VẬN DỤNG QUAN ðIỂM TÍCH HỢP TRONG VIỆC DẠY TIẾNG VIỆT<br />
NHƯ NGÔN NGỮ THỨ HAI<br />
Bùi Khánh Thế∗<br />
1. Lời dẫn<br />
1.1 Từ tích hợp (integration) vốn ñược dùng trong chuyên ngành toán học và xã hội học.<br />
Trong toán học từ này ñược chuyển thành thuật ngữ tích phân và có ñịnh nghĩa thông dụng là<br />
“phép toán ñể tìm một hàm khi ñã biết vi phân của nó” (Hoàng Phê, tr. 947). Trong xã hội<br />
học thuật ngữ này thường có ñịnh ngữ social hoặc system ñi kèm và ñược ñịnh nghĩa chi tiết:<br />
“Trong lý thuyết chức năng luận tích hợp là thuật ngữ nền tảng và ñược miêu tả như một kiểu<br />
liên kết các ñơn vị của một hệ thống, nhờ ñó các ñơn vị, một mặt, ñều cùng hành chức một<br />
các ñồng bộ ñể tránh gây rối rắm cho cả hệ thống cũng như khiến cho hệ thống không giữ<br />
ñược tính ổn ñịnh, và mặt khác các ñơn vị trong hệ thống còn tạo ñược tác dụng hợp ñồng<br />
nhằm nâng hiệu quả hành chức của toàn hệ thống với tư cách là một thực thể duy nhất”<br />
(Gordon Marshall, tr.251).<br />
1.2 Nội dung thuật ngữ tích hợp ñược người viết bài này hiểu một cách thấu ñáo như trên<br />
khi có trong tay Tự ñiển thuật ngữ giản yếu xã hội học vào giai ñoạn cuối những năm 90 của<br />
thế kỷ trước sau thời kỳ ñi dạy học tại ngành Việt Nam học thuộc Viện Á-Phi, trường ðại học<br />
tổng hợp Humboldt, Berlin ðức (1990-1993). Lúc bấy giờ do có sự thay ñổi về tình hình<br />
chính trị - xã hội ở ðức, nên người giảng viên chuyên ngành Việt Nam học làm việc trong<br />
ñiều kiện và hoàn cảnh khác với các ñồng nghiệp những khóa trước 1. Trong ñiều kiện ñó<br />
người giảng viên Việt Nam học phải ñáp ứng hai yêu cầu của cơ sở ñào tạo: gắn kết thật hữu<br />
cơ dạy tiếng Việt với việc cung cấp cho sinh viên các hiểu biết về lịch sử, văn hóa xã hội<br />
Việt Nam và giúp Viện biên soạn mới các bài học (lessons) về tiếng Việt sao cho thích hợp<br />
với tình hình mới của nước ðức vừa hợp nhất hai miền. ðể ñáp ứng yêu cầu ñó người biên<br />
soạn một mặt dĩ nhiên có tham khảo các giáo trình, tài liệu 2 do các ñồng nghiệp ñã từng làm<br />
việc ở ñây ñể lại, nhưng quan trọng hơn là phải phản ánh tình hình mới trong quan hệ giữa<br />
Việt Nam và nước ðức thống nhất, vừa giữ ñược quan hệ truyền thống vốn có từ lâu giữa<br />
Việt Nam và ðông ðức. Như vậy khi làm việc phải dựa nhiều vào nguồn sách báo mới. Rất<br />
may mắn là thư viện tổng hợp của Berlin phía ðông ðức có vị trí rất gần với Trường ðại học<br />
tổng hợp Humboldt và vẫn tiếp tục bổ sung sách báo mới từ Việt Nam.<br />
1.3 Hoạt ñộng trong hoàn cảnh hầu như ñộc lập và phải giải một bài toán khó như vậy hẳn<br />
nhiên là một thách thức ñối với bất cứ ai, nhưng ñồng thời lại cũng là một cơ hội. Với người<br />
viết bài này ñó là cơ hội ñể áp dụng các trải nghiệm tích lũy khi học tiếng Nga và dạy tiếng<br />
Nga cũng tiếng Việt như một ngoại ngữ ở Bộ môn tiếng Việt cho người nước ngoài tại<br />
Trường ðại học tổng hợp Hà Nội từ ñầu những năm 70 thế kỷ XX. Kinh nghiệm bản thân từ<br />
việc học tiếng Nga và dạy tiếng Nga, tiếng Việt tôi có dịp thể hiện qua việc soạn bài, tập hợp<br />
thành sách học tiếng Việt3 và lần lượt dạy thực hành trong các giờ lên lớp cho sinh viên ðức,<br />
chuyên ngành Việt Nam học.<br />
2. Những lĩnh vực có thể vận dụng quan ñiểm tích hợp và một vài nhận xét<br />
2.1 Trải nghiệm qua việc học và dạy một ngoại ngữ mới: tiếng Nga. Từ năm học 1958-<br />
1959 tiếng Nga ñược ñưa vào dạy ở các trường Việt Nam, ñầu tiên là ở trường ngoại ngữ ñặc<br />
biệt ñể ñào tạo giáo viên và phiên dịch. Là một sinh viên của khóa ñầu tiên ấy, qua mỗi giờ<br />
<br />
∗<br />
GS.TS, Trường ðại học Ngoại ngữ và Tin học, Tp. HCM<br />
8<br />
học tôi ñi từ ngạc nhiên này ñến ngạc nhiên khác. Ngạc nhiên ñầu tiên là chúng tôi ñược tập<br />
ñọc bắt ñầu không phải một âm hoặc một từ dễ bắt chước, mà là một từ rất khó phát âm:<br />
zdravstvuite! – xin chào! Bước vào lớp, giáo viên Nga – Xô viết A.A Kolesnikov nói ngay<br />
từ ấy rồi ñưa tay ra hiệu cho chúng tôi ngồi xuống. Sau ñó thầy vừa phát họa lên bảng vừa<br />
làm dấu hiệu hai người chào nhau và chỉ từ này trong mục từ ngữ của bài, và cho cả lớp ñồng<br />
thanh phát âm theo thầy. ðó là một từ không dễ phát âm, ñối với người Việt, ngay cả người<br />
ñã biết tiếng Pháp hoặc tiếng Anh. Bởi vì trong từ này có một tổ hợp âm ñầu (cluster) gồm có<br />
ba phụ âm [zdr]. Khi nhận thấy cả lớp ñồng thanh phát âm khá tốt và kiểm tra từng người,<br />
thầy chuyển sang cho tập phát âm các từ спасибо – [sbosiΛ] – cảm ơn và извините –<br />
[izvin’it’є] – xin lỗi, ñến từ thứ ba này thì chúng tôi không lúng túng nhiều nữa. Từ buổi học<br />
thứ hai trở ñi từ zdravstvuite! luôn luôn ñược lớp ñồng thanh mỗi khi ñứng dậy chào giáo<br />
viên như một phản ứng tự nhiên. Thế là ngay từ bài học nói tiếng Nga ñầu tiên chúng tôi<br />
không chỉ tiếp cận với một ñặc ñiểm về từ ña tiết trong tiếng Nga với tổ hợp ba phụ âm ñầu<br />
âm tiết, mà còn ñược cung cấp một kiến thức văn hóa ứng xử về chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi và<br />
phát âm khá tốt ba từ cửa miệng trong hành ñộng ngôn từ Nga. ðây là bài học vỡ lòng về<br />
phương pháp dạy ngoại ngữ mà tôi áp dụng khi dạy tiếng Nga cho sinh viên Việt Nam và<br />
tiếng Việt cho sinh viên nước ngoài, ngay cả khi dùng giáo trình ñã có sẵn.<br />
2.2 Sự tích hợp văn hóa vào các bài học tiếng Việt khi tôi tự mình soạn bài học, giáo án và<br />
tự mình dạy thực hành. Ở bậc cơ sở, dĩ nhiên người học chưa có nhiều từ. Dầu vậy, vẫn có<br />
những hiểu biết về văn hóa – ngôn ngữ người học cần ñược giới thiệu sớm mà không nhất<br />
thiết phải ñợi ñến khi họ ñược cung cấp một số lượng từ nhất ñịnh. Chẳng hạn, ñó là trường<br />
hợp ñặc ñiểm dùng nhóm từ chỉ quan hệ thân thuộc làm ñại từ xưng hô: ông, bà, cha, mẹ, chú,<br />
bác, cô, dì, anh, chị.v.v.. Hơn nữa trong số này lại có những từ khồng hề dễ phát âm khi mà<br />
trình tự luyện phát âm phải lùi về giai ñoạn sau, nên chưa thể ñưa ngay vào nội dung bài ñọc<br />
(text) hoặc luyện tập (exercises). Nhưng ñiều này không hạn chế sự linh hoạt khi biên soạn<br />
bài học. Người viết bài này ñã thử giải quyết bằng cách cung cấp cho sinh viên cuối mỗi bài<br />
khóa một câu tục ngữ hoặc thành ngữ tiếng Việt có vần vè và luyện cho họ ñọc như thơ. Ý<br />
nghĩa của từ ngữ hoặc câu thì ñược chuyển qua phần dịch. Và lần lượt qua từng bài người<br />
ñọc có thể quen dần với cách ñọc nhịp nhàng và ngấm dần các nét văn hóa ñời thường qua<br />
những ngôn từ giản ñơn như: Chị ngã, em nâng; Anh em như thể chân tay; Sẩy cha còn chú,<br />
sẩy mẹ bú dì; ði thưa, về trình; Gọi dạ, bảo vâng; No mất ngon, giận mất khôn..v.v. ý nghĩa<br />
văn hóa sâu xa của một số trong những câu này – chằng hạn câu : “No mất ngon, giận mất<br />
khôn” – sẽ ñược khai thác kỹ hơn trong các bài ñọc ở giai ñoạn nâng cao, như Bài ñọc 5 :<br />
Thuốc chữa chứng kém ăn (tiếng Việt IV: ðọc tiếng Việt).<br />
Sự tích hợp giữa văn hóa và ngôn ngữ có thể vận dụng thuận lợi nhất ở giai ñoạn phát triển,<br />
trong tiếng Việt IV. Giai ñoạn này mỗi bài ñọc giới thiệu một bộ phận của hợp thể văn hóa<br />
Việt Nam: văn hóa dân gian; truyện kể, trường ca các dân tộc thiểu số; thơ văn quốc âm cổ;<br />
chữ quốc ngữ và thơ mới, văn xuôi giai ñoạn ñầu thế kỷ XX; sinh hoạt xã hội và thơ văn thời<br />
kỳ kháng chiến; tinh thần yêu chuộng hòa bình ... Tập hợp tất cả 30 bài trong sách này lại,<br />
theo ñịnh hướng của người biên soạn, sẽ là một phác họa toàn cảnh về Cuộc hành trình của<br />
ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam như ñã ñược dùng ñặt tên cho bài ñọc số 1. Sự liên kết các bộ<br />
phận này lại ñể thành một bức tranh có hệ thống là nhiệm vụ phải làm khi tiến hành giảng<br />
dạy trong suốt năm học. Các thu hoạch của sinh viên cuối khóa học cho thấy mục tiêu của<br />
việc biên soạn sách học cũng như của quá trình giảng dạy – giúp nâng cao và phát triển tiếng<br />
<br />
<br />
9<br />
Việt cũng như giúp hiểu sâu và có hệ thống về văn hóa Việt Nam – ñã ñạt ñược khá tốt trong<br />
giới hạn thời gian cho phép.<br />
2.3 Tích hợp văn hóa vào các bài dạy thực hành. Thông thường cuối mỗi bài học ñều có một<br />
mẫu hội thoại, vận dụng từ ngữ trong bài. Những mẫu hội thoại ấy thường ngắn, gọn, ñơn<br />
giản, nên khó ñưa vào các giải thích cần thiết về văn hóa. ðể vượt qua sự hạn chế này tập<br />
tiếng Việt II (Sách hội thoại) ñược biên soạn theo “Kịch bản” về chuyến ñi của một nhóm<br />
sinh viên ðức, ngành Việt Nam học sang thực tập ở Việt Nam. Những bài hội thoại diễn ra<br />
giữa sinh viên ðức với người Việt Nam ñể dùng ngôn từ của người Việt ñối thoại làm ñiểm<br />
tựa cho các cuộc hội thoại. Sách hội thoại ñược biên soạn với 14 chủ ñiểm, bắt ñầu với các<br />
câu chuyện mà một bên ñối thoại là nhóm sinh viên, từ sự giao tiếp với những nhân viên tòa<br />
ñại sứ Việt Nam ở Berlin. ðề tài hội thoại cuối sách là buổi họp mặt chia tay giữa nhóm sinh<br />
viên ðức với các nhân viên Việt Nam ở cư xá sinh viên nước ngoài 4. Việc luyện tập hội<br />
thoại theo sách này ñược tiến hành xen kẽ với các bài học ở phần 2 của Tiếng Việt I khi<br />
người học ñã tích lũy ñược một vốn từ ngữ thông dụng và có kỹ năng phát âm khá tốt. Dựa<br />
theo nội dung từng bài sinh viên phân nhau ñể ñối thoại như diễn một hoạt cảnh sinh ñộng<br />
nên họ vào vai rất hứng thú và sinh ñộng. Trong khi hướng dẫn, giáo viên có thể cung cấp<br />
cho họ một vài hiểu biết cần yếu về văn hóa Việt Nam hợp với từng lúc của hoạt cảnh, theo<br />
mỗi ñoạn mở ñầu súc tích trước từng bài hội thoại như kiểu chỉ du lịch: Thủ tục xin thị thực<br />
nhập cảnh, vài sinh hoạt ở ñại học, quan hệ bạn bè, Sinh hoạt văn hóa.<br />
Từ Tiếng Việt III các vấn ñề văn hóa Việt Nam ñược bắt ñầu giới thiệu có hệ thống<br />
hơn ñể chuyển sang Tiếng Việt IV ở giai ñoạn sau (ðã dẫn ở 2.2 trên ñây). Trong giai ñoạn<br />
này mặc dù việc cung cấp kỹ năng phân môn NGHE, NÓI, ðỌC, VIẾT ñược thể hiện rõ nét<br />
dần, nhưng trong từng phân môn sự tích hợp các kỹ năng thuộc phân môn khác vẫn ñược<br />
quan tâm một cách thích hợp. Khi dạy và học Tiếng Việt III, sự nắm vững từ ngữ (yêu cầu<br />
hiểu rõ từ vựng – ngữ pháp) tiếng Việt ñược xác ñịnh là trục chính. Luyện phát âm từ ngữ<br />
ñược dành tỷ lệ thời gian cao trong mỗi tiết học. Nghĩa của từ ngữ giới thiệu trong mỗi bài<br />
học không phải theo kiểu ñối chiếu, mà ñược giảng giải hợp với ngữ cảnh (context) của từ<br />
ngữ. Chẳng hạn trong Bài học 1: Việt Nam – ñất nước trên bờ Thái Bình Dương. Có một<br />
ngữ ñoạn (ñược gạch dưới) trong câu “không hiểu thấu ñất nước, nếu không biết rõ lịch sử,<br />
với con người ñã viết nên lịch sử ấy”. Người học dù có biết nghĩa từng từ cũng không thể nào<br />
hiểu ñược ngữ nghĩa của ngữ ñoạn này là “các thế hệ nhân dân Việt Nam ñã xây dựng, gìn<br />
giữ ñất nước mình”. Chính ñây là cách giải thích trong phần từ ngữ của Bài học 1, còn nghĩa<br />
cùa từng từ trong ngữ ñoạn người học có thể tra cứu trong bảng Từ vựng ñối chiếu Việt ðức<br />
cuối sách.<br />
Khi tập ñọc người học không chỉ ñược luyện ñọc từng từ tách rời, mà còn ñược luyện<br />
ñọc toàn ngữ ñoạn, sau ñó ñọc cả câu với sự phân ñoạn (segmentation) rành mạch.<br />
Về mặt kỹ thuật một bài học khi biên soạn thông thường ñược chia ra các phần: bài<br />
ñọc, giải thích nghĩa từ ngữ, các bài tập thực hành; và với một số bài cũng có thể thêm mục<br />
ghi chú. Trong Tiếng Việt IV: ðọc tiếng Việt, mục ghi chú cho phép người biên soạn giới<br />
thiệu cho người học những hiểu biết về văn hóa cần yếu, nhưng không thể dồn hết vào bài<br />
tập ñọc ñược: ñặc ñiểm một số tác giả tiêu biểu; những ñịa danh lịch sử - văn hóa; những dân<br />
tộc thiểu số có nét văn hóa ñặc sắc; các sự kiện văn hóa cắm mốc trong lịch sử; một số phong<br />
tục, tập quán, thói quen có nét riêng cần giải thích rõ cho người học, một số bối cảnh của bài<br />
ñọc ñược trích tuyển; v.v.. Các ghi chú này giúp người học tự ñọc thêm ngoài giờ học ñể mở<br />
rộng vốn từ ngữ và vốn văn hóa về Việt Nam.<br />
<br />
10<br />
Tác dụng tích hợp, theo dự kiến của người biên soạn, ñược tập trung vào loại hình bài<br />
tập thực hành mà sinh viên thực hành viết ở nhà sau các buổi học ở lớp. Với kiểu bài tập thực<br />
hành này, người học cần tìm ñọc thêm tài liệu tham khảo, vận dụng linh hoạt vốn từ ñã học<br />
và vốn từ tự tích lũy mở rộng, có thể thực hành các thể loại phong cách ngôn ngữ, sáng tạo<br />
trong suy nghĩ về các vấn ñề ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam. Có thể dẫn ra sau ñây một số<br />
ñề bài tập, gợi ý từ nội dung bài tập ñọc:<br />
a. Anh/chị hãy viết một bài tả cảnh mùa thu ở quê hương mình (gợi ý từ bài ñọc<br />
ðây mùa thu tới, thơ Xuân Diệu).<br />
b. Anh/chị có suy nghĩ về cách nhìn của người lao ñộng ñối với giới tự nhiên qua<br />
bài ñọc ði lấy mật? Hãy ghi lại những cảm nghĩ ñó.<br />
c. Trong bài ñọc Cách nhìn của Thạch Lam về người trí thức có câu: “Với Thạch<br />
Lam trí thức là những người có sứ mệnh ñi tìm sự thật”. Hãy cho biết ý kiến của<br />
anh/chị về quan niệm này của Thạch Lam.<br />
d. Hãy dịch hai câu tục ngữ sau ñây sang tiếng mẹ ñẻ của anh/chị và cho biết suy<br />
nghĩ của anh/chị về ý nghĩa của 2 câu ấy trong sự liên hệ với văn hóa hóa Việt<br />
Nam: “Con có cha như nhà có nóc” và “Con hơn cha là nhà có phúc” (ðề bài tập<br />
ñược gợi ý từ bài ñọc “Kỷ niệm về người con”).<br />
e. Anh/chị hãy bình luận câu sau ñây của tác giả người ðức Theodore Fontane:<br />
“Chỉ có nơi tha phương mới dạy cho ta biết trân trọng những gì quý báu ở chốn<br />
quê nhà” [Erst die Fremde lehrt uns, was wir an der Heimat besitzen] (Gợi ý từ<br />
bài ñọc số 20: Quê hương).<br />
Sau khi hoàn thành các bài tập viết theo chủ ñề, ñược chấm và trình bày ở lớp, sinh<br />
viên có thể trả lời, thảo luận các câu hỏi, các nhận xét của các bạn cùng lớp. Với hình thức<br />
này có thể vận dụng các kỹ năng viết, trình bày, nghe hỏi, trả lời, ngay cả tranh cãi, thảo<br />
luận.v.v.. Và sau một vài lần thực hành có tính tổng hợp các kỹ năng như vậy người học tỏ ra<br />
tự tin, phấn khởi và có tiến bộ rõ rệt.<br />
Mấy năm gần ñây những lớp tiếng Việt nâng cao dành cho thực tập sinh chuyên<br />
ngành Việt Nam học ñến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, hình thức thực hành tích hợp này ñược áp<br />
dụng cho các chuyên ñề về hệ thống tổ chức chính trị và chính sách ñối ngoại của Việt Nam.<br />
Kết quả ñạt ñược cũng rất lạc quan. Có sinh viên như anh Nakamura Hikaru người Nhật, sau<br />
môn học Hệ thống tổ chức chính trị ở Việt Nam, có ý ñịnh viết một bài nghiên cứu về ba<br />
bản Hiến pháp Việt Nam vào ba thời kỳ (1946-1981-1992).<br />
3. Nhận xét kết luận<br />
3.1 Chuyên ngành Việt Nam học với tiếng Việt là cốt lõi hiện nay ñược hình thành và phát<br />
triển ở nhiều nước. Ngay tại Việt Nam các cơ sở ñào tạo có chuyên ngành này cũng ñược mở<br />
ra nhiều hơn. Cùng với tình hình ñó, các quan ñiểm, các phương pháp dạy tiếng Việt cho<br />
người nước ngoài, dạy tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ hai cũng trở nên ña dạng, phong phú.<br />
Những gì chưa thành công ñang dần dần rút kinh nghiệm ñể hoàn thiện, những thành công<br />
trong lĩnh vực này chắc chắn sẽ ñóng góp tích cực cho lý thuyết ngôn ngữ học, ñặc biệt là<br />
ngôn ngữ học ứng dụng về quan ñiểm và phương pháp dạy ngôn ngữ thứ hai.<br />
3.2 Quan ñiểm lý thuyết và phương pháp ứng dụng thực nghiệm, như kinh nghiệm trong<br />
một số lĩnh vực khoa học cho thấy, có không ít trường hợp thành công nhờ vận dụng các luận<br />
ñiểm và phương pháp thực nghiệm có tính liên ngành vào một phạm vi nào ñó ñể ñáp ứng<br />
một nhu cầu thực tiễn. Và dạy – học tiếng Việt như ngôn ngữ thứ hai sao cho có kết quả tốt<br />
nhất ñối với người học có ngôn ngữ thứ nhất – tiếng mẹ ñẻ - thuộc những loại hình ngôn ngữ,<br />
<br />
11<br />
những ngữ hệ khác nhau là một nhu cầu thực tiễn mà những nhà sư phạm dạy tiếng ñều quan<br />
tâm.<br />
Người viết bài này, với kinh nghiệm vốn có trong nhiều năm qua, cho rằng dựa theo<br />
quan ñiểm tích hợp trong xã hội học và vận dụng phương pháp tích hợp trong việc biên soạn<br />
sách dạy – học tiếng Việt và trong việc truyền dạy thực tế tại các lớp học, các khóa ñào tạo<br />
tiếng Việt như ngôn ngữ thứ hai, có thể ñạt ñược những kết quả tích cực. Quan ñiểm và<br />
phương pháp này cũng hoàn toàn phù hợp với lý thuyết ngôn ngữ học ñại cương cho rằng:<br />
“ngôn ngữ tự nó, là một thể hoàn chỉnh” và rằng “bao giờ nó cũng bao hàm ñồng thời một hệ<br />
thống ñã ñược xác lập và một sự biến hóa”; “Nó vừa là một sản phẩm xã hội của năng lực<br />
ngôn ngữ, vừa là một hợp thể gồm những quy ước tất yếu ñược tập thể xã hội chấp nhận, ñể<br />
cho phép cá nhân vận dụng năng lực này” (F.de Saussure, 1973; tr. 29,30,31). Dạy – học<br />
tiếng Việt như ngôn ngữ thứ hai, dù cho rèn luyện kỹ năng thuộc phân môn nào (nghe, nói,<br />
ñọc, viết) cũng cần ý thức ñược ñây chỉ là sự tách biệt tạm thời theo “một nguyên lý phân<br />
loại”; “các sự kiện trong hoạt ñộng ngôn ngữ” (nguồn ñã dẫn, tr.31). Vì thế việc vận dụng<br />
quan ñiểm tích hợp trong việc giúp người học rèn luyện bất cứ kỹ năng thuộc phân môn nào<br />
cũng ñều có thể và cần thiết.<br />
3.3 Các tác giả sách Ngôn ngữ và văn hóa viết: “Ngôn ngữ ñối tượng trao cho người nước<br />
ngoài nghiên cứu nó những khả năng ñầy ñủ nhất ñể càng hiểu biết sâu sắc các giá trị văn<br />
hóa của chủ nhân ngôn ngữ ñó” (E.M. Vereshaghin, V.G. Kostomarov, 1983; Lời nói ñầu,<br />
tr.3). Qua ngôn ngữ ñể càng hiểu biết sâu sắc các giá trị văn hóa bởi vì ngôn ngữ ñã từng<br />
bước tính lũy và lưu giữ dưới hình thức lời ăn tiếng nói hàng ngày về tất cả những gì mà<br />
nhân dân tạo ra nên ñể thỏa mãn các nhu cầu về sinh hoạt vật chất và tinh thần hàng ngày của<br />
mình từ thế hệ này sang thế hệ khác. Từ ñó suy ra là nhiệm vụ của người giảng viên tiếng<br />
Việt như ngoại ngữ là làm cho người nước ngoài học tiếng Việt cùng với việc nắm vững cơ<br />
cấu và cách dùng tiếng Việt làm công cụ giao tiếp còn phải có khả năng hiểu biết sâu, càng<br />
rộng càng tốt các giá trị văn hóa ẩn tàng trong tiếng Việt. Một trong những phương cách giúp<br />
cho người giảng viên dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ là vận dụng quan ñiểm tích hợp ñể<br />
gợi mở cho người học cách tiếp cận ngôn ngữ ñối tượng không chỉ một công cụ giao tiếp mà<br />
còn như một nguồn phong phú, chứa ñựng nhiều thông ñiệp hấp dẫn về văn hóa Việt Nam<br />
Ngày cuối năm Canh Dần, 01.02.2011<br />
Ghi chú:<br />
1. Lúc ấy nước ðức ñang trong giai ñoạn thống nhất. Tuy vậy, nền giáo dục Việt Nam và<br />
giáo dục ðức vẫn giữ mối liên hệ và hợp tác vốn có từ trước với Cộng hòa Dân chủ ðức,<br />
trường ðại học tổng hợp Humboldt vẫn tiếng tục mời giảng viên Việt Nam sang làm việc.<br />
Nhưng nhiệm kỳ những năm 90 thế kỷ XX chỉ có một giảng viên Việt Nam học (ngôn ngữ<br />
học) ñược Bộ Giáo dục – ñào tạo phân công ñi làm nhiệm vụ.<br />
2. Các giảng viên Việt Nam trước những năm 90 ñược phân công ñến giảng dạy ở ñây là<br />
Nguyễn Văn Mệnh, Nguyễn Lai, Hoàng Thị Châu (tiếng Việt – ngôn ngữ học), Nguyễn Văn<br />
Hồng (Sử học). Các giảng viên này ñã ñể lại một số bài viết và giáo trình:<br />
• Nguyễn Văn Mệnh, 1990: Aufbankurs Vietnamesisch, Leipzig, 1990.<br />
• Hoàng Thị Châu, 1982. Grundkurs Vietnamesisch, Leipzig, 1982.<br />
3. Tổ hợp giáo trình tiếng Việt ñã ñược biên soạn và dạy thực nghiệm gồm 04 tập:<br />
a/ Tiếng Việt I, Nhập môn (Vietnamesisch I: Grund imd Intensivkurs). Sách ñược cấu tạo với<br />
32 bài, mỗi bài học 4 tiết ở lớp.<br />
<br />
<br />
12<br />
b/ Tiếng Việt II: Hội thoại (Vietnamesisch II: Gesprachsbuch). Các ñề mục hội thoại ñược<br />
chia thành 14 bài học thực hành, ngoài bài thứ nhất là bài giới thiệu tóm tắt về cách chào hỏi<br />
và xưng hô thường gặp. Hai giáo trình này dùng cho người học năm thứ nhất.<br />
c/ Tiếng Việt III (Vietnamesisch III: Fortgeschrittenen Kurs). Mục tiêu giáo trình này là nâng<br />
cao kỹ năng sử dụng tiếng Việt cho người học và nắm ñược các ñặc ñiểm văn hóa trong sinh<br />
hoạt ñời thường của người Việt Nam. Hai mục tiêu này ñan xen vào nhau trong từng bài học,<br />
bài ñọc, trong giảng dạy. Có thể hình dung ñiều này qua tựa của một số bài ñọc: Việt Nam –<br />
ñất nước trên bờ Thái Bình Dương, Truyện bánh chưng bánh dầy, Trẩy hội ñền Hùng, Hội<br />
ñọc sử làng, Quê hương xưa và nay của người Chăm..v.v..<br />
d/ Tiếng Việt IV (Vietnamesisch IV: Lesen und Verstehen) ñược biên soạn theo hình thức<br />
một hợp tuyển gồm 30 bài ñọc có phần giải thích và bài tập. Giáo trình này thể hiện sự tích<br />
hợp ngôn ngữ và văn hóa rõ nét hơn cả mà tôi sẽ nói kỹ trong báo cáo.<br />
4. Chủ ñề của các cuộc hội thoại (HT) này lần lượt diễn ra như sau:<br />
1/ HT với tiếp tân Tòa ñại sứ 2/ HT với viên chức cấp thị thực nhập cảnh<br />
3/ HT với nhân viên Hãng hàng không Việt 4/HT với nữ tiếp viên chuyến bay<br />
Nam<br />
5/HT với viên chức ở cửa khẩu nhập cảnh 6/HT với nhân viên xe buýt ñưa ñón khách<br />
7/HT với người tiếp khách ở cư xá sinh 8/HT với trưởng khoa ngành Việt Nam học<br />
viên<br />
9/HT với lớp trưởng và sinh viên của lớp 10/HT khi ñến thăm gia ñình một bạn Việt<br />
Nam ở nông thôn<br />
11/HT với bạn học Việt Nam, chuẩn bị ñi 12/HT với các bạn sinh viên Việt Nam khi<br />
dự ñám cưới ñi thăm chợ hoa Tết<br />
13/HT khi ñến dự bữa cơm gia ñình cô giáo 14/HT khi ñi dự Hội làng ngày Tết<br />
<br />
Tài liệu tham khảo<br />
1. Bùi Khánh Thế, 1993, Tiếng Việt – nguồn tư liệu văn hóa phong phú. Trong sách<br />
Việt Nam, những vấn ñề ngôn ngữ và văn hóa, ðặc san của tạp chí Ngôn ngữ và ñời<br />
sống, Hội ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội, 1993.<br />
2. Hadumod Bussmann, Gregory P. Trauth & Kerstin Kazzazi, 1996, Routlledge<br />
Dictionary of Language and Linguistics, Lao ñặc lợi kỳ xuất bản xã, Mục từ:<br />
Intergrational Linguistics.<br />
3. M.J.Hunt, 1994, Signal Processing for Speech, (pp. 3927-3944), In: Encyclopedia of<br />
Language and Linguistuics – Editor in Chief: R.E.Asher.Vol.7.<br />
4. Robert Lado, 1957, Ngôn ngữ học qua các nền văn hóa (Hoàng Văn Vân dịch, NXB<br />
ðại học quốc gia Hà Nội 2003)<br />
5. Gordon Marshall, 1994, Oxford Concise Dictionary of Sociology, Oxford – New<br />
York – Oxford University Press.<br />
6. F. de Saussure, 1973, Giáo trình ngôn ngữ học ñại cương (Bản dịch tiếng Việt),<br />
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.<br />
7. E.M Verehaghin,V.G. Kostomarov, 1983, Ngôn ngữ và văn hóa: Ngôn ngữ ñất nước<br />
học và dạy tiếng Nga như ngoại ngữ, NXB Tiếng Nga – Moskva.<br />
<br />
Tóm tắt:<br />
<br />
<br />
13<br />
VẬN DỤNG QUAN ðIỂM TÍCH HỢP TRONG VIỆC DẠY TIẾNG VIỆT NHƯ NGÔN<br />
NGỮ THỨ HAI<br />
Bùi Khánh Thế<br />
Tích hợp (integration) theo quan ñiểm xã hội học là sự liên kết các ñơn vị là thành tố của<br />
một hệ thống, nhờ ñó các ñơn vị một mặt ñều cùng hành chức một cách ñồng bộ ñể tránh gây rối<br />
rắm cho cả hệ thống, khiến cho hệ thống không giữ ñược tính ổn ñịnh; và mặt khác các ñơn vị ñó<br />
còn tạo ñược tác dụng hợp ñồng nhằm nâng cao hiệu quả hành chức của toàn bộ hệ thống (theo<br />
Gordon Marshall, The Concise Oxford Dictionary of Sociology, 1994, tr.251)<br />
Như ta ñều biết, ngôn ngữ là một hệ thống, tích hợp trong bản thân nó văn hóa của cộng<br />
ñồng chủ nhân. Mỗi một phương diện của ngôn ngự (các mặt biểu hiện, ñược biểu hiện, thông<br />
báo) luôn luôn hành chức một cách ñồng bộ, như bộ phận trong hợp thể thống nhất, nhờ thế mà<br />
ngôn ngữ ñạt ñược hiệu quả giao tiếp xã hội. Trong việc dạy tiếng Việt như ngôn ngữ thứ hai,<br />
quan ñiểm tích hợp có thể ñược vận dụng, một mặt, trong việc biên soạn sách dạy tiếng ở các<br />
trình ñộ khác nhau, từ cơ sở ñến nâng cao và phát triển. Mặt khác, người dạy thực hành còn có<br />
thể vận dụng quan ñiểm ấy trong từng giai ñoạn, cung cấp kiến thức và kỹ năng cho người học,<br />
ngay cả ở giai ñoạn bắt ñầu và trong từng hình thức rèn luyện kỹ năng. ðể ñạt ñược ñiều này yêu<br />
cầu ñối với người dạy không chỉ cần nắm vững cơ cấu của tiếng Việt, mà còn phải am hiểu ñặc<br />
ñiểm loại hình ngôn ngữ và cả văn hóa Việt thâm nhập trong cơ cấu ngôn ngữ.<br />
<br />
Abstract:<br />
APPLYING INTEGRATION AS A POINT OF VIEW IN TEACHING AS A<br />
VIETNAMESE SECOND LANGUAGE<br />
Bùi Khánh Thế<br />
The term integration is sociologically a mode of relation of units of a system, by virtue of which,<br />
on the one hand, they act so as collectively to avoid disrupting the system and making it<br />
impossible to maintain its stability, and, on the other hand, to “co-operate” to promote its<br />
functioning as a unit” (Gordon Marshall, The Concise Oxford Dictionary of Sociology, 1994,<br />
p.251)<br />
As we all know, language is a system, integrated in itself the culture of the host community. The<br />
aspects of the language (signifier, signified, informative), each of them, function collectively, as<br />
parts of the whole, thanks to this the language reaches to socially efficient communication. In<br />
teaching Vietnamese as a second language, integration as a point of view can be applied in the<br />
one hand in compiling textbooks of different levels (from elementary to advanced), and in the<br />
other hand, teachers can based on that point of view provide learners in different stages with<br />
knowledge and language skills, right at the beginning stage and just in each of the skills. To do<br />
so, the requirement to the teachers is not only a solid mastery of the mechanism of the taught<br />
Vietnamese language but Vietnamese culture involved in that mechanism as well.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
14<br />