intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong chiến thắng Điện Biên Phủ và ý nghĩa đối với sự nghiệp bảo vệ tổ quốc hiện nay

Chia sẻ: Tưởng Trì Hoài | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

6
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong chiến thắng Điện Biên Phủ và ý nghĩa đối với sự nghiệp bảo vệ tổ quốc hiện nay" trình bày đặc điểm, âm mưu và thủ đoạn của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ; đường lối chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong chiến thắng Điện Biên Phủ; phân tích và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong chiến thắng Điện Biên Phủ và ý nghĩa đối với sự nghiệp bảo vệ tổ quốc hiện nay

  1. VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY Thiếu tá, ThS. Nguyễn Thị Hương Trường Sĩ quan Lục quân 2 (Đại học Nguyễn Huệ) Email: huongtrang0502@gmail.com Tóm tắt: Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu quân và dân ta đã làm nên kỳ tích Điện Biên Phủ, tiêu diệt tập đoàn cứ điểm quân sự mạnh nhất trong lịch sử chiến tranh xâm lược Đông Dương của quân đội viễn chinh Pháp và can thiệp Mỹ, buộc đối phương phải ký Hiệp định Giơnevơ, tạo tiền đề thuận lợi để Nhân dân ta bước vào cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Từ khóa: vai trò lãnh đạo của Đảng, chiến thắng Điện Biên Phủ, bảo vệ Tổ quốc. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Dân ta phải biết sử ta; Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Đây chính là lời chỉ dạy của Bác để Nhân dân Việt Nam luôn tự hào với trang sử vẻ vang của dân tộc mình. Từ ngàn xưa, chúng ta tự hào là con Rồng cháu Tiên, dòng dõi Lạc Hồng. Trải qua bao trận đánh vô cùng ác liệt, trường kỳ gian khổ, để giành lấy chiến thắng oai hùng chúng ta mới thực sự độc lập thống nhất đất nước vào ngày 30/4/1975, miền Nam hoàn toàn được giải phóng, thống nhất đất nước. Biết bao nhiêu trận đánh vang dội của Nhân dân Việt Nam, trong đó, Điện Biên Phủ là một trong những chiến thắng vĩ đại nhất của của dân tộc ta ở thế kỷ XX. Đó là thắng lợi của đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn; là chiến thắng của sức mạnh chính trị tinh thần, đoàn kết toàn dân tộc và nghệ thuật quân sự sáng tạo, độc đáo Việt Nam dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tài tình của Đảng và Bác Hồ kính yêu. 2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 2.1. Đặc điểm, âm mưu và thủ đoạn của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta. Sau hơn 7 năm (1945 - 1952) tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã mất hàng vạn sĩ quan và binh lính. Thất bại và buộc phải ngừng bắn ở Triều Tiên, đế quốc Mỹ tăng cường can thiệp vào chiến tranh Đông Dương và gánh chịu hơn 70% chi phí chiến tranh, buộc thực dân Pháp phải kéo dài chiến tranh xâm lược để phục vụ cho chiến lược toàn cầu của Mỹ. Trước những thất bại liên tiếp ở Đông Dương và phong trào đấu tranh ngày càng gia tăng của Nhân dân Pháp đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược, vấn đề cấp bách đối với thực dân Pháp là: thắng nhanh hay thua, thua hay kêu 198
  2. gọi Mỹ can thiệp. Chính phủ Pháp chủ trương yêu cầu Mỹ giúp đỡ nhiều hơn và tập trung mọi nỗ lực đẩy mạnh chiến tranh tìm lối thoát bằng thắng lợi quân sự. Chính sách quân sự của Pháp và Mỹ giai đoạn 1953 - 1954: Tháng 5/1953, được sự đồng ý của Hoa Kỳ, Tướng Henri Navarre, Tham mưu trưởng quân đội của khối Bắc Đại Tây Dương, được bổ nhiệm làm Tổng Tư lệnh lực lượng viễn chinh Pháp ở Đông Dương, một vị tướng có tầm nhìn chiến lược khá nhạy bén. Khi đến Đông Dương, Navarre phát hiện ra rằng đồng bằng Bắc Bộ không còn là trọng điểm của vùng Đông Nam Á nữa. Với thắng lợi trong Chiến dịch Đông Xuân 1952-1953, địch có căn cứ ở Tây Bắc Việt Nam và Thượng Lào để lợi dụng đường tây Trường Sơn và tiến về toàn bộ Đông Dương. Đây không chỉ là tình thế khó khăn đối với lực lượng viễn chinh Pháp mà còn là mối đe dọa nghiêm trọng đối với lực lượng phòng thủ chống cộng của Mỹ ở Đông Nam Á. Navarre vạch ra kế hoạch quân sự để Pháp và Mỹ chuyển bại thành thắng trong vòng 2 năm (1953–1954). Mục đích của kế hoạch này là tổ chức lực lượng chiến đấu chủ lực. Kế hoạch tác chiến của Navarre được chia làm hai bước: Bước 1 (từ thu đông 1953 đến xuân 1954), giữ thế phòng thủ chiến lược, tránh trận quyết định ở phía bắc, tiến hành cuộc tấn công chiến lược ở phía nam để chiếm khu tự do của ta tại Khu 5 (Nam Trung bộ) và Hậu Giang (miền Nam). Bước 2 (bắt đầu từ mùa thu năm 1954) sẽ tập trung toàn bộ lực lượng chiến đấu trên chiến trường phía Bắc, giành thắng lợi quyết định. Kế hoạch Navarre là kế hoạch chiến lược quy mô lớn và là nỗ lực cuối cùng của thực dân Pháp trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, buộc chúng ta phải chấp nhận đàm phán theo ý đồ và điều kiện của Pháp đã đưa ra. Sau khi các đợt tấn công chủ động ban đầu bị chặn đứng và Navarre nhận thấy quân ta đang tiến về hướng Tây Bắc, liền đổ quân vào Điện Biên Phủ vào ngày 20/11/1953. Sau đó, ngày 3/12/1953, Navarre quyết định biến Điện Biên Phủ thành pháo đài kiên cố nhằm tiêu diệt các trung đoàn chủ lực của Việt Minh. Điện Biên Phủ lúc này là nơi mà thực dân Pháp và sự can thiệp của Mỹ thể hiện quyết tâm và niềm hy vọng lớn nhất của chúng để vào xâm lược được Đông Dương. Chính vì vậy, kế hoạch quân sự của Navarre và sự xuất hiện của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ thực sự là một thách thức lớn đối với cuộc kháng chiến của Nhân dân ta. 2.2. Đường lối chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong chiến thắng Điện Biên Phủ Trước những âm mưu, tham vọng của kẻ thù, trí tuệ, lòng dũng cảm, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta càng tỏa sáng hơn. Phương hướng tiến công chiến lược của Đảng Đông Xuân 1953-1954 được hoạch định ngay sau chiến dịch Tây Bắc (cuối năm 1952) và xuyên suốt toàn bộ quá trình xây dựng và thực hiện kế hoạch mới. Tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II, tổ chức từ ngày 25 đến ngày 30/1/1953, phương hướng chiến lược, chỉ đạo tác chiến và định hướng tư tưởng cho cuộc đấu tranh ở chiến tranh miền Đông đã được xác định trong chiến cuộc 199
  3. Đông Xuân 1953-1954. Tại hội nghị này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc báo cáo quan trọng về xây dựng và cụ thể hóa đường lối cách mạng dân tộc dân chủ của Nhân dân và đường lối kháng chiến của Đảng. Người nhấn mạnh hai nhiệm vụ chủ yếu trong lãnh đạo kháng chiến giành thắng lợi: Một là, chỉ đạo kháng chiến và chính sách quân sự trong giai đoạn tiến công chiến lược. Thứ hai, huy động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất. Về chính sách nông nghiệp, Hội nghị nêu rõ: “Căn cứ của vấn đề dân tộc là vấn đề nông dân, vì nông dân chiếm đa số lớn nhất trong cả nước… Chúng ta mong muốn cuộc kháng chiến hoàn toàn thắng lợi, dân chủ nhân dân được thực hiện một cách trung thực”. “Chúng ta phải thực tế nâng cao các quyền kinh tế, chính trị của nông dân và phân chia ruộng đất cho nông dân”1. Về chỉ đạo kháng chiến và chính sách quân sự trong giai đoạn tiến công chiến lược Nghị quyết xác định: Một là, phương hướng chiến lược của ta trước hết là tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu để phân tán lực lượng địch, tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng tự do, tạo điều kiện giải phóng hoàn toàn miền Bắc. Hai là, quyết định phương hướng đấu tranh theo hướng chủ động đáp ứng yêu cầu phát triển của cuộc kháng chiến: quân đội ta phải đánh địch ở những nơi địch dễ bị tổn thương, ở những nơi địch dễ bị tổn thương. Đồng thời phải chủ động đi sau đánh mạnh vào hậu phương địch; Tập trung lực lượng tiến hành tấn công vào các hướng quan trọng chiến lược mà địch còn tương đối yếu nhằm tiêu diệt một phần lực lượng của địch, giải phóng các nước, đồng thời buộc chúng phải phân tán lực lượng đối mặt với địch. Ba là, tư tưởng chiến đấu hàng đầu của quân đội ta một lần nữa được khẳng định tại hội nghị này: không chủ quan coi thường địch, không nóng vội, không mạo hiểm, đánh ăn chắc, tiến ăn chắc. Nếu chắc chắn mình sẽ thắng thì hãy quyết tâm chiến đấu để giành chiến thắng. Không chắc thắng thì kiên quyết không đánh. Bốn là, về xây dựng và củng cố lực lượng vũ trang, hội nghị quyết định: Ngoài việc tăng cường quân đội chính quy và huấn luyện quân đội địa phương, các khu tự do và căn cứ du kích phải xây dựng lực lượng dân quân, du kích có tổ chức để không tách rời khỏi sản xuất, đàn áp phản kháng các nhà cách mạng, hoà bình và giữ vững trật tự, bảo vệ lợi ích của quần chúng trong đấu tranh chống giặc và phối hợp chiến đấu với bộ đội chủ lực; phải phối hợp linh hoạt giữa phía trước địch với phía sau địch. Trong giai đoạn tiến công chiến lược, cần nhận diện rõ tính chất lâu dài của cuộc kháng chiến; chúng ta phải tăng cường công tác chính trị, không ngừng nâng cao trình độ chính trị và bản chất giai cấp trong quân đội; phải luôn coi trọng việc huấn luyện chiến sĩ, phải có kế hoạch huấn luyện, bổ sung binh lính; cần từng bước củng cố, hoàn thiện trang bị của quân đội, đặc biệt là thành lập đơn vị pháo binh. 1 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.46. 200
  4. Có thể nói, đường lối chính trị - quân sự của Hội nghị Trung ương lần thứ 2 của Đảng thể hiện sự tổng kết sâu sắc về kinh nghiệm tiến hành đấu tranh vũ trang và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong những năm kháng chiến vừa qua của quân và dân ta vững bước đi đến thắng lợi. Thể hiện rõ quan điểm, tư tưởng của Đảng về nghệ thuật tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng trong giai đoạn cuối cùng này cũng như tính chủ động của Đảng ta, sẵn sàng ngăn chặn các âm mưu mới và hành động xâm lược của thực dân Pháp và sự can thiệp của Mỹ. Để chiến lược Đông Xuân 1953-1954 thành công, Đảng ta chủ trương quyết tâm đường lối đấu tranh. Tháng 9/1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh và khẳng định đường lối chiến lược đúng đắn mà Hội nghị Trung ương lần thứ tư của Đảng đã đề ra vào đầu năm 1953. Bộ Chính trị đã phê duyệt phương án tác chiến tiêu chuẩn do quân đội trình lên. Ban chỉ đạo hướng tiến công chiến lược: Tây Bắc Việt Nam, Tây Nguyên và Hạ Trung Lào là những nơi địch yếu nhưng không thể bỏ cuộc. Khi đưa lực lượng chủ lực về hướng này, ta đã buộc địch dù gặp nhiều khó khăn về tiếp tế, vận chuyển phải phân tán lực lượng để đối đầu, tranh thủ thời cơ tiêu diệt nhiều lực lượng địch và tăng cường hoạt động ở hậu phương, từ đó tạo điều kiện giải phóng đồng bằng Bắc Bộ mà không cần phải đưa quân tấn công vào đồng bằng. Bộ Chính trị đề ra phương châm hoạt động cho bộ đội ta: Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt, sẵn sàng đánh địch trong mọi tình huống. Nguyên tắc chỉ đạo tác chiến là: đánh để giành thắng lợi, đánh để tiêu diệt, chọn chỗ địch sơ hở để tấn công, chọn chỗ địch tương đối yếu để đánh. Giữ thế chủ động và kiên quyết để địch phân tán lực lượng. Mục tiêu là tiêu diệt sinh lực địch, củng cố lực lượng cho ta. Tháng 1/1953, quân ta tiến về phía Tây Bắc tiêu diệt địch, giải phóng Lai Châu, vượt biên giới Việt - Lào, phối hợp với Quân giải phóng Pathet Lào đánh địch ở miền Trung và Hạ Lào. Navarre bị đe dọa ở vị trí nguy hiểm nhất vào ngày 20/11/1953 và phải đưa quân vào Điện Biên Phủ. Chủ lực của ta nhận được lệnh bao vây Điện Biên Phủ. Ngày 3/12/1953, Navarre quyết định tiếp quản cuộc chiến Điện Biên Phủ và tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ trở thành thành trì có một không hai ở Đông Dương. Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định phát động chiến dịch chiến lược Điện Biên Phủ. Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận Điện Biên Phủ được thành lập do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh, Bí thư Mặt trận. Song song với cuộc tấn công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định phát động chiến dịch ngoại giao. Tháng 12/1953, báo Nhân Dân và Đài Tiếng nói Việt Nam đăng bài trả lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh với phóng viên báo Expressen (Thụy Điển) và bài phát biểu của Người nhân kỷ niệm 7 năm Ngày Toàn quốc kháng chiến. Người tuyên bố: “Cuộc chiến tranh ở Việt Nam là do Chính phủ Pháp gây ra. Nhân dân Việt Nam phải cầm vũ khí anh dũng chiến đấu bảy, tám năm nay chống kẻ xâm lược chính để bảo vệ nền độc lập và quyền tự do 201
  5. được sống hòa bình… Nhưng nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì Nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó”2. Cuộc kháng chiến tổng lực của Nhân dân ta đã đi đến giai đoạn quyết định, lá cờ hòa bình của Đảng và Nhân dân ta được giương cao, cùng với lá cờ quyết tâm chiến đấu và giành thắng lợi. Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị họp bàn về Kế hoạch Chiến tranh Mùa Xuân 1954 do Tổng Quân ủy trình bày. Tổng Quân ủy mong đợi như sau: Để bảo đảm quyết tâm tiêu diệt Lai Châu - Phong Sa Ly trong Đông Xuân và giải phóng Luang Prabang (Lào) của Trung ương được thực hiện, chúng ta phải xét đến trường hợp địch tăng cường Điện Biên Phủ để chuẩn bị. Chính phủ đã thành lập một phương án dự phòng thời gian ta đánh Điện Biên Phủ có thể kéo dài 45 ngày và nhấn mạnh: Ta có nhiều điều kiện thuận lợi để thực hiện chủ trương của Trung ương nhưng đồng thời cũng có nhiều khó khăn. Khó khăn lớn nhất vẫn là vấn đề cung cấp, chủ yếu là vấn đề đường sá; có rất nhiều khó khăn đòi hỏi sự tập trung lực lượng mạnh mẽ để đến kịp thời, nhưng nếu kiên quyết vượt qua khó khăn, hoàn thành chiến dịch thì thắng lợi này sẽ là thắng lợi to lớn. Ngày 20/12/1953, Bộ Chính trị họp nghe Tổng Quân ủy Trung ương báo cáo về tình hình chiến sự và tình hình Điện Biên Phủ, thông qua chủ trương, kế hoạch quân sự và chính thức quyết định việc phá hủy cụm căn cứ quân sự ở Điện Biên Phủ. Vì vậy, việc chuyển từ chỗ tránh chỗ mạnh, đánh vào điểm yếu sang chọn Điện Biên Phủ - nơi mạnh nhất của địch lúc bấy giờ để tiêu diệt là một quyết định đúng đắn, dũng cảm của Đảng ta, là bước ngoặt quyết định trong quyết tâm kháng chiến của Đảng ta khởi xướng. Công tác chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ được tiến hành hết sức khẩn trương và căng thẳng. Trước khi các đơn vị quân đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ lên đường ra mặt trận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư động viên cán bộ, chiến sĩ mặt trận Điện Biên Phủ (tháng 12/1953), động viên họ: “chiến đấu anh dũng hơn, chịu đựng gian khổ hơn, phải giữ vững quyết tâm trong mọi hoàn cảnh”3. Ngày 5/1/1954, Phân đội chỉ huy tiền phương lên đường ra mặt trận. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị cho người chỉ huy: “Trận đánh này quan trọng, chúng ta phải đánh để giành thắng lợi. Nếu chắc thắng thì đánh, không chắc thắng thì không đánh”4. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận thức sâu sắc quyết tâm chiến lược của Đảng và phương châm “Đấu tranh giành thắng lợi” căn cứ vào thực tế chiến trường. Sau 11 ngày đêm suy ngẫm, ngày 26/1/1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã quyết định chuyển từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang phương án “đánh chắc, tiến chắc”. Quyết định trên đã được Đảng ủy Mặt trận trao đổi, đồng ý và ngày 30/01/1954, được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư 2 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.340. 3 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.378. 4 Võ Nguyên Giáp (2006), Tổng tập Hồi ký, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, tr.900. 202
  6. Trường Chinh và Bộ Chính trị phê chuẩn. Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ thực hiện phương châm “đánh chắc, thắng chắc” trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, coi trọng chỉ huy các ngành, địa phương, thực hiện nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến dịch. Tháng 2/1954, Bộ Chính trị đã ban hành những chỉ thị quan trọng, tập trung lực lượng mạnh mẽ về mọi mặt nhằm đạt được mục tiêu của chiến dịch. Ngày 15/3/1954, tức 2 ngày sau khi Chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện động viên các chiến sĩ ngoài mặt trận: “Chiến dịch này là một chiến dịch lịch sử của quân đội ta, ta đánh thắng chiến dịch này có ý nghĩa quân sự và chính trị quan trọng… Ta phải cố gắng, chiến đấu kéo dài, bền bỉ, chớ chủ quan khinh địch, quyết giành toàn thắng cho chiến dịch này”5. Ngày 19/4/1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết “Về tiếp tục thấu triệt phương châm đánh chắc, đề cao quyết tâm tích cực giành toàn thắng cho Chiến dịch Điện Biên Phủ”. Những sự kiện đáng chú ý nêu trên cho thấy sự lãnh đạo của Đảng hết sức toàn diện, triệt để, đúng đắn và sáng tạo trong cuộc đấu tranh tổng lực chống địch. Làm được như vậy, Đảng ta đã khơi dậy và nhân lên sức mạnh dũng cảm, tinh thần tự giải phóng của dân tộc ta, tạo nên một sức mạnh vô địch ở Điện Biên Phủ, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân tố quyết định dẫn tới thắng lợi Đông Xuân 1953- 1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ.Thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ “được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng, hay một Đống Đa trong thế kỷ 20 và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc”6. 2.3. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay Xu hướng chính của toàn cầu hiện nay là hòa bình, hợp tác và phát triển nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ bất ổn, diễn biến phức tạp; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng khốc liệt, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa bảo hộ và các thách thức phi truyền thống về an ninh, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh... ngày càng gia tăng. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng đang xuất hiện những thách thức mới trên mọi mặt của đời sống xã hội. Sau gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, thế và lực của nước ta không ngừng được nâng cao; uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được củng cố. Tuy nhiên, khả năng chống chịu và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn hạn chế; năng suất, chất lượng, hiệu quả chưa cao; nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình và bị tụt hậu về phía sau vẫn tồn tại. Tiếp tục phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, 5 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.434. 6 Võ Nguyên Giáp (2000), Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử, Hồi ức, Hữu Mai thể hiện, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, tr.463. 203
  7. tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại - mặc dù đã đạt được những thành công quan trọng nhưng nhiệm vụ đặt ra vẫn còn rất khó khăn. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và mạnh mẽ, sự xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân bên cạnh những thuận lợi cơ bản đã và đang gắn với yêu cầu mới, đứng trước nhiều thách thức. Gặp nhiều khó khăn, thách thức về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và chính sách đối ngoại. Kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì sự nghiệp dân tộc; ý chí chiến đấu, quyết tâm giành thắng lợi và khát vọng hòa bình của Nhân dân ta được thể hiện sâu sắc, táo bạo trong các cuộc kháng chiến mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ, trong toàn Đảng, trong toàn dân ta và trong suốt cả nước. Cùng nỗ lực, đồng lòng, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh theo các Nghị quyết của Đảng và Quốc hội, tạo nền tảng vững chắc để đất nước phát triển nhanh hơn, bền vững hơn trong những năm tới cần tập trung thực hiện tốt các nội dung chủ yếu sau: Một là, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các chủ trương của Đảng. Đây là tiền đề để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và được thể hiện rõ nét trong các Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn, khó khăn về dự báo. Cơ hội và thách thức, đối tượng và đối tác đan xen; Trong khi đó, các thế lực thù địch, phản động đang tăng cường phá hoại cách mạng nước ta bằng phương pháp “diễn biến hòa bình” và nhiều thủ đoạn hết sức tinh vi, nham hiểm, đòi hỏi chúng ta phải kiên định hơn nữa với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng. Tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ của Đảng; coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm; Xây dựng đảng là chính; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; tăng cường quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên; phát triển kinh tế, xã hội phải gắn chặt với tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Trong quá trình thực hiện, phải thiết lập các mục tiêu và nguyên tắc chiến lược; linh hoạt trong chiến lược; vừa hợp tác vừa đấu tranh; đấu tranh kiên quyết, bền bỉ với mục tiêu cao nhất là kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc. Bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước thịnh vượng, dân chủ, công bằng, văn minh. Tích cực đấu tranh ngăn chặn mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội. Kiên quyết bảo vệ đường lối, quan điểm, nền tảng tư tưởng, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, toàn xã hội và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Nhân dân ta. 204
  8. Hai là, nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của toàn hệ thống chính trị, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới; khơi dậy khát vọng của dân tộc Việt Nam. Đây là một yêu cầu chiến lược cấp bách, lâu dài của cách mạng Việt Nam; Đó là nhiệm vụ chính trị quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Tập trung củng cố, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính trị và tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức trực thuộc; thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở; phát huy hơn nữa quyền làm chủ của Nhân dân. Tiếp tục xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy tinh thần độc lập, tự lực, tự chủ, chủ động, sáng tạo, phát huy lòng tin và xây dựng “thế trận lòng dân” ổn định. Lịch sử đã chứng minh, đoàn kết, kỷ luật là cội nguồn sức mạnh của Đảng, là cốt lõi của đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì vậy, chúng ta phải đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo và hiệu quả chiến đấu của các tổ chức đảng; hình thành đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của tình hình mới. Đồng thời, các cấp, ngành, cơ quan, đơn vị, tổ chức đảng, đảng viên phải tích cực ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cũng như những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ để xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Bằng cách này, các lực lượng được tập hợp, tạo ra xung lực chính trị và tinh thần, phát huy trí tuệ, sức mạnh của toàn dân để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, sức mạnh dân tộc phải gắn liền với sức mạnh của thời đại. Chúng ta cần tập trung quán triệt và thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại “độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển” của Đảng. Đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế nhằm tăng cường và nâng cao trình độ quan hệ đối ngoại đa phương và song phương; chúng ta là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Bằng cách này, tận dụng các nguồn lực và được hưởng sự đồng cảm, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để tạo môi trường hòa bình, điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để bồi dưỡng tinh thần chiến đấu, tinh thần quyết thắng của Chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng ta phải có ý chí, niềm tin và khát vọng vươn lên xây dựng một nước Việt Nam thịnh vượng. Hãy quyết tâm thực hiện và thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hướng tới dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tập trung xây dựng Chính phủ, hệ thống hành chính nhà nước liêm chính, sáng tạo, hành động và phục vụ, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư, doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và phát triển quá trình hội nhập quốc tế. Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; nâng cao chất lượng xây dựng và thực thi pháp luật; Tăng cường kỷ cương trật tự, phát huy trách nhiệm của tập thể, cá nhân, đặc biệt là người quản lý. Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và các đơn vị sự nghiệp công lập; Sự phát 205
  9. triển của khu vực tư nhân đã trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để người dân, doanh nghiệp phát triển đổi mới sáng tạo, thành lập doanh nghiệp, không ngừng đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh. Phát triển toàn diện, hài hòa kinh tế với văn hóa, xã hội, xây dựng con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững của đất nước. Thực hiện dân chủ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, nhất là đối với những người có công, các đối tượng chính sách, người nghèo, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và căn cứ địa cách mạng và các khu vực thiên tai. Đẩy mạnh hơn nữa công cuộc cải cách thủ tục hành chính liên quan đến đổi mới phương pháp quản lý, vận hành của hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương, bảo đảm công khai, thuận lợi, minh bạch, phù hợp với thông lệ trong nước và chuẩn mực quốc tế. Phát huy tiềm năng, lợi thế, thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước; Nâng cao hiệu quả quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế. Ba là, tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, toàn diện, ngày càng hiện đại, làm nền tảng vững chắc cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc “sớm và từ xa”. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, nền tảng chính trị - tinh thần, ý chí chiến đấu và chiến thắng, sức mạnh quốc phòng của toàn dân, chiến tranh nhân dân Việt Nam đã được đưa lên tầm cao mới. Để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước trong bối cảnh hiện nay, đòi hỏi phải không ngừng củng cố, tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng hướng tới sức mạnh toàn diện, ổn định lâu dài và ngày càng hiện đại. Trong đó, đặc biệt chú trọng xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, trong đó xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn liền với thế trận an ninh vững chắc của Nhân dân, nhất là ở các vùng chiến lược trọng điểm, biên giới, biển đảo. Đây là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Các cấp, các ngành, địa phương tiếp tục quán triệt và triển khai sâu sắc chủ trương chiến lược quốc phòng của Đảng, cốt lõi là xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc từ cơ sở; tạo nền tảng xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh quốc gia vững mạnh; phòng ngừa và xử lý có hiệu quả các tình huống liên quan đến quốc phòng, an ninh; đánh bại các âm mưu, thủ đoạn phá hoại của địch và các thế lực phản động; không để bị động hay bất ngờ trước bất kỳ tình huống nào. Trên cơ sở kết quả và kinh nghiệm đã đạt được trong 10 năm thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị số 28-NQ/TW, Nghị quyết 44-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới nhấn mạnh: cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về quốc phòng; tăng cường giáo dục quốc phòng, an ninh, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong nhiệm vụ bảo vệ 206
  10. Tổ quốc trong tình hình mới. Đẩy mạnh kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh và quan hệ đối ngoại; Gắn chặt việc thực hiện chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội với thực hiện chiến lược an ninh nội địa, chiến lược quốc phòng, an ninh. Mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế và đối ngoại về các vấn đề quốc phòng; tranh thủ thời cơ của việc hội nhập để nâng cao hơn nữa khả năng quốc phòng và an ninh. Tăng cường tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc; Quản lý hiệu quả các vấn đề quan trọng như an ninh biên giới, an ninh biển đảo, an ninh mạng, giải quyết hậu quả chiến tranh... góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc “sớm và từ xa”. Bốn là, không ngừng chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trước nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, chúng ta phải tiếp tục quán triệt sâu sắc đường lối chính trị, quân sự của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện. Một là, có vững mạnh về chính trị, có chất lượng toàn diện, hiệu quả chiến đấu cao, cơ cấu, tổ chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của lực lượng vũ trang nhân dân. Mỗi lực lượng quân sự thực sự là một lực lượng chính trị đáng tin cậy, một lực lượng chiến đấu trung thành tuyệt đối vì Tổ quốc, với Đảng, với Nhà nước và với Nhân dân. Đặc biệt, đẩy mạnh xây dựng quân đội, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại; Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng về mọi mặt và sự quản lý nhà nước tập trung, thống nhất của lực lượng vũ trang. Xây dựng Đảng bộ Quân đội nhân dân, Đảng bộ Công an nhân dân và các tổ chức đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp và hiệu quả chiến đấu của quân đội; ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng và lực lượng; tổ chức, sắp xếp biên chế Quân đội theo hướng tinh, gọn, mạnh, phù hợp với điều kiện tác chiến mới. Quân ủy Trung ương ban hành Nghị quyết số 847-NQ/QUTW, ngày 28/12/2021 về phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới, nêu rõ: Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, hậu cần, kỹ thuật, công nghiệp quốc phòng, an ninh; đảm bảo thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, nhất là đối với người có công với cách mạng, gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh. Các đơn vị lực lượng phải không ngừng tăng cường giám sát, chủ động đánh giá, dự báo chính xác tình hình; phối hợp chặt chẽ, tạo sức mạnh tổng hợp, xử lý nhanh chóng, hiệu quả các tình huống quốc phòng, an ninh, tránh bị động, bất ngờ cả về chiến lược cũng như trong xử lý các vụ việc cụ thể. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và phong trào thi đua Quyết thắng trong toàn quân; tăng cường kỷ luật quân đội, giữ vững tình đoàn kết, yêu thương, đoàn kết giữa cán bộ, chiến sĩ, đoàn kết quân dân; kiên quyết đấu tranh chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm thất bại âm mưu “phi 207
  11. chính trị hóa”, “dân sự hóa” lực lượng vũ trang của các thế lực thù địch. Sau gần 80 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn thể hiện rõ nét bản chất, truyền thống của một đội quân cách mạng xuất phát từ Nhân dân và chiến đấu vì Nhân dân. Đó là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, đáng tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, Quân đội ta luôn đoàn kết, gắn bó máu thịt với Nhân dân, mang tinh thần trí tuệ, dũng cảm, quyết tâm chiến đấu, quyết thắng và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước và giữ vững nhiệm vụ được giao xứng đáng với danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”, là quân đội anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng. Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và Nhân dân luôn quan tâm, chăm sóc xây dựng lực lượng vũ trang nói chung và Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng vững mạnh về mọi mặt, có chất lượng và hiệu quả chiến đấu toàn diện. Sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Quân đội nhân dân không chỉ thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của quân đội chiến đấu, mà còn thực hiện tốt chức năng đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất, góp phần thiết thực vào công cuộc xây dựng đất nước, nâng cao hình ảnh, uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Nhờ sự đóng góp, hy sinh to lớn của các lực lượng vũ trang, chúng ta giữ được độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, giữ được môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Là sự cống hiến của cán bộ, chiến sĩ ngày đêm canh gác, bảo vệ vùng trời, vùng biển, biên giới, hải đảo thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ cuộc sống yên bình, hạnh phúc của Nhân dân. Chúng ta sẽ luôn ghi nhớ công ơn to lớn của Bác Hồ kính yêu, các bậc tiền bối đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Chúng ta luôn ghi nhớ và bày tỏ lòng biết ơn đến các tướng lĩnh, cán bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong, công nhân, chiến sĩ và Nhân dân tuyến đầu trên khắp cả nước đã anh dũng chiến đấu, hy sinh, hiến xương máu để làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ và chiến thắng quan trọng khác trong các cuộc kháng chiến giành độc lập, thống nhất đất nước. 3. KẾT LUẬN Chiến thắng Điện Biên Phủ là tượng đài hùng vĩ của phẩm giá, trí tuệ, bản lĩnh và tinh thần con người Việt Nam. Điện Biên Phủ tạo nên lực lượng, ý chí và niềm tin để Nhân dân ta đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đưa nước ta đi vào kỷ nguyên độc lập, tự do và từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Điện Biên Phủ trở thành biểu tượng sức mạnh Việt Nam trong thế kỷ XX, có tác động to lớn vào lịch sử nhân loại, cổ vũ các dân tộc thuộc địa đứng lên đấu tranh thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, góp phần làm thay đổi cục diện chính trị thế giới trong thế kỷ XX. Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ngày nay đặt ra những vấn đề hoàn toàn mới. Nhưng những bài học về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Chiến dịch Điện Biên Phủ vẫn có giá trị lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Chúng ta kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện 208
  12. Biên Phủ và phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, ý chí chiến đấu và chiến thắng. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đoàn kết, chung sức đồng lòng, gắn kết sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc với sức mạnh của thời đại, chúng ta nỗ lực thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển, đưa đất nước Việt Nam ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn. 4. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. [2] Lê Duẩn (1970), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, vì tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb. Sự thật, Hà Nội. [3] Võ Nguyên Giáp (2000), Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử, Hồi ức, Hữu Mai thể hiện, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội. [4] Võ Nguyên Giáp (2006), Tổng tập Hồi ký, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội. [5] Chu Trọng Huyên (2007), Chủ tịch Hồ Chí Minh với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Nxb. Thông tấn, Hà Nội. [6] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. [7] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. 209
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2