134<br />
<br />
VẤN ĐỀ QUỐC TỊCH TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ<br />
<br />
<br />
DELPHINE ARNOUD<br />
Phòng quốc tịch, Vụ dân sự và ấn tín<br />
Bộ Tư pháp, Cộng hòa Pháp<br />
<br />
<br />
Hội thảo là dịp để đề cập đến một số vấn đề thực tiễn về quan hệ nhân thân có yếu tố<br />
nước ngoài.<br />
<br />
Do vậy, trong bài phát biểu của mình, tôi xin trình bày về một trong các yếu tố liên<br />
quan đến nhân thân, đó là: Quốc tịch.<br />
<br />
Cụ thể hơn, tôi xin được trình bày về những khó khăn thực tế mà các công dân của<br />
Việt Nam, Campuchia, Lào và Pháp gặp phải trong lĩnh vực quốc tịch.<br />
<br />
Sau đây, tôi xin được trích dẫn một đoạn trong cuốn sách "Người Pháp là gì?" của nhà<br />
chính trị học Patrick WEIL, chuyên gia nghiên cứu về chính sách nhập cư và quốc tịch,<br />
thay cho phần mở đầu của bài phát biểu. Thực vậy, Patrick WEIL đã bắt đầu cuốn sách<br />
bằng một loạt các câu hỏi sau:<br />
<br />
"Cơ sở nào để xác định một người là công dân Pháp? Bởi vì người đó sinh ra tại Pháp?<br />
Bởi vì người đó có cha, mẹ hoặc tổ tiên là người Pháp? Làm thế nào để cha, mẹ hoặc<br />
tổ tiên của người đó trở thành người Pháp? Liệu có phải họ cũng sinh tại Pháp? Cũng<br />
có cha, mẹ, tổ tiên là người Pháp? Kết hôn với một người Pháp? Hay họ đã được nhập<br />
quốc tịch Pháp? Người Pháp là gì?<br />
<br />
Ngày nay, những câu hỏi này thường xuyên được đặt ra đối với những người Pháp khi<br />
họ phải gia hạn thẻ căn cước: Bởi vì chỉ đến khi ấy, họ mới nhận ra rằng mình không<br />
thể chứng minh được quốc tịch Pháp".<br />
<br />
Thực vậy, qua đây, chúng ta có thể thấy rằng chứng minh một quốc tịch không phải là<br />
điều đơn giản, nhất là khi nhân thân của người có liên quan có gắn với yếu tố nước<br />
ngoài.<br />
<br />
Trước hết, tôi xin lưu ý rằng trong đa số trường hợp, quốc tịch Pháp được xác lập kể từ<br />
thời điểm một người sinh ra: khi đó, quốc tịch được xác lập là quốc tịch gốc.<br />
<br />
Tuy nhiên, pháp luật cũng cho phép người nước ngoài được nhập quốc tịch Pháp: trong<br />
trường hợp này, quốc tịch Pháp được xác lập sau sinh, trên cơ sở tuyên bố nhập quốc<br />
tịch (do kết hôn với công dân Pháp…) hoặc nhập quốc tịch theo quyết định của cơ<br />
quan có thẩm quyền hoặc đương nhiên nhập quốc tịch khi đến tuổi thành niên do sinh<br />
ra và cư trú tại Pháp.<br />
<br />
Ngoài ra, pháp luật Pháp quy định đương sự có nghĩa vụ chứng minh quốc tịch Pháp<br />
nếu không có giấy chứng nhận quốc tịch.<br />
<br />
Trong trường hợp được hưởng quốc tịch theo thủ tục tuyên bố nhập quốc tịch, giấy tờ<br />
chứng minh đã có sẵn và đương sự có nghĩa vụ trình bản sao tuyên bố nhập quốc tịch<br />
đã được đăng ký hoặc bản sao giấy khai sinh có chú thích về việc hưởng quốc tịch<br />
Pháp. Nếu không có các giấy tờ này, đương sự phải trình giấy xác nhận của cơ quan có<br />
thẩm quyền trực tiếp tiến hành đăng ký tuyên bố nhập quốc tịch.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp<br />
135<br />
<br />
Trong trường hợp nhập quốc tịch50 hoặc trở lại quốc tịch51 theo quyết định của cơ quan<br />
có thẩm quyền, chứng cứ chứng minh là Công báo có đăng quyết định đó. Nếu không<br />
có được chứng cứ này, đương sự phải trình giấy xác nhận của Bộ có thẩm quyền hoặc<br />
bản sao giấy khai sinh có chú thích về việc nhập quốc tịch Pháp theo quyết định của<br />
cơ quan có thẩm quyền.<br />
<br />
Ngược lại, nếu quốc tịch Pháp là quốc tịch gốc, thì việc xác định quốc tịch gốc dựa trên<br />
hai nguyên tắc:<br />
<br />
Nguyên tắc huyết thống (jus sanguinis)<br />
<br />
và nguyên tắc nơi sinh (jus soli)<br />
<br />
Theo quy định pháp luật Pháp, một người được hưởng quốc tịch Pháp khi có từ hai thế<br />
hệ sinh ra trên lãnh thổ Pháp. Giấy tờ chứng minh trong trường hợp này là giấy khai<br />
sinh.<br />
<br />
Ngược lại, nếu một người được hưởng quốc tịch Pháp từ khi sinh ra theo nguyên tắc<br />
huyết thống, nhưng không sinh ra tại Pháp thì việc chứng minh quốc tịch để được cấp<br />
giấy chứng nhận quốc tịch Pháp tương đối khó khăn. Thực vậy, trong trường hợp<br />
đương sự sinh ra trên lãnh thổ trước kia từng là thuộc địa của Pháp, thì có thể nói<br />
nghĩa vụ chứng minh sẽ tăng lên gấp đôi. Bởi vì đương sự một mặt, phải chứng minh<br />
được mình đã được hưởng quốc tịch Pháp như thế nào trước khi đất nước độc lập<br />
(thường do một quy định pháp luật đặc biệt theo đó không được phép áp dụng hai lần<br />
nguyên tắc quyền nơi sinh) và mặt khác, phải chứng minh làm sao giữ được quốc tịch<br />
Pháp sau khi đất nước độc lập.<br />
<br />
Xuất phát từ những nhận xét này cũng như nội dung chủ đạo của Hội thảo và bối cảnh<br />
lịch sử giữa hai nước Việt Nam và Pháp, bài trình bày của tôi sẽ đi sâu vào phân tích<br />
tình hình và những khó khăn của các công dân Pháp có quan hệ với Việt Nam.<br />
<br />
Phần một giới thiệu về bối cảnh Đông Dương trong thời kỳ thuộc địa của Pháp. Phần<br />
hai tập trung trình bày về Hiệp định Pháp-Việt ngày 16 tháng 8 năm 1955. Hiệp định<br />
này giải quyết vấn đề quốc tịch nảy sinh sau khi Việt Nam giành được độc lập và đặc<br />
biệt là kể từ năm 1949. Phần ba trình bày về tình hình hiện nay.<br />
<br />
I. ĐÔNG DƯƠNG TRONG THỜI KỲ THUỘC ĐỊA CỦA PHÁP<br />
<br />
Trước hết, chúng ta phải tìm hiểu về tình hình của Đông Dương trong thời kỳ thuộc địa<br />
của Pháp<br />
<br />
Xuất phát từ đặc điểm đa dạng về quy chế lãnh thổ, pháp luật quốc tịch Pháp được áp<br />
dụng cho các vùng lãnh thổ đó trong giai đoạn này rất phức tạp. Thực vậy, Đông<br />
Dương lúc ấy được chia thành:<br />
<br />
Nam Kỳ<br />
<br />
3 vùng tô giới: Hà Nội, Hải Phòng và Tourane (Đà Nẵng)<br />
<br />
4 xứ bảo hộ: An Nam (Trung Kỳ), Bắc Kỳ, Cao Miên (Campuchia) và Lào.<br />
<br />
Nam Kỳ và 3 vùng tô giới có quy chế lãnh thổ Pháp. Người dân của Nam Kỳ và 3 vùng<br />
tô giới có quốc tịch Pháp nhưng không được mặc nhiên hưởng các quyền công dân<br />
<br />
<br />
<br />
50<br />
ND: Tiếng Pháp là "naturalisation".<br />
51<br />
ND: Tiếng Pháp là "réintégration".<br />
<br />
<br />
Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp<br />
136<br />
<br />
Pháp. Để được hưởng các quyền này, người yêu cầu phải tiến hành một thủ tục đặc<br />
biệt.<br />
<br />
Người dân của An Nam, Bắc Kỳ, Lào và Cao Miên có quy chế bảo hộ của Pháp nhưng<br />
không có quốc tịch Pháp. Để được nhập quốc tịch Pháp, người yêu cầu phải tiến hành<br />
thủ tục "xin hưởng các quyền công dân52".<br />
<br />
Sau khi Luật ngày 10 tháng 8 năm 1927 được ban hành, pháp luật về quốc tịch tại<br />
Đông Dương đã phân biệt quy chế về nhân thân của từng cá nhân, giống như đã phân<br />
biệt đối với các vùng lãnh thổ hải ngoại khác của Pháp. Theo đó, có sự phân biệt giữa<br />
những người được hưởng quy chế thông thường và những người được hưởng quy chế<br />
đặc biệt.<br />
<br />
Sau khi có sự thay đổi quy chế chính trị tại Đông Dương theo các Hiệp định ngày 8<br />
tháng 3 năm 1949, các quy định pháp luật riêng về quốc tịch Pháp ngừng được áp<br />
dụng cùng với việc chuyển giao chủ quyền. Tuy nhiên, trên thực tế, việc áp dụng vẫn<br />
được phép kéo dài cho đến ngày 29/8/1953 đối với Lào và Campuchia và ngày 16<br />
tháng 8 năm 1955 (ngày ký Hiệp định Pháp-Việt) đối với Việt Nam.<br />
<br />
Ở Việt Nam, quy định pháp luật riêng về quốc tịch Pháp trước đây được thay thế bằng<br />
cơ chế phân chia mới giữa Pháp và Việt Nam dựa trên tiêu chí dân tộc và được quy<br />
định cụ thể tại Hiệp định ngày 16 tháng 8 năm 1955 về quốc tịch (Nghị định ngày<br />
22/4/1959, đăng Công báo ngày 3/5/1959).<br />
<br />
II. HIỆP ĐỊNH PHÁP-VIỆT NGÀY 16 THÁNG 8 NĂM 1955<br />
<br />
Có hiệu lực kể từ ngày ký, Hiệp định Pháp-Việt đã cho phép giải quyết được hầu hết<br />
các vấn đề nảy sinh tại Đông Dương.<br />
<br />
Hiệp định này áp dụng trước hết đối với mọi người Việt chính gốc, không phân biệt nơi<br />
sinh.<br />
<br />
Khái niệm người Việt chính gốc được định nghĩa tại Điều 1 Hiệp định như sau: Người<br />
Việt chính gốc là người có cha mẹ là người Việt Nam; hoặc là người dân tộc thiểu số cư<br />
trú trên lãnh thổ Việt Nam.<br />
<br />
Hiệp định này cũng áp dụng đối với những người Việt lai Pháp (eurasiens), tức những<br />
người có cha hoặc mẹ là người Pháp và người còn lại là người Việt chính gốc.<br />
<br />
Ngoài ra, Hiệp định cũng giải quyết các vấn đề liên quan đến huyết thống, kết hôn và<br />
nhập quốc tịch theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.<br />
<br />
Nguyên tắc<br />
<br />
Người Pháp không có nguồn gốc Việt Nam và không phải là con lai Pháp-Việt thì mang<br />
quốc tịch Pháp (Điều 2 Hiệp định Pháp-Việt); các chủ thể pháp luật Pháp trước đây<br />
sống ở Nam Kỳ và Lào có quốc tịch Việt Nam (Điều 3).<br />
<br />
Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng đã có một số ngoại lệ:<br />
<br />
Cụ thể là, một số người Việt chính gốc được đương nhiên giữ quốc tịch Pháp.<br />
Tuy nhiên, những người này vẫn có thể lựa chọn quốc tịch Việt Nam: quy định này<br />
đặc biệt áp dụng đối với người từ 18 tuổi trở lên vào thời điểm Hiệp định có hiệu lực<br />
và có quy chế chung theo Nghị định hoặc bản án cho hưởng quyền công dân (khoản<br />
1 Điều 4) trước ngày 8 tháng 3 năm 1949 (ngày bàn giao lãnh thổ) hoặc người đã<br />
<br />
52<br />
ND: Tiếng Pháp là "admission aux droits de citoyen".<br />
<br />
<br />
Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp<br />
137<br />
<br />
có quốc tịch Pháp tại Pháp theo quy chế chung về quốc tịch đối với người nước<br />
ngoài (khoản 2 Điều 4) hoặc công dân Pháp sinh ra đã có quốc tịch Pháp (Điều 5).<br />
<br />
Ngoài ra, đối với những người Việt chính gốc hưởng quy chế công dân Pháp<br />
theo các điều kiện kể trên từ sau ngày 8 tháng 3 năm 1949, những người này mang<br />
quốc tịch Việt Nam trừ trường hợp lựa chọn quốc tịch Pháp (Khoản 3 Điều 4).<br />
<br />
Tương tự, nguyên tắc này cũng áp dụng đối với người Việt chính gốc sinh ra sau khi<br />
ông, bà, cha, mẹ… được công nhận tư cách công dân Pháp theo Nghị định hoặc quyết<br />
định của Tòa án có thẩm quyền của Pháp.<br />
<br />
Tuy nhiên, trong trường hợp này, người yêu cầu nhập quốc tịch Pháp phải trình giấy<br />
khai sinh để chứng minh mối quan hệ huyết thống với người được hưởng quy chế công<br />
dân Pháp theo Nghị định hoặc quyết định của Tòa án.<br />
<br />
Người Việt lai Pháp<br />
<br />
Đối với người Việt lai Pháp, tiêu chí phân biệt là mốc 18 tuổi vào thời điểm Hiệp định<br />
có hiệu lực.<br />
<br />
Người thành niên (từ 18 tuổi trở lên) mang quốc tịch Pháp, trừ trường hợp lựa chọn<br />
quốc tịch Việt Nam (Điều 6).<br />
<br />
Người chưa thành niên dù sinh ra sau khi ký kết Hiệp định, vẫn mang quốc tịch theo<br />
cha, trừ trường hợp có sự lựa chọn khác khi đến tuổi thành niên (Điều 9 và 10).<br />
<br />
Kết hôn giữa người Việt và người Pháp<br />
<br />
Hiệp định cũng giải quyết vấn đề quốc tịch của người vợ, trong trường hợp kết hôn<br />
giữa người Việt và người Pháp.<br />
<br />
Trong trường hợp việc kết hôn được thực hiện trước khi Hiệp định có hiệu lực, người vợ<br />
có quyền lựa chọn quốc tịch theo quốc tịch của chồng. Cụ thể là phụ nữ Pháp kết hôn<br />
với công dân Việt Nam thì được quyền chọn quốc tịch Việt Nam và ngược lại, phụ nữ<br />
Việt Nam kết hôn với công dân Pháp thì được quyền chọn quốc tịch Pháp (Điều 11).<br />
<br />
Tiếp đến, Hiệp định cũng giải quyết vấn đề quốc tịch của người vợ trong trường hợp<br />
việc kết hôn giữa người Việt và người Pháp được thực hiện sau khi Hiệp định có hiệu<br />
lực.<br />
<br />
Cụ thể là, trong trường hợp kết hôn giữa người vợ mang quốc tịch Pháp và người<br />
chồng mang quốc tịch Việt Nam được thực hiện tại Pháp hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam,<br />
thì người vợ vẫn giữ nguyên quốc tịch Pháp, trừ trường hợp có tuyên bố khác theo quy<br />
định của pháp luật Pháp.<br />
<br />
Nếu kết hôn tại Việt Nam, thì người vợ trở thành công dân Việt Nam, trừ trường hợp<br />
có tuyên bố khác theo quy định của pháp luật Việt Nam (Điều 12).<br />
<br />
Trong trường hơp kết hôn giữa người vợ mang quốc tịch Việt Nam và người chồng<br />
mang quốc tịch Pháp được thực hiện tại Việt Nam hoặc ngoài lãnh thổ của Pháp, người<br />
vợ vẫn giữ nguyên quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp có tuyên bố khác theo quy định<br />
của pháp luật Việt Nam. Nếu kết hôn tại Pháp, thì người vợ trở thành công dân Pháp,<br />
trừ trường hợp có tuyên bố khác theo quy định của pháp luật Pháp.<br />
<br />
Nếu trước đó, người vợ mang quốc tịch Việt Nam không có yêu cầu nhập quốc tịch<br />
theo chồng thì sau này, vẫn có thể tuyên bố nhập quốc tịch do kết hôn. Tương tự đối<br />
<br />
<br />
<br />
Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp<br />
138<br />
<br />
với trường hợp người chồng mang quốc tịch Việt Nam và người vợ mang quốc tịch<br />
Pháp.<br />
<br />
Trong mọi trường hợp, không phân biệt thời điểm kết hôn là trước hay sau khi Hiệp<br />
định có hiệu lực, người vợ đã chuyển quốc tịch theo chồng do kết hôn có quyền yêu<br />
cầu trở lại quốc tịch cũ sau khi chấm dứt thời kỳ hôn nhân.<br />
<br />
Các quy định về lựa chọn quốc tịch<br />
<br />
Theo quy định tại Hiệp định, đương sự phải đưa ra quyết định lựa chọn quốc tịch<br />
trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực hoặc kể từ ngày đương sự tròn<br />
18 tuổi. Sự lựa chọn của cha có hiệu lực đối với con chưa thành niên (dưới 18 tuổi)<br />
<br />
Ngoài ra, Hiệp định cũng quy định công dân Việt Nam có thể nhập quốc tịch Pháp theo<br />
quyết định của cơ quan có thẩm quyền sau khi tham khảo ý kiến của Chính phủ Việt<br />
Nam. Quy định tương tự cũng áp dụng đối với công dân Pháp muốn nhập quốc tịch<br />
Việt Nam. Trong trường hợp Chính phủ liên quan không có ý kiến trả lời trong thời hạn<br />
6 tháng kể từ ngày gửi thông báo, Chính phủ Pháp mặc nhiên coi đương sự được miễn<br />
thủ tục xin thôi quốc tịch gốc.<br />
<br />
Hiệp định Pháp-Việt hết hiệu lực ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tuyên bố Hiệp định hết<br />
hiệu lực được đăng trên Công báo ngày 19 tháng 8 năm 1976.<br />
<br />
Bây giờ, tôi xin được chuyển sang trình bày về tình hình hiện nay.<br />
<br />
III. TÌNH HÌNH HIỆN NAY<br />
<br />
Từ ngày 19 tháng 8 năm 1976, vấn đề quốc tịch được giải quyết theo quy định chung<br />
của pháp luật của Cộng hòa Pháp:<br />
<br />
Cụ thể là:<br />
<br />
Trẻ em khi sinh ra có mẹ là công dân Pháp và cha là công dân Việt Nam và<br />
chưa thành niên vào thời điểm ngày 19 tháng 8 năm 1976, thì có quốc tịch Pháp do<br />
có cha hoặc mẹ là công dân Pháp, trừ trường hợp xin thôi quốc tịch Pháp nếu trẻ<br />
sinh ra ngoài lãnh thổ Pháp. Tương tự đối với trường hợp trẻ em khi sinh ra có mẹ<br />
là công dân Việt Nam và cha là công dân Pháp.<br />
<br />
Trong trường hợp kết hôn giữa công dân Pháp và công dân nước ngoài, công<br />
dân nước ngoài chỉ được nhập quốc tịch Pháp theo vợ hoặc chồng nếu có tuyên bố<br />
nhập quốc tịch Pháp.<br />
<br />
Trẻ em sinh ra tại Pháp, có cha mẹ là công dân Việt Nam, thì có quốc tịch Pháp<br />
khi đến tuổi thành niên nếu cư trú tại Pháp hoặc đã từng cư trú tại Pháp trong một<br />
thời gian nhất định và theo quy định về cư trú.<br />
<br />
Trẻ em sinh ra tại Pháp sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, có cha hoặc mẹ sinh<br />
ra tại Đông Dương trước ngày 4 tháng 6 năm 1949 hoặc tại Hà Nội, Hải Phòng hoặc<br />
Tourane trước ngày 8 tháng 3 năm 1949, thì có quốc tịch Pháp theo nguyên tắc<br />
quyền nơi sinh kép.<br />
<br />
Trong trường hợp nhập quốc tịch theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền,<br />
đương sự không mặc nhiên mất quốc tịch gốc.<br />
<br />
Như vậy, Hiệp định Pháp-Việt được ký kết trước đây chỉ nhằm giải quyết các tình<br />
huống khác nhau có thể xảy ra trên thực tế tại Đông Dương.<br />
<br />
<br />
<br />
Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp<br />
139<br />
<br />
Mọi khả năng xung đột quốc tịch đã được tính đến và loại bỏ dựa trên cơ chế lựa chọn<br />
quốc tịch. Tuy nhiên, do Hiệp định đã hết hiệu lực nên tình trạng một người có cả hai<br />
quốc tịch Pháp và Việt vẫn tồn tại ở Pháp.<br />
<br />
Cần lưu ý rằng pháp luật Pháp cho phép một người được giữ nguyên quốc tịch của<br />
cha, mẹ theo nguyên tắc quyền huyết thống, và đặc biệt là theo quốc tịch của người<br />
mẹ. Như vậy, sẽ không tránh khỏi trường hợp trẻ em có hai quốc tịch khi cha và mẹ là<br />
công dân của hai quốc gia khác nhau. Ngoài ra, pháp luật của Pháp cũng cho phép<br />
một người được nhập quốc tịch Pháp mà không phải thôi quốc tịch gốc.<br />
<br />
Bằng quy định cho nhập quốc tịch Pháp hoặc quốc tịch Việt Nam, Hiệp định cũng đã<br />
giải quyết được vấn đề người không quốc tịch.<br />
<br />
Hiện nay, các hồ sơ liên quan đến việc áp dụng Hiệp định Pháp-Việt chuyển đến Phòng<br />
Quản lý quốc tịch, Bộ Tư pháp, không đặt ra vướng mắc gì trong pháp luật về quốc<br />
tịch.<br />
<br />
Phần lớn các khó khăn gặp phải đều chủ yếu liên quan đến các giấy tờ về hộ tịch để<br />
chứng minh quan hệ huyết thống với tổ tiên là người Pháp chính gốc tại một trong<br />
những vùng lãnh thổ hải ngoại trước đây của Pháp.<br />
<br />
Một số giấy tờ hộ tịch hiện đang được giữ tại Bộ Văn hóa, Vụ Lưu trữ hồ sơ về vùng,<br />
lãnh thổ hải ngoại. Ví dụ: về thành phố Hà Nội, hiện Vụ đang lưu trữ các giấy khai<br />
sinh, giấy đăng ký kết hôn và giấy khai tử từ năm 1876 đến năm 1887.<br />
<br />
Một số Sổ Quản lý hộ tịch cũng đang được lưu tại Bộ Ngoại giao, Cục Quản lý hộ tịch<br />
quốc gia. Ở Đông Dương, nhân viên hộ tịch có nhiệm vụ lập 3 Sổ Quản lý hộ tịch và<br />
gửi Sổ thứ ba về cho nước Pháp chính quốc. Sổ do Cục Quản lý hộ tịch quốc gia lưu<br />
giữ là quyển sổ thứ ba. Nhờ vậy, các sổ quản lý hộ tịch của thành phố Hà Nội từ năm<br />
1904 đến năm 1956 hiện vẫn còn.<br />
<br />
Các giấy tờ khác lưu tại Phòng Quản lý quốc tịch liên quan đến những người sinh tại<br />
Việt Nam trước năm 1949 nhưng không thuộc diện áp dụng của Hiệp định Pháp-Việt.<br />
<br />
Thực vậy, Hiệp định này không điều chỉnh một số trường hợp sau:<br />
<br />
Người sinh ra tại Việt Nam, có cha và mẹ là công dân Pháp;<br />
<br />
Người sinh ra tại Việt Nam và không rõ cha mẹ;<br />
<br />
Người sinh ra tại Việt Nam, có cha hoặc mẹ là người nước ngoài (không có quốc<br />
tịch Pháp và quốc tịch Việt Nam) và người còn lại là người Việt Nam chính gốc;<br />
<br />
Người sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Cao Miên hoặc Lào và người còn lại<br />
là công dân Pháp.<br />
<br />
Các trường hợp này do pháp luật chung về quốc tịch Pháp điều chỉnh.<br />
<br />
Để kết thúc bài trình bày của mình, tôi xin được nói thêm một số vấn đề thực tiễn của<br />
pháp luật về quốc tịch Pháp. Tôi nghĩ rằng những vấn đề này sẽ rất thiết thực đối với<br />
các công dân Pháp hiện đang cư trú tại Việt Nam và công dân Việt Nam muốn nhập<br />
quốc tịch Pháp.<br />
<br />
Hiện nay, công dân Pháp cư trú tại Việt Nam và sinh ra ngoài lãnh thổ Pháp, nếu<br />
muốn xin cấp giấy chứng nhận quốc tịch Pháp thì phải đến gặp Lục sự Trưởng Tòa sơ<br />
thẩm thẩm quyền hẹp Paris (Bộ phận Quản lý Quốc tịch Pháp đối với công dân Pháp ở<br />
nước ngoài). Vì Lục sự Trưởng có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quốc tịch Pháp cho<br />
<br />
<br />
Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp<br />
140<br />
<br />
các công dân Pháp sinh ra ngoài lãnh thổ Pháp. Đối với trường hợp công dân Pháp cư<br />
trú tại Việt Nam nhưng sinh ra tại Pháp, người yêu cầu xin cấp giấy chứng nhận quốc<br />
tịch phải đến Tòa sơ thẩm thẩm quyền hẹp nơi mình sinh ra để làm thủ tục.<br />
<br />
Trong trường hợp công dân Việt Nam muốn nhập quốc tịch Pháp do kết hôn với công<br />
dân Pháp, đơn yêu cầu nhập quốc tịch phải gửi đến cơ quan lãnh sự Pháp. Cơ quan<br />
này sau đó sẽ chuyển cho Bộ việc làm, lao động và gắn kết xã hội để làm thủ tục đăng<br />
ký tuyên bố nhập quốc tịch.<br />
<br />
Đối với các đơn yêu cầu nhập quốc tịch Pháp khác, hồ sơ cũng được gửi đến cơ quan<br />
lãnh sự để cơ quan này chuyển cho Phòng Quản lý quốc tịch, Bộ Tư pháp.<br />
<br />
Liên quan đến đơn yêu cầu nhập quốc tịch theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền<br />
hoặc đơn xin trở lại quốc tịch, các đơn này thuộc thẩm quyền giải quyết của Vụ Quốc<br />
tịch, Bộ việc làm, lao động và gắn kết xã hội. Tuy nhiên, xin lưu ý rằng các quy định<br />
pháp luật, cùng với án lệ, quy định rất chặt chẽ về nơi cư trú ổn định tại Pháp và coi<br />
đây là một điều kiện để xét nhận đơn yêu cầu nhập quốc tịch. Do đó, người xin nhập<br />
quốc tịch phải có nơi cư trú và công tác ổn định tại Pháp.<br />
<br />
Điểm cuối cùng tôi muốn trình bày, đó là đối với vấn đề quốc tịch Pháp, Phòng Quản lý<br />
quốc tịch có một nhóm các chuyên gia biên soạn với nhiệm vụ chủ yếu là hỗ trợ soạn<br />
thảo giấy chứng nhận quốc tịch Pháp.<br />
<br />
Trên tổng số 137.000 hồ sơ hiện đang giải quyết tại Phòng, chỉ có 155 hồ sơ liên quan<br />
đến công dân Việt Nam, trong đó 95 hồ sơ yêu cầu tư vấn, 17 hồ sơ khiếu nại hành<br />
chính đối với cấp trực tiếp ra quyết định và 3 hồ sơ khiếu kiện.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp<br />