ lên mông con cáikhác. Cũng tương tự như vậy vốicon đực, nếu như nồng độandrogentrongcơ thể nó bịlàm cho giảm đi sau khi đẻ ra,nó cũng cónhững đáp ứng tínhdục giống như con cái. 0 loàingười, những rối loạn về cân bằng hóc-môn mà thai nhi phải chịu có thể có ảnh hưởng đến hành vi của trẻ em sau này. Ví dụ, một 108
- thai nhi gái nếu như bị ảnh hướng của nồng độ androgen cao. binh thường chỉ gặp nồng độ rất thấp, thi sau này sẽ tỏ ra ít quan tâm tới hôn nhân và vụng vể trongchức năng làm mẹ hơn so với những em gái không chịu ảnh hưởng của nồng độ androgen caom.Như vậy, hình như đã cómột thời kì quan trọng nào đó rất sớm trong thời kì bào thai, hóc-môn đã ảnh hưởng dến tốchức cơ bán của hệ thần kinh kiểm soát những đáp ứng tính dục ỏ tuổi trưởng thành sau này
- B à i 2 1 Sự PHÁT TRIỂN BÌNH THƯỜNG CỦA MỘT CÁ THỂ NAM HAY NỮ Băn khoăn thường gặp nhất ở tuổi vị thành niên (VTN) là về sự phát triển bình thưòng của cơ thể hay chức năng sinh lí. Có em cảm thấy khiếm khuyết về kích thước, có em phàn nàn về sự chậm trễ trong quá trình phát triển, có em lại đau khổ vể chính giới tính của mình... những điều đó có nguồn gốc từ những yếu tốlàm nên một con người bình thường mà các bậc cha mẹ cần biết. Những yếu tố gì làm nên một người nam hay người nữ bình thường? Đ6 là4 yếu tốtạo nên tính dục người (cũng là tạo nên nhân cách): giỏi sinh học, bản sắc giới, vai trò xã hội của giới,xu hưống tínhdục. Giới sinh học: Con người được tạo ra là nhờ sự trao đổi nguyên liệu của 2 nhân tếbào mầm nam nữ (giao tử). Ngay từ khởi đầu của quá trình sinh sản, 2 cá thể nam nữ (bô mẹ) đểu đóng góp nguyên liệuđể tạo ra đứa con nhưng chỉ có người nam quyết định giỏi sinh học của đứa trẻ là nam hay nữ. Yêu tô quyết định là nhiễm sắc thể (NST) giới trong tinh trùng người nam. Những tếbào của buồng trứng và của tinh hoàn mang 23 NST, trong đó các thông tin di truyền đã được quy định. Trong số 23 NST nói trên, có một NST gọi là NST giớiX và Y (đặt tên như vậy là dựa trên hình thể của chúng, Y giống như X chưa hoàn chỉnh và kích thước chỉ bằng 1/5X). Trứng (hay còn gọi là 110
- noãn) chỉchứa toàn NST- giói X, trong khi tinh trùng lạicó hoặc X hoặc Y. Khi tinh trùng mang NST Y thụ tinh cho trứng thì sẽ phát, triển thành con trai và mang cặp NST giới XY. Nếu tinh trùng mang NST X thụ tinh cho trứng thì sẽ phát triển thành con gái và sẽ mang cặp NST giới XX. Như vậy là giới gien học của một cá thể đã được quyết dịnh ngay từ khi thụ thai. Tuy nhiên, sự khác biệt về giải phẫu giữa con trai và con gái còn làkết quả của 9 tháng 10 ngày thai nghén và còn nhiều nguy cơ rình rập có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của bào thai. Trước 7 tuần lễ của thòi kì bào thai, bộ phận sinh dục ngoài của cả 2 giới không có gì khác biệt, sau đó mới biệt hoá dần dần thành nam hay nữ. Giai đoạn biệt hoá giới này có ý nghĩa cực kì quan trọng, nếu thai không phát triển thành nam hay nữ hoàn chỉnh thìchắc chắn làđã gặp trục trặc gìđó trong thời gian dầu của giaiđoạn biệthoá này. Hình như hóc-môn sinh dục nam do tinh hoàn bài tiếtra có vai trò trong sự định hướng cho bào thai phát triển thành giới nam. Giai đoạn có tính quyết định để biệt hoá giới rất may là không kéo dài, ở loài người, giai đoạn này chỉ là vài ngày vào cuối tháng thứ 3 của hào thai. Sau thòi điểm này hóc-môn không cótácdụng đảo ngược sự biệthoá giớinữa. Bản sắc giới: là sự cảm nhận của mỗi người về chính bản thân minh, thấy mình thuộc về giới nam hay giới nữ. Sự phát triển bản sắc giớikhông hoàn toàn do gióisinh học quyết định. Nhiều ý kiến cho rằng yếu tốsinh học chỉ đóng vai trò tối thiểu trong sự hình thành bản sắc giới— mọt quá trình hình thành chịu ảnh hưởng rất lớn của các yếu tốvăn hoá -giáo dục. Ví dụ có gia đình mong muốn có COI1trai nên đã nuôi dưỡng, giáo dục con gái như một bé trai từ cách ăn mặc cho đến mái tóc, đồ 111
- chơi... và cháu đã phát triển bản sắc giới khác với giới sinh học (giới gien học của cháu là XX). Khi lớn lên. cháu thích ăn mặc như con trai và có những sở thích của con trai, kể cả sự phát triển xu hướng tính dục cũng giống con trai, nghĩa là có tình cảm với con gái. Như vậy, sự nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình đã làm sai lệch quá trình phát triển giới tính bình thường của cháu. Vai trò xã hội của giới: được thể hiện qua sự phân công lao động theo giới,làvị thếvà hành viứng xử của mỗi giơi -những nét tínhcách đặc thù của gióimà ta thường gọi lànam tính hay nữ tính. Nam và nữ có sự khác biệtvề tính cách là một thực tê và có sự ổn định tương đối nhưng nam tính, nữ tính cũng thay đổi theo từng thời đại, từng nên văn hoá và củng không hoàn toàn do yếu tô"sinh học tạo nên. Ví dụ, ngày nay tính cách phụ nữ năng động hơn xưa kia,có ý thức về vai trò của mình hơn, dám đòi hỏi những quyền chính đáng cho mình (quyền được bảo vệ sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tình dục),bình đẳng với nam giới về mọi mặt... Xu hướng tính dục (XHTD): đặc trưng là sự hấp dẫn bển vững về mặt tình cảm và tình dục với người thuộc giới nào đó. XHTD khác giới là khi hấp dẫn với một đối tượng khác giới, ngoài ra còn có XHTD đồng giới hoặc XHTD với cả 2 giới (lưỡng giới)... Những yếu tốtạo nên tính dục người là cơ sở đế hiểu biết, đánh giá về khả năng phát triển sức khỏe sinh sản và tình đục của một cá thể. 112
- B à i 2 2 CẦN CÓ GIỚI HẠN VÀ GIẢI PHÁP NÀO CHO GIAI ĐOẠN • PHÁT TRÍỂN TÍNH DỤC• ở TUổl DẬY • THỈ? Cùng với sự phát triển ở bộ máy sinh sản (đặc tính giới nguyên phát và thứ phát), nam nữ ở tuổi dậy thìbắt đầu bộc lộ những dấu hiệu của sự phát triển tính dục hướng vào đối tượng khác giới,đó lànhửng xúc cảm và ham muốn tình dục. Giáo dục giới tính giúp vịthành niên (VTN) biết nên có giới hạn như thế nào đốivới2 trạngtháicảm xúc này? Ở tuổi VTN, trong quan hệ với bạn khác giới,nhiều mức độ tình cảm đã nảy sinh, từ thân thiết, quý mến, tôn trọng, khâm phục, giận hờn cho đến những xúc cảm tình dục. Những tình cảm ấy làm tăng hương vị cho mối quan hệ, nhưng VTN cần nhận biết những giới hạn của chúng, điều này rất quan trọng dôi với cả 2 giới vì đó là biểu hiện đầu tiên của mổì quan hệ nhân văn và có trách nhiệm, từ đó phát triển sự tin cậy, tôn trọng lẫn nhau, đẫn tốitìnhyêu bền vững. Xúc cảm tình dục là những tình cảm nảy sinh khi bị cuốn hút mạnh mẽ về tâm hồn và thể chất với một người nào đó, cả khi gần cũng như khi xa nhau, nhưng sôi nổi nhất là khi họ trao đổi với nhau những cử chỉ quý mến thường chỉ có khi 2 người yêu nhau: xiết tay, ôm, hôn. vuốt. ve... và những hành động đó đem lạicảm giác dễ chịu, để lạián tượng cho nhau, lặp đi lặp lại trong những cuộc gặp gỡ với mức độ quyến luyến, mạnh bạo tăng dần. Cùng với những xúc cảm tình dục lànhững 11°
- biến dổi sinh líở cả hai ngưòi và như thế, hình như họ đã sẵn sàng tiến tớihành dộng giaohợp. Vì vậy, điểu quan trọng đối với nam nữ ở lứa tuổi VTN là nếu chưa hiểu biết đầy đủ về nhau, chưa đủ sự tin cậy đối với nhau, thì nên tránh những hành động gần gũi về cơ thể đến mức không thể cưỡng lạiđược ham muốn tình dục. Mỗi nền văn hoá đặt ra những giới hạn cho sự tiếp xúc gần gũi giữa nam và nữ. Ví dụ, nền văn hoá Khổng Nho nghiệt ngã xưa kia thì“nam nữ thụ thụ bất thân", ngày nay ỏ một sốnước công nghiệp phát triển,quan hệ tình cảm giữa nam nữ tuổi VTN cũng vẫn được khuyên nên cógiớihạn. Ham muốn tình đục được khơi dậy một cách mạnh mẽ b ố i những kinh nghiệm đã và đang trải qua hơặc những dự định mới. Đa sô mọi người trong xã hội có ham muốn tình dục đúng mức và lành mạnh, một sô ítngười lạicó ham muôn tình dục sai lạc, không phù hợp với bối cảnh văn hoá của xã hội, ví dụ như ham muốn tình dục vớitrẻem... Có nhiều tác nhân gây ham muôn tình dục mà VTN cần tránh: những hoàn cảnh vui chơi không lành mạnh (xem phim kích thích tình dục), sử dụng rượu, ma tuý. Nhiều tội phạm tình dục khai rằng do ảnh hưởng của phim bạo lực hoặc phim kích thích tình dục, nhiều VTN mang thai do rượu lảm các em mất khả nảng tự chủ và nhiều hoạt dộng tình dục của VTN diễn ra lần dầu cũng do uống rượu. Tác dụng gây suy giảm khả năng suy xét lítrícủa rượu khiến cho người ta có hành vi trái với lúc bình thường. Thanh thiếu niên thường bị lôi cuôYi vào việc sử dụng những loại ma tuý vì tưởng rằng chúng sẽ làm tăng thêm cảm giác và khả năng tình dục, đó là sự ngộ nhận sai lầm tai hại. 114
- Ham muốn tìnhdục ở tuổi dậy thì làmột hiện tượng sinh lí bình thường, có cơ sỏ sinh học. Chỉ có điều, cần nhìn nhận cho đúng một sô biểu hiện của sự ham muôn dó chứ không phải là cẩm đoán hay dàn áp. Thay vì tạo ra môi trường thuận lợicho sự phát triển tínhdục. cần phải giúp các em có hiểu biếtvề sinh lílúa tuổi dậy thì và biẽtgiải phóng những xung năng tình dục của mình vào những hoạt động văn hoá thể thao. Các nhân tố vãn hoá và xã hội dóng vai trò quan trọng trong sự hình thành hành vitính dục. Nhiều hành vitính dục viphạm sự tự nguyện hay cưỡng bức xuất phát từ sự gán cho nam tính những đặc quyển (lấn át. thô bạo, coi thường phụ nữ được CO] là tính cách của nam giói). Việc tạo ra những ảnh hưởng xã hội tích cực đến sự phát triển tính dục cần phù hợp với những đặc điểm thờiđại mà VTN dang sống: thời đại của tin học, của giao lưu văn hoá. của sự phát triển sớm hành vi tình dục và những nguy cơ lây nhiễm H1V/AIDS. Có như vậy thì cách tiếp cận và định hướng giải quyết những vấn để về phát triển tính dục ở tuổi dậy thì mới có V nghĩa thực tế. Ví dụ, sớm định hình một chương trình giáo dục giới tính đáp ứng nhu cầu hiểu biết của VTN - ban bô'những quy định luật pháp về quyền lựcvà trách nhiệm của cha mẹ, cả những quy định vê trách nhiệm và nghĩa vụ của VTN, quy dịnh tuổi không dược quan hệ tình dục, tuổi được sử dụng thuốc tránh thai và phá Lhai ... Tạo ra môi trường quan hệ bạn bè lành mạnh cho VTN. Các nhà tâm lívà giáơ dục coi trọng giai đoạn kết bạn ở tuổi thiếu nhi và tuổi VTN sớm vì nó góp phần tạo dựng một nền tảng tâm lítốt đẹp. Nếu giai đoạn này không được quan tâm đúng mức thì tình bạn và mối quan hệ khác giới lành mạnh cũng sẽkhó phát triểnđược một thành công sau này. 115
- B à i 2 3 THÊ NÀO LẢ HÃNH VI TĨNH DỤC * CÓ TRÁCH NHIỆM? Các phương tiện thông tin đại chúng đã nói nhiều đến tệ nạn VTN có hoạt động tình dục sỏm, dẫn đến nhiều hệ quả nghiêm trọng về sức khoẻ (mà nghiêm trọng nhất là nhiễm c á c bệnh lây truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS) và đạo đức xã hội. Vậy làm thê nào để VTN hiểu rằng quan hệ tình dục có trách nhiệm là sự chia sẻ của cả hai phía và chỉ trong khuôn khổ hôn nhân mối đem lạian toàn và hạnh phúc lâu bền? Cũng có nhiều lído để giải thích hiện tượng xã hội này (VTN có quan hệ tình dục sớm), một trong những lído đó là sự thiếu giáo dục vê mối quan hệ lành mạnh và có trách nhiệm giữa nam và nữ. Vậy thế nào là hành vi tình dục có trách nhiệm? Thái độ có trách nhiệm trước khi quyết định có quan hệ tình dục là khi cả hai phía nam nữ đều phải tin chắc rằng họ không bịnhiễm bấtcứ một loạibệnh lây truyền qua đường tình dục nào, kể cả HIV. Điểu này có ý nghĩa quan trọng ở chỗ nó đảm bảo an toàn cho họ và cho con cáihọ sau này. Vì vậy cả hai người đểu cần được kiểm tray têvà xét nghiệm phát hiện HIV. Từ chối những thủ tục y tếnói trên có nghĩa làthiếu quan tám đến bạn tìnhcủa mình. Cả hai phía nam nữ đều cần thông nhất với nhau về ý muốn cóthaihay chưa muốn cổ thai. Nếu chưa muốn có thai thì 116
- n ô n c bạc về việc lựa chọn phương pháp tránh thai nào ù n g b à n mà cả hai cho làthích hựp. Cả hai phía nam nữ đểu cần xác định rõ trách nhiệm của họ một khi lỡ có thai, về quan điểm về việc nạo thai, những người có trách nhiệm trong hành vi tình dục đều thống nhất rằng nạo thai không bao giờ được coi là một biện pháp dể kiểm soát sinh đẻ, vìvậy những cặp bạn tình có trách nhiệm và quan tâm đến nhau phải nói cho nhau biết nguy cơ có thể có thai vối những hậu quả của nó, chia sẻ quan điểm về mối quan hệ vợ chồng và vai trò,trách nhiệm của bậc làm cha mẹ. Cả hai phía nam nữ đều cần hiểu rõ những quan niệm của nhau về những mục tiêu Lrong đời sống và biết cùng nhau xác định những giá trị,nghĩa là họ cần hiểu rằng quan hệ tình dục là một việc nghiêm túc khi con người đà thực sự trưởng thành vể mặt thểchất, tám lívà tìnhcảm. Cá hai phía nam nữ đều phải tin rằng quan hệ tình dục chỉ làm cho tình yêu của họ tốt đẹp hơn, tincậy nhau hơn chứ không phải chỉ làsự hưởng thụ đơn thuần hay vì một động cơ không chính đáng nào dó, ví dụ như: chỉ vì muôYi thoả mãn cho bản thân, muốn chứng tỏ tính cách nam giới, muốn thoát li khỏi sự ràng buộc của bố mẹ, để trả thù, để lừa dối, để chiếm đoạt... Giáo dục thế hệ trẻ, lứa tuổi chuẩn bị vào đời và lập gia đình, không phải là để ra những cấm đoán khắc nghiệt mà là trang bịcho họ những quan niệm đúng đắn và những giá trịcủa dời sống. Những yêu cầu nói trên cần được thanh thiếu niên chấp nhận thông qua giáo dục gia đình, đoàn thể và xã hội với nhiều hình thức phong phú và sinh động nhằm tác động tới sự hiểu biết,thái độ và hành vicủa họ, xây dựng một quan hệ tình dục cótrách nhiệm. 117
- G iá o d ụ• c th ự• c h à n h tìn h d ụ• c an to à n Ngày nay khái niệm “an toàn tình dục” dược hiểu là: “sự lựa chọn hành vi tình dục đem lại sự thoải mái và bảo vệ được cho bản thân và cho những người khác không bị những hậu quả có hại đến sức khoẻ”.Với định nghĩa nói trên, tình dục an toàn nhấn mạnh đến trách nhiệm và sự lựa chọn của mỗi cá nhân trong đồi sống tìnhdục. Những hành vitình dục đem lạinguy cơ nhiễm khuẩn hoặc bị có thai không mong muốn là tình đục không an toàn. Vậy tình dục an toàn bao gồm một loạt những hành vi đem lại sức khoẻ và có tácdụng phòng ngừa: lối sống lành mạnh, tôn trọng mối quan hệ chung thuỷ với một bạn tình, sử dụng bao cao su khi có nguy cơbị lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục, sử dụng các phương pháp tránh thai đáng tin cậy và an toàn, thực hành tình dục không thô bạo, sử dụng kim và bơm tiêm riêng đã dược vô khuẩn, kiểm tra y tế khi nghi ngờ bị nhiễm cácbệnh lâytruyền tình dục. Thực hành tình dục an toàn là sự lựa chọn cần thiết khi VTN không thểvượt qua được những cảm xúc tình dục. T h ự• c h à n h tìn h d ụ• c a n to à n là m ộ• t 0giá trị* x ả hội • Thay đổi hành vi là một quá trình khó khăn và phức tạp. con người khôíig thể dễ dàng thay đổi hành vi nếu không ý thức được sự cần thiết (những nguy cơ đang đe doạ hay những lợi ích). Để giúp cho sự thay đổi hành vi sinh sản và tình dục của mỗi cá thể được thuận lợi, cần đẩy mạnh hơn nữa việc giáo dục tuyên truyền về V nghĩa phòng ngừa của thực hành tình dục an toàn, làm sao để cả cộng đồng cùng chung nhận thức rằng đó là một nếp sống văn hoá, một chuẩn mực đạo đức, một giá trị xã hội. 118
- B à i 2 4 NHỬNG BIỂU HIÊN CỦA HAM MUỐN TÌNH DỤC TUồl Vị THÀNH NIÊN Giã từtuổi thiếu nhi vô tưđể bước vào tuổivịthành niên là lúc cơ thê của các em bắt đầu có những xung năng sinh lído' ánh hưởng của các hóc-môn sinh dục (gọi là tín hiệu từ bên trong) và những tác động từ bên ngoài (phim ảnh; âm nhạc, sách báo, giáo dục gia đình... (tínhiệu từ bên ngoài), cả hai đã tạo nên bản năng tính dục. Vì vậy các em traigái tuổi vị thành niên đều có thể có những biểu hiện của sự bừng tỉnh giới tính đặc trưng của lứa tuổi này. T ư+ k íc h d u• e Nhiều bậc phụ huynh longại khi phát hiện ra con em mình có hành vi tự kích dục, sách báo xưa và nay cũng còn có ý kiến trái ngược nhau về hành vi này. Vậy nên nhìn nhận hành vi này như thế nào làđúng nhất? Tự kích dục (hay thủ dâm) có đáng lo ngại không? Tự kích dục tức là tìm khoái cảm trên chính cơ thể mình. Hành vi này thật ra đã có từ rất sóm khi các bé tự sò mó, mân mê bộ phận sinh dục của mình một cách vô tư..Đến tuổi vị thành niên, do ảnh hưởng của những tín hiệu bên trong và bên ngoài, nhiều em đã có hành vi tự kích dục. Cho tới nay, tất cả những sách giáo khoa về giáo dục tính-dụccó uy tín đều không hề chỉ trích hành vinày mà trái lại,còn coiđó làbiểu hiện của sự hình thành xu hướng tính dục khác giới. Hành vi này có tác 119
- dụng tạo lôithoát cho những xung năng tình dục, đem lạicảm giác cực khoái khi tự làm xuất tinh (với nam giới), cảm giác thoả mãn ấy đã tạm đóng lạimọi cơchếkích thích tình dục, làm dịu đi sự xung năng tình dục sôi sục, đưa cd thể trở lại trạng tháiyên tĩnh,cân bằng. Hầu hết những chuyên gia về sức khoẻ tâm thần đểu nhất trírằng kích dục làbình thường, không cóhại,thậm chícòn cần thiếtđể có sự cân bằng, ítnhất làtrong tuổi dậy thì.Một người không bao giò tự kích dục lạicó thể có vấn đề, tình cảm hoặc tình dục hơn. Trong trường hợp nào việc tự kích dục bị coi là có hại hoặc bị chê trách ? Đó là khi người thực hành tự kích dục quá lạm cỉụníí nó, gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ thể chất và tinh thần, gây xao nhãng công việchọc tập hoặc rơivào trạng thái dằn vặtvề hành vicủa mình sau đó. cầri nhắc lạilà tự kích dục là bình thường và không có hại khi nó được thực hiện để giảm bớt những thôi thúc sinh lícủa tuổi dậy thì chứ không phải phương tiện đế tìm kiếm khoái cảm một cách thường xuyên. Cái hại của sự thực hành thường xuyên (hằng ngày hoặc nhiều lần trong ngày), trong diều kiện giấu giếm, sỢ bị ngưòi khác phát hiện cho nên thường phải tạo ra khoái cảm cho thật nhanh nên có nguy cơ hình thành phản xạ xuất tinh sóm. Khi bước vào cuộc sông vợ chồng, phản xạ xuất tinh sớm sẽ trở thành một bi kịch vì đời sống tình dục của vỢ chồng đòi hỏi người nam giới phải biết và có khả năng làm chủ sự xuất tinh, nghĩa là biết trì hoãn cảm giác khoái cực. 120
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Module bồi dưỡng thường xuyên THCS - Modul 37: Giáo dục vì sự phát triển bền vững ở trường THCS
44 p | 567 | 48
-
Module bồi dưỡng thường xuyên Mầm non - Modul 43: Giáo dục vì sự phát triển biền vững trong giáo dục mầm non
46 p | 525 | 44
-
Giáo dục vì sự phát triển bền vững
42 p | 499 | 40
-
Giáo dục “vì sự phát triển bền vững” – Nội dung quan trọng trong triết lí giáo dục Việt Nam thời kì hội nhập
7 p | 200 | 27
-
Module Giáo dục thường xuyên 35: Giáo dục vì sự phát triển bền vững trong giáo dục thường xuyên - Đỗ Thị Bích Loan
42 p | 139 | 21
-
Module MN 43: Giáo dục vì sự phát triển biền vững trong giáo dục mầm non - Lê Bích Ngọc
46 p | 577 | 21
-
Tình hình học tập học phần Giáo dục vì sự phát triển bền vững thông qua hoạt động ngoại khóa của sinh viên năm thứ 4 Khoa Địa lí Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
8 p | 143 | 12
-
Module bồi dưỡng thường xuyên THPT - Module 37: Giáo dục vì sự phát triển bền vững ở trường THPT
7 p | 78 | 12
-
Giáo dục vì sự phát triển bền vững – Bước phát triển mới về chất của giáo dục môi trường
11 p | 40 | 6
-
Giáo dục đại học vì sự phát triển bền vững
8 p | 8 | 3
-
Giáo dục vì sự phát triển bền vững thông qua dạy học môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam ở bậc đại học
10 p | 20 | 3
-
Xây dựng khung lí thuyết về năng lực phát triển bền vững của sinh viên trong bối cảnh giáo dục vì sự phát triển bền vững ở Việt Nam
13 p | 11 | 3
-
Tích hợp giáo dục vì sự phát triển bền vững vào các học phần Địa lí ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội
8 p | 35 | 3
-
Giáo dục vì sự phát triển bền vững thông qua chương trình, SGK địa lý phổ thông
7 p | 45 | 3
-
Giáo dục vì sự phát triển bền vững qua tổ chức dạy học dự án khai thác năng lượng mặt trời trong dạy học Vật lí ở trường phổ thông
10 p | 56 | 3
-
Những điều kiện cơ bản đề thực hiện thành công giáo dục vì sự phát triển bền vững ở Việt Nam
13 p | 27 | 2
-
Học tập tính phát triển bền vững thập niên liên hợp quốc “Giáo dục vì sự phát triển bền vững” (2005-2014) ở Đức
12 p | 3 | 1
-
Xây dựng khung lí thuyết đánh giá chính sách Giáo dục vì sự phát triển bền vững ở Việt Nam
10 p | 5 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn