intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Xác định giá trị doanh nghiệp khi tái cơ cấu ngân hàng thương mại ở Việt Nam - Một số đánh giá dưới góc độ pháp lý

Chia sẻ: Lệ Minh Vũ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:24

4
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Xác định giá trị doanh nghiệp khi tái cơ cấu ngân hàng thương mại ở Việt Nam - Một số đánh giá dưới góc độ pháp lý" ngoài phần tình hình nghiên cứu và kết luận, đề cập đến những vấn đề sau: quan điểm về pháp luật xác định giá trị doanh nghiệp khi tái cơ cấu ngân hàng thương mại; một số bất cập trong quy định của pháp luật về xác định giá trị doanh nghiệp khi tái cơ cấu ngân hàng thương mại ở Việt Nam; một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về xác định giá trị doanh nghiệp trong hoạt động tái cơ cấu ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Xác định giá trị doanh nghiệp khi tái cơ cấu ngân hàng thương mại ở Việt Nam - Một số đánh giá dưới góc độ pháp lý

  1. XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP KHI TÁI CƠ CẤU NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM - MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ DƯỚI GÓC ĐỘ PHÁP LÝ NGƯT.PGS.TS. Phạm Thị Giang Thu1 NCS.ThS. Nguyễn Ngọc Yến2 Tóm tắt Hoạt động xác định giá trị doanh nghiệp và hoạt động tái cơ cấu NHTM có mối quan hệ qua lại, tương tác. Hoạt động xác định giá trị doanh nghiệp là tiền đề của hoạt động tái cơ cấu NHTM. Ngược lại, mục đích của hoạt động tái cơ cấu ảnh hưởng tới quá trình xác định giá trị doanh nghiệp và kết quả giá trị doanh nghiệp là NHTM được tái cơ cấu. Việc xác định những tài sản nào cấu thành giá trị doanh nghiệp cần xác định, phương pháp nào cần áp dụng cho xác định giá trị doanh nghiệp với trường hợp đặc thù là NHTM. Những vấn đề này đòi hỏi pháp luật hướng dẫn cụ thể để các chủ thể tham gia vào hoạt động xác định giá trị doanh nghiệp khi tái cơ cấu NHTM thực hiện, đảm bảo quyền lợi của những chủ thể có liên quan và hình thành nên những NHTM sau tái cơ cấu hoạt động an toàn, lành mạnh, không gây những ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế. Bài viết này ngoài phần tình hình nghiên cứu và kết luận, đề cập đến những vấn đề sau: - Quan điểm về pháp luật xác định giá trị doanh nghiệp khi tái cơ cấu ngân hàng thương mại - Một số bất cập trong quy định của pháp luật về xác định giá trị doanh nghiệp khi tái cơ cấu ngân hàng thương mại ở Việt Nam - Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về xác định giá trị doanh nghiệp trong hoạt động tái cơ cấu ngân hàng thương mại ở Việt Nam Từ khóa: giá trị doanh nghiệp, tái cơ cấu, xác định giá trị doanh nghiệp, ngân hàng thương mại, tái cơ cấu ngân hàng thương mại 1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến vấn đề pháp luật về xác định giá trị doanh nghiệp trong hoạt động tái cơ cấu ngân hàng thương mại Dưới góc độ nghiên cứu, một số công trình nghiên cứu nổi bật đã công bố liên quan đến pháp luật về xác định giá trị doanh nghiệp trong hoạt động tái cơ cấu NHTM có thể kể tới như: Cuốn sách chuyên khảo “Investment Valuation” của tác giả Aswath Damodaran năm 2000; Bài nghiên cứu “Valuations of Banks in Mergers” của tác giả Luca Francesco Franceschi năm 2008; Cuốn sách “The Valuation of Financial 1 NGƯT, PGS.TS, Giảng viên cao cấp Khoa Pháp luật Kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội. Email: giangthu.tcnh@gmail.com, SĐT: 0913.508.540. 2 NCS.ThS, Giảng viên Khoa Pháp luật Kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội. Email: ngocyen.hlu@gmail.com, SĐT: 0972.299.590. 606
  2. Companies - Tools and Techniques to Value Banks, Insurance Companies and other Financial Institutions” của nhóm tác giả Mario Massari, Gianfrate và Laura Zanetti năm 2014; Bài nghiên cứu “Xác định giá trị doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước” của tác giả Nguyễn Thị Quỳnh Liên và Nguyễn Diệu Linh năm 2015; Bài nghiên cứu “Tái cơ cấu ngân hàng thương mại ở Việt Nam (2011 - 2016) - khía cạnh xử lý các ngân hàng yếu kém” của nhóm tác giả Nguyễn Hồng Sơn, Trần Thị Thanh Tú và Nguyễn Thị Nhung năm 2017... Tổng quan đến nay chưa nhiều công trình nghiên cứu đã công bố ở trong nước và nước ngoài nghiên cứu về hoạt động xác định giá trị doanh nghiệp khi tái cơ cấu NHTM. Những công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung vào hoạt động xác định giá trị doanh nghiệp hoặc hoạt động tái cơ cấu tổ chức tín dụng nói chung, NHTM nói riêng. Hoạt động xác định giá trị doanh nghiệp khi tái cơ cấu NHTM nếu được nghiên cứu tới cũng chủ yếu thể hiện các phân tích dưới góc độ kinh tế, mang tính đơn lẻ cho từng vấn đề, nội dung nghiên cứu pháp luật về việc xác định giá trị doanh nghiệp khi tái cơ cấu NHTM chưa thực sự được quan tâm. Bởi vậy, việc lựa chọn vấn đề nghiên cứu này làm rõ những nội dung lý luận, pháp luật điều chỉnh và thực tiễn áp dụng pháp luật về xác định giá trị doanh nghiệp khi tái cơ cấu NHTM, từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật về nội dung này. Đây là những hoạt động có giá trị lớn nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động tái cơ cấu các tổ chức tín dụng giai đoạn 2021 - 2025 diễn ra sôi động, an toàn và hiệu quả. 2. Quan điểm về pháp luật xác định giá trị doanh nghiệp khi tái cơ cấu ngân hàng thương mại 2.1. Giá trị của ngân hàng thương mại Khái niệm giá trị doanh nghiệp có thể tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau, trong đó, dưới góc độ pháp luật, giá trị doanh nghiệp có thể được hiểu là sự biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu và quyền sử dụng của doanh nghiệp. Ngân hàng thương mại có đối tượng kinh doanh và hoạt động kinh doanh đặc biệt nhưng cội nguồn của NHTM vẫn là một doanh nghiệp, do đó khái niệm về giá trị doanh nghiệp là NHTM có thể tiếp cận theo quan niệm về giá trị doanh nghiệp thông thường. Theo đó, giá trị NHTM là sự biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu và quyền sử dụng của NHTM. Tuy nhiên, so với doanh nghiệp thông thường, giá trị NHTM có những điểm đặc biệt hơn xuất phát từ sự đặc thù của cơ cấu và tính chất của các tài sản thuộc quyền sở hữu và sử dụng của NHTM. Những sự đặc thù này có thể nhận diện như sau: Thứ nhất, NHTM có cơ cấu tài sản vô hình đa dạng, những tài sản này ảnh hưởng lớn đến giá trị NHTM. Khác với doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng hoá, cơ cấu tài 607
  3. sản hữu hình là chủ yếu và hoàn toàn có thể xác định giá trị một cách tương đối rõ ràng, đối với NHTM, nếu chỉ dựa trên tài sản hữu hình mà không đánh giá đầy đủ tài sản vô hình sẽ dẫn tới việc xác định giá trị NHTM không chính xác. Thực tế, những tài sản vô hình như thương hiệu, mạng lưới khách hàng và sự trung thành của khách hàng, bộ máy quản trị điều hành... là những yếu tố tạo nên giá trị lớn cho NHTM, quyết định vị thế của NHTM trên thị trường. Bởi vậy, việc xác định được và xác định đúng, đầy đủ giá trị tài sản vô hình của NHTM có ý nghĩa quan trọng trong việc phản ánh chính xác giá trị NHTM. Thứ hai, giá trị nợ vay ảnh hưởng lớn tới giá trị NHTM. Đối với doanh nghiệp thông thường, cơ cấu vốn được hình thành bởi hai nguồn, gồm vốn chủ sở hữu và vốn huy động. Với tổng số vốn này, doanh nghiệp có thể sử dụng để mua sắm tài sản, thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh... Tuy nhiên, đối với NHTM, nợ vay lại có ý nghĩa khác hơn. Theo Aswath Damodaran (2000), nợ vay của các NHTM được xem như “nguyên liệu” để chuyển thành các sản phẩm tài chính và được bán lại với giá cao hơn để thu lợi nhuận1. Thêm vào đó, cơ cấu vốn vay của các NHTM chiếm tỷ trọng lớn, thậm chí lớn hơn nhiều lần so với cơ cấu vốn chủ sở hữu của NHTM. Thứ ba, khoản cho vay chiếm tỷ trọng chủ yếu trên tổng tài sản có của NHTM. Khoản cho vay mang tính chất đặc thù, với sự rủi ro và những rủi ro này có sự biến động rất lớn, bởi sự gắn kết với tình trạng hoạt động của khách hàng vay. Do đó, khi xác định giá trị doanh nghiệp là NHTM, việc đánh giá chất lượng danh mục cho vay của NHTM với khách hàng đóng vai trò quan trọng. Việc đánh giá cần thực hiện trên hai góc độ: (i) thành phần danh mục cho vay và (ii) mức dự phòng rủi ro trong cho vay. Về thành phần danh mục cho vay, cần thiết phải có sự phân khúc danh mục cho vay về chất lượng và phân tích tỷ lệ nợ xấu. Về mức dự phòng, tỷ lệ bao phủ nợ xấu (số dư dự phòng của các khoản nợ xấu/tổng các khoản cho vay) cho biết NHTM đã trích lập dự phòng bao nhiêu cho các khoản vay, đồng thời xác định khả năng “phòng thủ” của NHTM trước những khoản nợ xấu. Thêm vào đó, đối với các khoản nợ xấu, cũng cần xác định vị trí trong việc tính toán giá trị doanh nghiệp là NHTM. Bởi lẽ có những nhóm nợ xấu NHTM có thể được bán. Mức giá bán khoản nợ xấu sẽ xác định khả năng thu hồi khoản cho vay của NHTM, từ đó giảm thiểu phần trích lập dự phòng cho khoản nợ xấu đó và làm tăng giá trị NHTM. Bởi vậy, việc sử dụng phương pháp để xác định giá trị NHTM cũng cần có sự xem xét, cân nhắc để đảm bảo tính toán được tổng thể những yếu tố đặc thù trong cơ cấu tài sản có và tài sản nợ của NHTM. Thứ tư, sự ảnh hưởng của các quy định pháp luật tới giá trị NHTM. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh những cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới với hậu quả nghiêm trọng 1 Aswath Damodaran (2000), Investment Valuation, Mc Kinsey & Company. Inc, tr.13. 608
  4. xuất phát từ đối tượng kinh doanh và hoạt động kinh doanh của NHTM. Điều này dẫn tới việc NHTM luôn đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ bởi quy định của pháp luật, từ việc hình thành, quá trình tồn tại và hoạt động, cho tới việc chấm dứt sự tồn tại. Đồng thời, những quy định có phần hạn chế của pháp luật cũng sẽ ảnh hưởng tới giá trị NHTM, đặc biệt khi sử dụng các tiêu chí để đánh giá dòng tiền mà NHTM mang lại cho nhà đầu tư trong tương lai. Thêm vào đó, giới hạn của pháp luật và định hướng của Nhà nước trong việc ra đời một NHTM cũng là yếu tố khiến giá trị NHTM có sự đặc biệt. Điều này dẫn đến việc dù một NHTM đang trong tình trạng hoạt động yếu kém, vẫn có nhiều nhà đầu tư sẵn sàng bỏ số tiền lớn để mua lại những NHTM này. Đây là giá trị vô hình cần được cân nhắc kỹ lưỡng khi xác định giá trị ngân hàng thương mại. Những điểm nổi bật trong cơ cấu tài sản của NHTM nêu trên đều có những ảnh hưởng nhất định đến giá trị doanh nghiệp là NHTM. Do vậy, để xác định được một cách chính xác giá trị NHTM, pháp luật cần có những quy định cụ thể ghi nhận đầy đủ những tài sản của NHTM và quy định những phương pháp phù hợp để xác định được giá trị những tài sản này. 2.2. Tái cơ cấu ngân hàng thương mại Tái cơ cấu NHTM là mục tiêu quan trọng trong lộ trình tái cơ cấu tổ chức tín dụng nói riêng và tái cơ cấu nền kinh tế nói chung. Hoạt động tái cơ cấu NHTM có những điểm tương đồng và khác biệt so với hoạt động tái cơ cấu doanh nghiệp thông thường, thể hiện ở một số nội dung như sau: Thứ nhất, về lý do được đưa ra cho hoạt động tái cơ cấu NHTM. Cũng giống như những doanh nghiệp thông thường, NHTM thực hiện hoạt động tái cơ cấu để lành mạnh hoá tài chính, quản trị, điều hành, hoạt động, nâng cao vị thế, sự phát triển của NHTM. Tuy nhiên, đối với NHTM, nhu cầu tái cơ cấu trở nên cấp thiết hơn sau các cuộc khủng hoảng tài chính hay nền kinh tế có những bất ổn đặt NHTM lâm vào tình trạng rủi ro tín dụng, nợ xấu gia tăng, mất khả năng thanh khoản. Khi rủi ro xảy ra, chức năng trung gian tài chính của NHTM sẽ khiến cho các thị trường khác, nhất là thị trường chứng khoán, bất động sản, tiếp theo là hoạt động thương mại lâm vào trì trệ, khủng hoảng, chưa kể đến những hệ luỵ to lớn của những vấn đề xã hội nảy sinh. Đây cũng là lý do trong quá trình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng nói chung, tái cơ cấu NHTM nói riêng, các quốc gia luôn đề ra phương án xử lý nợ xấu như một phần các biện pháp góp phần thực hiện hoạt động tái cơ cấu được hiệu quả. Đồng thời, đây cũng là lý do dẫn tới hoạt động tái cơ cấu các NHTM luôn và cần có sự tham gia của Nhà nước, đặt trong sự định hướng và quản lý của Nhà nước. Thứ hai, về giải pháp thực hiện tái cơ cấu NHTM. So với các doanh nghiệp thông thường có thể thực hiện tái cơ cấu một cách chủ động để đáp ứng được các giai đoạn và 609
  5. nhu cầu phát triển, NHTM, nhất là đối với những NHTM yếu kém, hoạt động tái cơ cấu còn có sự tác động, thậm chí là áp đặt ý chí từ Nhà nước. Theo thông lệ quốc tế, các biện pháp tái cơ cấu NHTM nhấn mạnh vào xử lý các NHTM yếu kém bao gồm1: (i) Nhà nước “bơm” thêm tiền để các TCTD yếu kém duy trì hoạt động với kỳ vọng các TCTD sẽ cải thiện được tình hình2; (ii) Tiến hành mua lại, sáp nhập, hợp nhất (M&A) giữa các TCTD, đặc biệt là các NHTM. (iii) Thành lập chủ thể hỗ trợ tái cơ cấu NHTM và quy định trách nhiệm cụ thể của từng chủ thể tham gia hỗ trợ tái cơ cấu NHTM. (iv) Quốc hữu hoá các NHTM yếu kém và (v) Chính phủ chấp nhận để NHTM phá sản, hoặc thực hiện các biện pháp cho phép các NHTM yếu kém đóng cửa trên cơ sở bảo vệ lợi ích của người gửi tiền. Để định hướng và thực hiện hoạt động tái cơ cấu NHTM một cách hiệu quả, đảm bảo sự phát triển ổn định và an toàn của kinh tế - xã hội, những lý do và giải pháp thực hiện tái cơ cấu NHTM nêu trên cần được ghi nhận cụ thể trong các quy định của pháp luật. Việc xác định rõ các trường hợp xảy ra cùng với việc xây dựng các cơ sở pháp lý cụ thể sẽ giúp cho mọi quyết định tái cơ cấu nằm trong tầm kiểm soát, tránh trường hợp gây ra những tổn thất cho Nhà nước hay những chủ thể có liên quan. 2.3. Hoạt động xác định giá trị doanh nghiệp khi tái cơ cấu ngân hàng thương mại Do những sự đặc biệt trong lý do và giải pháp tái cơ cấu NHTM, hoạt động xác định giá trị doanh nghiệp khi tiến hành tái cơ cấu cũng sẽ có những điểm khác biệt. Gắn với hệ thống NHTM Việt Nam, vị trí của hoạt động xác định giá trị doanh nghiệp ở các trường hợp tái cơ cấu NHTM có thể xem xét thông qua một số trường hợp sau: Thứ nhất, trường hợp tái cơ cấu các NHTM do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Giải pháp tái cơ cấu nhóm NHTM này được thực hiện thông qua việc cổ phần hoá. Trong quá trình này, hoạt động xác định giá trị NHTM được coi là hoạt động quan trọng nhất, tốn nhiều thời gian thực hiện nhất. Đồng thời, kết quả xác định giá trị NHTM là vấn đề được Nhà nước, NHTM, các nhà đầu tư và các mọi chủ thể trong xã hội đặc biệt quan tâm. Quá trình xác định giá trị NHTM không chỉ mang tính nghiệp vụ kỹ thuật thuần tuý, mà có ý nghĩa kinh tế - xã hội quan trọng, bởi nó liên quan đến việc bảo toàn và thu hồi vốn của Nhà nước tại NHTM, khả năng bán được cổ phần và đảm bảo hiệu quả hoạt động của NHTM sau khi cổ phần hoá. Với tầm quan trọng này, pháp luật các quốc gia đều có quy định cụ thể, chi tiết về điều kiện, trình tự, thủ tục, phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp khi tiến hành tái cơ cấu doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, quyền và nghĩa 1 Nguyễn Hồng Sơn, Trần Thị Thanh Tú, Nguyễn Thị Nhung (2017), Tái cơ cấu ngân hàng thương mại Việt Nam (2012 - 2016) - khía cạnh xử lý các ngân hàng yếu kém, Kỷ yếu Hội thảo Quản trị ngân hàng hiệu quả, Nxb. Khoa học kỹ thuật, tr. 144 - 145. 2 Theo quan điểm của Patrick B., Olivier J. (2007), Structuring and Retructuring Sovereign Debt: The Role of a Bankruptcy Regime, IMF Working Paper. 610
  6. vụ của những chủ thể tham gia vào hoạt động này và áp dụng các biện pháp chế tài trong trường hợp có sai phạm gây ảnh hưởng tới sự thu hồi nguồn vốn của Nhà nước. Thứ hai, trường hợp tái cơ cấu các NHTM cổ phần Đối với nhóm NHTM yếu kém, kết thúc thời gian kiểm soát đặc biệt vẫn không trở về được tình trạng hoạt động bình thường, lúc này, các biện pháp xử lý đối với NHTM được áp dụng. Lựa chọn tái cơ cấu bắt buộc NHTM đó bằng cách yêu cầu sáp nhập, hợp nhất cùng với những NHTM khác, thậm chí Nhà nước mua lại NHTM là những phương án tránh rủi ro lây chuyền cho cả hệ thống các TCTD và ảnh hưởng tới kinh tế - xã hội của đất nước. Rõ ràng, ở những trường hợp tái cơ cấu bắt buộc này, vấn đề trọng tâm là đảm bảo an toàn, ổn định của hệ thống, bởi vậy việc xác định giá trị doanh nghiệp có thể không được coi trọng. Ngay cả khi trong quá trình tái cơ cấu có đưa ra một mức giá cụ thể cho việc mua bán hay sáp nhập, hợp nhất, mức giá đó cũng chưa chắc phản ánh đúng và đầy đủ những giá trị của NHTM. Đối với nhóm NHTM còn lại, việc tái cơ cấu xuất phát từ nội tại ý chí và mong muốn của chính NHTM, lúc đó, sự đa dạng của tài sản và sự cố gắng tìm ra phương pháp để tính toán giá trị của tài sản một cách chính xác nhất mới được NHTM thực hiện. Bởi lẽ, trong trường hợp này, NHTM sẽ muốn có được một kết quả giá trị tối ưu nhất phục vụ cho những mục đích phát triển, mở rộng, cạnh tranh, hoặc hướng tới thương vụ tái cơ cấu có lợi nhất cho chủ sở hữu, thay vì chấp nhận một mức giá không phản ánh đúng vị thế và vị trí của mình trên thị trường. Tuy nhiên, khi các NHTM thực hiện hoạt động tái cơ cấu một cách tự nguyện, vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp cũng cần được thực hiện dựa trên các cơ sở khoa học. Hay nói cách khác, bản thân các NHTM tham gia tái cơ cấu cần định vị được đúng vị trí của mình thông qua việc xác định đúng giá trị doanh nghiệp mình. Việc xác định giá trị của mình quá cao hay quá thấp đều có những tác động tiêu cực trong quá trình tái cơ cấu. Để giải quyết những trường hợp này, khi các NHTM chủ động, tự nguyện thực hiện tái cơ cấu, cần phải có những quy chuẩn đồng nhất thể hiện trong các quy định của pháp luật làm cơ sở để tính toán giá trị doanh nghiệp. Như vậy, kết quả giá trị doanh nghiệp mới có khả năng thuyết phục được các bên tham gia tái cơ cấu và dẫn đến sự thành công của những thương vụ này. 2.4. Kết cấu pháp luật về xác định giá trị doanh nghiệp khi tái cơ cấu ngân hàng thương mại Pháp luật về xác định giá trị doanh nghiệp khi tái cơ cấu NHTM được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện xác định giá trị NHTM, làm tiền đề cho việc tiến hành các hoạt động tái cơ cấu loại hình doanh nghiệp này diễn ra nhanh chóng, thành công và đảm bảo quyền lợi của các chủ thể liên quan. Hệ thống quy định này là căn cứ pháp lý để một hoạt động tái cơ cấu 611
  7. NHTM diễn ra hiệu quả, phản ánh đúng giá trị của NHTM được tái cơ cấu và đảm bảo quyền lợi của các chủ thể có liên quan. Để thực hiện được vai trò này, pháp luật về xác định giá trị doanh nghiệp khi tái cơ cấu NHTM bao gồm các bộ phận cấu thành cơ bản sau: Thứ nhất, nhóm quy phạm quy định về tài sản của NHTM cần xác định giá trị khi tiến hành tái cơ cấu. Tài sản là thuật ngữ được sử dụng chung để chỉ mọi thứ là đối tượng của quyền sở hữu. Vấn đề đầu tiên và quan trọng liên quan đến việc xác định giá trị doanh nghiệp là xác định những tài sản của doanh nghiệp và việc xác định giá trị những tài sản đó như thế nào cũng như các quyền năng đối với những tài sản đó. Đây cũng chính là những nội dung cần có sự điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật. hoặc hữu hình hoặc vô hình, hoặc động sản hoặc bất động sản1. Thứ hai, nhóm quy phạm quy đinh về chủ thể tham gia xác định giá trị doanh nghiệp trong hoạt động tái cơ cấu NHTM, gồm: quy định về các chủ thể có nhu cầu tự mình thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp; quy định về các tổ chức có chức năng định giá thực hiện tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp và các chủ thể có chức năng kiểm tra tài chính nhà nước. Vai trò của pháp luật trong trường hợp này là xác định được những chủ thể tham gia vào việc xác định giá trị doanh nghiệp, vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của những chủ thể đó. Từ đó, pháp luật sẽ đưa ra các tiêu chuẩn, các điều kiện thành lập và hoạt động của các chủ thể. Thứ ba, nhóm quy phạm pháp luật quy định về phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp trong hoạt động tái cơ cấu NHTM. Các quy phạm về nội dung này sẽ chứa đựng các quy định cụ thể về: trường hợp vận dụng phương pháp; các điều kiện cần tuân thủ (nếu có); quy trình thực hiện phương pháp. Thứ tư, nhóm quy phạm pháp luật quy định về trình tự, thủ tục xác định giá trị doanh nghiệp trong hoạt động tái cơ cấu NHTM. Những nội dung cụ thể của nhóm quy phạm này bao gồm: (i) những việc NHTM cần thực hiện trước khi tiến hành xác định giá trị doanh nghiệp phục vụ cho hoạt động tái cơ cấu như xử lý tài chính đối với các tài sản thuê mượn, công khai, minh bạch báo cáo tài chính và (ii) những việc NHTM cần phải thực hiện khi tiến hành xác định giá trị doanh nghiệp phục vụ cho hoạt động tái cơ cấu. Thứ năm, nhóm quy phạm pháp luật quy định về hoạt động quản lý nhà nước đối với việc xác định giá trị doanh nghiệp trong hoạt động tái cơ cấu NHTM. Nhóm quy phạm pháp luật này sẽ bao gồm các quy định về: cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc quản lý, thực hiện tái cơ cấu và hỗ trợ tái cơ cấu đối với NHTM, vai trò của cơ quan này trong việc xác định giá trị doanh nghiệp khi tái cơ cấu NHTM; cơ chế giám sát, kiểm soát của Nhà nước trong việc xác định giá trị NHTM khi tái cơ cấu; các chế tài xử lý vi phạm đối 1 Deluxe Black’s Law Dictionary. 612
  8. với hành vi vi phạm của những chủ thể tham gia/có liên quan trong việc định giá NHTM khi tái cơ cấu và giải quyết tranh chấp trong quá trình xác định giá trị các NHTM. 3. Một số bất cập trong quy định của pháp luật về xác định giá trị doanh nghiệp khi tái cơ cấu ngân hàng thương mại ở Việt Nam 3.1. Bất cập trong quy định về tài sản của ngân hàng thương mại cần xác định giá trị khi tiến hành tái cơ cấu Thứ nhất, pháp luật hiện hành chưa có quy định thống nhất về vị trí của tài sản là thương hiệu trong cơ cấu tài sản của ngân hàng thương mại. Thương hiệu vốn là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong đời sống dân sự, thương mại ở Việt Nam và trên thế giới. Đối với NHTM, thương hiệu là yếu tố có thể tạo nên giá trị lớn cho NHTM, quyết định, khẳng định vị thế của NHTM trên thị trường. Tuy nhiên, quy định của pháp luật Việt Nam chưa có sự thống nhất về xác định vị trí tài sản thương hiệu trong cơ cấu tài sản của NHTM, thể hiện ở chỗ: Việc cổ phần hoá NHTM do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ được thực hiện theo Nghị định hướng dẫn về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Theo đó, khi tiến hành cổ phần hoá, giá trị thương hiệu cùng với tiềm năng phát triển sẽ tạo thành giá trị lợi thế kinh doanh của NHTM và cần được xác định chính xác để tìm ra giá trị thực tế của NHTM. Trong đó, giá trị thương hiệu được xác định trên cơ sở các chi phí thực tế cho việc tạo dựng và bảo vệ nhãn hiệu, tên thương mại trong quá trình hoạt động của ngân hàng trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp 05 năm1. Như vậy, theo quy định này, tên thương mại và nhãn hiệu là những yếu tố cấu thành nên giá trị thương hiệu. Soi chiếu với quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ, nhãn hiệu, tên thương mại2 là hai trong số những tài sản trí tuệ được pháp luật ghi nhận và bảo hộ. Vậy, nếu dựa theo cách tiếp cận trong Nghị định hướng dẫn về cổ phần hoá doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, có thể hiểu thương hiệu cũng được xếp vào nhóm tài sản trí tuệ. Việc xác định, phân loại tài sản khi tái cơ cấu các NHTM cổ phần được thực hiện theo các Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam. Gần đây, nhằm tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho việc xác định giá trị thương hiệu, từ đó xác định đầy đủ giá trị doanh nghiệp, Tiêu chuẩn thẩm định giá số 12 - Thẩm định giá doanh nghiệp ban hành kèm theo Thông tư số 28/2021/TT-BTC đã mở rộng phạm vi tài sản vô hình của doanh nghiệp. Theo đó, tài sản vô hình của doanh nghiệp cần thẩm định giá bao gồm: (i) những tài sản vô hình đã được 1 Điều 31 Nghị định 126/2017/NĐ-CP ngày 16/11/2017 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp nhà nước và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do doanh nghiệp nhà nước đầu tư 100% vốn điều lệ thành công ty cổ phần. 2 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ số 36/2009/QH12. 613
  9. ghi nhận trong sổ sách kế toán; (ii) các tài sản vô hình khác thoả mãn điều kiện quy định tại Tiêu chuẩn Thẩm định giá tài sản vô hình1 và (iii) tài sản vô hình không xác định được2. Trong đó, tài sản vô hình không xác định được bao gồm thương hiệu và tài sản vô hình không xác định được khác. Với quy định này, có thể hiểu thương hiệu không được coi là tài sản trí tuệ vì không thoả mãn được các điều kiện để trở thành tài sản vô hình theo Tiêu chuẩn Thẩm định giá số 13 - Thẩm định giá tài sản vô hình ban hành kèm theo Thông tư số 06/2014/TT-BTC ngày 07/01/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Dưới góc độ thực tiễn, trong các trường hợp tái cơ cấu NHTM từ trước đến nay, việc xác định giá trị thương hiệu chưa được chú trọng. Nói cách khác, giá trị thương hiệu không được tính trong kết quả xác định giá trị doanh nghiệp, từ những trường hợp cổ phần hoá NHTM do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ như Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam; những trường hợp NHTM cổ phần bị Ngân hàng Nhà nước mua lại với giá 0 đồng; cho tới một số trường hợp sáp nhập NHTM cổ phần như: thương vụ sáp nhập của ngân hàng Đệ Nhất, Sài Gòn và Tín Nghĩa thành NHTM cổ phần Sài Gòn; thương vụ sáp nhập toàn bộ NHTM cổ phần Nhà Hà Nội vào NHTM cổ phần Sài Gòn - Hà Nội và ngân hàng sau sáp nhập là NHTM cổ phần Sài Gòn - Hà Nội... Những trường hợp tái cơ cấu NHTM đã xảy ra nói trên cho thấy thương hiệu chưa khẳng định được vị trí của mình trong cơ cấu tài sản của NHTM. Thế nhưng, ở thời điểm hiện nay, những bất cập trong vấn đề xác định vị trí của thương hiệu, cách thức xác định giá trị thương hiệu vẫn là băn khoăn của các NHTM đang trong lộ trình thực hiện tái cơ cấu. Mặc dù xây dựng và phát triển thương hiệu là vấn đề được các NHTM quan tâm và chú trọng, nhưng xác định giá trị thương hiệu NHTM vẫn là vấn đề còn bỏ ngỏ. Vai trò của thương hiệu trong hoạt động ngân hàng là điều không ai phủ nhận nhưng nó có ý nghĩa bao nhiêu về mặt giá trị tài chính vẫn là câu hỏi khó trả lời, đặc biệt trong những trường hợp quan trọng như cổ phần hoá các NHTM do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và xu thế sáp nhập giữa các NHTM thì việc xác định giá trị thương hiệu càng có ý nghĩa rất lớn. Có thể thấy, nguyên nhân của những vấn đề thực tiễn trên xuất phát từ việc hiện nay không có cơ sở pháp lý cụ thể cho việc xác định giá trị thương hiệu, không có cơ sở nguồn thông tin để tiến hành xác định giá trị, từ đó làm cho việc ghi nhận giá trị thương hiệu trong các báo cáo tài chính là điều khó khăn. Để giải quyết bất cập này, cần có những quy định của pháp luật điều chỉnh tới để đảm bảo xác định đầy đủ giá trị doanh 1 Điều kiện để trở thành tài sản vô hình gồm: không có hình thái vật chất; có thể nhận biết được và có bằng chứng hữu hình về sự tồn tại của tài sản vô hình; có khả năng tạo ra thu nhập cho người có quyền sở hữu; giá trị của tài sản vô hình có thể định lượng được 2 Điểm 5.5 Mục 5 Phần II của Tiêu chuẩn thẩm định giá số 12, ban hành kèm theo Thông tư số 28/2021/TT-BTC 614
  10. nghiệp, từ đó góp phần thành công của hoạt động tái cơ cấu các NHTM, tránh thất thoát nguồn thu ngân sách nhà nước (đối với NHTM do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ) và bảo vệ quyền lợi của các cổ đông, chủ sở hữu NHTM (đối với các NHTM cổ phần). Thứ hai, quy định của pháp luật về xác định tài sản tài chính của doanh nghiệp nói chung, ngân hàng thương mại nói riêng chưa đầy đủ. Tài sản tài chính theo quy định của pháp luật bao gồm: (i) Tiền mặt; (ii) Công cụ vốn chủ sở hữu của đơn vị khác; (iii) Quyền theo hợp đồng để: nhận tiền mặt hoặc tài sản tài chính khác từ đơn vị khác; Trao đổi các tài sản tài chính hoặc nợ phải trả tài chính với đơn vị khác theo các điều kiện có thể có lợi cho đơn vị; (iv) Hợp đồng sẽ hoặc có thể được thanh toán bằng các công cụ vốn chủ sở hữu của đơn vị1. Những tài sản tài chính được liệt kê bao gồm: trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Kho bạc, trái phiếu công ty, các loại trái phiếu khác, hối phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, các khoản cho vay và phải thu, cổ phiếu phổ thông, cổ phiếu ưu đãi, hợp đồng quyền chọn, các giấy tờ có giá khác. Tuy nhiên, trong hoạt động sử dụng tài sản có của các NHTM, có nhiều trường hợp khách hàng không có khả năng trả được một phần hoặc toàn bộ nợ của mình theo thoả thuận hoặc theo hợp đồng với NHTM. Những khoản nợ đó có thể được gọi là nợ xấu. Theo quy định của pháp luật hiện hành, nợ xấu là nợ xấu nội bảng, gồm nợ thuộc nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn)2. Nợ xấu có thể được coi là một trong những lý do chính dẫn tới hoạt động tái cơ cấu các NHTM những giai đoạn qua. Dưới góc độ pháp luật, nợ xấu được coi là một loại tài sản của NHTM, khi NHTM được quyền mua - bán đối với các khoản nợ xấu. Vì vậy, việc xác định nợ xấu là tài sản của NHTM và cần xác định giá trị của nợ xấu khi xác định giá trị doanh nghiệp là điều cần thiết. Hiện nay, pháp luật đã có quy định về việc thẩm định giá khởi điểm của khoản nợ xấu trong trường hợp tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng tự đấu giá và thuê tổ chức đấu giá thực hiện đấu giá tài sản3, tuy nhiên việc xác định giá trị khoản nợ xấu cho hoạt động tái cơ cấu tổ chức tín dụng dưới các hình thức cổ phần hoá, mua lại, sáp nhập, hợp nhất như thế nào, hiện nay chưa có quy định cụ thể. 1 Theo Tiêu chuẩn thẩm định giá số 07. 2 Khoản 8 Điều 3 và Điều 10 Thông tư số 11/2021/TT-NHNN ngày 30/7/2021 của Ngân hàng Nhà nước quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. 3 Nghị định số 61/2017/NĐ-CP ngày 16/5/2017 của Chính phủ quy định chi tiết việc thẩm định giá khởi điểm của khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu và việc thành lập Hội đồng đấu giá nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu đối với khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu có giá trị lớn. 615
  11. 3.2. Bất cập trong quy định của pháp luật về chủ thể có chức năng tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp trong hoạt động tái cơ cấu ngân hàng thương mại Xác định giá trị doanh nghiệp là hoạt động phức tạp, đòi hỏi chuyên sâu trong kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm để có thể xác định được tương đối chính xác về giá trị doanh nghiệp cần thực hiện tái cơ cấu. Do đó, sự tham gia của những chủ thể chuyên nghiệp trong việc xác định giá trị doanh nghiệp sẽ giúp cho các NHTM có những số liệu tham khảo trong quá trình tái cơ cấu. Hiện nay, các chủ thể có chức năng xác định giá trị doanh nghiệp, tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp bao gồm: (i) Doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam; (ii) Công ty chứng khoán và (iii) Doanh nghiệp thẩm định giá. Mặc dù tổ chức và hoạt động của những chủ thể này được quy định trong các văn bản pháp luật chuyên ngành khác nhau, như pháp luật về kiểm toán, kiểm toán độc lập, pháp luật chứng khoán, pháp luật giá..., nhưng khi thực hiện hoạt động tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp, các chủ thể này vẫn phải tuân theo quy định về thẩm định giá tại Luật Giá và các văn bản hướng dẫn thi hành1. Phân tích các quy định của pháp luật điều chỉnh về các chủ thể tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp, có thể thấy một số điểm bất cập như sau: Thứ nhất, quy định về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia xác định giá trị doanh nghiệp chưa rõ ràng. Nghị định 126/2017/NĐ-CP có liệt kê rõ tổ chức tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp và quy định các điều kiện, trách nhiệm chung của nhóm chủ thể này. Tuy nhiên quyền của các tổ chức này và các nghĩa vụ cụ thể lại không được văn bản ghi nhận rõ ràng. Khi đối chiếu quy định về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp, chỉ có doanh nghiệp thẩm định giá là có quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ trong Điều 42 Luật Giá năm 2012, các tổ chức khác như doanh nghiệp kiểm toán, công ty chứng khoán không được quy định cụ thể. Quy định của pháp luật kiểm toán độc lập và pháp luật chứng khoán cũng chỉ ghi nhận doanh nghiệp kiểm toán và công ty chứng khoán được thực hiện hoạt động tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp mà không có quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của những chủ thể này. Đối với các trường hợp xác định giá trị doanh nghiệp để mua bán, sáp nhập, giải thể, phá sản NHTM, các văn bản chuyên ngành như Luật doanh nghiệp, Luật các tổ chức tín dụng, Luật phá sản, Luật cạnh tranh, Luật chứng khoán… đều không ghi nhận cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào xác định giá trị doanh nghiệp. Các văn bản này cũng chỉ ghi nhận về việc các chủ thể có nhu cầu có thể thoả thuận về việc định giá hoặc thuê một tổ chức tư vấn để thực hiện. 1 Khoản 3 Điều 28 Luật Giá năm 2012. 616
  12. Thứ hai, chưa có quy định về trách nhiệm của tổ chức tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp và các chế tài áp dụng khi những tổ chức này vi phạm các quy định của pháp luật trong quá trình thực hiện dịch vụ tư vấn định giá. Nghị định 126/2017/NĐ-CP quy định tổ chức tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp phải bồi thường thiệt hại do những vi phạm các quy định của pháp luật trong quá trình thực hiện dịch vụ tư vấn định giá hoặc bị xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật1. Tuy nhiên việc tổ chức này phải chịu trách nhiệm về kết quả xác định giá trị doanh nghiệp và phải bồi thường thiệt hại như thế nào chưa được hướng dẫn cụ thể. Những hạn chế này dẫn đến hiện tượng tổ chức tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp thiếu trách nhiệm trong việc thực hiện hoạt động thẩm định giá. Tiêu cực hơn là sự xuất hiện tình trạng các doanh nghiệp thẩm định giá chạy theo lợi nhuận nên đã không thực hiện đầy đủ trình tự, thủ tục xác định giá trị doanh nghiệp khiến cho kết quả định giá bị sai lệch. Hoặc có tình trạng doanh nghiệp thẩm định giá hợp tác với chủ thể có nhu cầu để định giá không chính xác nhằm trục lợi2. Thứ ba, quy định về điều kiện thành lập với doanh nghiệp thẩm định giá còn có điểm chưa hợp lý. Pháp luật hiện hành quy định người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc doanh nghiệp thẩm định giá phải là (i) thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp; (ii) có ít nhất 03 năm (36 tháng) là thẩm định viên về giá hành nghề trước khi trở thành người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc doanh nghiệp thẩm định giá; (iii) không là người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc doanh nghiệp thẩm định giá đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá trong khoảng thời gian 01 năm tính tới thời điểm nộp hồ sơ cấp, cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá3. Điều kiện thứ (ii) và (iii) là những điều kiện mới được bổ sung từ tháng 2.2021 đến nay, nhằm đảm bảo chất lượng của dịch vụ thẩm định giá cung cấp; hạn chế tình trạng cạnh tranh không lành mạnh về giá dịch vụ thẩm định giữa các doanh nghiệp thẩm định giá và phù hợp với Luật Đầu tư năm 2014 khi xác định thẩm định giá là ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, những điều kiện nêu trên được đánh giá là tương đối khắt khe đối với người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thẩm định giá và có khả năng dẫn tới việc nhiều doanh nghiệp thẩm định giá buộc phải rút lui bởi 1 Điểm c Khoản 7 Điều 12 Nghị định 126/2017/NĐ-CP. 2 Những hạn chế này có thể thấy từ một số vụ án tham nhũng lớn có liên quan đến việc thẩm định giá sai giá trị tài sản, chẳng hạn vụ việc xảy ra tại Trung tâm kiểm soát bệnh tật (CDC) Hà Nội, vụ việc Mobifone mua lại AVG, vụ việc cảng Quy Nhơn... 3 Khoản 2 Điều 1 Nghị định số 12/2021/NĐ-CP ngày 24/02/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/2013/NĐ-CP ngày 06/8/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Giá về thẩm định giá. 617
  13. không đáp ứng được điều kiện, từ đó ảnh hưởng tới quy mô và mức độ cạnh tranh trên thị trường. Hơn nữa, những điều kiện bổ sung được quy định trong Nghị định hướng dẫn đang bộc lộ sự không tương thích với quy định của Luật Giá năm 2012. Cụ thể, Điều 39 Luật Giá quy định về điều kiện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá của các doanh nghiệp thẩm định giá theo từng loại hình, trong đó quy định cụ thể về điều kiện của người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc của doanh nghiệp phải là thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp. Luật Giá không trao quyền cho Chính phủ hướng dẫn điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực giá. 3.3. Bất cập trong quy định về phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp trong hoạt động tái cơ cấu ngân hàng thương mại Thứ nhất, bất cập trong quy định về phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hoá ngân hàng thương mại do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Theo quy định của Nghị định 126/2017/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn, việc xác định giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hoá bắt buộc phải thực hiện theo phương pháp tài sản và tối thiểu 01 phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp khác theo quy định của pháp luật về giá và thẩm định giá để trình cơ quan đại diện chủ sở hữu xem xét, quyết định1. Đồng thời, giá trị doanh nghiệp và giá trị vốn nhà nước tại doanh nghiệp được xác định và công bố không được thấp hơn giá trị được xác định theo phương pháp tài sản. Quy định này phát sinh một số bất cập như sau: Một là, việc trình cơ quan đại diện chủ sở hữu xem xét, quyết định về phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp vô hình làm mất đi quyền độc lập, tự chủ, khách quan của tổ chức tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp. Thực tế, hoạt động của tổ chức tư vấn là bằng chuyên môn, nghiệp vụ của mình để tính toán, xác định giá trị doanh nghiệp theo nhu cầu sử dụng dịch vụ từ phía TCTD cổ phần hoá. Do đó, tổ chức tư vấn cần có sự chủ động trong việc lựa chọn phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp, vấn đề quan trọng là phương pháp được lựa chọn phải hợp lý và ưu việt để phản ánh chính xác được giá trị doanh nghiệp. Mặt khác, quy định về việc tổ chức tư vấn trình cơ quan đại diện chủ sở hữu xem xét, quyết định về phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp còn có sự mâu thuẫn với quy định khác trong chính Nghị định 126/2017/NĐ-CP. Cụ thể, khoản 4 Điều 12 Nghị định 126/2017/NĐ-CP quy định: “Tổ chức tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp được lựa chọn các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp thích hợp để xác định giá trị doanh nghiệp, bảo đảm các nguyên tắc quy định tại Nghị định này, quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật về giá, thẩm định giá, hoàn thành theo đúng thời hạn, đúng các cam kết trong hợp đồng đã ký...” 1 Điều 22 Nghị định 126/2017/NĐ-CP, Khoản 11 Điều 1 Nghị định 140/2020/NĐ-CP 618
  14. Hai là, pháp luật chưa có quy định hướng dẫn cụ thể từng trường hợp áp dụng phương pháp khác là gì và chênh lệch kết quả giá trị doanh nghiệp giữa các phương pháp thì xử lý như thế nào. Điều này gây khó khăn cho các tổ chức tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp, dẫn đến các tổ chức thường lấy kết quả của phương pháp tài sản để xác định giá trị doanh nghiệp, bởi lẽ theo quy định, giá trị doanh nghiệp xác định theo phương pháp khác cũng không được thấp hơn giá trị doanh nghiệp xác định theo phương pháp tài sản1. Ba là, phương pháp xác định giá trị thương hiệu của các NHTM do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ không hợp lý. Pháp luật quy định, việc xác định giá trị thương hiệu dựa trên cơ sở các chi phí thực tế cho việc tạo dựng và bảo vệ nhãn hiệu, tên thương mại trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp 05 năm...2. Có thể thấy, quy định về cách xác định giá trị thương hiệu này dựa trên cách tiếp cận từ chi phí, tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào phương pháp và cách tiếp cận như vậy sẽ bỏ qua mất các yếu tố quan trọng, đó là những yếu tố cấu thành nên thương hiệu và thương hiệu là loại tài sản mà các nhà đầu tư trên thị trường có thể mua với mức giá rất cao. Vì vậy, quy định cứng về cách xác định giá trị thương hiệu như trong Nghị định 126/2017/NĐ-CP có thể dẫn tới một kết quả không chính xác. Thứ hai, bất cập trong quy định về phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp khi tái cơ cấu ngân hàng thương mại cổ phần. Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp của các NHTM cổ phần được thực hiện theo các quy định của pháp luật giá với các cách tiếp cận từ thị trường, cách tiếp cận từ chi phí và cách tiếp cận từ thu nhập. Các quy định về phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp đã được xây dựng tương đối hoàn chỉnh, cơ bản tiếp cận được với các thông lệ quốc tế, bước đầu đã tạo ra căn cứ pháp lý để điều chỉnh hoạt động xác định giá trị doanh nghiệp và quản lý nhà nước về hoạt động này, góp phần thúc đẩy quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường Việt Nam hiện đại và hội nhập. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, pháp luật quy định về phương pháp xác định giá trị tài sản vô hình vẫn còn tồn tại điểm chưa hợp lý. Theo đó, nếu coi thương hiệu là tài sản vô hình như trong quy định của một số văn bản pháp luật nêu trên và theo thông lệ quốc tế thì việc xác định giá trị thương hiệu sẽ được thực hiện tương tự như xác định giá trị các tài sản vô hình nói chung. Tuỳ thuộc vào từng cách tiếp cận sẽ có những phương pháp khác nhau để xác định giá trị thương hiệu: cách tiếp cận từ chi phí, cách tiếp cận từ thị trường theo phương pháp so sánh và cách tiếp cận từ thu 1 Điều 22 Nghị định 126/2017/NĐ-CP 2 Điều 31 Nghị định 126/2017/NĐ-CP. 619
  15. nhập1. Nội dung quy định về những phương pháp này theo pháp luật Việt Nam về cơ bản khá gần gũi với các cách tiếp cận và phương pháp thẩm định giá quốc tế IVS2. Tuy nhiên, Tiêu chuẩn thẩm định giá số 12 lại có quy định về việc ước tính giá trị tài sản vô hình không xác định được, trong đó có tài sản thương hiệu theo một cách thức tính toán khác. Cụ thể, việc ước tính tổng giá trị các tài sản vô hình của doanh nghiệp cần thẩm định giá có thể xác định thông qua một trong các phương pháp: (i) Phương pháp ước tính tổng giá trị các tài sản vô hình của doanh nghiệp cần thẩm định giá thông qua việc ước tính giá trị của từng tài sản vô hình có thể xác định và giá trị của tài sản vô hình không xác định được. Trong đó, Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam số 13 sẽ được sử dụng để xác định giá trị tài sản vô hình có thể xác định được, còn Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam số 12 sẽ được sử dụng để xác định giá trị tài sản vô hình không xác định được; (ii) Phương pháp ước tính tổng giá trị các tài sản vô hình của doanh nghiệp cần thẩm định giá thông qua vốn hoá dòng lợi nhuận do tất cả các tài sản vô hình đem lại cho doanh nghiệp cần thẩm định giá3. Như vậy, có thể thấy, cùng là nhóm tài sản vô hình, trong đó có thương hiệu, nhưng giữa các quy định của pháp luật lại có những phương pháp xác định không đồng nhất. 4. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về xác định giá trị doanh nghiệp trong hoạt động tái cơ cấu ngân hàng thương mại ở Việt Nam 4.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật quy định về tài sản của ngân hàng thương mại cần xác định giá trị khi tiến hành tái cơ cấu Thứ nhất, thống nhất giữa các quy định của pháp luật về thương hiệu, giá trị thương hiệu. Theo thông lệ quốc tế, thương hiệu được xếp vào nhóm tài sản vô hình. Trong Tiêu chuẩn về Định giá Thương hiệu được công nhận trên toàn thế giới - ISO 10668:2010, Tổ chức Tiêu chuẩn hoá quốc tế quan niệm thương hiệu là một tài sản vô hình liên quan đến quảng bá sản phẩm, bao gồm, nhưng không giới hạn, tên, cụm thuật ngữ, ký hiệu, logo và thiết kế, hoặc sự kết hợp của các hình thức này, với mục đích để nhận dạng một sản phẩm, dịch vụ hoặc doanh nghiệp, hoặc sự kết hợp cả các hình thức này, mang đến hình ảnh hoặc sự gắn kết riêng biệt trong tâm trí các bên liên quan, từ đó 1 Theo Tiêu chuẩn Thẩm định giá số 13 - Thẩm định giá tài sản vô hình, ban hành kèm theo Thông tư số 06/2014/TT-BTC ngày 07/01/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. 2 IVS là Tiêu chuẩn thẩm định giá quốc tế do Uỷ ban các Tiêu chuẩn thẩm định giá quốc tế (IVSC) ban hành. Cho đến nay, IVSC đã 10 lần xét lại tiêu chuẩn định giá được xuất bản vào các năm 1985, 1994, 1997, 2000, 2001, 2003, 2005, 2007, 2013 và gần đây nhất, IVSC ban hành Bộ tiêu chuẩn Thẩm định giá có hiệu lực từ ngày 31/01/2020. Cấu trúc của IVS phiên bản mới ngoài các phần giới thiệu, phần chú giải thuật ngữ và khung tiêu chuẩn, gồm 02 phần chính: Phần thứ nhất là các tiêu chuẩn chung về thẩm định giá và Phần thứ hai là các tiêu chuẩn hướng dẫn thẩm định giá cụ thể đối với từng loại tài sản, trong đó có IVS 210 về thẩm định giá tài sản vô hình. 3 Tiết a Điểm 5.5 mục 5 Phần II Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam số 12. 620
  16. tạo ra lợi ích/giá trị kinh tế1. Như vậy, để đảm bảo sự tương thích với thông lệ quốc tế, đồng thời có sự thống nhất trong các quy định của pháp luật Việt Nam, cần thiết xác định rõ thương hiệu là tài sản vô hình của doanh nghiệp và vận dụng các phương pháp xác định giá trị tài sản vô hình để xác định giá trị thương hiệu. Đề xuất này đồng nghĩa với việc cần phải sửa đổi một số quy định hiện hành, bao gồm: Một là, sửa đổi quy định về giá trị thương hiệu tại Điều 31 Nghị định 126/2017/NĐ-CP ngày 16/11/2017 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp nhà nước và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do doanh nghiệp nhà nước đầu tư 100% vốn điều lệ thành công ty cổ phần. Theo đó, để đảm bảo sự thống nhất với quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ và tiêu chuẩn thẩm định giá doanh nghiệp, các chi phí thực tế cho việc tạo dựng và bảo vệ nhãn hiệu, tên thương mại không thể được sử dụng làm căn cứ xác định giá trị thương hiệu. Cách xác định giá trị thương hiệu của các NHTM do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ khi cổ phần hoá hiện nay được dựa trên cách tiếp cận từ chi phí, và việc tiếp cận này cũng nhằm ghi nhận khoản mục giá trị thương hiệu trong danh mục kế toán tài sản của NHTM. Tuy nhiên, cách xác định như vậy sẽ khó sát với giá trị thương hiệu mà thị trường ghi nhận, thậm chí là thấp hơn nhiều so với mức giá mà các bên mua - bán chấp nhận. Trong khi bản thân các NHTM do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ có rất nhiều thế mạnh hợp thành, khiến thương hiệu được định giá rất cao. Bởi vậy, cần thiết phải thay đổi cả cách tiếp cận giá trị thương hiệu của các NHTM do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ khi cổ phần hoá. Hai là, sửa đổi Tiêu chuẩn thẩm định giá 13 - Thẩm định giá tài sản vô hình theo hướng mở rộng phạm vi tài sản vô hình để ghi nhận thương hiệu là tài sản vô hình. Việc sửa đổi này sẽ đảm bảo sự tương thích với các Tiêu chuẩn thẩm định giá khác và quan trọng hơn là mở ra các cách tiếp cận khác nhau, từ đó có các phương pháp khác nhau để xác định giá trị thương hiệu. Thứ hai, các doanh nghiệp nói chung, NHTM nói riêng cần xem xét xây dựng mô hình xác định giá trị thương hiệu theo các định hướng khác nhau. Thực tế cho thấy, hầu hết các NHTM hiện nay đã bắt đầu quan tâm tới việc xây dựng và quản trị thương hiệu, chú trọng xây dựng mô hình xác định giá trị thương hiệu dựa trên các nghiên cứu thị trường phục vụ cho mục tiêu quản trị doanh nghiệp và chiến lược kinh doanh. Tuy nhiên, đối với việc xây dựng mô hình xác định giá trị thương hiệu dựa trên các số liệu tài chính phục vụ cho các hoạt động tái cơ cấu như mua lại, sáp nhập, hợp nhất... gần như chưa được các NHTM chú trọng. 1 The International Organization for Standardization - ISO 10668: 2010, Brand valuation - Requirements for monetary brand valuation, 2.2, page 1. 621
  17. Cũng cần phân tích thêm về lý do cho việc các NHTM từ trước đến nay chưa tiến hành xác định giá trị thương hiệu dựa trên các số liệu tài chính. Một phần lý do xuất phát từ hoạt động tái cơ cấu NHTM không phải diễn ra một cách thường xuyên, chưa kể tới các trường hợp tái cơ cấu NHTM trong lịch sử đều dựa trên phần nhiều là sự định hướng từ phía cơ quan quản lý nhà nước. Do đó, khi tái cơ cấu chưa phải là những kế hoạch chủ động từ phía NHTM, thì việc cố gắng tìm kiếm một cách thức tính toán tối ưu cho giá trị thương hiệu cũng không phải điều cấp bách. Tuy nhiên, khi hoạt động tái cơ cấu diễn ra ngày một sôi động do những vai trò của hoạt động này, đặt ra sự cần thiết trong việc thay đổi cách tính toán giá trị các tài sản của NHTM. Bên cạnh đó, dưới khía cạnh kế toán, thương hiệu không phải khoản mục được ghi nhận giá trị trên bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp. Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 04 “Tài sản cố định vô hình” ban hành và công bố theo Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001 của Bộ trưởng Bộ Tài chính không coi thương hiệu là một tài sản cố định vô hình của doanh nghiệp. Lý do của quy định này xuất phát từ việc các chuẩn mực kế toán được thiết kế theo nguyên tắc ghi nhận giá trị tài sản từ chi phí phát sinh tạo ra nó, trong khi việc ghi nhận giá trị thương hiệu chỉ có thể thực hiện nếu các chuẩn mực kế toán cho phép ghi nhận giá trị tài sản từ lợi ích sẽ thu được của tài sản đó trong tương lai. Chuẩn mực kế toán quốc tế số 38 - Tài sản vô hình (IAS 38) cũng có sự trùng khớp trong việc xác định những tài sản trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp như Chuẩn mực kế toán Việt Nam. Theo đó, tài sản vô hình là nguồn lực mà đơn vị kiểm soát được từ những sự kiện trong quá khứ (nguồn gốc, chi phí tạo ra), xác định được không có hình thái vật chất. Tuy nhiên, Chuẩn mực kế toán quốc tế còn bổ sung thêm yêu cầu về sự hiện hữu của lợi ích kinh tế trong tương lai để làm căn cứ kế toán giá trị tài sản vô hình. Trong trường hợp tài sản không đáp ứng được tiêu chí trở thành tài sản vô hình, thì chi phí để mua hoặc tự tạo ra tài sản đó được ghi nhận như một khoản chi phí phát sinh của doanh nghiệp. Khi những tài sản này phát sinh trong quá trình hợp nhất, sáp nhập, thì những tài sản này tạo thành một phần của lợi thế thương mại ghi nhận tại ngày mua bán. Như vậy, có thể hiểu, thương hiệu hình thành từ nội bộ doanh nghiệp không được ghi vào bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp. Nhưng khi doanh nghiệp mua bán, sáp nhập, hợp nhất, thì những yếu tố này được coi là tài sản vô hình khi được chuyển thành lợi thế thương mại trên bảng cân đối kế toán của công ty thu mua. Ở một số quốc gia trên thế giới như Anh, Pháp, Úc và New Zealand, vào giữa những năm 1980, khi hoạt động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp sôi động, việc ghi nhận giá trị thương hiệu được mua lại như tài sản vô hình vào Bảng cân đối kế toán đã được nhiều doanh nghiệp ở những quốc gia này thực hiện. Sau đó, có nhiều doanh nghiệp đã 622
  18. tiến hành ghi nhận giá trị thương hiệu trong Bảng cân đối kế toán của mình dưới hai dạng, một là giá trị thương hiệu được mua lại, và hai là giá trị thương hiệu tự tích luỹ dưới khoản mục tài sản vô hình. Dưới góc độ pháp lý, Anh, Úc và New Zealand cũng được coi là những quốc gia tiên phong cho việc quy định thương hiệu được xuất hiện trên bảng cân đối kế toán và cung cấp chi tiết cách ghi nhận cho thương hiệu trong khoản mục Lợi thế thương mại. Điều này giúp cho việc xác định giá trị doanh nghiệp được đầy đủ và có cơ sở để tính toán. Tuy nhiên, ở Việt Nam, khi pháp luật kế toán chưa có hướng tiếp cận mới về cách thức ghi nhận thương hiệu như một tài sản của doanh nghiệp, thì sự thay đổi có thể được thực hiện từ chính các NHTM. Theo đó, các NHTM sẽ chủ động nghiên cứu và xây dựng mô hình định giá theo định hướng tài chính để đưa ra được một mức giá tin cậy và thuyết phục các bên tham gia trong quan hệ tái cơ cấu NHTM. Thứ ba, bổ sung “nợ xấu” vào nhóm tài sản tài chính trong tiêu chí phân loại tài sản, tài sản tài chính ghi nhận tại Tiêu chuẩn thẩm định giá số 07. Thực tế, theo quy định của pháp luật hiện hành, nợ xấu đáp ứng được điều kiện của tài sản tài chính ở tiêu chí: quyền theo hợp đồng để nhận tiền mặt hoặc tài sản tài chính khác; trao đổi các tài sản tài chính hoặc nợ phải trả tài chính với đơn vị khác theo điều kiện có thể có lợi cho đơn vị. Và nợ xấu vẫn có sự khác biệt nhất định với các khoản cho vay và phải thu theo sự xác định tài sản tài chính mà pháp luật ghi nhận. Bởi lẽ, nợ xấu phát sinh từ những rủi ro của hoạt động tín dụng mà NHTM thực hiện, khi mà sự thu hồi vốn của NHTM không còn “dễ dàng” như trong thoả thuận giữa NHTM và khách hàng trong hợp đồng cấp tín dụng ban đầu. Thêm vào đó, các quy định khác có liên quan đến nợ xấu hiện nay như quy định về mua bán nợ xấu, xây dựng thị trường mua bán nợ... của Việt Nam đều cho thấy tinh thần về sự ghi nhận vị trí tài sản của nợ xấu. Như vậy, việc bổ sung thêm nợ xấu là một loại tài sản sẽ giúp củng cố vị trí của nợ xấu trong việc xác định những tài sản của doanh nghiệp, mà mục tiêu chính cho việc ghi nhận nợ xấu là tài sản là hướng tới tính đặc thù của NHTM. Việc ghi nhận này sẽ giúp việc áp dụng các cơ chế pháp lý điều chỉnh đối với việc xác định giá trị nợ xấu được rõ ràng. Coi nợ xấu là tài sản và tìm cách xử lý đối với nợ xấu cũng là nội dung mà nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế ghi nhận. Ở Việt Nam hiện nay cũng đã xây dựng thị trường mua bán nợ, mặc dù còn sơ khai, tuy nhiên, trong bối cảnh tương lai, thị trường này được kỳ vọng sẽ hoạt động sôi động. Đồng thời, thời gian tới, cùng với yêu cầu tái cơ cấu tổ chức tín dụng giai đoạn 2021 - 2025, các biện pháp xử lý nợ xấu cũng có thể mở rộng hơn, chẳng hạn quốc tế hoá khoản nợ xấu. Như vậy, khả năng giảm thiểu và giải quyết được nợ xấu của các NHTM rất khả thi, ghi nhận giá trị tăng thêm cho các NHTM. Việc bán các khoản nợ xấu có thể thực hiện trước và sau khi NHTM tái cơ cấu. Nếu sau khi tái 623
  19. cơ cấu thành công, NHTM hình thành sau tái cơ cấu bán nợ xấu theo các cách thức mà pháp luật đã có quy định, thì trước và trong khi tiến hành tái cơ cấu, nợ xấu có thể chưa được xử lý và chỉ chuyển từ NHTM tham gia tái cơ cấu sang NHTM hình thành sau tái cơ cấu. Quá trình chuyển giao này cũng cần thiết phải xác định giá trị nợ xấu, để từ đó xác định chính xác giá trị của NHTM tham gia tái cơ cấu. Đây cũng là một trong những yếu tố dẫn tới sự thành công của hoạt động tái cơ cấu NHTM. 4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật quy định về chủ thể có chức năng tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp trong hoạt động tái cơ cấu ngân hàng thương mại Thứ nhất, hoàn thiện quy định về quyền và nghĩa vụ của những chủ thể tham gia xác định giá trị doanh nghiệp theo hướng: Bộ Tài chính cần ban hành Thông tư hướng dẫn về tiêu chuẩn, điều kiện và quy trình thủ tục công nhận tổ chức cung cấp dịch vụ xác định giá trị doanh nghiệp, với mục đích: (i) Quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của những tổ chức này; (ii) Tập hợp cụ thể điều kiện; (iii) quy định về quy trình, thủ tục công nhận tổ chức tư vấn định giá; (iv) quy định về đánh giá hàng năm hoạt động của các tổ chức tư vấn định giá; (v) quy định về các chế tài đối với tổ chức tư vấn định giá như bị loại khỏi danh sách tổ chức tư vấn định giá. Đồng thời, việc ban hành Thông tư mới hướng dẫn về tiêu chuẩn, điều kiện và quy trình thủ tục công nhận tổ chức cung cấp dịch vụ xác định giá trị doanh nghiệp để thay thế Thông tư 127/2012/TT-BTC hướng dẫn về tiêu chuẩn, điều kiện và quy trình thủ tục công nhận tổ chức cung cấp dịch vụ xác định giá trị doanh nghiệp và Thông tư số 205/2014/TT-BTC ngày 24/12/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 127/2012/TT-BTC bởi các Thông tư này đều hướng dẫn Nghị định 59/2011/NĐ-CP đã hết hiệu lực thi hành. Thứ hai, sửa đổi quy định về điều kiện thành lập đối với doanh nghiệp thẩm định giá. Theo đó, khi Luật Giá năm 2012 chưa sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 39 về trao quyền cho Chính phủ hướng dẫn điều kiện của người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc doanh nghiệp thẩm định giá, cần bãi bỏ quy định bổ sung về điều kiện của chủ thể này tại Nghị định 12/2021/NĐ-CP. Theo quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều 37 Luật Giá năm 2012, thẩm định viên về giá “ký báo cáo kết quả thẩm định giá, chứng thư thẩm định giá và chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc doanh nghiệp thẩm định giá về kết quả thẩm định giá”. Như vậy, chất lượng của Báo cáo kết quả thẩm định giá, chứng thư thẩm định giá phụ thuộc vào thẩm định viên về giá. Việc yêu cầu kinh nghiệm của người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hay Tổng giám đốc không đồng nghĩa tuyệt đối với việc chất lượng thẩm định giá được tăng cao. Chưa kể tới việc để thực hiện thẩm định giá, doanh 624
  20. nghiệp thẩm định giá phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho hoạt động thẩm định giá hoặc trích lập quỹ dự phòng rủi ro nghề nghiệp1. Điều này đồng nghĩa với việc khi chất lượng báo cáo kết quả thẩm định giá của doanh nghiệp kém chất lượng, gây thiệt hại cho khách hàng thì bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp này đóng vai trò là giải pháp bồi thường thiệt hại và buộc doanh nghiệp thẩm định giá phải chú trọng hơn đến chất lượng dịch vụ. Theo đó, thay vì đưa ra các điều kiện bổ sung vượt quá so với quy định của luật, việc quản lý nhà nước tránh tình trạng hạ giá nhưng giảm chất lượng dịch vụ, cạnh tranh không lành mạnh cần thực hiện bằng các công cụ quản lý khác như Luật Cạnh tranh, giải pháp hậu kiểm để xử phạt vi phạm hành chính nếu thấy các vi phạm của doanh nghiệp thẩm định giá. Việc áp đặt điều kiện cho người đứng đầu doanh nghiệp thẩm định giá không giải quyết về vấn đề cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. 4.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật quy định về phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp trong hoạt động tái cơ cấu ngân hàng thương mại Thứ nhất, đối với NHTM do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ khi cổ phần hoá, một số giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật quy định về phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp như sau: Một là, cần bãi bỏ quy định về sự can thiệp của cơ quan đại diện chủ sở hữu vào việc lựa chọn phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp của tổ chức tư vấn định giá. Lý do của đề xuất này xuất phát từ: (i) Đảm bảo sự tương thích, phù hợp giữa các quy định của pháp luật. Cụ thể, trong quy định về tư vấn cổ phần hoá tại Nghị định 126/2017/NĐ-CP xác định tổ chức tư vấn được lựa chọn các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp2, nhưng đến quy định về phương pháp tài sản cũng chính trong Nghị định này lại xác định tổ chức tư vấn lựa chọn phương pháp tài sản và tối thiểu một phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp để trình cơ quan đại diện chủ sở hữu xem xét, quyết định3. Rõ ràng, trong cùng một văn bản đang có hai hướng quy định khác nhau cho cùng một nội dung. Do đó, cần có sự sửa đổi để loại bỏ sự mâu thuẫn trong các quy định pháp luật. (ii) Đảm bảo sự độc lập, chủ động, khách quan của đơn vị tư vấn trong việc lựa chọn phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp. Thực tế, việc quản lý của cơ quan đại diện chủ sở hữu với việc xác định giá trị doanh nghiệp của tổ chức tư vấn hoàn toàn có thể thực hiện thông qua sự yêu cầu tổ chức tư vấn giải trình những nội dung trong việc áp dụng phương pháp vào xác định giá trị doanh nghiệp. Thêm vào đó, kết quả xác định giá 1 Điểm d Khoản 2 Điều 42 Luật Giá năm 2012 2 Khoản 4 Điều 12 Nghị định 126/2017/NĐ-CP 3 Điều 22 Nghị định 126/2017/NĐ-CP, Khoản 11 Điều 1 Nghị định 140/2020/NĐ-CP 625
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2