intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Văn hóa các dân tộc có số dân dưới 10.000 người

Chia sẻ: ViSamurai2711 ViSamurai2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:4

42
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Số phận của các nền văn hóa cổ truyền trong điều kiện của xã hội đương đại là một vấn đề lớn cần được đầu tư nghiên cứu kĩ lưỡng, trong đó những vấn đề văn hóa của các tộc người thiểu số, nhất là các tộc người có dân số ít cần được quan tâm nghiên cứu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Văn hóa các dân tộc có số dân dưới 10.000 người

Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Văn hóa các dân tộc có số dân dưới 10.000 người<br /> Tô Ngọc Thanh(1)<br /> <br /> S<br /> ố phận của các nền văn hóa cổ truyền trong điều kiện của xã hội đương đại là một vấn đề<br /> lớn cần được đầu tư nghiên cứu kĩ lưỡng, trong đó những vấn đề văn hóa của các tộc người<br /> thiểu số, nhất là các tộc người có dân số ít cần được quan tâm nghiên cứu. Trong bối cảnh hiện nay,<br /> văn hóa của một số các tộc người thiểu số đang bị mai một dần, thậm chí có nguy cơ bị biến mất, tác<br /> giả đã phân tích nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp thiết thực để bảo tồn và phát huy những<br /> giá trị văn hóa truyền thống của các tộc người thiểu số ở Việt Nam.<br /> Từ khóa: Văn hóa; dân tộc thiểu số rất ít người; dân tộc thiểu số.<br /> <br /> <br /> Bách khoa toàn thư mở Wikipedia công bố Tuy nhiên, dân số chỉ là một tiêu chí phụ,<br /> “Danh sách các dân tộc Việt Nam theo số dân”1 thậm chí chỉ có tác động đến một vài mặt nào đó<br /> tại thời điểm dân số Việt Nam có 85.846.997 của nền văn hóa tộc người. Ví dụ, làm thế nào<br /> người, trong đó có 54 dân tộc và người nước giữ được tiếng mẹ đẻ khi phải kết hôn với người<br /> ngoài cùng sinh sống2, theo đó, các tộc người có ngoại tộc? làm thế nào để tiến hành các lễ thức<br /> số dân dưới 10.000 người là: Ơ Đu: 376 người thờ cúng của tộc mình khi đã là con dâu hoặc<br /> (chiếm 0,0004% dân số Việt Nam); Brâu: 397 con rể của một tộc khác?,..Đã có nhiều ý kiến<br /> người (chiếm 0,0005% dân số Việt Nam); Rơ của các chuyên gia cho rằng với số dân 5.000<br /> Măm: 436 người (chiếm 0,0005% dân số Việt trở xuống thì dân tộc đó khó giữ được văn hóa<br /> Nam); Pu Péo: 687 người (chiếm 0,0008% mẹ đẻ.<br /> dân số Việt Nam); Si La: 709 người (chiếm Về lý thuyết là như vậy, nhưng ngay trong<br /> 0,0008% dân số Việt Nam); Ngái: 1.035 người nước ta vẫn có những tộc người tuy số dân ít<br /> (chiếm 0,0012% dân số Việt Nam); Cống: 2.029 như Si La, Pu Péo, Rơ Măm, Brâu có dân số<br /> người (chiếm 0,0024% dân số Việt Nam); Bố chưa đến 1.000 người, các tộc Cống, Bố Y, Lô<br /> Y: 2.273 người (chiếm 0,0026% dân số Việt Lô, Lự,... có số dân dưới 5.000 người mà vẫn<br /> Nam); Cờ Lao: 2.636 người (chiếm 0,0031% giữ được văn hóa. Trong khi đó, người Kháng,<br /> dân số Việt Nam ); Mảng: 3.700 người (chiếm người La Ha có dân số trên 10.000 người nhưng<br /> 0,0043% dân số Việt Nam); Lô Lô: 5.541 người từ lâu đã dùng văn hóa của người Thái để thay<br /> (chiếm 0,0053% dân số Việt Nam); Lự: 5.601 thế toàn bộ. Trong năm 2010, Chi hội Văn nghệ<br /> người (chiếm 0,0065% dân số Việt Nam); Chứt: dân gian tỉnh Lào Cai đã khôi phục được một<br /> 6.022 người (chiếm 0,007% dân số Việt Nam); bảng 3.000 mục từ cổ của người Kháng, nhưng<br /> Pà Thẻn: 6.811 người (chiếm 0,0079% dân số không có cách nào để người dân chịu học vì tiếng<br /> Việt Nam); La Hả: 8.177 người (chiếm 0,0095% Thái đã trở thành tiếng mẹ đẻ của họ. Thậm chí,<br /> dân số Việt Nam); La Hủ: 9.651 người (chiếm khi đề nghị họ ngồi nghe người già dạy họ học<br /> 0,0112% dân số Việt Nam). tiếng của tổ tiên họ thì họ bưng miệng cười và<br /> bảo “Tiếng gì mà sao khó nghe thế?”. Vì thế, về<br /> 1<br /> . Bách khoa toàn thư mở/Wikipedia – Sửa đổi lần cuối lúc cơ bản, những vấn đề văn hóa của các tộc người<br /> 15:59 ngày 16/12/2016.<br /> thiểu số là vấn đề chung cho tất cả các tộc người<br /> 2<br /> . Kết quả toàn bộ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam<br /> chứ không riêng gì các tộc người có dân số ít.<br /> năm 2009, Tổng cục Thống kê Việt Nam.<br /> Ngày nhận bài: 10/2/2017. Ngày phản biện: 15/2/2017. Ngày duyệt đăng: 25/2/2017<br /> (1)<br /> Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam Số 17 - Tháng 3 năm 2017<br /> Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN<br /> <br /> Thêm nữa, vấn đề số phận của các nền văn hóa kỵ, ngày tết;<br /> cổ truyền trong điều kiện của xã hội đương đại<br /> - Nhóm các hoạt động liên quan đến mối<br /> là một vấn đề lớn, cần được đầu tư nghiên cứu<br /> quan hệ tâm linh chủ yếu là tín ngưỡng “vạn vật<br /> kĩ lưỡng, trong khuôn khổ của một bài báo khoa<br /> có linh hồn” (Animism), trong đó là các hoạt<br /> học, chúng tôi xin phép được đưa ra một vài vấn<br /> động liên quan đến thiên nhiên như mưa, gió,<br /> đề về văn hóa của các tộc người có số dân dưới<br /> sấm, chớp, lụt lội, hạn hán, sâu bọ và thú hoang<br /> 10.000 người như sau:<br /> phá hoại mùa màng, đặc biệt là cây lúa với tín<br /> 1. Vấn đề thứ nhất: Khoảng cách lịch ngưỡng Mẹ Lúa (hoặc thần Lúa) (Tết Trung thu<br /> sử - xã hội cho trẻ con ăn cốm với ngụ ý ăn “sữa”của Mẹ<br /> Lúa). Một mối quan hệ rất quan trọng khác là<br /> Đã có một khoảng cách rất rộng về hình những gì liên quan đến con người từ khi thai<br /> thái xã hội – lịch sử giữa xã hội cổ truyền của nghén cho đến tuổi dậy thì, rồi giao duyên, hôn<br /> các tộc người thiểu số và xã hội đương đại của nhân, dựng nhà mới và đặc biệt là ốm đau và<br /> chúng ta. Cụ thể như sau: tang lễ, xuất phát từ niềm tin vào sự tồn tại của<br /> Xã hội cổ truyền là mô hình xã hội khi hồn -vía. Bà con tin rằng con người có thể xác<br /> chưa có những tác động của công cuộc xây dựng và hồn vía gắn chặt với nhau (Ba hồn bảy hay<br /> xã hội theo mô hình ngày nay. Đó là mô hình chín vía như người Kinh, người Mường; tám<br /> trong đó làng, bản, buôn, pơ lây, sóc, pa lay,... mươi hồn như người Lào, người Thái). Hồn, vía<br /> (từ đây xin gọi chung là làng) là đơn vị kinh tế phải luôn là một, nếu hồn dời đi là người ốm, vì<br /> xã hội với một lãnh thổ, một bộ phận thống trị vậy phải sinh ra một ông thầy mà tùy theo từng<br /> điều hành, với vốn ruộng đất, nương rẫy, rừng, tộc người có tên khác nhau: Phù thủy, Mo, Then,<br /> Pơ Giau,… vì những người này được tin là có<br /> nguồn nước và các tài nguyên khác. Cư dân<br /> đội âm binh có thể đi đến tất cả các thế giới hữu<br /> thường là những dòng họ đồng tộc, hoặc tuy là<br /> hình cũng như vô hình, tìm được hồn trả về cho<br /> hiếm nhưng nếu là đa tộc thì sẽ có tộc thuộc<br /> thân xác là người sẽ khỏi ốm. Một khoảnh khắc<br /> dòng dõi thống trị nắm giữ quyền thống trị điều<br /> thứ hai không kém phần quan trọng là cái chết,<br /> hành. Làng có bộ phận chính quyền, trong đó có<br /> mà các tộc người đều coi là tiếp tục quay về<br /> cả thành phần là những người chuyên giữ những<br /> sống ở thế giới của tổ tiên nên mới có tục chia<br /> hoạt động tín ngưỡng, khiến cho chính quyền<br /> của cho người chết;<br /> có thêm sức mạnh của thần quyền. Cố nhiên,<br /> văn hóa làng là văn hóa của tộc người thống trị, - Nhóm gồm tất cả những thần, ma, hồn,<br /> thường được ghi trong luật tục (nếu là tộc người vía gieo rắc vận hạn, đau ốm vì hàng nghìn lý do<br /> có chữ) hoặc là “luật bất thành văn” nhưng đều khác nhau. Với loại này, dân lại phải nhờ thầy<br /> được mọi người làng nhớ và tuân theo. Trong cúng làm lễ giải hạn hay đuổi xúi.<br /> “luật” đó quy định rất rõ mọi mối quan hệ, trong<br /> Xưa kia, sống trong một thế giới như đã<br /> đó có thể có các nhóm sau:<br /> mô tả sơ lược ở trên, con người cảm thấy yên<br /> - Nhóm liên quan đến ruộng, nương, rừng, tâm vì mọi quan hệ đã được cha ông giải quyết.<br /> thảm thực vật, quần động vật và đặc biệt là Dù cho núi cao, suối sâu, rừng rậm và cuộc đời<br /> nguồn nước; đầy rủi ro, bất trắc thì họ đã có một “mạng lưới<br /> các quan hệ hữu hình cũng như vô hình bảo vệ<br /> - Nhóm liên quan đến các quan hệ xã hội họ”.<br /> như: giữa dân và chính quyền thông qua các quy<br /> định về quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, nhiệm Ngoài ra, tất cả các quan hệ chồng chéo,<br /> vụ của “người làng”, về quan hệ gia đình, gia đan xen vừa trình bày ở trên luôn được thể hiện<br /> tộc, các tục lệ cưới xin, ma chay, lịch các ngày bằng các hình thức tục lệ hoặc các biểu tượng.<br /> <br /> Số 17 - Tháng 3 năm 2017 43<br /> Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN<br /> <br /> Chẳng hạn như lễ cúng cho người ốm thường Giải thể cấu trúc không có nghĩa là nó<br /> được hát kể bằng những làn điệu mà lời ca là biến mất hoàn toàn. Trên thực tế, cái nó bị mất<br /> những câu thơ đẹp, giàu hình ảnh và đôi khi có chính là vai trò một thành tố quan trọng tham<br /> cả múa. Như thế, một hoạt động văn hóa dân gia vào việc vận hành xã hội đương thời. Nhưng<br /> gian thường mang chức năng kép – Chức năng tất cả những giá trị và tinh hoa vật chất lẫn tinh<br /> thực hành (cúng cho người ốm) và chức năng thần được các thế hệ người chủ nhân nó sáng<br /> nghệ thuật (vỗ về và đưa người vào những thế tạo ra thì vẫn còn gần như nguyên vẹn. Do đó,<br /> giới thần tiên khiến họ an tâm tin tưởng hơn). nó không chết. Trái lại, với tư cách là giá trị của<br /> Rõ ràng đó là một xã hội hoàn chỉnh, đồng bộ, truyền thống văn hóa tộc người, nó đã và đang<br /> quan tâm từ những việc thường ngày cho đến được tham gia vào một quá trình chọn lọc theo<br /> những góc sâu kín nhất của tâm linh. Những yêu cầu phát triển của xã hội đương thời, tức là<br /> hoạt động ấy, ngoài ý nghĩa thực tiễn lại có một cùng với những nhân tố khác, nó tham gia vào<br /> dáng vẻ như một biểu tượng văn hóa, đôi lúc việc “tái cấu trúc nền văn hóa tộc người”.<br /> còn ẩn giấu một không gian huyền thoại đầy ắp<br /> những mong ước đơn sơ nhưng bay bổng của Vì mỗi tộc người là thành phần hữu cơ của<br /> những thăng hoa nghệ thuật. Như vậy, xã hội đại gia đình các tộc người Việt Nam, nên nền<br /> này đã từng là cái nôi, cái bệ đỡ cho nền văn văn hóa cổ truyền của họ có những nhiệm vụ<br /> hóa cổ truyền rực rỡ của các tộc người. Ngày trước kia chưa từng có là:<br /> nay, với nhiệm vụ xây dựng một quốc gia công - Đem những tinh hoa, giá trị truyền thống<br /> nghiệp hóa, hiện đại hóa thì cái xã hội cùng với văn hóa tộc người mình đóng góp, hội nhập vào<br /> nền văn hóa của nó buộc phải nhường lại “võ nền văn hóa đa tộc người của nước Việt Nam<br /> đài” cho những lực lượng khác. Với tư cách đã đương đại. Đó là quá trình “giao lưu, tiếp biến<br /> từng là mái nhà, đã từng là nền tảng nhiều thế văn hóa giữa các tộc người”, một quá trình<br /> kỷ của nền văn hóa, ngày nay nó phải chịu một mà trong quá khứ phải mất rất nhiều năm mới<br /> quá trình giải thể cấu trúc. thành. Trong nhiều trường hợp, một giá trị của<br /> 2. Vấn đề thứ hai: Còn hay mất? Tiếp tộc người được trở thành tài sản văn hoá quốc<br /> tục thế nào? gia thì đó là quá trình “quốc gia hóa văn hóa tộc<br /> người” và cố nhiên trước khi mang tính quốc<br /> Lịch sử là một quá trình biến động không gia, giá trị đó phải được tất cả các tộc người Việt<br /> ngừng cho nên việc còn hay mất của cái này hay Nam tiếp nhận sau một quá trình “tộc người hóa<br /> cái khác là chuyện rất bình thường. Vậy chuyện văn hóa quốc gia”.<br /> còn mất của cả một nền văn hóa thì sao? Chuyện<br /> này đã từng xảy ra trong quá khứ như trường Thông qua một loạt quá trình có tính chọn<br /> hợp ngôn ngữ và văn hóa người Kháng và người lọc nhiều tầng, nhiều lần chắc chắn giá trị có<br /> La Ha. Điều đáng lo ngại là hiện tượng “đánh một chất lượng mới về nội dung cũng như hình<br /> mất văn hóa tự nguyện” đang xảy ra trong các thức. Qúa trình chọn lọc này rất có thể có sự<br /> cháu thiếu niên người dân tộc thiểu số nhưng lại tham gia của các nhà chuyên môn và trong nhiều<br /> không biết nói tiếng tộc người mình, nhất là các trường hợp cũng đạt được thành công, nhưng<br /> cháu con em cán bộ người dân tộc sinh sống ở không hiếm trường hợp giá trị văn hóa tộc người<br /> các đô thị, thành phố và một số nhỏ các cháu học bị biến dạng lai căng, xa lạ với thẩm mỹ của<br /> ở trường nội trú trong nhiều năm. đồng bào.<br /> <br /> Tuy nhiên, số phận nền văn hóa với tư Cuối cùng phải nhắc đến một loạt các<br /> cách là nền văn hóa cổ truyền của các tộc thiểu hoạt động văn hóa có ý nghĩa tâm linh vẫn được<br /> số sẽ là thế nào khi nó phải chịu một quá trình nhân dân thực hiện hoặc phục dựng với rất ít<br /> “giải thể cấu trúc”? biến đổi và mặc nhiên được công nhận là một<br /> <br /> 44 Số 17 - Tháng 3 năm 2017<br /> Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN<br /> <br /> trong những giá trị hữu cơ của nền văn hóa quốc dùng vần chữ cái la tinh có bổ sung, tiến hành bộ<br /> gia đương đại. Đó là trường hợp các ngày hội chữ cho các tộc chưa có chữ.<br /> như Hội Lim, Hội Gióng, Hội chùa Hương, Hội<br /> - Cho phép và hướng dẫn người dân khôi<br /> Bà Chúa Xứ, Hội Lồng Tồng, Hội Chơi hang,...<br /> phục và thực hành các hình thức hội hè cổ truyền<br /> Một số nghi lễ cũng được bảo tồn như Then Kỳ<br /> theo lệ xưa, truyệt đối không có sự “đạo diễn<br /> Yên, Nối Số, Cầu Hoa, Kin Pang Then (Mừng<br /> hay dàn dựng” hoặc “sân khấu hóa”.<br /> mệnh Then), Pồn Pôông, Cá Sa, Nghi lễ Chầu<br /> văn, Lễ Khao lề thế lính Trường Sa. - Riêng các tộc người có số dân ít thì cần<br /> căn cứ vào thực trạng của từng tộc người mà có<br /> Như vậy, văn hóa cổ truyền của các tộc<br /> phương cách thích hợp. Ví dụ như người Mảng<br /> người Việt Nam (kể cả người Kinh) không<br /> ở Nặm Ban thì trước hết phải tìm diện tích đất<br /> những không mất đi mà vẫn còn tham gia vào<br /> cho họ canh tác; cử cán bộ “cầm tay chỉ việc”,…<br /> như một thành tố bền vững của nền văn hóa dân<br /> tộc đương đại. Cuối cùng, chúng ta cần phải nhận thức<br /> rằng vấn đề văn hóa của các tộc người thiểu số<br /> 3. Vấn đề thứ ba: Những gì còn cần làm?<br /> không chỉ riêng cho các tộc người thiểu số và<br /> - Để bảo tồn, phát huy những giá trị văn cho văn hóa, mà còn liên quan đến sự an nguy<br /> hóa truyền thống của các tộc người thiểu số có của bờ cõi Tổ quốc, chúng ta cần có chính sách<br /> số dân ít, trước hết cần tiến hành tổng kiểm kê quyết liệt và phù hợp cùng với đồng bào có thể<br /> vốn văn hóa cổ truyền của các tộc người chưa giải quyết tốt những trăn trở của mình.<br /> được điều tra, trong đó ưu tiên các tộc người có<br /> Tài liệu tham khảo<br /> số dân rất ít. Việc tổng kiểm kê này cần tỉ mỉ,<br /> nghiêm túc thay vì làm theo mô hình của các 1. Bách khoa toàn thư mở/Wikipedia;<br /> công trình nhân học thường thấy.<br /> 2. Kết quả tổng điều tra Dân số và Nhà ở<br /> - Tiếp đó là ngôn ngữ, trong đó cần ngăn Việt Nam, 2009, Tổng cục Thống kê Việt Nam;<br /> chặn xu hướng bỏ tiếng dân tộc, dùng tiếng Kinh<br /> thay thế. tìm kiếm, khôi phục những ngôn ngữ 3. Nguyễn Hữu Thông (2003), Tính hợp lý<br /> còn có thể dạy lại cho lớp trẻ. giữa cái còn và cái mất của một di sản, Tạp chí<br /> Văn hóa Nghệ thuật, số 6;<br /> - Đề nghị Quốc hội chỉ đạo Bộ Giáo dục<br /> và Đào tạo có chương trình dạy tiếng và chữ 4. Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa, văn<br /> (trong trường hợp có chữ cổ) dân tộc trong cấp hóa tộc người và văn hóa Việt Nam, Nxb. Khoa<br /> Tiểu học; thành lập một chương trình nhiều năm học Xã hội.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> ABSTRACT<br /> CULTURE OF THE ETHNIC PEOPLES WITH A POPULATION OF LESS THAN 10,000<br /> Preservation and promotion of traditional cultural values in the context of contemporary<br /> society is a major issue that needs to be researched carefully. The ethnic cultural issues, especially<br /> for ethnic minorities must be focused. In the present context, the culture of some ethnic minorities<br /> is slowly dying out, even at risk of disappearing. The paper analyzes the causes and proposes some<br /> practical solutions to preserve and promote the traditional cultural values of ethnic minorities in<br /> Vietnam.<br /> Keywords: Culture, Ethnic Minorities With A Population Of Less Than 10,000.<br /> <br /> Số 17 - Tháng 3 năm 2017 45<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2