intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Xu hướng phát triển giảng dạy trực tuyến tại các trường đại học trong bối cảnh toàn cầu hóa

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

8
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Xu hướng phát triển giảng dạy trực tuyến tại các trường đại học trong bối cảnh toàn cầu hóa" cung cấp kinh nghiệm triển khai và nâng cao chất lượng giảng dạy trực tuyến tại Mỹ, Úc, Anh, Trung Quốc, Ấn Độ và rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Xu hướng phát triển giảng dạy trực tuyến tại các trường đại học trong bối cảnh toàn cầu hóa

  1. CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ 31. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN GIẢNG DẠY TRỰC TUYẾN TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA TS. Đỗ Anh Đức* Đinh Thị Thu Huyền* Lê Thị Thu Hoài* Tóm tắt Trong bối cảnh toàn cầu hóa và công nghệ thông tin (CNTT) đang phát triển một cách mạnh mẽ, giảng dạy trực tuyến trở thành một phương thức đào tạo phổ biến trên thế giới do khả năng xóa bỏ khoảng cách địa lý cũng như đem đến sự linh hoạt cho người học trên nhiều phương diện. Bài viết cung cấp kinh nghiệm triển khai và nâng cao chất lượng giảng dạy trực tuyến tại Mỹ, Úc, Anh, Trung Quốc, Ấn Độ và rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Từ khóa: Chất lượng giảng dạy trực tuyến; đại học 1. GIỚI THIỆU Trong bối cảnh hiện nay, toàn cầu hóa đang mở ra nhiều cơ hội cho các nước có thể tiếp thu được các thành tựu công nghệ của các nước khác, từ đó ứng dụng những công nghệ này để phát triển đất nước. Tuy nhiên, những thuận lợi này cũng đi kèm với những thách thức, nếu không chuẩn bị tốt khả năng cạnh tranh, không bắt kịp được sự đổi mới về mặt công nghệ trên thế giới, các quốc gia có thể bỏ lỡ cơ hội và có nguy cơ bị tụt lại phía sau. Do đó, các quốc gia hiện nay đều rất chú trọng đến việc đào tạo ra nguồn nhân lực, bởi vì con người luôn là nhân tố tạo ra của cải, vật chất và là yếu tố quyết định sức mạnh trong quá phát triển của mỗi nước. Đây chính là lý do khiến nhu cầu giáo dục của con người hiện nay gia tăng. Từ góc độ toàn cầu, nhu cầu ngày càng tăng về giáo dục đại học có thể được phân thành hai xu hướng chính. Một mặt là nhu cầu ngày càng tăng nhanh về việc mở rộng cơ hội tiếp cận ban đầu với giáo dục đại học. Mặt khác là nhu cầu ngày càng tăng đối với các loại hình giáo dục đại học đa dạng và linh hoạt hơn, bao gồm học tập suốt đời, đào tạo doanh nghiệp… ở các quốc gia * Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 277
  2. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA đang chuyển từ hậu công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Điều quan trọng là những xu hướng này không loại trừ lẫn nhau. Điển hình cho xu hướng này là tại một số tỉnh công nghiệp của Trung Quốc, ngoài nhu cầu tiếp cận giáo dục đại học nhiều hơn, nhu cầu được tiếp cận các loại hình giáo dục đại học như giáo dục từ xa cũng gia tăng. Lý do là bởi tại các tỉnh này, một số lượng lớn người, trong đó có những người đã đi làm, cần được đào tạo về các lĩnh vực thương mại và tài chính quốc tế, những lĩnh vực liên quan đến việc Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), tuy nhiên, họ không có đủ thời gian để góp mặt tại các lớp học truyền thống tại các trường đại học. Một số nước như Hy Lạp thậm chí chưa đáp ứng được nhu cầu của toàn quốc về việc tiếp cận giáo dục đại học. Trên thực tế, chỉ có khoảng 1/3 sinh viên của quốc gia đó có thể tìm được vị trí trong các cơ sở công lập của nước mình (Patrinos, 1995). Để đáp ứng được nhu cầu của việc tiếp cận giáo dục đại học các quốc gia, các trường đại học bắt đầu quan tâm đến hình thức giảng dạy trực tuyến bởi khả năng xóa bỏ các trở ngại về không gian và thời gian của nó. Điều này giúp đảm bảo sự bình đẳng trong cơ hội học tập giữa các cá nhân, giúp người học xây dựng năng lực kỹ thuật số và kỹ năng học tập suốt đời, cũng như khả năng nắm bắt những thay đổi nhanh chóng của công nghệ và xã hội trong quá trình toàn cầu hóa. Mặc dù vậy, mức độ thành công của việc ứng dụng công nghệ vào dạy học tại mỗi quốc gia là không giống nhau do sự khác nhau trong cách xác định mục tiêu, cách thức triển khai và sự khác nhau về tiềm lực và đặc điểm của mỗi quốc gia. Bài viết này sẽ chỉ ra các xu hướng phát triển giảng dạy trực tuyến tại một số quốc gia điển hình và rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong phát triển giảng dạy trực tuyến. 2. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN GIẢNG DẠY TRỰC TUYẾN TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA ĐIỂN HÌNH 2.1. Mỹ Mỹ là một trong những quốc gia triển khai việc ứng dụng công nghệ vào giảng dạy sớm nhất. Trong quá trình phát triển giảng dạy trực tuyến, Mỹ rất chú trọng trong việc thiết kế bài học. Ngay từ sớm, người ta đã sử dụng hình ảnh và ngôn ngữ đơn giản, các câu hỏi để giới thiệu nội dung bài giảng đến người học. Ngoài ra, sự gia tăng của phương pháp “xử lý thông tin” đã bổ sung cho khả năng của máy tính như một hệ thống quản lý thông tin (McLeod, 2008). Trong hầu hết các khóa học trực tuyến, người học được hướng dẫn theo cùng một lộ trình học tập để họ tiếp thu kiến thức theo tổ chức và quy định của các nhà thiết kế hình thức giảng dạy trực tuyến. Việc chuyển từ định nghĩa học tập là thu nhận kiến thức và tổ chức sang phát triển các kỹ năng và khả năng phán đoán đã làm sâu sắc thêm những gì các học giả Mỹ yêu cầu ở các nhà thiết kế giảng dạy trực tuyến. Từ góc độ của Chính phủ, chính sách về giảng dạy trực tuyến bao gồm chính sách và kế hoạch nhằm phát triển giảng dạy trực tuyến và chính sách bảo đảm chất lượng trực tuyến. Về chính sách và kế hoạch nhằm phát triển giảng dạy trực tuyến: Từ năm 1988, Mỹ đã có sự quan tâm đến giảng dạy trực tuyến ở toàn liên bang thông qua báo cáo “Khởi động các công cụ mới trong giảng dạy và học tập” do Quốc hội Mỹ đưa ra. Ngay sau đó, Bộ Giáo dục Mỹ phát triển một kế hoạch cho giảng dạy trực tuyến trong giáo dục đại học vào năm 2017 đó là “Định hình lại vai trò công nghệ trong giáo dục đại học”. Erichsen và Salajan (2013) nhận xét về những chính sách và kế hoạch của Mỹ như sau: 278
  3. CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ Thứ nhất, các chính sách đưa ra chủ yếu tập trung vào sự phát triển của giảng dạy trực tuyến trong giáo dục phổ thông còn đối với giáo dục đại học thì việc định hình phát triển chỉ mới đặt ra năm 2010 và có báo cáo riêng trong năm 2017. Thứ hai, trong những giai đoạn đầu, chính sách quan tâm đến việc phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ quốc gia nói chung và của các trường học nói riêng. Sau đó, mới dần chuyển sang khía cạnh giáo dục như: phát triển nội dung giảng dạy, phương pháp giảng dạy và cho đến những năm 2010 theo hướng tiếp cận toàn diện. Thứ ba, những chính sách này có tác động trên cả hai phương diện trực tiếp và gián tiếp. Về phương thức trực tiếp, những chính sách đưa ra nhằm quyết định và phân chia những khoản đầu tư của Chính phủ liên bang cho các yếu tố của giảng dạy trực tuyến chủ yếu trong giáo dục phổ thông. Về phương thức gián tiếp, những chính sách giúp vạch ra phương hướng và đưa ra các chỉ dẫn về E-Learning nhằm định hướng sự phát triển. Về chính sách bảo đảm chất lượng giảng dạy trực tuyến: Về cơ bản, các tổ chức kiểm định vùng đưa ra các tiêu chuẩn nhằm đảm bảo chất lượng giảng dạy trực tuyến không quá khác biệt so với tiêu chuẩn của những trường đại học truyền thống. Hội đồng Kiểm định Giáo dục từ xa chịu trách nhiệm kiểm soát, xem xét và đánh giá định kỳ những tổ chức cấp vùng. Đối với E-Learning, Bộ tiêu chuẩn của Quality Matter đã trở thành một nguồn tham khảo phổ biến (Qayyum và ZawackiRichter, 2018). Các trường đại học tại Mỹ cũng có sự quan tâm lớn đến sự phát triển của giảng dạy trực tuyến thông qua những khóa học trực tuyến và phương thức đào tạo từ xa. Allen và Seaman (2016) đã chỉ ra rằng, tỷ lệ các lãnh đạo trường đại học xem giảng dạy trực tuyến là một xu hướng chiến lược tăng từ 50% trong năm 2002 lên đến 70% trong năm 2014. Các trường đại học danh tiếng đã phát triển các khóa học trực tuyến nhằm kết hợp với giảng dạy truyền thống nhằm hỗ trợ và đổi mới hoạt động giảng dạy. Tuy nhiên, những năm gần đây xu hướng này có thay đổi. Vào năm 2012, Đại học Harvard và Viện Công nghệ Massachusetts đã thành lập edX nhằm phát triển và đưa ra các khóa học trực tuyến đại chúng mở, bao gồm cả những khóa học đào tạo thạc sĩ trực tuyến được cấp bằng bởi các trường đại học danh tiếng. Ngoài ra, các trường công lập hay trường tư phi lợi nhuận có quy mô nhỏ, vừa đã tập trung vào tuyển sinh trực tuyến và đạt kết quả tốt trong năm 2015 (Allen và Seaman, 2016). 2.2. Anh Tại Anh, học tập điện tử đang được giới thiệu như một phần cơ bản của trải nghiệm học tập của sinh viên trong giáo dục đại học. Nó không còn là hoạt động kinh doanh cốt lõi chỉ dành cho những trường đại học với sứ mệnh đào tạo từ xa, khả năng chi trả của nó đang được tích hợp một cách có hệ thống vào trải nghiệm học tập của sinh viên bởi các trường đại học chủ yếu nằm trong khuôn viên trường. Bằng chứng về sự tiếp thu rộng rãi này có thể được nhìn thấy trên các tạp chí nghiên cứu có uy tín và trên các trang web của các cơ quan quốc gia chịu trách nhiệm về việc học tập và giảng dạy trong giáo dục đại học. Các nhân tố tác động chính đến giảng dạy và học tập trực tuyến tại Anh: Nghiên cứu về trải nghiệm học tập của sinh viên trong giáo dục đại học đã tập trung vào các đặc điểm của sinh viên, 279
  4. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA bối cảnh khóa học, bối cảnh học tập, cách tiếp cận của học sinh với việc học và chất lượng kết quả học tập của họ (Prosser và Trigwell, 1999; Ramsden, 2002). Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng, sự thay đổi trong cách sinh viên tiếp cận việc học có liên quan đến cách họ nhận thức bối cảnh của họ, những gì họ nghĩ họ đang học và chất lượng kết quả học tập của họ. Nghiên cứu này cũng xem xét các mối liên hệ giữa các phương pháp tiếp cận học tập của sinh viên và trải nghiệm của họ về học trực tuyến. Về vai trò của tương tác trong giảng dạy trực tuyến, tương tác cho các mục đích học tập được công nhận là một trong những cách quan trọng để nắm bắt khả năng chi trả của việc học trực tuyến nhằm nâng cao kiến ​​thức của người học (Laurillard, 2002; Sabry và Baldwin, 2003). Tương tác là hoạt động và hành động giữa các học sinh, học sinh và giáo viên trong quá trình học tập. Về vai trò của thiết kế khóa học trực tuyến, việc kết hợp học tập điện tử vào trải nghiệm học tập của học sinh thường đòi hỏi phải xem xét sự tương tác giữa học sinh, giáo viên và công nghệ trong một khuôn khổ thiết kế. Thông thường, sự gắn kết của các yếu tố thiết kế được tìm thấy thông qua sự phù hợp với kết quả học tập dự kiến ​​(Biggs, 2005). Một số nghiên cứu đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sử dụng phương pháp tiếp cận dựa trên kết quả để thiết kế khóa học, để kết quả của người học là một trong những lý do chính cho các quyết định thiết kế, thay vì cung cấp nội dung (Littlejohn, 2002; O’Toole và Absalom, 2003). Cũng có nhiều nghiên cứu về các phương pháp tiếp cận học tập được kiểm duyệt bởi các phương pháp tiếp cận thiết kế, chẳng hạn như học tập dựa trên vấn đề. Cách tiếp cận này đã có ảnh hưởng đặc biệt đến giáo dục y tế quốc tế và dễ dàng được điều chỉnh cho việc học trực tuyến (Oliver và Omari, 1999; Pearson, 2006). Về vai trò của bối cảnh học tập, sinh viên năm thứ ba theo học ngành Chính phủ trong chương trình đại học kinh doanh của họ được hỗ trợ với các tài nguyên trực tuyến quan trọng được thiết kế để tích hợp và mở rộng học tập trực diện của họ. Những sinh viên này không chỉ tham dự các bài giảng về các vấn đề chính mà còn được thảo luận các vấn đề thông qua môi trường trực tuyến. 2.3. Úc Úc cũng là một quốc gia có sự quan tâm và đầu tư lớn vào phát triển giảng dạy trực tuyến từ những năm 1990. Năm 1998, Chính phủ đã đưa ra khuôn khổ chiến lược để đưa Úc vào kỷ nguyên thông tin. Về lĩnh vực GD&ĐT, các khuôn khổ này đã tạo điều kiện cho mọi công dân được hưởng lợi từ các công nghệ trực tuyến và tạo ra các chuyên gia thông tin chất lượng cao với các kỹ năng cập nhật liên tục. Năm 1997, Bộ trưởng GD&ĐT của Úc đã thành lập một cơ quan công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT-TT) quốc gia để giúp các tổ chức giáo dục trong việc thích ứng sự phát triển Internet và nền kinh tế thông tin. Cơ quan này cũng tham gia vào một loạt các diễn đàn quốc tế để đảm bảo khả năng hoạt động của các tiêu chuẩn và thông số kỹ thuật CNTT-TT liên quan đến GD&ĐT. Năm 1995, Cổng vào các tài nguyên và dịch vụ GD&ĐT, mạng lưới giáo dục trực tuyến của Úc (EdNA Online) được thành lập. Cổng này cung cấp một danh mục về GD&ĐT ở Úc và một cơ sở dữ liệu các nguồn hữu ích cho việc giảng dạy và học tập. Các công cụ này miễn phí cho 280
  5. CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ các nhà giáo dục Úc. Đồng thời, nó cũng cung cấp kinh phí để kết nối Internet và các cơ hội phát triển nghề nghiệp cho giáo viên. Chính phủ Úc cũng quan tâm đến việc cung cấp kỹ năng CNTT-TT cho người dạy và sinh viên cũng như các vấn đề về quyền riêng tư và bản quyền trong giáo dục trực tuyến. - Cung cấp kỹ năng CNTT-TT cho người dạy và sinh viên: Nước Úc đã triển khai nhiều chiến lược để phát triển giáo dục số và tích hợp các kỹ năng CNTT-TT vào cuộc sống học đường. Kế hoạch “Máy tính cho trường học” đã được sử dụng để cung cấp khả năng truy cập hợp lý vào cơ sở hạ tầng CNTT-TT hay “Liên đoàn học tập” nhằm phát triển nội dung trực tuyến tại các trường học. Úc đầu tư cho sáng kiến Khung học tập linh hoạt với mục tiêu áp dụng các công nghệ mới trong dạy và học cũng như các quy trình và dịch vụ hỗ trợ tổ chức khác. Kể từ năm 2000, khoảng 80 triệu đô la đã được Chính phủ liên bang, các chính quyền tiểu bang và vùng lãnh thổ đầu tư vào sáng kiến ​​này với 41% quỹ dành cho việc phát triển chuyên môn của giáo viên và giảng viên. Ngoài ra, khoảng 42% quỹ được dành cho việc phát triển nội dung và dịch vụ trực tuyến. Các nguồn tài nguyên trực tuyến đã được phát triển để hỗ trợ các chương trình giảng dạy quốc gia và các gói đào tạo ngành. Phần còn lại dành cho các dự án khác liên quan đến quyền truy cập băng thông, khả năng liên hoạt động, kho lưu trữ đối tượng học tập, bản quyền và các vấn đề pháp lý. Vấn đề về quyền riêng tư và bản quyền: Tại Úc, Văn phòng Cao ủy quyền riêng tư Liên bang giải quyết các vấn đề về quyền riêng tư trên Internet. Tại trang web cho việc học trực tuyến của Chính phủ lãnh thổ thủ đô Úc và Liên bang có chỉ ra rằng, việc áp dụng nguyên tắc bảo mật cho một tổ chức hỗ trợ giảng dạy bao gồm: việc xuất bản một tuyên bố về quyền riêng tư rõ ràng và trung thực trên trang web của họ để thông báo cho người dùng về những thông tin đang được thu thập, cách nó được lưu trữ và cách nó có thể được sử dụng. Các vấn đề về quyền sở hữu và bản quyền liên quan đến tài liệu giảng dạy và các chiến lược chương trình giảng dạy có thể được giải quyết bằng tuyên bố bản quyền. 2.4. Hàn Quốc Chất lượng giảng dạy trực tuyến ở Hàn Quốc được phát triển từ Khung chính sách hợp lý và vững chắc, được phát triển dựa trên ba giai đoạn chính tương ứng với các chính sách của Chính phủ nước này (Misko và các cộng sự, 2004). Cụ thể như sơ đồ đưới dây. Hình 1. Các giai đoạn phát triển giảng dạy trực tuyến tại Hàn Quốc Dựa trên các định hướng trên, các chính sách cụ thể liên quan tới giáo dục đại học, đặc biệt là giảng dạy trực tuyến được phát triển dần thông qua việc xây dựng Mạng giáo dục Hàn Quốc, thúc đẩy quá trình liên kết giữa các tổ chức giáo dục hay là thành lập các trường đại học ảo mà không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian thông qua việc sử dụng CNTT (Anderson và các cộng sự, 2006). E-Learning được xem là môi trường rất tiềm năng ở Hàn Quốc, do đó các chính 281
  6. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA sách nhằm phát triển E-Learning rất được chú trọng và là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của nước này. Chất lượng giảng dạy trực tuyến của Hàn Quốc được đảm bảo cũng thông qua hệ thống chính sách chặt chẽ và rõ ràng, cụ thể là Cơ quan Thông tin nghiên cứu và giáo dục Hàn Quốc (KERIS) thực hiện việc giám sát chất lượng theo chu kỳ 2 năm dựa trên các hướng dẫn riêng trong Khung bảo đảm chất lượng dành cho các trường đại học ảo. Hệ thống này rất khắt khe, bao gồm việc đánh giá trên nhiều phương diện như: tầm nhìn, giá trị và mục tiêu đạt được, hạ tầng công nghệ thông tin... Ngoài ra, quốc gia này còn sử dụng Bộ tiêu chuẩn KEM và hệ thống đảm bảo chất lượng giảng dạy trực tuyến (EQAS) để đánh giá các tiêu chí như nội dung và dịch vụ giảng dạy trực tuyến, cũng như đảm bảo chất lượng cho các nội dung giảng dạy trực tuyến. Ở Hàn Quốc, giảng dạy trực tuyến trong các trường đại học được chia làm 2 nhóm: các trường đại học ảo và các trường đại học truyền thống. Các trường đại học ảo có xu hướng phát triển trong những năm gần đây và thu hút ngày càng nhiều sinh viên tham gia học. Số lượng sinh viên đang học tại các trường đại học ảo tăng từ 93.297 năm 2010 lên đến 114.496 năm 2016 (Qayyum và Zawacki-Richter, 2018). Các trường đại học truyền thống được hỗ trợ phát triển giảng dạy trực tuyến cũng từ khá sớm thông qua các dự án đầu tư về giáo dục của nước này. 2.5. Trung Quốc Từ những 1990, Trung Quốc đã bắt đầu thực hiện việc tích hợp công nghệ thông tin vào giáo dục bằng cách triển khai nhiều chương trình như “Dự án 985”, “Kế hoạch xúc tiến giáo dục cho thế kỷ 21”, “Dự án giáo dục từ xa đối với bậc tiểu học và trung học tại nông thôn” hay “Dự án xây dựng mạng máy tính cho các trường đại học ở Tây Trung Quốc”. Trong các dự án này, Trung Quốc chú trọng xây dựng hệ thống mạng Internet cũng như hỗ trợ các trang thiết bị như máy tính để phục vụ cho việc học trực tuyến. Từ đó cho đến nay, Trung Quốc cũng đã triển khai thêm nhiều kế hoạch để thúc đẩy phát triển. Mới đây nhất có thể kể đến hai kế hoạch là “Kế hoạch phát triển 10 năm về CNTT trong giáo dục 2011 - 2020” và “Giáo dục kỹ thuật số của Trung Quốc năm 2020”. Hai kế hoạch này đã xác nhận sự thành công trong việc tăng khả năng truy cập Internet tại các trường, khu vực trên lãnh thổ Trung Quốc, do đó chuyển trọng tâm sang các vấn đề như nâng cao việc chia sẻ các nguồn tài nguyên, ứng dụng CNTT trong giáo dục và quản lý và phát triển các năng lực (MOE, 2012). Để có được sự thành công trong các dự án, Bộ Giáo dục và các cơ quan liên quan không chỉ hỗ trợ về mặt kinh phí mà còn tổ chức các cuộc đánh giá về mặt chất lượng, tiến độ của các dự án để kịp thời xử lý các vấn đề phát sinh. Các tiêu chí đánh giá cũng được xây dựng rất cụ thể như độ phủ của cả phần cứng và phần mềm, từ đó đưa ra đánh giá về tác động của dự án. Qua đây có thể thấy, để đảm bảo chất lượng giảng dạy trực tuyến, ngay từ ban đầu, quốc gia này đã tập trung vào yếu tố hạ tầng CNTT như: hệ thống mạng, các trang thiết bị. Tiếp theo đó, Trung Quốc mới chuyển dần sang các vấn đề liên quan việc phát triển các phần mềm để chia sẻ, ứng dụng CNTT và nâng cao trình độ công nghệ của giảng viên và người học. Chính vì vậy, E-Learning tại Trung Quốc thu hút được nhiều loại đối tượng tham gia từ học sinh ở cấp bậc phổ thông và giáo dục đại học cho đến người đi làm. Ngoài ra, quốc gia này đã thành công trong việc 282
  7. CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ xây dựng khối lượng tài nguyên kỹ thuật số và đào tạo được một lượng lớn giáo viên trong việc sử dụng công nghệ. Dù vậy, theo Wang và các cộng sự (2018) thì trong các dự án này, việc bảo trì phần cứng và cập nhập phần mềm có chi phí cao đang là một rào cản cho việc áp dụng CNTT và giảng dạy. Mặc dù đạt được độ phủ máy tính trên toàn quốc nhưng Trung Quốc vẫn trải qua thời kỳ trì trệ trong phát triển giảng dạy trực tuyến do cơ sở vật chất không được sử dụng hoặc sử dụng ít (Zhang, 2014). Bên cạnh đó, hiện nay, tại Trung Quốc, nhiều người vẫn chưa chấp nhận hình thức học tập trực tuyến vì còn thói quen tiếp nhận kiến thức thụ động, hệ thống giáo dục lấy thi cử làm trung tâm. Ngoài ra, việc trình độ thông tin tại các khu vực còn chưa đồng đều, chất lượng tài nguyên số chưa đảm bảo cũng là một thách thức đối với đất nước này. 2.6. Ấn Độ Ngay sau khi độc lập vào năm 1947, Chính phủ Ấn Độ đã phải đối mặt với thách thức mang lại sự đồng nhất trong hệ thống giáo dục và cung cấp giáo dục cho mọi người khi mà theo truyền thống của đất nước này, phụ nữ trong xã hội phải chịu nhiều khó khăn về tiếp cận văn hóa, xã hội. Bên cạnh đó, nước này cũng có sự chênh lệch lớn giữa các khu vực thành thị và nông thôn. Tại các vùng nông thôn của Ấn Độ thường không đủ số lượng giáo viên đủ trình độ để đứng lớp. Do đó, Chính phủ Ấn Độ đã thực hiện rất nhiều chương trình khác nhau để khắc phục những vấn đề này. Trong đó, việc ứng dụng CNTT vào giáo dục cho người dân rất được Chính phủ Ấn Độ coi trọng. Điều này được được thể hiện qua việc phóng vệ tinh đầu tiên EduSat dùng cho mục đích mở rộng hệ thống giáo dục trên toàn quốc gia. Đây là vệ tinh giúp đào tạo giáo viên và cung cấp chương trình giáo dục tại hai cấp tiểu học và trung học cho các địa điểm được kết nối trên toàn quốc gia này. Động lực thực sự cho giảng dạy trực tuyến của quốc gia này đến từ Lực lượng Đặc nhiệm Quốc gia về CNTT và Phát triển phần mềm. Báo cáo của đơn vị này đã tập trung hướng tới việc phát triển năng lực của các cá nhân liên quan đến CNTT và áp dụng CNTT trong giáo dục. Một số nội dung nổi bật của chính sách là hướng tới mục tiêu đạt 100% trình độ tin học ở cấp trung học phổ thông trong 5 năm và ở cấp trung học trung 10 năm. Tất cả học viên cung cấp giáo dục kỹ thuật để đảm bảo rằng, trong vòng 3 năm, tất cả các ngành kỹ thuật sinh viên trong nước sẽ tiếp thu kiến thức CNTT để có thể phục vụ trong lĩnh vực dịch vụ hỗ trợ CNTT bên cạnh việc phục vụ trong ngành CNTT trực tiếp. Có thể nói, trong những năm qua, giảng dạy trực tuyến đã đem lại nhiều lợi ích cho Ấn Độ. Cụ thể như, theo Arun Gaikwad (2016), giảng dạy trực tuyến được chứng minh là một công cụ hiệu quả giúp Ấn Độ tăng tỷ lệ biết chữ từ 65,38% năm 2001 lên 74,04% năm 2011. Bên cạnh đó, giảng dạy trực tuyến ở Ấn Độ được coi là thành công nhất trong phân khúc doanh nghiệp, nơi nó được coi là một phương tiện để đạt được các mục tiêu kinh doanh và tạo động lực cho nhân viên (Wasim và các cộng sự năm 2014). Tuy nhiên, hiện nay, sự phát triển của giảng dạy trực tuyến tại Ấn Độ vẫn chỉ đánh giá ở mức độ sơ khai vì còn gặp phải rào cản. Chẳng hạn như việc hầu hết các chương trình học trực tuyến đều không tuân theo bất kỳ nguyên tắc thiết kế nào và còn chú trọng vào công nghệ thay vì nhu cầu của người học. Bên cạnh đó, tương tác trực tuyến cũng ít được quan tâm. Trên thực tế, trọng tâm của hầu hết các chương trình ​​giảng dạy trực tuyến ở Ấn Độ là chỉ hướng tới phát triển nội dung ở định dạng video có sẵn lên một trang web trực tuyến, do đó chỉ có được tương tác một chiều. 283
  8. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM TRONG PHÁT TRIỂN GIẢNG DẠY TRỰC TUYẾN Trong bối cảnh toàn cầu hóa, các quốc gia trên thế giới đều cố gắng xóa bỏ cả ranh giới hữu hình và vô hình để hợp tác với nhau trong tất cả các lĩnh vực, trong đó có giáo dục. Cùng với đó là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật khiến cho vòng đời thông tin trở nên ngắn hơn, đòi hỏi con người phải liên tục cập nhập kiến thức mới. Trong bối cảnh CMCN 4.0, việc xây dựng và phát triển phương thức đào tạo trực tuyến nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy trực tuyến tại Việt Nam đang thể hiện là một hướng đi phù hợp và nhận được sự quan tâm của các trường đại học trong việc phát triển khung chương trình đào tạo (Đỗ Anh Đức, 2021). Do đó, việc giảng dạy trực tuyến đã trở thành một xu hướng tất yếu trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng bởi nó giúp người học và người dạy tương tác với nhau ở khoảng cách địa lý xa bằng các nền tảng trực tuyến, từ đó giảm được chi phí đi lại cũng như chi phí mời các chuyên gia nước ngoài. Chính vì vậy, việc phát triển giảng dạy trực truyến tại Việt Nam là một việc vô cùng cần thiết và cần triển khai ngay. Trong bài viết này, thông qua những chính sách và kế hoạch của các quốc gia điển hình nêu trên nhằm phát triển giảng dạy trực tuyến, nhóm tác giả rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam như sau: Thứ nhất, Việt Nam nên xây dựng khung chính sách theo giai đoạn, từng bước phát triển hệ thống hạ tầng CNTT, tiếp theo là đẩy mạnh mạng Internet và cuối cùng là hướng tới triển khai giảng dạy trực tuyến. Chú trọng đến việc nghiên cứu, phát triển và cập nhập công nghệ trong giảng dạy trực tuyến. Bên cạnh đó, việc đánh giá hiệu quả sử dụng hạ tầng CNTT, bảo trì các hệ thống các thiết bị phần cứng và mềm cũng cần được tiến hành thường xuyên. Thứ hai, Việt Nam cần xây dựng các văn bản hướng dẫn việc tổ chức, triển khai xây dựng hệ thống học liệu điện tử và thường xuyên kiểm tra, đánh giá để đảm bảo sự đồng bộ về chất lượng của các khóa học này. Bên cạnh đó, khi thiết kế các khóa học cần chú ý đến khả năng tương tác hai chiều giữa người dạy và người học cũng như những điều kiện sẵn có như khả năng công nghệ hiện có, khả năng ứng dụng công nghệ của giảng viên và học viên, loại hình kiến thức cần truyền đạt. Thứ ba, các tổ chức giáo dục cần nâng cao trình độ CNTT cho các cá nhân tham gia vào việc học tập trực tuyến bằng cách tổ chức các khóa huấn luyện. Trong đó, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ giáo viên, giảng viên về CNTT và ứng dụng của chúng vì giáo viên là trụ cột để ứng dụng CNTT đổi mới phương pháp dạy và học ở các tổ chức giáo dục. Thứ tư, Việt Nam cần gia tăng niềm tin và sự chấp nhận của giáo viên và sinh viên bằng việc công nhận các bằng đại học do các trường đại học trực tuyến cấp. Đồng thời, xác định rõ mục tiêu của giáo dục là giúp sinh viên có thể sử dụng kiến thức vào thực tế, tránh tình trạng hình thức học tập chỉ để đạt điểm cao trong thi cử. Thứ năm, Việt Nam cần chú trọng đến vấn đề quyền riêng tư, đặc biệt là thông tin cá nhân của các sinh viên, học viên. Ngay tại các trường đại học lớn về kỹ thuật, CNTT thì trang điện tử của họ cũng được bảo mật một cách sơ sài, dẫn đến nhiều trường hợp bị mất cắp thông tin sinh viên với số lượng lớn. Do đó, cần cải thiện ngay lập tức các cách thức bảo mật của các trang thông tin điện tử của các trường đại học nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của sinh viên trong quá trình học tập. 284
  9. CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ Thứ sáu, về bản quyền, hiện tại các trang giáo dục trực tuyến đang gặp phải nạn sao chép học liệu, ghi hình bài giảng khi chưa được phép nhằm mục đích thương mại. Điều này dẫn đến tổn thất không nhỏ về doanh thu cho các nền tảng giáo dục này cũng như là điểm ngần ngại của các trường, đơn vị giáo dục khác khi có ý định mở rộng phạm vi giảng dạy sang trực tuyến. Do đó, việc cấp thiết là xây dựng điều luật và chế tài cũng như có đơn vị thực thi chế tài nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các đơn vị trên. Có như vậy, sự đầu tư vào giáo dục trực tuyến mới được thúc đẩy. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ahmed, M., Sangi, N. A., & Mahmood, A. (2018), “A model of adaptive e-Learning in an ODL environment”, Mehran University Research Journal Of Engineering & Technology, 37(2), pp. 367 - 382. 2. Anderson, B., Brown, M., Murray, F., Simpson, M., & Mentis, M. (2006), “Global picture, local lessons: E-learning policy and accessibility”, Progress Report, 1. 3. Beetham, H. (2005), “E-Learning research: emerging issues?”, ALT-J, 13(1), pp. 81 - 89. 4. Choy, S. (2006), “Benefits of e-learning benchmarks: Australian case studies”. 5. Đỗ Anh Đức (2021), “Một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo trực tuyến trong các trường đại học tại Việt Nam trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0”, Tạp chí Công Thương, số 16, tr. 164 - 169. 6. Ellis, R. A., Ginns, P., & Piggott, L. (2009), “E-learning in higher education: some key aspects and their relationship to approaches to study”, Higher Education Research & Development, 28(3), tr. 303 - 318. 7. Gibbs, D., & Philip, R. (2005, June), “Engaging with e-learning: Trialling a new learning activity management system (LAMS) in Australia”, In EdMedia+ Innovate Learning (pp. 22 - 29). Association for the Advancement of Computing in Education (AACE). 8. Hillen, S. A., & Landis, M. (2014), “Two perspectives on e-learning design: A synopsis of a US and a European analysis”, The International Review of Research in Open and Distributed Learning, 15(4). 9. Huffaker, D. (2003), “Reconnecting the classroom: E-learning pedagogy in US public high schools”, Australasian Journal of Educational Technology, 19(3). 10. Mishra, S. (2009), “E-learning in India”, A Special Passage Through Asia E-Learning, pp. 119 - 130. 11. Misko, J., Choi, J., Hong, S. Y., & Lee, I. S. (2004), “E-Learning in Australia and Korea: Learning from Practice”, National Centre for Vocational Education Research (NCVER). 12. Phạm Hồng Hạnh và Hà Thanh Hòa (2020), “Đào tạo E-Learning tại Trung Quốc và một số kinh nghiệm đối với Việt Nam”, In PROCEEDINGS (Vol. 15, No. 1). 285
  10. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 13. Qayyum, A., & Zawacki-Richter, O. (2018), Open and distance education in Australia, Europe and the Americas: National perspectives in a digital age (p. 131). Springer Nature. 14. Reddi, U. V., & Sinha, V. (2003), “India: ICT use in education. In G. Farell and C. Wachholz (Eds)”, Meta-survey on the use of technologies in education in Asia and the Pacific. Bangkok: UNESCO Asia and Pacific Regional Bureau for Education. 15. Sharpe, R., Benfield, G., Roberts, G., & Francis, R. (2006), “The undergraduate experience of blended E-Learning: a review of UK literature and practice”, The higher education academy, pp. 1 - 103. 16. Van der Wende, M. (2002), “The role of US higher education in the global e-learning market”. 17. Vũ Hữu Đức (2020), “Đầu tư cho phát triển bền vững E-Learning trong giáo dục đại học: Chính sách các quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, In PROCEEDINGS (Vol. 15, No. 1). 18. Wang, Y., Liu, X., & Zhang, Z. (2018), “An overview of e-learning in China: History, challenges and opportunities”, Research in Comparative and International Education, 13(1), pp. 195 - 210. 19. Wasim, J., Sharma, S. K., Khan, I. A., & Siddiqui, J. (2014), “Web based learning”, International Journal of Computer Science and Information Technologies, 5(1), pp. 446 - 449. 286
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2