intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vấn đề dùng thuốc

Chia sẻ: Ha Thi Hoang | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

53
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Có phải uống thuốc "không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc"? Chẳng hạn như nhiều người thích "vô nước biển" cho khỏe? Hoặc tại một số hội nghị, viên sủi bọt chứa vitamin C được dùng làm nước uống giải khát suốt mấy ngày. Những điều như thế phải chăng là có lợi cho sức khỏe? - Nếu cho rằng "Uống thuốc không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc" thì chắc chắn có ngày ta sẽ bị "bổ ngửa" vì hậu quả dùng thuốc bừa bãi, tùy tiện và bị tai biến do thuốc. "Vô nước biển" như...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vấn đề dùng thuốc

  1. Vấn đề dùng thuốc
  2. Tác giả : TS. DS. NGUYỄN HỮU ÐỨC (Tiếp theo và hết) * Có phải uống thuốc "không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc"? Chẳng hạn như nhiều người thích "vô nước biển" cho khỏe? Hoặc tại một số hội nghị, viên sủi bọt chứa vitamin C được dùng làm nước uống giải khát suốt mấy ngày. Những điều như thế phải chăng là có lợi cho sức khỏe? - Nếu cho rằng "Uống thuốc không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc" thì chắc chắn có ngày ta sẽ bị "bổ ngửa" vì hậu quả dùng thuốc bừa bãi, tùy tiện và bị tai biến do thuốc. "Vô nước biển" như nhiều người thường gọi là một cách dùng thuốc, đưa thuốc vào cơ thể bằng đường tiêm tĩnh mạch nhỏ giọt. Ðúng là vô nước biển sẽ làm cơ thể khỏe nhưng chỉ là với một số bệnh nhân đặc biệt như người bệnh nặng bị hôn mê, bị mất nước trầm trọng (sẽ phải dùng dịch truyền cung cấp nước và chất điện giải), người bệnh bị suy dinh dưỡng
  3. nặng và không thể ăn uống qua đường miệng (sẽ dùng dịch truyền cung cấp đạm, chất béo, vitamin v.v...). Còn người không bị bệnh gì, đã khỏe lại muốn khỏe hơn bằng cách "vô nước biển" thì nên coi chừng các nguy cơ như bị "sốc dịch truyền", bị lây nhiễm các căn bệnh đang gây kinh hoàng trên thế giới như HIV/AIDS, viêm gan siêu vi B, C, bị phù tim, thận v.v... Ðối với vitamin C, trước hết cần ghi nhận đây là chất dinh dưỡng (cùng các vitamin khác) hàng ngày được cung cấp qua thức ăn thức uống. Nếu ta ăn uống đầy đủ chất thì không sợ thiếu vitamin, trong đó có vitamin C. Ðối với các chất dinh dưỡng, lượng cung cấp hàng ngày được khuyến cáo bởi bảng RDA (viết tắt của "Recomended Dietary Allowances", tạm dịch là "Bảng khuyến nghị về lượng các chất dinh dưỡng cần được cung cấp hằng ngày" là 60mg. Nếu chỉ để bổ sung hàng ngày, lượng cung cấp chỉ nên gấp 4-5 lần RDA (còn nếu chữa bệnh, lượng cung cấp có thể gấp 100-1.000 lần RDA).
  4. Vì vậy, ở một số đối tượng có nguy cơ thiếu vitamin C (như người hút thuốc lá nhiều, phụ nữ có thai, cho con bú...) hàng ngày nên bổ sung khoảng 200-300mg vitamin C. Tuy nhiên, hiện nay trên thị trường có rất nhiều vitamin C dạng thuốc viên sủi bọt chứa liều cao (1.000mg dược chất trong 1 viên). Như vậy, mỗi ngày chỉ cần dùng một viên sủi vitamin C 1.000mg là cũng đã quá nhiều (so với 200-300mg như khuyến cáo). Nếu cứ dùng 2-3 viên như nước giải khát thì phải cảnh giác vì dùng vitamin C liều cao lâu ngày có thể sẽ gây tiêu chảy, loét đường tiêu hóa (nhất là uống vào lúc bụng trống), gây sỏi thận (sỏi oxalat). Riêng dạng thuốc sủi bọt, người đang kiêng muối (như bị bệnh tăng huyết áp được bác sĩ khuyên ăn lạt) phải tránh dùng (1 viên sủi bọt thường chứa từ 274-460mg natri, mà thực chất kiêng muối chính là kiêng natri). * Uống thuốc có phải tuyệt đối tuân theo chỉ định của y, bác sĩ? Không được uống một vài lần, thấy bớt rồi bỏ dở.? Có
  5. được lấy toa thuốc cũ ra mua uống lại? Có phải báo ngay cho bác sĩ điều trị những triệu chứng khác thường sau khi uống thuốc? Lại có nhiều người khi đến khám bác sĩ là cố nài nỉ xin được tiêm thuốc. Có thật tiêm thuốc luôn là biện pháp tối ưu? - Chỉ định của y bác sĩ về việc dùng thuốc đúng là mệnh lệnh bắt buộc, bởi vì chỉ định đó đã được cân nhắc rất kỹ để khi uống thuốc, thuốc sẽ phát huy được tác dụng chữa bệnh cao nhất, phòng bệnh và hạn chế thấp nhất (thậm chí không xảy ra) các tác dụng phụ có hại. Phải uống thuốc đủ liều, đủ thời gian, không được bỏ dở. Không nên dùng lại toa thuốc cũ vì có thể ta đã bị bệnh mới, hoặc bệnh cũ tái phát nhưng tiến triển theo phương thức khác và thuốc cũ không còn hiệu nghiệm (như loét dạ dày lâu ngày trở thành ác tính, khi đó phải được chữa trị như bệnh ung thư). Khi đang uống thuốc nếu có những triệu chứng bất thường phải báo ngay cho bác
  6. sĩ điều trị biết, vì có thể đã bị các tác dụng phụ rất nguy hiểm mà chỉ có bác sĩ mới có đủ khả năng xử trí. Còn về vấn đề tiêm thuốc, từ lâu một bộ phận người dùng thuốc thường quan niệm rằng: "Dùng thuốc tiêm tốt hơn thuốc uống, nếu được tiêm sẽ mau hết bệnh, bác sĩ giỏi là bác sĩ chỉ định thuốc tiêm". Chính quan niệm này đã dẫn đến việc lạm dụng thuốc tiêm. Ðể giảm thiểu tình trạng này, cần phải thông tin tuyên truyền cho mọi người hiểu rằng: "Tiêm thuốc nguy hiểm hơn uống thuốc, chỉ tiêm trong những trường hợp cần thiết và những trường hợp này là rất ít so với uống thuốc vẫn mau hết bệnh mà lại rất an toàn". * Ở ta vẫn còn một số toa thuốc bác sĩ ghi không rõ chữ, có nhiều thuốc chỉ định bất hợp lý, thậm chí cho rất nhiều thuốc không cần thiết. Chúng ta phải làm sao trước thực trạng này? - Bộ Y tế đã ban hành quy chế kê đơn thuốc. Nếu thực hiện đúng, mọi chuyện liên quan đến đơn thuốc như kê toa rõ ràng, chỉ định thuốc an toàn và hợp lý (không dư thừa theo
  7. kiểu "bao vây") sẽ diễn ra trôi chảy, hạn chế được rất nhiều hậu quả đáng tiếc. Ở các nước tiên tiến, từ lâu người ta đã tiến hành công tác "Dược lâm sàng", nay nâng lên thành công tác "Chăm sóc Dược khoa" (Pharmaceutical Care). Mối liên hệ giữa bác sĩ và dược sĩ được xây dựng rất tốt, các toa thuốc của bác sĩ trước khi đến tay người bệnh đều được dược sĩ (được thừa nhận là chuyên gia về thuốc) góp ý thật hoàn chỉnh nhằm tránh những sai sót có thể xảy ra. Các bác sĩ cũng rất hoan nghênh việc góp ý có tính sàng lọc những bất hợp lý (prescription screening). Còn ở ta công tác Dược lâm sàng mới được khởi đầu. * Thuốc "gốc" hay thuốc "tương đương" là thế nào? Các công ty dược phẩm trong nước thường sản xuất thuốc "gốc", như thế có tương đương với thuốc ngoại cùng loại? - Khi thuốc mới ra đời, nó sẽ hưởng quyền "sở hữu công nghiệp" trong một thời gian nhất định tùy vào quốc gia sản xuất, thông thường từ 7-10 năm. Thuốc sẽ có tên thương mại
  8. (brand name) và khi đăng ký với tên thương mại đó sẽ được gọi là biệt dược (trước đây còn gọi là đặc chế, Specialité). Khi đã hết hạn của quyền sở hữu công nghiệp, thuốc được đưa vào sở hữu công cộng. Người hoặc công ty khác có thể sản xuất nhưng không được sử dụng tên biệt dược đã được đặt trước đây, mà chủ yếu sử dụng tên dược chất cấu tạo ra thuốc, gọi là tên gốc (generic name). Dược phẩm mang tên gốc được gọi là thuốc "gốc" hay là thuốc "tương đương" (ý nói tương đương với biệt dược ra đời đầu tiên). Tuy nhiên, nhiều khi thuốc gốc lại được nhà sản xuất đăng ký tên biệt dược mới. Thí dụ dược chất là diclofenac được đăng ký với tên biệt dược đầu tiên là Voltarene; Sau thời gian bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, nhiều nhà sản xuất thuốc gốc có tên Diclofenac. Bên cạnh đó có các thuốc biệt dược mới như Xenid, Allvoran, Anfena, Flector, Forgenac, Inflamac v.v... Trên nguyên tắc, thuốc đã được sản xuất phải đảm bảo chất lượng, nếu là thuốc gốc bắt buộc phải tương đương với biệt
  9. dược ra đời đầu tiên, nếu không thì được cho là kém phẩm chất. Ở khá nhiều nước, thuốc phải được chứng minh có cùng sinh khả dụng (bioavailability) hoặc một vài dạng đặc biệt như thuốc cho tác dụng kéo dài phải chứng minh bằng công trình nghiên cứu là đạt tương đương sinh học (bioequivalence) với biệt dược ra đời đầu tiên. Ở nước ta, các xí nghiệp, công ty dược phẩm trong nước đang phấn đấu đạt GMP (thực hành sản xuất thuốc tốt), chủ yếu cho ra đời các thuốc "gốc" tương đương với thuốc nước ngoài, thậm chí là biệt dược đầu tiên. Thực tế nhiều thuốc do ta sản xuất đã được ghi nhận là có chất lượng không thua kém thuốc nhập từ nước ngoài, vì vậy quan niệm cho rằng "thuốc ngoại luôn tốt hơn thuốc nội" có lẽ đã trở thành lỗi thời.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2