intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vai trò và giải pháp đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển bền vững trong xu thế hội nhập

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

40
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hội nhập kinh tế khu vực và thế giới của các nước nói chung và tại Việt Nam nói riêng là xu thế tất yếu trong giai đoạn hiện nay. Việt nam là một nước có nền kinh tế thị trường phát triển chưa bền vững. Nguyên nhân chủ yếu là do các Doanh nghiệp (DN) Việt nam chậm đổi mới công nghệ (ĐMCN), sử dụng công nghệ còn lạc hậu, thiếu đồng bộ và không hiệu quả. Vì vậy, vấn đề trước mắt hiện nay của các doanh nghiệp (DN) Việt nam là phải tìm mọi biện pháp để ĐMCN, coi đó là nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa cả góc độ lý luận và thực tiễn, có tính khả thi cao.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vai trò và giải pháp đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển bền vững trong xu thế hội nhập

  1. VAI TRÒ VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRONG XU THẾ HỘI NHẬP 1 Dương Thị Vân Anh* TÓM TẮT: Hội nhập kinh tế khu vực và thế giới của các nước nói chung và tại Việt Nam nói riêng là xu thế tất yếu trong giai đoạn hiện nay. Việt nam là một nước có nền kinh tế thị trường phát triển chưa bền vững. Nguyên nhân chủ yếu là do các Doanh nghiệp (DN) Việt nam chậm đổi mới công nghệ (ĐMCN), sử dụng công nghệ còn lạc hậu, thiếu đồng bộ và không hiệu quả. Vì vậy, vấn đề trước mắt hiện nay của các doanh nghiệp (DN) Việt nam là phải tìm mọi biện pháp để ĐMCN, coi đó là nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa cả góc độ lý luận và thực tiễn, có tính khả thi cao. Trên thực tế, việc ĐMCN của Việt nam tính đến (2018) đã trải qua gần 20 năm, cũng đã đạt được một số thành tựu đáng kể, nhưng nhìn chung tình hình công nghệ còn kém phát triển. Trong hoạt động chuyển giao và ĐMCN ở Việt nam nói chung và trong các DN sản xuất nói riêng vẫn còn nhiều bất cập và thiếu đồng bộ, đã làm cho khoảng cách phát triển kinh tế của Việt nam còn cách khá xa so với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Để có thể rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển thì các DN Việt Nam phải đầu tư công nghệ một cách tích cực và đồng bộ, coi đó là nhiệm vụ trọng tâm của DN cũng như của Quốc gia trong giai này, từ đó tạo động lực để các DN Việt phát triển bền vững trong xu thế hội nhập. Từ khóa: Đổi mới công nghệ; Vai trò của đổi mới công nghệ; Giải pháp đổi mới công nghệ; Doanh nghiệp Việt Nam; Phát triển bền vững. 1. VAI TRÒ CỦA ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Bước vào nền kinh tế cạnh tranh, hội nhập sâu rộng thì việc DN phải chủ động ĐMCN để tạo ra được các loại hàng hóa cạnh tranh là điều tất yếu. Xu hướng đi thẳng vào công nghệ cao để có giá trị tăng cao hơn đang được nhiều DN áp dụng, việc chủ động loại bỏ công nghệ cũ, thay thế bằng công nghệ hiện đại không những có ý nghĩa về mặt kinh tế, an sinh xã hội mà còn có tác động tốt đến môi trường sống của người dân. Vì vậy, ĐMCN là một tất yếu khách quan trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu. Vậy, ĐMCN là hoạt động nghiên cứu nhằm cải tiến, đổi mới công nghệ đã có (trong và ngoài nước), góp phần cải thiện chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Với một công nghệ ở một thời điểm nhất định sẽ có một giới hạn về năng lực sản xuất sản phẩm với một lượng đầu vào đã cho. ĐMCN là một tiến bộ về công nghệ. Tiến bộ đó nằm dưới dạng phương pháp mới về sản xuất hay kỹ thuật mới tổ chức, quản lý hay marketing mà nhờ đó sản phẩm sẽ được tạo ra với năng suất cao hơn, chất lượng tốt hơn, chi phí sản xuất thấp hơn, từ đó giá cả có thể giảm xuống (xét về mặt hiệu quả kinh tế của công nghệ). Bên cạnh đó, còn có hiệu quả về mặt xã hội, việc ĐMCN còn góp phần giảm ô nhiễm môi trường, tạo thêm nhiều ngành nghề mới, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, cơ cấu lại ngành kinh tế theo vùng, lãnh thổ,… * Viện Kế toán- Kiểm toán,Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, Việt Nam, tác giả nhận phản hồi: . Tel.: +84974704999. E-mail address: anhdtv@neu.edu.vn
  2. INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION 1103 ĐMCN bao gồm ba giai đoạn kế tiếp nhau, đó là: Phát minh; Đổi mới và truyền bá (thương mại hóa). Trong đó: - Phát minh: Là giai đoạn đầu tiên tạo ra tiến bộ công nghệ. Đây là quá trình tìm tòi các ý tưởng mới và biến chúng thành các giải pháp kĩ thuật công nghệ cụ thể nhằm giải quyết một vấn đề nào đó trong sản xuất và đời sống. Kết quả của nó là ý tưởng khoa học, những giải pháp về sản phẩm mới, phương pháp mới để thực hiện một số dịch vụ hoặc sản xuất một loại sản phẩm nào đó. - ĐMCN và sản phẩm: Đây là ứng dụng thương mại đầu tiên của phát minh. Dựa trên các ý tưởng khoa học hoặc các giải pháp kĩ thuật đã có để chế thử các mẫu đầu tiên, phát triển, sản xuất thử và thử nghiệm việc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. - Truyền bá: Là giai đoạn cuối cùng nghĩa là việc ứng dụng công nghệ được lan truyền từ nơi đầu tiên mà nó được sáng tạo và triển khai sang các nơi khác. Ngày nay do công nghệ luôn biến đổi trong chu kỳ sống của nó, trong mỗi giai đoạn nhất định, một công nghệ có thể phù hợp với thị trường có nghĩa là sản phẩm do nó sản xuất có thể tồn tại trên thị trường, nhưng đến một giai đoạn nào đó, thì công nghệ không còn phù hợp nữa. Do đó, ĐMCN là một nhu cầu tất yếu và phù hợp với qui luật phát triển của kinh tế và xã hội. Như vậy, công nghệ càng thể hiện rõ vai trò quyết định việc tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, hàng hóa cũng như thúc đẩy sự phát triển mang tính bền vững của chính DN. Việt nam ngày càng gia nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới, với tự do hóa mạnh mẽ cùng những chuẩn mực mới sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho các DN phát triển, mở rộng thị trường, tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. ĐMCN sẽ giúp cho các DN Việt Nam phát triển bền vững, như: - Nâng cao năng lực sản xuất: Theo báo cáo của Tổng cục thống kê, tỷ lệ ĐMCN trong giai đoạn 2015-2016 thấp hơn so với chỉ tiêu đặt ra. Điều này đã tác động tới hiệu quả đổi mới và mức độ hợp tác giữa DN với các tổ chức khoa học và công nghệ (KH&CN), đặc biệt là các Viện nghiên cứu; các trường Đại học của Việt Nam trong giai đoạn này về mức độ sẵn sàng công nghệ; hiệu quả chuyển giao công nghệ; hiệu quả đổi mới; mức độ hợp tác giữa DN với các tổ chức KH&CN. Tuy nhiên, mức độ đầu tư cho ĐMCN của các DN Việt nam vẫn còn thấp so với yêu cầu phát triển, tỷ trọng đầu tư cho KH&CN của DN chỉ chiếm khoảng 1% GDP và tập trung vào vào các DN lớn, còn các DN vừa và nhỏ, các DN tư nhân hầu như chưa tham gia vào hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D)(research& development), đa phần các DN này ĐMCN một cách thụ động, mang tính tình huống, do nhu cầu phát sinh trong quá trình kinh doanh, không có kế hoạch dài hạn, phương thức được sử dụng phần lớn là nguồn công nghệ nhập khẩu. Nhận định về thực trạng ĐMCN của DN Việt nam, Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Văn Tùng cho biết, chính phủ Việt nam cũng như Bộ KH&CN đặc biệt coi trọng việc thúc đẩy, hỗ trợ hoạt động ĐMCN trong DN. Việc xác định lấy DN làm trung tâm của đổi mới KH&CN; xây dựng và triển khai các chính sách hỗ trợ của Nhà nước thông qua việc hình thành các quỹ phát triển KH&CN của từng DN và quỹ ĐMCN Quốc gia ; các quỹ hỗ trợ DN vừa và nhỏ từ quy mô Quốc gia đến quy mô Địa phường, các chương trình Quốc gia thuộc các Bộ, ngành. Điều này thể hiện quyết tâm của chính phủ Việt nam cũng như các Bộ, ngành trong việc tập trung nỗ lực, nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng lấy KH&CN và hoạt động đổi mới sáng tạo làm nền tảng, tạo động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước.
  3. 1104 HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUỐC GIA Qua đó, có thể khẳng định rằng, để các DN Việt Nam tồn tại và phát triển bền vững, các DN phải không ngừng ĐMCN, ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh, chỉ có ĐMCN để nâng cao năng lực sản xuất, năng suất, chất lượng, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ mới đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của thị trường. - Doanh nghiệp, trung tâm của ĐMCN, sáng tạo: ĐMCN là nhu cầu tự thân vận động của DN, Nhà nước chỉ tạo môi trường pháp lý thuận lợi mà không làm thay DN, ĐMCN sẽ tạo điều kiện cho DN mở rộng thị trường sản phẩm, đồng thời thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và phát triển nhằm tạo ra các sản phẩm mới, quy trình mới, công nghệ mới. Theo Ông Nguyễn Đình Bình , giám đốc quỹ ĐMCN Quốc gia, trong bối cảnh kinh tế hiện nay, thì DN ngày càng thể hiện vai trò quan trọng, chủ động trong hoạt động ĐMCN, cũng theo Ông Vũ Trung Dũng, Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần sơn Hải phòng cho rằng: Trong hoạt động ĐMCN, DN đóng vai trò chủ động vì chỉ có DN mới hiểu rõ hơn hết nhu cầu thị trường, vị thế sản phẩm của mình trên thị trường và đánh giá chính xác hơn về khả năng tài chính, trình độ công nghệ, trang thiết bị trong dây chuyền sản xuất của chính DN, qua đó đưa ra những kế hoạch, quyết sách chuẩn xác để đầu tư, ĐMCN sao cho đạt hiệu quả cao nhất. ĐMCN là một trong những động lực để DN hội nhập thành công và nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Trong quá trình này, tổ chức KH&CN đóng vai trò quan trọng như một cầu nối giữa chính sách và DN, là chất xúc tác cho quá trình chuyển hóa chính sách, nguồn lực chính phủ thành giải pháp công nghệ hữu ích cho DN (theo quan điểm Ông Nguyễn mạnh Quân, Viện trưởng viện nghiên cứu và phát triển DN, Trường Đại học kinh doanh và công nghệ Hà nội). Nhận định về vai trò của DN trong ĐMCN, Thứ trưởng Trần Văn Tùng khẳng định thêm, để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước không cách nào khác phải đặt DN làm vị trí trung tâm của ĐMCN và sáng tạo. Qua đó, có thể khẳng định rằng, để các DN Việt Nam tồn tại và phát triển bền vững, các DN phải không ngừng ĐMCN, ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh, chỉ có ĐMCN để nâng cao năng lực sản xuất, năng suất, chất lượng, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. 2. THỰC TRẠNG ĐMCN VÀ NHỮNG HẠN CHẾ VỀ ĐMCN CỦA CÁC DN VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 2.1. Thực trạng đổi mới công nghệ trong thời gian qua Thời gian qua, với sự quan tâm của tỉnh, ngành chức năng, các chính sách hỗ trợ DN về công nghệ đã đạt được một số kết quả nhất định, giúp DN ĐMCN, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Theo đó, trong khuôn khổ chương trình khuyến công, giai đoạn 2011-2016, tỉnh đã thực hiện được 59 đề án, với tổng kinh phí khoảng 89 tỷ đồng (kinh phí từ chương trình khuyến công khoảng 7 tỷ đồng, còn lại là từ nguồn tự đầu tư của DN). Kinh phí hỗ trợ của chương trình khuyến công khoảng từ 200-500 triệu đồng/đề án. Về cơ bản, chương trình đã kịp thời khuyến khích, hỗ trợ các cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn nâng cao năng lực quản lý, hợp lý hóa và mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, tìm kiếm, mở rộng thị trường, nâng cao năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm và từng bước hội nhập kinh tế quốc tế. Một số mô hình trình diễn kỹ thuật đã đem lại kết quả cao, hỗ trợ cho ĐMCN trên địa bàn. Tại hội nghị về hoạt động Trung tâm ứng dụng tiến bộ KH&CN năm 2017 tại Đà nẵng, Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Văn Tùng cho biết, trong thời gian qua các Trung tâm ứng dụng tiến bộ KH&CN đã tích cực thực hiện vai trò phục vụ quản lý Nhà nước về định hướng ứng dụng tiến bộ KH&CN vào các lĩnh vực đời sống và bảo vệ môi trường phục vụ cơ chế, chính sách về hoạt động ứng dụng, đổi mới và chuyển giao
  4. INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION 1105 công nghệ. Đây là đầu mối tiếp nhận, lựa chọn được những kết quả nghiên cứu công nghệ mới cần áp dụng, nhân rộng tại địa phương, thực hiện nhiều hợp đồng dịch vụ tư vấn, chuyển giao công nghệ khoảng 6000 hợp đồng/ năm, tăng trưởng trung bình 15%/ năm; giá trị hợp đồng tư vấn, chuyển giao công nghệ khoảng 80 tỷ đồng / năm, tăng trưởng trung bình từ 10-15%, cũng theo Ông Tùng, một số kết quả úng dụng, chuyển giao công nghệ điển hình, như: Công nghệ nuôi cấy mô tế bào,; công nghệ vi sinh trong sản xuất chế phẩm sinh học; sản xuất giống nấm; công nghệ trồng rau bằng hệ thống thủy canh; công nghệ sản xuất vật liệu mới composite; công nghệ xử lý nước thải thành nước uông; công nghệ bảo toàn và phát triển nguồn gen... Riêng giai đoạn từ 2016 - 2017, có 62 đề tài và 88 dự án đã và đang thực hiện trên nhiều lĩnh vựcvới tổng kinh phí 232 tỷ đồng. Năm 2017, các Trung tâm đã thực hiện nhiệm vụ tư vấn và chuyển giao công nghệ trong các lĩnh vực chế biến thực phẩm, công nghệ sinh học công nghệ xử lý môi trường, công nghiệp, năng lượng kiểm nghiệm với tổng số 3.352 hợp đồng trị giá 65 tỷ đồng. Một số DN cũng được hỗ trợ để nghiên cứu, đổi mới dây chuyền, công nghệ sản xuất và tham gia các nhiệm vụ khoa học và công nghệ của tỉnh. Điển hình, Công ty cổ phần đầu tư xuất nhập khẩu An Phong Đắk Nông đã được chủ trì thực hiện Đề tài khoa học cấp tỉnh về áp dụng quy trình chế biến hồ tiêu, với tổng kinh phí khoảng 1,8 tỷ đồng. Đề tài đã được nghiệm thu và đang được đưa vào chế biến, kinh doanh hồ tiêu tại DN. Công ty còn được Sở KH&CN hỗ trợ về trình tự, thủ tục hồ sơ trong quá trình thực hiện đề tài và đã nhận được phản hồi tích cực từ DN. Ngoài ra, Sở KH&CN cũng đã hỗ trợ để công nhận DN công nghệ cho Công ty TNHH thực phẩm công nghệ cao NASA; hỗ trợ thủ tục để Công ty An Phong tìm kiếm nguồn hỗ trợ từ Quỹ ĐMCN Quốc gia. Và cũng tại Đề án “Hỗ trợ và phát triển DN trên địa bàn tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2018-2020, định hướng đến năm 2030” vừa được UBND tỉnh phê duyệt, một trong những chính sách mà Tỉnh chú trọng, tập trung hướng đến, đó là hỗ trợ DN về công nghệ. Theo đó, DN sẽ tiếp tục được hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất bằng việc thực hiện các mô hình điểm về ứng dụng và chuyển giao khoa học công nghệ. DN được ưu tiên tiếp cận các thành tựu khoa học kỹ thuật đã được ứng dụng và chuyển giao thành công tại các tỉnh có điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tương đồng, để hạn chế các rủi ro và chi phí thực hiện. DN cũng được hỗ trợ một phần chi phí khi nhận chuyển giao công nghệ, đầu tư mua máy móc, thiết bị sản xuất theo hợp đồng chuyển giao, mua sắm. 2.2. Những hạn chế về đổi mới công nghệ trong thời gian qua và nguyên nhân Mặc dù, Đảng và Chính phủ cũng như Bộ KH&CN đã quan tâm nhiều đến lĩnh vực công nghệ, trong thời gian qua nhiều công nghệ mới được ứng dụng đã phát huy được hiệu quả rõ dệt. Tuy nhiên, theo đánh giá, việc thực hiện các chính sách hỗ trợ KH&CN cho DN thời gian qua vẫn còn một số hạn chế nhất định, chủ yếu liên quan đến quy mô vốn hỗ trợ cho DN. Quy mô vốn hỗ trợ từ các chương trình khuyến công còn thấp so với nhu cầu đầu tư của nhiều DN. Tổng kinh phí hỗ trợ từ chương trình khuyến công chỉ chiếm chưa đến 8% tổng kinh phí của các dự án được tài trợ. Cụ thể, Công ty Cổ phần đầu tư tài chính AST đầu tư Nhà máy sản xuất gạch Tuynel với tổng kinh phí khoảng 60 tỷ đồng, nhưng chỉ nhận được 250 triệu đồng từ chương trình. Công ty An Phong đầu tư dây chuyền sản xuất tiêu khoảng 60 tỷ đồng, nhưng chỉ nhận được 200 triệu đồng hỗ trợ. Các hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ KH&CN cho DN cũng rất hạn chế, với số lượng DN được hỗ trợ rất ít. Ngoài ra, việc kết nối DN tham gia các hội chợ công nghệ (Techmart) chưa đạt nhiều kết quả, chưa thu hút được sự tham gia của DN. Nhìn chung, các hoạt động kết nối này chưa đem lại hiệu quả cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN. Có thể khái quát một số hạn chế cơ bản về ĐMCN như sau: Thứ nhất: Trình độ và năng lực công nghệ nhìn chung được nâng lên ở mức độ nhất định, nhưng với tốc độ còn chậm.
  5. 1106 HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUỐC GIA Trong mấy năm qua, việc ĐMCN còn chậm được thực hiện trong nhiều ngành. Đơn cử như các DN sản xuất công nghiệp thì hệ số ĐMCN chung cho các DN trong toàn ngành công nghiệp chỉ đạt khoảng từ 8-10%/ năm. Trong đó, ngành cơ khí đạt mức 6-7% là rất thấp. Trong khi đó, các nước trong khu vực có tốc độ ĐMCN gấp đôi, khoảng từ 15-20%. Công nghệ tiên tiến mới chỉ ở mức từ 20,5- 28,5%, công nghệ trung bình chiếm 50%. Một số ngành công nghiệp chiếm trên 50% như: Ngành công nghiệp nhựa, cao su (54%), chế biến thực phẩm ( 65,5%). Tình trạng này bắt nguồn từ một số nguyên nhân sau: - Do đặc điểm các DN thiếu vốn nên chủ yếu nhập các thiết bị đã qua sử dụng và được sản xuất trung bình khoảng từ 20- 30 năm trước. - Khả năng tiếp nhận công nghệ của các DN còn thấp, việc ĐMCN buộc các DN phải thay đổi cơ cấu tổ chức, tiến hành đào tạo nguồn nhân lực cho tiếp nhận công nghệ. Điều này còn chưa được chú trọng ở Việt Nam. - Nhà nước, Bộ, Ngành có liên quan chưa thường xuyên thực hiện kiểm tra chặt chẽ đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của DN, để ngăn ngừa các trường hợp nhập các máy móc, thiết bị quá cũ hoặc đã lạc hậu dùng không hiệu quả hoặc có những tác hại đối với môi trường. - Chưa quan tâm đúng mức đến khoa học công nghệ, trong đó có ĐMCN. Theo thông tin từ Bộ KH&CN: Phần lớn các DN của Việt nam đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới từ 2 đến 3 thế hệ. Mặt khác, công nghệ của nước ta chủ yếu dựa vào nguồn nhập khẩu từ các nước có nền khoa học công nghệ phát triển, như: Mỹ, Nga, Nhật, Hàn Quốc... Thứ hai: Tình trạng chuyển giao công nghệ còn gặp nhiều khó khăn: Trong quá trình mở cửa hợp tác đầu tư, vấn đề chuyển giao công nghệ rất được quan tâm không chỉ ngành mà các DN cũng vậy. Tuy nhiên, đối với nước ta, yếu tố chuyển giao công nghệ còn thấp, nhiều trường hợp công nghệ lạc hậu, thiết bị cũ được nhập vào nước ta gây ảnh hưởng đến năng suất lao động và môi trường sinh thái. Bên cạnh đó, việc giám định công nghệ không chặt chẽ làm cho giá công nghệ nhập thường cao hơn công suất và chất lượng của nó, gây tổn thất lớn về kinh tế. Nguyên nhân gây ra tình trạng này là do: - Thiếu thông tin về thị trường công nghệ. Trên thực tế, các DN ít có sự hiểu biết về thị trường công nghệ làm cho việc lựa chọn công nghệ cho phù hợp với điều kiện của Việt nam là rất khó khăn, việc không nắm rõ được công nghệ sản xuất thế nào? so sánh công nghệ này với công nghệ khác, của thị trường này với thị trường khác, dẫn đến nhập khẩu những công nghệ lạc hậu, giá cả cao, nhưng chất lượng lại kém. - Do sự thiếu chặt chẽ của các văn bản quy định về việc chuyển giao công nghệ của Nhà nước. Điều này dẫn đến sự lợi dụng sơ hở này của bên chuyển giao để thực hiện chuyển giao không chính thức, còn các DN trong nước thì không định hướng được các thủ tục cho chuyển giao công nghệ. - Việc quản lý xuất, nhập khẩu công nghệ còn thiếu chặt chẽ. Điều này đã làm cho nhiều công nghệ không đạt tiêu chuẩn hoặc lạc hậu được đưa vào Việt Nam. Thứ ba: Vai trò quản lý, hướng dẫn các DN của các cơ quan Nhà nước về khoa công nghệ còn nhiều hạn chế: Điều này thể hiện qua các điểm sau: - Việc ĐMCN của các DN chưa gắn với quy hoạch và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhà nước chưa có văn bản cụ thể để hướng dẫn, quản lý trong việc ĐMCN, quy định cụ thể đối với các loại công nghệ được đổi mới, quy định các thông số kinh tế - kỹ thuật cho công nghệ được đổi mới. Trong các chủ trương, chính sách của Nhà nước chưa có những khuyến khích đối với các DN trong hoạt động ĐMCN. - Trong quá trình ĐMCN, các DN còn lúng túng trước những vấn đề, như: Lựa chọn cơ hội, lĩnh vực đầu tư; Lựa chọn công nghệ, thiết bị; Lựa chọn đối tác; Vấn đề hợp đồng chuyển giao...các DN rất cần sự hướng dẫn, giúp đỡ của Nhà nước và các cơ quan tư vấn. Nhưng thực tế trong những năm qua, vai trò này của Nhà nước là rất mờ nhạt và chưa được coi trọng.
  6. INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION 1107 - Cơ chế kiểm soát chuyển giao công nghệ chưa hiệu quả, các quy định của Nhà nước đối với ĐMCN nói chung và chuyển giao công nghệ nói riêng là chưa cụ thể và có hiệu lực thấp. Điều này làm cho công việc kiểm soát các công nghệ nhập là rất khó khăn, nên các DN thường nhập vào những công nghệ kém chất lượng, gây ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên và kinh tế, cũng vì không có văn bản quy định những khoản mục về hợp đồng chuyển giao công nghệ nên các DN gặp nhiều khó khăn trong việc làm thủ tục chuyển giao, bên bán công nghệ lợi dụng sơ hở này trong khi ký hợp đồng và thực hiện những điều khoản có lợi cho họ. Khi có sự cố xẩy ra không ràng buộc được trách nhiệm đối với bên giao công nghệ. Thứ tư: Chưa có mối quan hệ chặt chẽ giữa các DN và các cơ quan nghiên cứu khoa học, công nghệ. Trong những năm vừa qua, công tác nghiên cứu và triển khai công nghệ ở Việt nam đã bắt đầu phát triển, nhiều bằng phát minh sáng chế, các đề tài khoa học về ĐMCN ngày một tăng cả về số và chất lượng. Ngoài số lượng các sáng chế đã được đăng ký ở cục sở hữu công nghiệp vẫn còn nhiều phát minh sáng chế chưa được đăng ký. Nguyên nhân của tình trạng này bắt nguồn từ: - Do sản phẩm của các DN của Việt nam chưa chịu nhiều hoặc mới bắt đầu chịu sức ép mạnh của cạnh tranh, nên chưa khích thích được nhu cầu về sản phẩm sáng tạo. - Do thiếu thông tin về thị trường công nghệ trong nước. Do đó một số trường hợp cần đến sản phẩm sáng tạo lại không biết tìm kiếm và mua ở đâu. Việc thiếu thông tin về những thành quả sáng tạo còn dẫn đến tình trạng lãng phí tiền đầu tư vào nghiên cứu phát triển, một số cơ sở nghiên cứu vẫn đang đầu tư tiền và nhân lực để nghiên cứu những đề tài mà đã có kết quả nghiên cứu từ lâu. Thứ năm: Trình độ nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế: Nước ta hiện có một đội ngũ lao động trong ngành công nghệ khá lớn, có kinh nghiệm và kỹ năng thành thạo với trình độ công nghệ và tổ chức quản lý hiện đại. Nhưng trong điều kiện hiện nay, khi trình độ công nghệ tăng trưởng nhanh và cơ chế thị trường ngày càng phát triển, thì đội ngũ lao động trong lĩnh vực công nghệ lại tỏ ra còn yếu kém, chưa theo kịp với sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại. Đối với cán bộ lãnh đạo thì thiếu kiến thức và kinh nghiệm quản lý kinh tế, quản lý công nghệ, điều hành không linh hoạt, thiếu chính xác nên hiệu lực và hiệu quả kém. Đối với bộ phận kỹ sư, thì một bộ phận đáng kể không còn đủ kiến thức, kỹ năng để thực hiện nhiệm vụ quản lý sản xuất, xử lý những vấn đề kỹ thuật công nghệ có tính phức tạp. Còn đối với bộ phận công nhân bậc cao, khoảng 50% có bậc thợ cao là do làm việc lâu năm, do chính sách.. nên khả năng tiếp cận với công nghệ mới là hạn chế. Nhìn chung, tác phong công nghiệp, tinh thần trách nhiệm, tính kỹ thuật còn yếu. Điều này xuất phát từ một số nguyên nhân sau: - Do cơ chế, chính sách của các DN Việt nam chưa đồng bộ và ổn định, DN chưa thực sự tuyển dụng người theo đúng chuyên môn, vẫn đang còn tình trạng chi phối bởi tình cảm, thậm chí còn xẩy ra tình trạng tiêu cực trong tuyển dụng. Vì vậy, nhiều lao động có năng lực tốt chưa được sử dụng một cách hiệu quả. - Chưa có sự liên kết giữa DN với các Trường đại học về đào tạo nguồn nhân lực. Hầu hết nguồn nhân lực đó khi về các DN đều phải đào tạo lại, khiến cho các DN phải mất thời gian cũng như chi phí để đào tạo lại và cũng mất nhiều thời gian cho việc tiếp nhận công nghệ mới. - Các DN còn thiếu cơ sở để đào tạo, bổ sung và nâng cao kiến thức cho đội ngũ cán bộ, công nhân hiện có để có thể thích nghi với các công nghệ được đổi mới. 3. GIẢI PHÁP CHO ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ CỦA CÁC DN VIỆT NAM 3.1. Các giải pháp mang tính vĩ mô * Thứ nhất: Nhà nước phải gắn chặt hoạt động ĐMCN của các DN với các quy hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước:
  7. 1108 HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUỐC GIA Muốn vậy Nhà nước, ngành, địa phương cần tập trung xác định các chương trình, dự án trọng điểm, các lĩnh vực cần được đấu tư, từ đó có các chính sách khuyến khích các DN ĐMCN để phục vụ cho các mục tiêu kinh tế - xã hội mà Nhà nước đề ra. Các chính sách đó như: giảm thuế suất hoặc giảm thuế trong những năm đầu áp dụng công nghệ mới, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, cung cấp thông tin, tư vấn công nghệ… * Thứ hai: Nâng cao chất lượng thẩm định các dự án đổi mới công nghệ. Theo giải pháp này, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Bộ KH&CN; Bộ KH&ĐT; Bộ Tài Chính, các cơ quan địa phương …) cần phối hợp với nhau tổ chức, đánh giá các dự án đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả của vốn đấu tư. Đồng thời ban hành các văn bản pháp quy về thủ tục kiểm tra, đánh giá, lựa chọn công nghệ và Hợp đồng chuyển giao công nghệ giúp cho các chủ đầu tư thực hiện chuyển giao công nghệ dễ dàng hơn, từ đó các chủ đầu tư ra quyết định chuyển giao công nghệ một cách chính xác và hiệu quả nhất. * Thứ ba: Xây dựng đầy đủ hệ thống thông tin về thị trường công nghệ trong nước và ngoài nước: Đối với thị trường công nghệ ngoài nước, Nhà nước xây dựng các cơ quan thông tin về công nghệ ở nhiều nước khác nhau, giúp cho các DN trong nước có nhu cầu đổi mới có thể tìm hiểu, so sánh về giá cả, chất lượng để tránh tình trạng nhập công nghệ với giá cao mà công nghệ thực chất lại lạc hậu, chất lượng kém. Đối với thị trường công nghệ trong nước, Nhà nước phải có cơ chế gắn chặt các DN với các cơ quan nghiên cứu và triển khai để giúp các DN có thể áp dụng các sáng chế, cải tiến kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và tiết kiệm được chi phí nhập khẩu từ nước ngoài. Ngày nay, với sự phát triển công nghệ thông tin toàn cầu, các thông tin về công nghệ có thể được công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng để giúp cho các DN trong việc lựa chọn công nghệ phù hợp, đạt hiệu quả cao. * Thứ tư: Hoàn thiện khung pháp lý giúp cho các DN có thể chuyển giao công nghệ một cách dễ dàng mà đạt hiệu quả cao: Thực hiện cải cách thủ tục hành chính, hoàn thiện khung pháp lý có liên quan đến KH&CN, quy định chặt chẽ các điều khoản khi nhập khẩu công nghệ, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các hợp đồng ký kết về nhập khẩu công nghệ hoặc chuyển giao công nghệ và tình hình thực hiện hợp đồng cả về số lượng, chất lượng, thời gian, giá cả... nhằm hạn chế đến mức cao nhất việc nhập khẩu những máy móc thiết bị đã cũ, lạc hậu vào Việt nam, gây thiệt hại về kinh tế cho DN và môi trường cho xã hội. . * Thứ năm: Hoàn thiện hệ thống giáo dục đâò tạo, tạo điều kiện cho những người đi học tập ở nước ngoài về làm việc. Nước ta hiện có nhiều trường Đại học và Trung học chuyên nghiệp, trong đó các trường đào tạo kỹ thuật và quản lý chiếm tỷ lệ lớn. Tuy nhiên, do chất lượng đào tạo chưa cao, chưa đáp ứng nhu cầu thực tế. Do đó, Nhà nước cần có những biện pháp nhằm hoàn thiện hệ thống giáo dục đào tạo sao cho phù hợp với thực tế trong nước và thế giới hiện nay. Bên cạnh đó, hàng năm có một số lượng lớn những người đi học ở nước ngoài, với những môi trường đào tạo tốt, những người này có điều kiện tiếp thu những kiến thức mới về khoa học công nghệ. Đây là lực lượng rất cần cho quá trình phát triển nền khoa học công nghệ trong nước và tiếp thu nguồn công nghệ từ bên ngoài vào Việt nam. Vì thế, Nhà nước cần có những chính sách cho những người này trở về trong nước làm việc. Có như vậy mới nâng cao được năng lực công nghệ trong nước và tiếp nhận thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra trên thế giới. * Thứ sáu: Thành lập quỹ hỗ trợ ĐMCN Quốc gia: Việc thành lập Quỹ hỗ trợ ĐMCN Quốc gia được hầu hết các đại biểu quốc hội cho là cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế. như hiện nay. Theo đại biểu Huỳnh Minh Hoàng ( Bạc Liêu), trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Nhà nước không thể tiếp tục thực hiện hỗ trợ trực tiếp cho DN và nông dân. Việc thành lập
  8. INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION 1109 quỹ riêng để hỗ trợ cho việc tăng cường tiềm lực công nghệ, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, nâng cao năng lực cạnh tranh cho hai đối tượng này là rất cần thiết. Điều này cũng không trái với quy tắc WTO. Đặc biệt, việc hỗ trợ cho các ngành, DN ĐMCN giờ là chậm so với các nước trong khu vực, như: Thái Lan 30% là công nghệ cao, Malaysia là 51%, Singapore 73%, còn Việt Nam hiện nay tỷ lệ sử dụng công nghệ cao chỉ 2%. Để Quỹ này có thêm kinh phí, theo TS. Mai Anh (Khánh Hoà) gợi ý, trong phân chia thu nhập từ chuyển giao công nghệ được tạo ra bằng ngân sách Nhà nước, thì Nhà nước cũng nên thu lại một phần tỷ lệ nào đó để bổ sung cho Quỹ, bởi nếu Quỹ chỉ trông chờ vào nguồn ngân sách Nhà nước thì cũng sẽ bị hạn hẹp. Ngoài ra, DN tham gia mua công nghệ này cũng nên được hưởng một phần từ giá trị chuyển giao công nghệ. 3.2. Các giải pháp mang tính vi mô * Thứ nhất:. Tìm hiểu những thông tin về thị trường công nghệ và những thủ tục liên quan đến vấn đề chuyển giao công nghệ: Viêc tìm hiểu thông tin về thị trường công nghệ sẽ giúp cho các DN biết được những thông tin về công nghệ mà DN đang cần, như: Có bao nhiêu loại công nghệ như vậy, ở những nước nào, chất lượng và giá cả của loại đó ở mỗi nước ra sao?. Đồng thời DN phảităng cường tìm hiểu thông tin về thi trường công nghệ trong nước qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc các cơ quan có liên quan, từ đó DN so sánh, lựa chọn phương án công nghệ có hiệu quả và quyết định chuyển giao. Bên cạnh đó, DN còn phải tìm hiểu về thủ tục chuyển giao công nghệ. Từ trước đến nay, các DN thường gặp khó khăn trong việc ký kết hợp đồng, chuyển giao, lắp đặt….Trong nhiều hợp đồng bên chuyển giao áp đặt những điều kiện có lợi cho họ và khi sự cố xảy ra đối với công nghệ thì không phân biệt được trách nhiệm thuộc về ai. Vì vậy, DN cần tìm hiểu những thông tin về thủ tục liên quan đến chuyển giao công nghệ để cho việc chuyển giao được tiến hành thuận lợi. * Thứ hai: Chuẩn bị một lực lượng lao động có trình độ cao: Để tiếp nhận công nghệ mới, trình độ công nghệ sẽ thay đổi và có xu thế là cao hơn trình độ công nghệ hiện tại. Do đó, để làm chủ được các công nghệ mới này đòi hỏi các DN phải có một lực lượng cán bộ kỹ thuật có trình độ cao hơn. Lực lượng này có thể được đào tạo tại các cơ sở đào tạo của DN, DN có thể mời các chuyên gia trong nước và chuyên gia nước ngoài về cơ sở để giảng dạy cho cán bộ công nhân viên. Các DN cũng có thể gửi cán bộ đi học ở các trường đào tạo trong nước hoặc nước ngoài để giúp họ có kiến thức tốt đáp ứng nhu cầu của việc vân hành công nghệ mới. Bên cạnh đó, ngay từ khi DN có kế hoạch ĐMCN, DN có thể liên hệ với các trường ĐH hoặc các trường dạy nghề để đào tạo về ngành, nghề mà DN đang cần. Như vậy, việc chuẩn bị một lực lượng lao động có trình độ là cơ sở cho việc ĐMCN của DN đạt hiệu quả cao. * Thứ ba: DN phải tiến hành đánh giá những nguồn lực hiện có trong và ngoài DN. Việc đánh giá các nguồn lực hiện có trong DN là làm rõ khả năng thực sự của DN (mặt mạnh, mặt yếu, cơ hội, thách thức...), khả năng phản ứng kịp thời, thích nghi với sự biến động của môi trường nhất là trước các nguy cơ và cơ hội. Nội dung của việc đánh giá này là đánh giá về năng lực sản xuất hiện tại của DN (tình trạng máy móc hiện tại) và về các yếu tố liên quan đến nguồn nhân lực (trình độ nghề nghiệp của công nhân, cơ cấu lao động, trình độ cán bộ lãnh đạo,…). Còn đánh giá các nguồn lực ngoài DN là việc đánh giá thị trường đối với sản phẩm, nguồn nguyên liệu, các đối thủ cạnh tranh… Việc đánh giá này giúp cho DN xem xét nên đổi mới hay mở rộng sản xuất, quy mô như thế nào cho phù hợp với thị trường và với nguồn nguyên liệu; Đổi mới ở khâu nào? và chính sách đối với nguồn nhân lực ra sao?… Như vậy, căn cứ vào việc phân tích này, DN thực hiện một cách có hiệu quả hoạt động ĐMCN.
  9. 1110 HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUỐC GIA * Thứ tư: DN phải tăng cường phối hợp với các tổ chức tài chính, tăng cường liên kết hợp tác, liên doanh với nước ngoài. Ngày nay trong điều kiện chuyên môn hóa, phân công lao động xã hội ngày càng cao, một DN không thể có đủ các nguồn lực để có thể thực hiện tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, DN phải liên doanh, liên kết, hợp tác để có thể nâng cao năng lực sản xuất của mình và sử dụng nguồn lực hiện có một cách hiệu quả. Với điều kiện liên doanh, liên kết các DN có thể huy động thêm vốn hoặc liên doanh góp vốn với nước ngoài để tăng cường hoạt động ĐMCN. 4. KẾT LUẬN Qua phân tích trên, có thể khẳng định rằng ĐMCN để giúp DN phát triển bền vững trong xu thế hội nhập hiện nay có ý nghĩa thực tế rất quan trọng, là một tất yếu khách quan trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. ĐMCN không những giúp cho DN có một diện mạo mới, có thế đứng trên thường trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay mà còn giúp cho người dân có một môi trường sống trong sạch hơn, lành mạnh hơn. ĐMCN cũng là cơ hội cho các DN Việt nam có thể dễ dàng trong thu hút đầu tư, liên doanh liên kết, nhằm tạo ra quy mô vốn lớn cho DN trong việc ĐMCN. Tuy nhiên, để cho việc ĐMCN được tiến hành đồng bộ, thuận lợi và đạt hiệu quả cao thì Việt nam phải có một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chặt chẽ và phải có sự vào cuộc của các bộ phận có liên quan, như: Ban lãnh đạo DN; Các cơ quan quản lý Nhà nước, Bộ KH&CN và một số Ban, Ngành liên quan khác. Như vậy, ĐMCN chính là con đường cơ bản nhất để cho các DN Việt Nam phát triển bền vững trong xu thế hội nhập. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tài liệu [1] Đổi mới công nghệ - Bài toán khó của nhiều doanh nghiệp, bài đăng trên trang Thông tin Đài phát thanh truyền hình thanh hóa ngày 14/11/2016. [2] Hoàng Tuyết, “Cấp thiết đổi mới công nghệ để hội nhập”, Bài đăng trên Trang bao tin tức.vn, ngày 18/12/2015. [3] Báo cáo đánh giá khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ở Việt Nam [4] Năng lực cạnh tranh và công nghệ ở cấp độ doanh nghiệp, năm 2013 [5] Đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp Việt nam: cần những chế tài đủ mạnh. [6] Cùng hợp tác để đổi mới công nghệ, bài đăng trên Trang điện tử Sở khoa học và công nghệ TPHCM, 30/9/2013. [7] Đề tài nghiên cứu cấp Bộ năm 2016, MS: ĐTKHCN. 196/16, do TS.Dương Đức Tâm làm chủ đề tài, với chủ đề “ Nghiên cứu, đề xuất giải pháp thúc đẩy đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp vừa và nhỏ” , [8] Thực trạng và nhu cầu đổi mới công nghệ trong các DN Việt nam, Tạp chí KH&CN Việt Nam (khoahocvacongnghevietnam.com.vn). [9] Đổi mới công nghệ- nền tảng phát triển bền vững cho DN ( LAODONG.VN - Báo lao động). [10] Hội thảo “ Đổi mới công nghệ - vai trò của DN, tổ chức KH&CN và cơ quan quản lý”, ngày 27/10/2017. [11] Theo bài viết của Thu Hà “Đồng hành cùng DN đổi mới công nghệ” 2. Website [1] sokhcn.vinhphuc.gov.vn/noidung/tintuc/Lists/KhoaHocCongNghe/View_Detail.aspx?ItemID=2321 [2] www.baovinhlong.com.vn/kinh-te/cong-nghiep/201606/de-doi-moi-cong-nghe-o-cac-doanh-nghiep-vua-va- nho-2707842/WBLDutWLQdU [3] www.worldbank.org/content/dam/Worldbank/document/EAP/Vietnam/Vietnam-STI-review-executive- summary-TIENGVIET-FINAL.pdf
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0