Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
<br />
<br />
<br />
VẤN ĐỀ THIẾU ĐẤT SẢN XUẤT Ở VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TỪ<br />
GÓC NHÌN TOÀN CẦU HÓA VÀ XU HƯỚNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ<br />
Giang Khắc Bình(1) - Hà Quang Khuê(2)<br />
<br />
Đ ất sản xuất vốn là tư liệu sản xuất thiết yếu của các hộ gia đình người dân tộc<br />
thiểu số. Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ<br />
đất sản xuất cho các hộ gia đình người dân tộc thiểu số nghèo nhưng do nhiều nguyên nhân<br />
khách quan và chủ quan, tỷ lệ hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo thiếu đất sản xuất vẫn<br />
đang ở mức rất cao và có xu hướng tăng thêm. Bài viết đã chỉ ra thực trạng, nguyên nhân chủ<br />
yếu, đồng thời đề xuất một số giải pháp cơ bản giải quyết vấn đề thiếu đất sản xuất của các<br />
hộ gia đình người dân tộc thiểu số nghèo trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.<br />
Từ khóa: Đất sản xuất; hộ gia đình; hộ gia đình người dân tộc thiểu số; toàn cầu hóa;<br />
xu hướng hội nhập quốc tế.<br />
Việt Nam là một quốc gia dân tộc thống người DTTS nghèo chỉ chiếm 20% trong tổng số<br />
nhất với 54 dân tộc cùng sinh sống, trong đó người nghèo thì đến năm 2010 có tới 47% người<br />
dân tộc Kinh chiếm đa số với 78,32 triệu người nghèo là người DTTS2. Phân tích động thái nghèo<br />
(83,4%), 53 dân tộc thiểu số (DTTS) với khoảng cũng cho thấy đồng bào các DTTS chiếm tỷ lệ<br />
13,39 triệu người (14,6%)1, cư trú chủ yếu ở các lớn trong nhóm nghèo kinh niên, ước tính khoảng<br />
tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và 47,1%. Cùng với đói nghèo, tình trạng bất ổn xã<br />
hải đảo. hội là vấn đề chính trong những khu vực có nhiều<br />
Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng người DTTS cư trú. Nguyên nhân chủ yếu của<br />
và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề đảm tình trạng bất ổn xã hội là những xung đột liên<br />
bảo cơ hội phát triển công bằng, bình đẳng, toàn quan đến đất đai, đã tồn tại trong nhiều thập kỷ.<br />
diện và bền vững giữa các dân tộc, trong đó đặc 1. Tình hình thiếu đất sản xuất ở vùng<br />
biệt quan tâm các DTTS thuộc nhóm ít người dân tộc thiểu số và miền núi<br />
hoặc rất ít người, sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, Các nghiên cứu về tình hình nghèo đói ở<br />
vùng đặc biệt khó khăn (ĐBKK). Hiến pháp năm vùng DTTS Việt Nam đã chỉ ra rằng, thực trạng<br />
1992 nêu rõ: “Nhà nước thực hiện chính sách phát thiếu đất sản xuất là một trong những nguyên<br />
triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống nhân chủ yếu dẫn đến đói nghèo ở vùng DTTS và<br />
vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu miền núi. Khoảng 90% đồng bào DTTS sinh sống<br />
số” (Điều 5). Một trong những nhiệm vụ trọng bằng nghề nông, tư liệu sản xuất chính là đất sản<br />
tâm của chính sách dân tộc là giải quyết vấn đề xuất, phần lớn các hộ nghèo đều gắn với sản xuất<br />
nghèo đói ở vùng DTTS và miền núi. Theo tính nông nghiệp. Khoảng từ 1975 (thế kỷ XX) trở về<br />
toán của Tổng cục Thống kê, mặc dù đã có những trước, vùng DTTS và miền núi dân cư thưa thớt,<br />
bước tiến đáng kể trong lĩnh vực giảm nghèo, tập quán sản xuất nương rẫy, tự cung tự cấp là chủ<br />
nhưng đến năm 2010, vẫn còn hơn một nửa đồng yếu đảm bảo cho đồng bào các DTTS một cuộc<br />
bào DTTS ở Việt Nam sống dưới ngưỡng nghèo, sống bình thường, không phải lo lắng đến cái ăn,<br />
cao hơn gấp 3 lần so với tỉ lệ nghèo chung của cả cái mặc. Tuy nhiên, từ năm 1976 trở lại đây, những<br />
nước. Một vấn đề nữa cần đặc biệt quan tâm, đó chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội<br />
là do những hạn chế trong khả năng tiếp cận các gắn với an ninh quốc phòng cùng với sự gia tăng<br />
nguồn lực tự nhiên và xã hội cũng như khả năng dân số nhanh chóng (cả tự nhiên và cơ học) đã tác<br />
tận dụng những cơ hội từ bên ngoài, tỷ lệ người động mạnh đến cơ cấu dân số ở vùng DTTS và<br />
nghèo DTTS ngày càng tăng. Nếu như năm 1998, miền núi khiến cho việc quản lý, sử dụng đất của<br />
các hộ DTTS có những biến động, xuất hiện ngày<br />
1<br />
. Số liệu điều tra thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc<br />
thiểu số năm 2015. 2<br />
. Ngân hàng Thế giới, 2012.<br />
<br />
Ngày nhận bài: 27/4/2017; Ngày phản biện: 10/5/2017; Ngày duyệt đăng: 20/5/2017 27<br />
(1)<br />
Học viện Dân tộc; e-mail: giangkhacbinh@cema.gov.vn<br />
(2)<br />
Học viện Dân tộc; e-mail: haquangkhue@cema.gov.vn<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
<br />
càng nhiều hộ đồng bào DTTS thiếu đất ở, đất sản 2008. Tuy nhiên, việc thực hiện các chương trình<br />
xuất, nhất là đồng bào ở các vùng Tây Bắc, Tây và chính sách trên còn nhiều hạn chế: cho đến<br />
Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long. nay vẫn còn trên 300 ngàn hộ DTTS nghèo thiếu<br />
Theo báo cáo Hội đồng Dân tộc Quốc hội và không có đất ở, đất sản xuất, nhiều chương<br />
và Ủy ban Dân tộc, từ năm 2002 đến năm 2011, trình có kết quả thấp và không đạt các mục tiêu<br />
có 558.485 hộ đồng bào DTTS nghèo cần được đề ra5.<br />
hỗ trợ đất ở, đất sản xuất3, đến năm 2015 vẫn còn Phân tích nguyên nhân của những tồn tại,<br />
khoảng 360.000 hộ thiếu đất sản xuất và đất ở, hạn chế trên đây, nhiều báo cáo đã chỉ ra những<br />
trong đó 37.199 hộ thiếu đất ở, 355.943 hộ thiếu nguyên nhân chủ yếu:<br />
đất sản xuất4. - Ở khu vực miền núi phía bắc, các hộ gia<br />
Chủ trương xuyên suốt của Đảng và Chính đình DTTS nghèo cư trú chủ yếu ở khu vực có<br />
phủ là đảm bảo quyền của các DTTS trong các địa hình phức tạp, nhiều núi đá, thiên tai, lũ quét,<br />
vấn đề liên quan đến đất đai. Chủ trương hỗ trợ sạt lở đất thường xuyên xảy ra. Tập quán canh<br />
đất ở, đất sản xuất và ổn định sinh kế cho đồng tác truyền thống kết hợp với sự tập trung dân cư<br />
bào DTTS trên địa bàn cả nước được thể hiện ngày càng đông đúc khiến cho đất sản xuất không<br />
trong Nghị quyết số 22/NQ-TW ngày 27/11/1989, kịp hồi phục, trở nên bạc màu, năng suất lao động<br />
Nghị quyết số 24/NQ-TW ngày 21/1/2003: “Giải ngày càng thấp.<br />
quyết cơ bản tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở - Tây Nguyên vốn là nơi đất rộng, người<br />
và vấn đề tranh chấp đất đai ở vùng đồng bào thưa, đất đai màu mỡ. Tuy nhiên, do điều kiện khí<br />
dân tộc thiểu số, nhất là ở Tây Nguyên, Tây Bắc hậu, thổ nhưỡng rất phù hợp với việc trồng các<br />
và vùng đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ”. loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao như cà<br />
Nhằm cụ thể hóa các chủ trương trên, phê, cao su, tiêu,… nên những năm gần đây đã<br />
Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ thu hút rất nhiều đồng bào từ đồng bằng lên, từ<br />
như: Quyết định 132/2002/QĐ-TTg; Quyết định phía bắc di cư vào phá rừng, mua đất, tích tụ đất<br />
134/2004/QĐ-TTg; Quyết định 1592/QĐ- TTg; để trồng cây công nghiệp, dẫn đến diện tích đất<br />
Quyết định 33/2007/QĐ-TTg, Quyết định 755/ canh tác của đồng bào DTTS tại chỗ ngày càng<br />
QĐ-TTg ngày 20/5/2013, Quyết định 74/QĐ- thu hẹp lại. Quỹ đất để khai hoang, phục hóa, xây<br />
TTg,... Theo Báo cáo kết quả giám sát việc thực dựng khu dân cư, khu tái định cư rất hạn chế6.<br />
hiện chính sách, pháp luật về đất ở, đất sản xuất Bên cạnh đó, việc phát triển ồ ạt các dự án thủy<br />
cho đồng bào DTTS của Ủy ban Thường vụ Quốc điện ở Tây Nguyên những năm gần đây cũng gây<br />
hội năm 2012, từ năm 2002 đến 2011, đã có 40 nhiều xáo trộn đối với đời sống, ảnh hưởng trực<br />
quyết định của Thủ tướng chính phủ; 50 quyết tiếp đến quỹ đất sản xuất của đồng bào7.<br />
định, thông tư của các Bộ, ngành; 405 đề án, dự - Tại một số tỉnh đồng bằng sông Cửu<br />
án của UBND các tỉnh thành phố được ban hành Long, xu hướng tích tụ ruộng đất để mở rộng sản<br />
nhằm hỗ trợ đất ở và đất sản xuất cho đồng bào xuất hàng hóa của một số hộ giàu ngày càng phát<br />
DTTS nghèo. triển. Dưới áp lực của cuộc sống, các hộ nghèo<br />
Các chương trình và chính sách trên đã dần bán (với danh nghĩa cầm cố) tư liệu sản xuất<br />
góp phần ổn định cuộc sống, ổn định chính trị, thiết yếu (ruộng đất) của mình và trở nên nghèo<br />
trật tự an toàn xã hội, và xóa đói giảm nghèo cho kiệt. Mặc dù Nhà nước hỗ trợ kinh phí để chuộc<br />
các nhóm DTTS. Tỷ lệ nghèo trong nhóm DTTS lại nhưng hầu như không thực hiện được do kinh<br />
đã giảm từ 86,4% năm 1993 xuống 50,3% năm 5<br />
. Báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.<br />
6<br />
. Khảo sát về hiệu quả chính sách cấp đất, hỗ trợ đất sản<br />
3<br />
. Hội đồng Dân tộc Quốc hội, Tóm tắt kết quả giám sát việc xuất theo Quyết định 755/QĐ-TTg ngày 20/5/2013 trên<br />
thực hiện chính sách, pháp luật về đất ở, đất sản xuất cho địa bàn tỉnh Đắk Nông, các địa phương hầu như không còn<br />
đồng bào dân tộc thiểu số tại Hội thảo “Thực trạng và giải quỹ đất để khai hoang, phục hóa, cấp trực tiếp cho bà con,<br />
pháp quản lý và sử dụng đất đai vùng dân tộc và miền núi” phương thức hỗ trợ đất sản xuất chủ yếu là hỗ trợ mua sắm<br />
(25/01/2013 tại Hà Nội). máy móc, nông cụ.<br />
4<br />
. Ủy ban Dân tộc, Báo cáo tình hình triển khai thực hiện 7<br />
. Trong 20 dự án thuỷ điện do Tập đoàn Điện lực và các địa<br />
Nghị quyết số 539/NQ-UBTVQH13 ngày 30/10/ 2012 về phương làm chủ đầu tư, đã có phạm vi ảnh hưởng tới 990 xã,<br />
kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về đất 143 huyện và 34.657 hộ mất đất ở, đất sản xuất, phải di dời,<br />
ở, đất sản xuất cho đồng bào DTTS (Kèm theo văn bản số tái định cư (trong đó chủ yếu là hộ đồng bào DTTS – Báo<br />
436/UBDT-CSDT ngày 13/5/2015 của Ủy ban Dân tộc). cáo của Hội đồng Dân tộc Quốc hội, tlđd).<br />
<br />
28 Số 18 - Tháng 6 năm 2017<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
<br />
phí hỗ trợ thấp mà giá thành chuộc đất quá cao8,... với những địa phương không còn quỹ đất để hỗ<br />
- Việc thu hồi đất của các nông, lâm trường trợ trực tiếp có thể chuyển đổi sang các hình<br />
kém hiệu quả hầu như không thực hiện được,… thức hỗ trợ khác như hỗ trợ chuyển đổi nghề,<br />
xuất khẩu lao động hay giao khoán trồng rừng,<br />
Một nguyên nhân cơ bản, sâu xa nhất mà<br />
bảo vệ rừng; trong quyết định 29/QĐ-TTg ngày<br />
các báo cáo hầu như chưa để cập hoặc chưa đi<br />
20/5/2013 quy định mức hỗ trợ để những hộ ng-<br />
sâu phân tích, đó là khả năng thích ứng của các<br />
hèo có thể mua lại hoặc chuộc lại phần đất sản<br />
hộ gia đình DTTS nghèo trước các biến đổi của<br />
xuất đã cầm cố trước đây, song song với những<br />
tự nhiên và xã hội. Hiện nay, xu hướng toàn cầu<br />
nội dung như vay vốn để phát triển sản xuất, học<br />
hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đã và<br />
nghề, tạo việc làm,... Những sự điều chỉnh đó<br />
đang tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế - xã<br />
giúp nâng cao hiệu quả của các chính sách nhưng<br />
hội nước ta, mở ra rất nhiều cơ hội nhưng đồng<br />
đồng thời cũng chỉ ra một thực tế rằng, việc hỗ<br />
thời cũng đặt nền kinh tế nước ta trước vô vàn<br />
trợ đất sản xuất cho các hộ DTTS nghèo đang<br />
thách thức. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng,<br />
ngày càng trở nên khó khăn hơn.<br />
cơ hội từ mở cửa thị trường không đến với tất<br />
cả mọi người. Với phần đông đồng bào DTTS, 2. Một số giải pháp giúp đồng bào dân<br />
đặc biệt là các hộ gia đình nghèo, sinh sống ở tộc thiểu số tiếp cận kinh tế thị trường, chủ<br />
vùng sâu, vùng xa, vùng ĐBKK, việc thiếu trầm động tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế<br />
trọng những kiến thức về kinh tế thị trường, khả quốc tế<br />
năng ứng dụng khoa học công nghệ, khả năng tổ Trước hết, cần phải thừa nhận một thực tế<br />
chức sản xuất, quản lý kinh tế còn nhiều hạn chế rằng, các chính sách hỗ trợ đất sản xuất trong hơn<br />
là những rào cản lớn đối với quá trình hội nhập. một thập kỷ qua, mặc dù đã đạt được những thành<br />
Với xuất phát điểm thấp, đồng bào các dân tộc tựu đáng kể trong việc ổn định đời sống, tăng thu<br />
khó nắm bắt, tiếp thu thành quả khoa học và công nhập cho các hộ gia đình DTTS nghèo nhưng<br />
nghệ cao để phát triển kinh tế - xã hội cũng như trong bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay, các chính<br />
theo kịp sự phát triển nhanh của các trung tâm sách đó đã mất dần đi tính hiệu quả và trở nên<br />
kinh tế, thương mại và dịch vụ khác trên cả nước. không còn phù hợp. Sự gia tăng dân số nhanh<br />
Để giải quyết vấn đề nghèo đói ở vùng chóng (cả cơ học và tự nhiên) trong những năm<br />
DTTS, có thể khẳng định rằng các chính sách của gần đây cùng xu hướng tích tụ đất để sản xuất<br />
Đảng và Nhà nước ta thời gian qua đã đạt được với quy mô lớn tại các vùng DTTS địa phương<br />
những thành quả nhất định trong việc hỗ trợ đồng khiến cho nguồn quỹ đất dự trữ hầu như cạn kiệt.<br />
bào ổn định đời sống, ổn định sản xuất, từng bước Dẫu có quy hoạch lại đất đai, thu hồi đất tại các<br />
nâng cao mức hưởng thụ vật chất và tinh thần cho nông, lâm trường hoặc một số cơ sở làm ăn kém<br />
các hộ nghèo. Không chỉ tập trung vào những vấn hiệu quả thì diện tích thu được cũng không đáng<br />
đề đơn lẻ, bức thiết, các chương trình, chính sách kể so với nhu cầu thực tế của các hộ gia đình<br />
hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt được DTTS nghèo trên khắp cả nước. Mặt khác, việc<br />
lồng ghép trong các mục tiêu phát triển cơ sở hạ tích tụ đất để làm ăn lớn là xu hướng đã diễn ra<br />
tầng, phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, xóa trên thế giới từ lâu và cũng đã thành chủ trương<br />
đói giảm nghèo bền vững đã mang lại những diện của Đảng ta trong việc phát triển sản xuất nông<br />
mạo mới, sức sống mới cho vùng DTTS và miền nghiệp theo hướng hiện đại hóa. Thực tế sản xuất<br />
núi. Về những bất cập trong các chính sách hỗ trợ nông nghiệp và xuất khẩu nông sản ở nước ta lâu<br />
đất sản xuất, sau khi có báo cáo phân tích, đánh nay, trong tương quan với các nước trong khu vực<br />
giá, các cơ quan chức năng đã kịp thời rút kinh như Thái Lan, Indonexia, Philippin… đã chỉ ra<br />
nghiệm, đồng thời đề ra những giải pháp mang rằng, chỉ có sản xuất trên quy mô lớn mới có thể<br />
tính khả thi nhằm khắc phục những hạn chế, bất tận dụng được lợi thế của khoa học và công nghệ,<br />
cập trong các chính sách hiện hành. Cụ thể, trong từ đó nâng cao năng suất và giá trị nông sản. Hiện<br />
quyết định 755/QĐ-TTg ngày 20/5/2013 ghi rõ: tượng nông dân ở nhiều địa phương bỏ ruộng đất<br />
đi làm thuê hay nhiều hộ gia đình DTTS sau khi<br />
8<br />
. Theo Quyết định 29/2013/QĐ-TTg, các hộ trước đây đã được hỗ trợ đất lại bán đi là những minh chứng<br />
cầm cố đất được hỗ trợ dưới hình thức cho vay (tối đa 30 thiết thực cho vấn đề này.<br />
triệu/hộ) để chuộc lại hoặc mua lại đất của bà con thân thuộc<br />
nhưng hầu như cũng không thực hiện được do giá đất thực Trong điều kiện những biến đổi môi trường<br />
tế lên đến hàng trăm triệu đồng/ha. (cả tự nhiên và xã hội) ngày càng khốc liệt, diện<br />
<br />
Số 18 - Tháng 6 năm 2017 29<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
<br />
tích đất sản xuất ngày càng thu hẹp lại, giải pháp sản xuất, sinh hoạt của đồng bào DTTS; tập huấn<br />
khả thi nhất là chuyển đổi sinh kế sang những theo lớp, xây dựng nhóm tiên phong, sử dụng<br />
ngành sản xuất phi truyền thống như phát triển phương thức lan tỏa trong cộng đồng, đưa vào<br />
du lịch, làm dịch vụ… Tuy nhiên, việc thay đổi chương trình học phổ thông, phát huy vai trò của<br />
tập quán làm ăn, tiếp cận và thích ứng với những các đoàn thể, người có uy tín… Nội dung truyền<br />
quy luật biến đổi đầy bất trắc của thị trường là thông cần hướng đến nâng cao năng lực tiếp<br />
không hề dễ dàng (kể cả với dân tộc đa số). Tập cận khoa học công nghệ, năng lực quản lý và sử<br />
quán làm ăn cá thể, nhỏ lẻ, luôn đặt tính an toàn dụng tài nguyên, tận dụng tối đa thế mạnh và các<br />
lên hàng đầu của nông dân Việt Nam, đặc biệt là nguồn lực địa phương để tạo việc làm mới, năng<br />
đồng bào DTTS luôn là những rào cản lớn khi lực quản lý tài chính, điều hành, năng lực kết nối<br />
người dân muốn chuyển đổi ngành nghề, thay các nguồn lực bên trong và bên ngoài… Chỉ có<br />
đổi cách thức làm ăn. Bên cạnh đó, sự thất bại như vậy mới có thể giúp đồng bào phát huy vai<br />
của nhiều dự án, mô hình sản xuất gần đây có ý trò tự chủ, giảm dần sự phụ thuộc quá lớn vào sự<br />
nghĩa như một sự “cảnh tỉnh” về những rủi ro, hỗ trợ bên ngoài như hiện nay.<br />
bất trắc không thể lường trước khi tham gia thị - Cần quy hoạch và xây dựng các điểm<br />
trường càng khiến người dân do dự, không dám định canh, định cư cho đồng bào DTTS không có<br />
mạnh dạn chuyển đổi sinh kế. Trong bối cảnh đó, hoặc thiếu đất sản xuất. Phát huy các tiềm năng,<br />
cần một sự hỗ trợ rất lớn từ các chính sách của lợi thế của vùng như: Phát triển kinh tế cửa khẩu;<br />
Nhà nước, các cơ quan chức năng, các tổ chức phát triển thương mại, du lịch, đặc biệt là du lịch<br />
xã hội… sinh thái có sự tham gia của hộ đồng bào các dân<br />
Trước hết, cần giúp người dân hiểu và làm tộc nhằm trực tiếp mang lại các lợi ích kinh tế<br />
quen với kinh tế thị trường, với toàn cầu hóa và cho các hộ tham gia. Thành lập các trung tâm đào<br />
hội nhập quốc tế. Trên thực tế, người dân (đặc tạo nghề đặc thù cho đồng bào DTTS, có chương<br />
biệt là các hộ gia đình DTTS nghèo) chưa hiểu trình đào tạo riêng (có thể bằng tiếng dân tộc) phù<br />
kinh tế thị trường cũng như toàn cầu hóa và hội hợp với trình độ của đồng bào. Đồng thời kết nối<br />
nhập quốc tế có thể mang lại cho họ những cơ hội được các cơ sở tiếp nhận lao động, giải quyết việc<br />
và thách thức gì, họ cần có những kiến thức và làm, có thu nhập ổn định cho bà con.<br />
kỹ năng gì khi tham gia vào kinh tế thị trường và -Thứ hai, chính quyền địa phương các cấp<br />
hội nhập kinh tế quốc tế? Đây là những vấn đề rất cần gắn kết hơn nữa trong việc đầu tư tín dụng<br />
trừu tượng và do đó cũng rất khó triển khai song chính sách vào mô hình sản xuất, kinh doanh có<br />
có thể thông qua lớp người có uy tín, các tổ chức hiệu quả phù hợp với chiến lược phát triển kinh<br />
đoàn thể tại địa phương để thực hiện.Người dân tế - xã hội tại các địa phương, cần thực hiện tốt<br />
cần phải hiểu và chấp nhận quy luật khắc nghiệt chính sách khuyến nông, khuyến lâm, khuyến<br />
của kinh tế thị trường, sẵn sàng đương đầu với ngư..., chuyển giao khoa học, kỹ thuật, nhân rộng<br />
những thử thách, đồng thời phải được trang bị các mô hình thoát nghèo theo đúng tinh thần<br />
những kiến thức và kỹ năng cần thiết để vượt qua Nghị quyết của Quốc hội khóa XIII về việc giảm<br />
những thử thách đó. nghèo bền vững đến năm 2020 và các năm tiếp<br />
Trên cơ sở đó, chúng tôi đề xuất một số theo. Trong đó, lưu ý đến việc tiêu thụ sản phẩm<br />
giải pháp cơ bản như sau: cho hộ dân để giải quyết một phần vấn đề ly nông<br />
Thứ nhất, cấp ủy, chính quyền các cấp từ bất ly hương để đồng bào yên tâm làm giàu trên<br />
tỉnh đến cơ sở phải đồng bộ, thống nhất sự lãnh chính mảnh đất quê hương./.<br />
đạo, chỉ đạo. Tăng cường công tác tuyên truyền, - Trong thời gian tới, chính sách tín dụng<br />
vận động nhân dân thực hiện tốt phương châm dành riêng cho đồng bào dân tộc thiểu số cần<br />
“Nhà nước hỗ trợ, cộng đồng giúp đỡ, gia đình tự mang tính đột phá về tăng mức vay, tăng thời hạn<br />
làm”, phát huy mạnh mẽ nội lực của người dân, cho vay, nguồn vốn tập trung vào một số ngành<br />
khơi dậy ý chí tự vươn lên thoát nghèo, tránh tư nghề trọng yếu để hộ dân có định hướng làm ăn,<br />
tưởng trông chờ, ỷ lại vào hỗ trợ, đầu tư của Nhà tạo sinh kế trong tương lai, như: nông nghiệp,<br />
nước, vào sự giúp đỡ của cộng đồng. lâm nghiệp, sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm,<br />
- Xây dựng các chương trình truyền thông cải thiện cuộc sống... Đẩy mạnh việc chuyển giao<br />
nhằm thay đổi nhận thức, tiếp đến thay đổi tập khoa học, kỹ thuật, có định hướng, thị trường tiêu<br />
quán sản xuất, chuyển đổi nghề cho cộng đồng. thụ sản phẩm... để giúp hộ dân tạo năng suất, chất<br />
Các chương trình truyền thông cần phải có hình lượng sản phẩm (thực sự là sản xuất hàng hóa).<br />
thức đa dạng, phù hợp với văn hóa, với tập quán Thứ ba, qua những công cụ hiện có, Nhà<br />
<br />
30 Số 18 - Tháng 6 năm 2017<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
<br />
nước có thể hỗ trợ người dân một cách hiệu quả Tài liệu tham khảo<br />
qua việc nghiên cứu nhu cầu, kết nối thị trường, [1] Đặng Kim Sơn, Nguyễn Đỗ Anh Tuấn<br />
điều tiết sản xuất, quy hoạch vùng sản xuất, phát (2011), Chính sách đất đai cho phát triển tại Việt<br />
huy lợi thế của từng địa phương, đồng thời hỗ trợ, Nam: Cơ hội hay thách thức. UNDP-CAP;<br />
bao tiêu sản phẩm cho người dân, hạn chế tối đa [2] Đặng Kim Sơn, Thái Thị Minh, Phạm<br />
những bất trắc, rủi ro từ thị trường, qua đó vừa Thị Hồng Vân (2012), Báo cáo nghiên cứu rà<br />
tạo ra giá trị cho kinh tế quốc dân vừa giúp người soát, phân tích các chính sách DTTS và hỗ trợ<br />
dân yên tâm sản xuất, làm giàu cho đất nước và xây dựng khung chính sách cho Ủy ban dân tộc,<br />
cho chính bản thân mình. Ủy ban Dân tộc;<br />
Đó là những hoạt động mang tính cấp thiết. [3] Đào Trung Chính (2008). Một vài vấn<br />
Về lâu dài, để có thể giúp đồng bào DTTS chủ đề về tình trạng tranh chấp, khiếu nại và tố cáo về<br />
động trong quá trình chuyển đổi sản xuất, đáp đất đai - Báo cáo tại Hội thảo về tình trạng tranh<br />
ứng yêu cầu của kinh tế thị trường, tận dụng tốt chấp và khiếu nại kéo dài về đất đai hiện nay:<br />
hơn những cơ hội từ quá trình toàn cầu hóa và hội thực trạng và giải pháp. Hà Nội;<br />
nhập quốc tế, vấn đề quan trọng nhất vẫn là phát<br />
triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng [4] Hội đồng Dân tộc của Quốc hội khóa<br />
DTTS và miền núi. Nhận thức rõ tầm quan trọng XIII - Chương trình phát triển Liên hợp quốc<br />
của việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đối UNDP (2012): Kỷ yếu hội thảo khoa học, Chính<br />
với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội vùng DTTS sách về đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc<br />
thiểu số - Thực trạng và giải pháp, Hải Phòng,<br />
và miền núi, ngày 15 tháng 06 năm 2016, Chính<br />
tháng 8 năm 2012;<br />
phủ đã ban hành Nghị quyết số 52/NQ-CP về việc<br />
đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực các dân tộc [5] Hội đồng Dân tộc Quốc hội (2013),<br />
thiểu số giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến Tóm tắt kết quả giám sát việc thực hiện chính<br />
năm 2030, trong đó nhấn mạnh mục tiêu nâng sách, pháp luật về đất ở, đất sản xuất cho đồng<br />
cao, phát triển toàn diện nguồn nhân lực các dân bào dân tộc thiểu số tại Hội thảo “Thực trạng và<br />
tộc thiểu số, trong đó ưu tiên các dân tộc thiểu số giải pháp quản lý và sử dụng đất đai vùng dân tộc<br />
có nguồn nhân lực còn hạn chế để từng bước thu và miền núi” (25/01/2013 tại Hà Nội);<br />
hẹp khoảng cách với trình độ chung của quốc gia, [6] Số liệu điều tra 53 dân tộc thiểu số năm 2015;<br />
đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, nhu cầu thị [7] Ủy ban Dân tộc, Báo cáo tình hình<br />
trường lao động hiện tại và tương lai; xây dựng triển khai thực hiện Nghị quyết số 539/NQ-UBT-<br />
đội ngũ trí thức, doanh nhân, cán bộ người dân VQH13 ngày 30/10/ 2012 về kết quả giám sát<br />
tộc thiểu số và lao động trực tiếp có chất lượng việc thực hiện chính sách, pháp luật về đất ở, đất<br />
nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giảm sản xuất cho đồng bào DTTS (Kèm theo văn bản<br />
nghèo bền vững, bảo đảm quốc phòng an ninh số 436/UBDT-CSDT ngày 13/5/2015 của Ủy ban<br />
quốc gia và vùng đồng bào dân tộc thiểu số./. Dân tộc).<br />
<br />
<br />
LACK OF PRODUCTIVE LAND IN ETHNIC MINORITY AREAS FROM THE POINT OF<br />
VIEW OF A GLOBALIZATION PERSPECTIVE AND INTERNATIONAL INTEGRATION<br />
<br />
Abstract: Production land is essential material of ethnic minority households in the<br />
producing process. Although the Party and State have many policies and policies to support<br />
production land for poor ethnic minority households, but due to many objective and subjective<br />
reasons, the proportion of households of ethnic minorities who have no land for production is<br />
still very high and tends to increase. The paper outlines the current situation, the main causes,<br />
and proposes some basic solutions to address the lack of production land of poor ethnic<br />
minority households in the context of globalization and international integration.<br />
Keywords: Production land; Household; households of ethnic minorities; globalization;<br />
the trend of international integration.<br />
<br />
<br />
Số 18 - Tháng 6 năm 2017 31<br />