Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com<br />
<br />
Chương 1: Nhu cầu viết lại lịch sử<br />
thời Pháp thuộc<br />
Tại miền Nam trước 1975, nền giáo dục phổ thông dựa trên bộ Việt Nam Sử<br />
Lược (1920) của Trần Trọng Kim. Đào sâu về thời Pháp thuộc hơn, có bộ<br />
Việt Nam Pháp thuộc sử 1884-1945 (1961) của Phan Khoang. Các nhà viết<br />
sử lớp sau như Phạm Văn Sơn cũng chỉ dựa trên hai cuốn sử này mà viết<br />
rộng ra, chứ không có khám phá mới.<br />
Trong bài tựa cuốn Histoire moderne du pays d’Annam (1592-1820) [Lịch sử<br />
hiện đại nước Nam (1592-1820)]của Charles B. Maybon, in năm 1920,<br />
Henri Cordier cho biết cuốn sử đầu tiên mà độc giả Pháp được biết về nước<br />
Nam là cuốn Cours d’histoire annamite [Giáo trình lịch sử An Nam] của<br />
Trương Vĩnh Ký in năm 1875.<br />
Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, viết xong năm 1919, in lần đầu năm<br />
1920, dưới thời Pháp thuộc, tất nhiên có sự kiểm duyệt của chính quyền<br />
thuộc địa. Học giả họ Trần, uyên thâm chữ Nho và chữ Pháp, tuy có đọc<br />
những bộ sử của nhà Nguyễn, nhưng ông vẫn đặt niềm tin gần như trọn vẹn<br />
vào tài liệu Pháp. Khi nhận định về những lý do của cuộc xâm lăng, Trần<br />
Trọng Kim lấy lại ý kiến của các sử gia thuộc địa, cho rằng vì triều đình Huế<br />
không chịu canh tân đất nước, áp dụng chính sách bế quan toả cảng, cấm<br />
đạo, diệt đạo, nên người Pháp mới đánh Việt Nam, để cứu giáo dân, giáo sĩ<br />
và bảo vệ tự do buôn bán.<br />
Phan Khoang đào sâu hơn, tiếc rằng ông cũng vẫn nghiêng theo lối trình bầy<br />
sự kiện và cách đánh giá của các sử gia thuộc địa.<br />
Nguyễn Thế Anh trong Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ (Lửa Thiêng, Sài<br />
Gòn, 1970), dùng phương pháp nghiên cứu khoa học hơn, đã đưa ra những<br />
khám phá mới, tuy nhiên trong cuốn sách này, ông vẫn chỉ dựa vào tài liệu<br />
Pháp. Đến cuốn Monarchie et fait colonial au Việt nam (1875-1925) Le<br />
crépuscule d’un ordre traditionnel [Nền quân chủ và vấn đề thuộc địa ở Việt<br />
Nam (1875-1925) Ngày tàn của trật tự truyền thống] (L’Harmattan, Paris<br />
1992), ông đã có một thái độ quân bình hơn.<br />
<br />
Học giả Đào Đăng Vỹ khi viết Nguyễn Tri Phương (1974, Kelton in lại tại<br />
Mỹ) cũng không tham khảo Đại Nam Thực Lục mà lại dựa rất nhiều vào<br />
cuốn La conquête de L’Indochine [Sự chinh phục Đông Dương] (Payot,<br />
Paris, 1934) của A.Thomazi, được nhiều người tham khảo về chiến tranh<br />
Đông dương. Thomazi là một quân nhân, không nhắc đến các chiến bại của<br />
Pháp mà chỉ đề cao chiến thắng. Vì vậy, tác phẩm của Đào Đăng Vỹ dù xuất<br />
hiện khá muộn (1974) vẫn còn nằm trong khuôn khổ các sử gia viết theo<br />
quan niệm thuộc địa.<br />
Nguyễn Khắc Ngữ trong cuốn Việt Nam ngày xưa, qua các ký họa Tây<br />
Phương, (Nhóm nghiên cứu sử địa, Montréal, Canada, 1988) đã có công sưu<br />
tầm nhiều hình ảnh, ký họa, vẽ lại các trận chiến, các vụ xử tử giáo sĩ, để<br />
người đọc hôm nay, có thể hình dung được không khí của những hiện trường<br />
thủa trước. Nhưng in lại những sản phẩm này mà không giải thích rõ ràng, là<br />
đã gián tiếp góp phần vào việc tuyên truyền cho quan điểm thuộc địa.<br />
Cuốn sách sau cùng mà chúng tôi muốn đề cập ở đây, là Lịch sử nội chiến<br />
Việt Nam của Tạ Chí Đại Trường, được giải thưởng Văn Học Toàn Quốc, bộ<br />
môn sử 1973 ở Sài Gòn (An Tiêm in lại ở Cali, 1991). Ông là một người viết<br />
sử thuộc lớp trẻ hơn, có đọc cả tài liệu Pháp-Việt, sách của ông được giải<br />
thưởng văn học, khiến cuốn Lịch sử nội chiến Việt Nam có một uy tin nào<br />
đó, được nhiều người trích dẫn, đưa lên Wikipidéa tiếng Việt. Tiếc rằng, ông<br />
cũng vẫn lại rập theo lập luận của sử quan thuộc địa để xác định công lao của<br />
Bá Đa Lộc và những “sĩ quan” Pháp, trong việc giúp Gia Long dựng lại cơ<br />
đồ.<br />
Vậy sử quan thuộc điạ là gì? Tại sao chúng ta phải nghi ngờ lối viết này?<br />
Sử quan thuộc địa<br />
Hầu như tất cả mọi người nghiên cứu về giai đoạn Pháp thuộc đều phải dựa<br />
vào thông tin của các vị thừa sai, vì họ mới chính là những người đi sâu, đi<br />
sát với dân, có tai mắt ở khắp nơi, được sự ủng hộ của giáo dân, biết nhiều<br />
thông tin ngoài lề, không có trong chính sử; hơn nữa họ là các nhà tu hành,<br />
đứng trên mọi nghi ngờ. Vì lẽ đó mà rất nhiều sử gia đã chép lại những<br />
thông tin bịa đặt của giáo sĩ La Bissachère mà không đặt vấn đề. Trường hợp<br />
Bissachère là một ngoại lệ, sẽ nói đến sau, không phải giáo sĩ nào cũng “bất<br />
lương” như thế.<br />
Tuy nhiên, giáo sĩ là một tập đoàn riêng biệt, có những nhu cầu và mục đích<br />
không đi đôi với sự tìm hiểu sự thật lịch sử: Đầu tiên hết, khi nhận nhiệm vụ<br />
<br />
truyền giáo, là họ đã quyết rời bỏ gia đình, “một đi không trở lại”, xả thân vì<br />
đạo Chúa. Nghiã vụ tử vì đạo là nghiã vụ cao cả mà họ đón nhận như một<br />
vinh quang. Nghĩa vụ thứ nhì là dìu dắt con chiên, không bỏ rơi con chiên<br />
trong bất cứ hoàn cảnh nào. Việc này giải thích tại sao các giáo sĩ khi bị đuổi<br />
khỏi Việt Nam, từ Alexandre de Rhodes (bốn lần bị bắt, bốn lần trở lại) luôn<br />
luôn tìm cách quay trở lại ngay, bất chấp luật lệ nhà vua, bất chấp án tử hình.<br />
Nhiệm vụ thứ ba của họ đối với toà thánh là truyền giáo, mở rộng ảnh hưởng<br />
của đạo thiên chúa trong vùng họ cai quản. Nhiệm vụ thứ tư là phục vụ đất<br />
nước họ, đó là quyền lợi của nước Pháp, từ Alexandre de Rhodes (15911660) đến Bá Đa Lộc (1741-1799), cả hai linh mục này đã xả thân suốt đời<br />
để phục vụ nước Pháp, dẫn đường cho người Pháp đến Việt Nam. Sự bất<br />
đồng ý kiến giữa Bá Đa Lộc và Nguyễn Ánh, cũng là sự xung đột giữa hai<br />
nguyên tắc: giảng đạo và chiến tranh, giữa hai quyền lợi: nước Pháp và nước<br />
Việt.<br />
Để hoàn tất những nhiệm vụ này, các giáo sĩ đôi khi đã, không phải bẻ cong<br />
ngòi bút, mà họ chỉ viết một nửa sự thật: ví dụ, mô tả việc xử tử giáo sĩ một<br />
cách cực kỳ dã man, nhưng không nói đến nguyên nhân tại sao họ bị xử tử;<br />
không nói đến luật hình ở Việt Nam; giấu kỹ những hoạt động chính trị của<br />
những giáo sĩ giúp phe nổi loạn (Lê Văn Khôi, Tạ Văn Phụng…), để chống<br />
lại triều đình.<br />
Thậm chí giáo sĩ Louvet, còn “dịch” một đoạn dụ rất tàn ác, bảo là của vua<br />
Tự Đức, trong có câu: “Những thầy tu người Việt, dù có chịu bước qua thánh<br />
giá hay không cũng bị chém làm đôi (…) những kẻ tàng trữ người Âu trong<br />
nhà cũng bị chém ngang thận vứt xuống sông” (Louvet, La Cochinchine<br />
Religieuse, II, t.185), không hề tìm thấy ở đâu; hoặc là “ghi lại” những lời vô<br />
nhân đạo, bảo do vua ra lệnh truyền miệng, không cho phép in, để không ai<br />
có thể kiểm chứng được. Những giáo sĩ này, dường như cố tình đưa bộ mặt<br />
“dã man” diệt đạo của vua quan nhà Nguyễn, để giáo hoàng can thiệp, để<br />
chính quyền Pháp đưa quân vào đánh.<br />
Nhiệm vụ của họ là vinh thăng sứ mệnh truyền giáo.<br />
Cuốn La Cochinchine Religieuse, (Đạo giáo ở Nam Kỳ), in năm 1885, của<br />
Louis Eugène Louvet (1838-1900), được coi như cuốn lịch sử tử vì đạo, dưới<br />
thời các “bạo chúa” Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Là ngòi bút biện hộ<br />
đắc lực cho sứ mệnh truyền giáo, cực lực kết án các vua Nguyễn và đặc biệt<br />
căm thù Minh Mạng mà các thừa sai coi là “bạo chúa Néron” Việt Nam.<br />
Louvet viết về sự “vô ơn” của Minh Mạng như sau:<br />
<br />
“Các ông Vannier và Chaigneau, hai người Pháp ở lại, duy nhất sống sót<br />
trong mấy người tận tụy đến đây từ năm 1789, khôi phục lại ngai vàng cho<br />
cha ông [Gia Long]. Để thưởng công cho họ, vua Gia Long đã thăng lên<br />
hàng đại thần và cho tham dự hội đồng [nội các]; sự hiện diện của họ làm<br />
Minh Mạng khó chịu, kiếm cách loại trừ”. (Louvet, La Cochinchine<br />
Religieuse, t.32, tất cả những chỗ in đậm là do chúng tôi).<br />
Sự xác định: Những người Pháp đến đây từ năm 1789, đã khôi phục lại ngai<br />
vàng cho Gia Long là một huyền thoại, được các sử gia thuộc địa dầy công<br />
xây dựng.<br />
Một trong những sử gia thuộc địa ảnh hưởng lớn đến sử gia Việt, lớp trước,<br />
phải kể đến Charles Gosselin và cuốn L’Empire d’Annam [Đế Quốc An<br />
Nam] in tại Paris, năm 1904. Charles Gosselin là đại uý trong quân đội viễn<br />
chinh, có mặt trên chiến trường và đã nghiên cứu rất kỹ về xã hội Việt Nam.<br />
Ông viết về xã hội Việt, về phong tục tập quán của người Việt khá sâu sắc,<br />
đặc biệt vấn đề thờ cúng tổ tiên, như một triết lý sống, một ý thức tâm linh đi<br />
trên mọi tôn giáo, mà đạo Thiên Chúa thời ấy đã sai lầm bác bỏ. Ông cũng<br />
viết rất kỹ về việc vua Hàm Nghi bị bắt, qua thông tin của những người trực<br />
tiếp tham dự chiến dịch này, tỏ lòng khâm phục sâu xa hai người con của<br />
Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Thiệp và Tôn Thất Đạm, đã phò vua đến chết.<br />
Tuy nhiên, ông đã không thể gạt bỏ được đầu óc chủ quan của người lính<br />
viễn chinh, đến đây với mục đích “chinh phục” và “giáo hoá”, vì thế ông cần<br />
phải biện minh cho chính nghiã, qua hai điểm chính:<br />
- Đổ tội cho các vua Nguyễn trách nhiệm đánh mất nước.<br />
- Biện minh cho cuộc xâm lăng bằng cách thổi phồng sự tàn sát đạo Thiên<br />
chúa dưới triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức; nêu cao “thiên chức cứu<br />
đạo” của đoàn quân viễn chinh.<br />
Hai mục đích này được trình bầy rất rõ trong bài tựa cuốn L’Empire<br />
d’Annam [Đế Quốc An Nam]:<br />
“Những vị hoàng đế nước Nam, bởi sự bội bạc đối với những người Pháp<br />
lẫy lừng đã làm quan cho Gia Long, mà nhờ họ, mới có được ngai vàng; bởi<br />
sự tàn ác đối với những giáo sĩ đồng bào của chúng ta; bởi sự cứng đầu điên<br />
dại bế quan tỏa cảng; bởi sự khinh bỉ nền văn minh phương Tây, vì kiêu<br />
căng ngu muội, họ cho là man rợ; bởi sự kiên trì từ chối tiếp xúc với nước<br />
ngoài, trừ nước Tầu; những hoàng đế này, tôi bảo, phải chịu trách nhiệm sự<br />
suy đồi và sụp đổ của nước họ, phải gánh vác một mình, sự nhục nhã trước<br />
<br />