intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Áo dài

Chia sẻ: Hoang Ha | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:32

452
lượt xem
69
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Áo dài Áo dài là loại trang phục truyền thống của Việt Nam, che thân người từ cổ đến hoặc quá đầu gối, dành cho cả nam lẫn nữ. Áo dài thường được mặc vào các dịp lễ hội trang trọng,

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Áo dài

  1. Áo dài Áo dài là loại trang phục truyền thống của Việt Nam, che thân người từ cổ đến hoặc quá đầu gối, dành cho cả nam lẫn nữ. Áo dài thường được mặc vào các dịp lễ hội trang trọng, hoặc nữ sinh mặc khi đi học. Lịch sử Tiền thân Không ai biết rõ chiếc áo dài nguyên thủy ra đời từ lúc nào và hình dáng ra sao vì không có tài liệu ghi nhận và chưa có nhiều người nghiên cứu. Y phục xa xưa nhất của người Việt, theo những hình khắc trên mặt chiếc trống đồng Ngọc Lũ cách nay khoảng vài nghìn năm cho thấy hình phụ nữ mặc trang phục với hai tà áo xẻ. Sử gia Đào Duy Anh viết, "Theo sách Sử ký chép thì người Văn Lang xưa, tức là tổ tiên ta, mặc áo dài về bên tả (hình thức tả nhiệm). Sử lại chép rằng ở thế kỷ thứ nhất, Nhâm Diên dạy cho dân quận Cửu Chân dùng kiểu quần áo theo người Tàu. Theo những lời sách đó chép thì ta có thể suy luận rằng trước hồi Bắc thuộc thì người Việt gài áo về tay trái, mà sau bắt chước người Trung Quốc mới mặc áo gài về tay phải"[1]. Kiểu sơ khai của chiếc áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, tương tự như áo tứ thân nhưng khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại. Áo mặc phủ ngoài yếm lót, váy tơ đen, thắt lưng mầu buông thả. Xưa các bà các cô búi tóc trên đỉnh đầu hoặc quấn quanh đầu, đội mũ lông chim dài; về sau bỏ mũ lông chim để đội khăn, vấn khăn, đội nón lá, nón thúng. Cổ nhân xưa đi chân đất, về sau mang guốc gỗ, dép, giày. Vì phải làm việc đồng áng hoặc buôn bán, chiếc áo giao lãnh được thu gọn lại thành kiểu áo tứ thân (gồm bốn vạt nửa: vạt nửa trước phải, vạt nửa trước trái, vạt nửa sau phải, vạt nửa sau trái). Áo tứ thân được mặc ra ngoài váy xắn quai cồng để tiện cho việc gồng gánh nhưng vẫn không làm mất đi vẻ đẹp của người phụ nữ. Áo tứ thân thích hợp cho người phụ nữ miền quê quanh năm cần cù bươn chải, gánh gồng tháo vát. Với những phụ nữ tỉnh thành nhàn hạ hơn, muốn có một kiểu áo dài được cách tân thế nào đó để giảm chế nét dân dã lao động và gia tăng dáng dấp trang trọng khuê các. Thế là ra đời áo ngũ thân với biến cải ở chỗ vạt nửa trước phải nay được thu bé lại trở thành vạt con; thêm một vạt thứ năm be bé nằm ở dưới vạt trước. Áo ngũ thân che kín thân hình không để hở áo lót. Mỗi vạt có hai thân nối sống (vị chi thành bốn) tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, và vạt con nằm dưới vạt trước chính là thân thứ năm tượng trưng cho người mặc áo. Vạt con nối với hai vạt cả nhờ cổ áo có bâu đệm, và khép kín nhờ năm chiếc khuy tượng trưng cho quan điểm về ngũ thường theo quan điểm Nho giáo và ngũ hành theo triết học Đông phương. [sửa] Thời chúa Nguyễn Phúc Khoát 1
  2. Các bộ phận của một chiếc áo dài phổ biến Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát được xem là người có công khai sáng và định hình chiếc áo dài Việt Nam. Chịu ảnh hưởng nặng của văn hóa Trung Hoa, cho đến thế kỷ 16 lối ăn mặc của người Việt Nam vẫn thường hay bắt chước lối của người phương Bắc, đặc biệt dưới thời các chúa Nguyễn xứ Đàng Trong do nhu cầu khai phá khẩn hoang, đón nhận hàng vạn người Minh Hương (còn gọi là người Khách Trú hay đọc trại thành "cắc chú") bất mãn với nhà Thanh sang định cư lập nghiệp, mặc dù người Việt cũng có lối ăn mặc riêng. Trước làn sóng xâm nhập mới này, để gìn giữ bản sắc văn hóa riêng, Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát ban hành sắc dụ về ăn mặc cho toàn thể dân chúng xứ Đàng Trong phải theo đó thi hành. Trong sắc dụ đó, người ta thấy lần đầu tiên sự định hình cơ bản của chiếc áo dài Việt Nam, như sau: "Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền, không được xẻ mở. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn ống tay hẹp cho tiện khi làm việc thì được phép ..." (sách Đại Nam Thực Lục Tiền Biên). Trong Phủ Biên Tạp Lục, Lê Quý Đôn viết "Chúa Nguyễn Phúc Khoát đã viết những trang sử đầu cho chiếc áo dài như vậy". Căn cứ theo những chứng liệu này, có thể khẳng định chiếc áo dài với hình thức cố định đã ra đời và chính thức được công nhận là quốc phục dưới triều chúa Nguyễn Vũ Vương (1739- 1765). Vào thời này, các văn bản tại Việt Nam dùng chữ Hán hoặc chữ Nôm[2], áo dài viết bằng chữ Nôm là 襖襖[cần dẫn nguồn]. Áo dài màu đỏ (thường là áo dài dùng trong lễ cưới, lễ ăn hỏi của người Việt) Một vài tài liệu quy kết việc ra đời của chiếc áo dài quốc phục là do những tham vọng riêng tư của chúa Nguyễn Phúc Khoát. Do muốn xưng vương và tách rời Đàng Trong thành quốc gia riêng, nên ban sắc dụ về ăn mặc như trên cho khác đi, không phải với người khách trú mà với Bắc triều (trong quy định này đã có cả chỉ thị phụ nữ phải mặc quần hai ống). Sau thấy quần hai ống khêu gợi quá, Vương mới giao cho triều thần pha phối từ mẫu áo dài của người Chăm (giống như áo dài phụ nữ Việt Nam ngày nay, nhưng không xẻ nách) và áo dài của phụ nữ Thượng Hải (chiếc sườn xám) để "chế" ra cái áo dài của phụ nữ Việt Nam (Xem thêm Liên kết ngoài, bài Sự Tích Áo Dài Việt Nam). Chiếc áo dài đầu tiên giống như áo dài người Chàm và có xẻ nách. Thật ra chiếc sườn xám cũng chỉ ra đời quãng thập niên 1930, và quan điểm trên quá thiên nặng về tính chống phong kiến nên vô hình chung đề cao vai trò của Vũ Vương như là "nhà thiết kế áo dài hiện đại đầu tiên". [sửa] Thời vua Minh Mạng Cho đến thế kỷ 17 truyền thống mặc váy vẫn tồn tại ở Việt Nam như đã ghi trong sách Lê Triều Thiên Chính đời vua Lê Huyền Tông, tháng 3 năm 1665 với sắc lệnh nhắc nhở: "... áo đàn bà con gái không có thắt lưng, quần không có hai ống từ xưa đến nay vốn đã có cổ tục như thế...". Vậy có thể nói rằng bộ áo ngũ thân xuất hiện vào khoảng đời vua Gia Long (1802-1819). Sở dĩ có sự ước đoán này, vì mặc áo ngũ thân thì phải mặc quần chớ không thể mặc váy. Năm Minh Mạng thứ 9 (1828), triều đình Huế ra chiếu chỉ cấm đàn bà mặc váy và bắt phải mặc quần hai ống, nên hồi ấy mới xuất hiện câu ca dao than vãn: 2
  3. Tháng Tám có chiếu vua ra Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng! [sửa] "Đời sống mới" Năm 1947 trong bối cảnh Việt Nam mới tuyên bố độc lập và các phong trào "diệt giặc đói, giặc dốt" đang được phát động, nhằm phát động phong trào tiết kiệm, ngày 20 tháng 3 năm 1947, Hồ Chí Minh, với bút hiệu Tân Sinh, đã viết một cách vắn tắt rõ ràng và dễ hiểu bài "Đời sống mới" trong đó vận động người dân bỏ thói quen mặc áo dài để thay bằng áo vắn vì mặc áo dài đi đứng, làm việc bất tiện, lượt thượt, luộm thuộm. Áo dài tốn vải, khoảng hai cái áo dài may được ba cái áo vắn, nếu chỉ mặc áo vắn có thể sẻn được 200 triệu đồng/năm. Áo dài không hợp với phụ nữ Việt Nam đời sống mới[3]. Cuộc vận động này dần đã được người dân hưởng ứng và áo dài không còn là trang phục thông dụng của phụ nữ Việt Nam trong một thời gian dài ở miền bắc vĩ tuyến 17. [sửa] Áo dài Le Mur "Le Mur" chính là cách dịch sang tiếng Pháp của Cát Tường, một họa sĩ vào thập niên 1930 đã thực hiện một cải cách quan trọng trên chiếc áo tứ thân để biến nó chỉ còn lại hai vạt trước và sau mà thôi. Vạt trước được họa sĩ nối dài chấm đất để tăng thêm dáng vẻ uyển chuyển trong bước đi đồng thời thân trên được may ôm sát theo những đường cong cơ thể người mặc tạo nên vẻ yêu kiều và gợi cảm rất độc đáo. Để tăng thêm vẻ nữ tính, hàng nút phía trước được dịch chuyển sang một chỗ mở áo dọc theo vai rồi chạy dọc theo một bên sườn. Tuy nhiên, áo dài Le Mur có nhiều biến cải mà nhiều người thời đó cho là "lai căng" thái quá, như áo may ráp vai, ráp tay phồng, cổ bồng hoặc cổ hở. Thêm nữa áo Le Mur mặc cho đúng mốt phải với quần xa tanh trắng, đi giày cao, một tay cắp ô và quàng vai thêm chiếc bóp đầm. Lối tân thời này đã bị một số dư luận khi đó tẩy chay và cho là "đĩ thõa" (như được phản ảnh không hề thiện cảm trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng). [sửa] Áo dài Lê Phổ Năm 1934, một họa sĩ khác là Lê Phổ bỏ bớt những nét lai căng, cứng cỏi của áo Le Mur, đồng thời đưa thêm các yếu tố dân tộc từ áo tứ thân, ngũ thân vào, tạo ra một kiểu áo vạt dài cổ kính, ôm sát thân người, trong khi hai vạt dưới được tự do bay lượn. Sự dung hợp này quá hài hòa, vẹn vẻ giữa cái mới và cái cũ, được giới nữ thời đó hoan nghênh nhiệt liệt. Từ đây áo dài Việt Nam đã tìm được hình hài chuẩn mực của nó, và từ bấy đến nay dù trải bao thăng trầm, bao lần cách tân cách điệu, hình dạng chiếc áo dài về cơ bản vẫn giữ nguyên. [sửa] Áo dài với tay giác lăng Thập niên 1960 có nhà may Dung ở Dakao, Sài Gòn đưa ra kiểu may áo dài với cách ráp tay raglan (giác lăng). Cách ráp này đã giải quyết được vấn đề khó khăn nhất khi may áo dài: những nếp nhăn thường xuất hiện hai bên nách. Cách ráp này cải biến ở chỗ hàng nút cài được bố trí chạy từ dưới cổ xéo xuống nách, rồi kế đó chạy dọc một bên hông. Với cách ráp tay raglan làn vải được bo sít sao theo thân hình người mặc từ dưới nách đến lườn eo, khiến 3
  4. chiếc áo dài ôm khít từng đường cong của thân hình người phụ nữ, tạo thêm tính thẩm mỹ theo đánh giá của một số nhà thiết kế. [sửa] Áo dài miniraglan Phiên bản này được áp dụng rộng rãi cho nữ sinh. Theo phiên bản này, áo dài tay raglan có tà chỉ dài tới gối, nhưng hai ống quần rộng lòa xòa phủ kín đôi chân. Hai đặc điểm này làm cho tà áo nữ sinh đậm chất hồn nhiên, dễ thương. [sửa] Áo dài cổ thuyền Cuối năm 1958 khi bà Trần Lệ Xuân còn tại vị Đệ Nhất Phu Nhân của nước Việt Nam Cộng Hoà, bà đã thiết kế ra kiểu áo dài cách tân mới bỏ đi phần cổ áo gọi là áo dài cổ thuyền, cổ hở, cổ khoét, dân gian gọi là áo dài Trần Lệ Xuân hay áo dài bà Nhu. Không chỉ lạ về mẫu áo, chiếc áo dài hở cổ còn được ‘phá cách’ với họa tiết trang trí trên áo: nhành trúc mọc ngược. Một số nhà phê bình phương tây cho rằng nó hợp lý với thời tiết nhiệt đới của miền nam Việt Nam. Nhưng kiểu áo này khiến những người theo cổ học tức giận và lên án nó không hợp với thuần phong mỹ tục. Loại áo dài không có cổ này vẫn phổ biến đến ngày nay và phần cổ được khoét sâu cho tròn chứ không ngắn như bản gốc. [sửa] Một biểu trưng của Việt Nam Áo dài màu trắng Khác với kimono của Nhật Bản hay hanbok của Hàn Quốc, chiếc áo dài Việt Nam vừa truyền thống lại cũng vừa hiện đại. Trang phục dành cho nữ này không bị giới hạn chỉ mặc tại một số nơi hay dịp mà có thể mặc mọi nơi, dùng làm trang phục công sở, đồng phục đi học, mặc đi chơi hay mặc để tiếp khách một cách trang trọng ở nhà. Việc mặc loại trang phục này không hề rườm rà hay cầu kỳ, những thứ mặc kèm đơn giản: mặc với một quần lụa hay vải mềm, dưới chân đi hài, guốc, hay giày gì đều được; nếu cần trang trọng (như trang phục cô dâu) thì thêm áo choàng và chiếc khăn đóng truyền thống đội đầu, hoặc một chiếc miện Tây phương tùy thích. Đây chính là điểm đặc biệt của thứ trang phục truyền thống này. Chiếc áo dài hình như có cách riêng để tôn đẹp mọi thân hình. Phần trên ôm sát thân nhưng hai vạt buông thật mềm mại trên đôi ống quần rộng. Hai tà xẻ chí trên vòng eo khiến cho cử chỉ người mặc thật thoải mái, lại tạo dáng thướt tha, tôn vẻ nữ tính, vừa kín kẽ vì toàn thân được bao bọc bởi lụa mềm, lại cũng vừa khiêu gợi vì chiếc áo làm lộ ra sống eo. Chiếc áo dài vì vậy mang tính cá nhân hóa rất cao: mỗi chiếc chỉ may riêng cho một người, dành cho riêng người đó; không thể có một công nghệ "sản xuất đại trà" cho chiếc áo dài. Người đi may được lấy số đo thật kỹ. Khi may xong phải qua một lần mặc thử để sửa nhỏ nữa mới hoàn thiện. [sửa] Trong thơ ca Hình ảnh phụ nữ/con gái Việt Nam với chiếc áo dài truyền thống đã được nhiều nhà nghệ sĩ ghi lại, nổi bật nhất là trong thơ và nhạc. Bài thơ nổi tiếng về chiếc áo dài có thể kể là "Áo 4
  5. lụa Hà Đông" của Nguyên Sa, bài này được phổ nhạc thành một bài hát nổi tiếng và là cảm hứng cho một bộ phim điện ảnh cùng tên, với những câu: Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông... "Ngày xưa Hoàng Thị" của Phạm Thiên Thư kể về chuyện tình thuở học sinh với cô gái họ Hoàng, cô xuất hiện trong bài với những nét phác họa: Áo tà nguyệt bạch Ôm nghiêng cặp sách Vai nhỏ tóc dài". Phạm Duy phổ nhạc bài này cũng không quên làm nổi bật hình ảnh áo dài khi sửa thành: Ôm nghiêng tập vở, tóc dài, tà áo vờn bay... Áo dài cũng in đậm nét trong những vần thơ nghịch ngợm của Nguyễn Tất Nhiên: Tháng giêng em bikili Tỉnh lỵ còn nguyên nét Việt Nam Đài các chân ngà ai bước khẽ Nguyện theo tà lụa cả phương Đông (Tháng giêng, chim) đưa em về dưới mưa/ áo dài sầu hai vạt/ khi chấm bùn lưa thưa... (Em hiền như Ma- soeur) Trong thơ Bùi Giáng, màu áo dài của ký ức được nâng lên thành huyền thoại: Biển dâu sực tỉnh giang hà Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh (Áo xanh) Và có lẽ trong những vần thơ rất dung dị sau đây của Huy Cận cũng có hình bóng của chiếc áo dài trắng nữ sinh: Áo trắng đơn sơ mộng trắng trong Hôm xưa em đến mắt như lòng Nở bừng ánh sáng em đi đến Gót ngọc dồn hương bước tỏa hồng (Áo trắng). 5
  6. Chiếc áo dài cũng phảng phất hay xuất hiện nhiều trong các ca khúc Việt Nam. Trong nhạc Trịnh Công Sơn có thể nhìn thấy khá nhiều. Theo hồi ký, chính những bước chân hoàng cung của những nữ sinh áo tím Huế đã làm cho nhạc sĩ họ Trịnh viết nên bài "Diễm xưa" nổi tiếng. Hay trong bài "Hạ trắng", hình ảnh áo dài cũng chập chờn: Gọi nắng trên vai em gầy đường xa áo bay... (Hạ trắng) "Bé ca" của Phạm Duy viết cho con gái mới lớn, có bài "Tuổi ngọc" tả về niềm hân hoan của cô bé khi bước chân vào trung học, lần đầu khoác lên mình "một chiếc áo như mây hồng": Xin cho em một chiếc áo dài, cho em đi mua xuân tới rồi Mặc vào đời rồi ra, mừng lạy chào mẹ cha Hàng lụa là thơm dáng tuổi thơ Phạm Duy cũng không quên nhắc về chiếc áo này trong một giấc mơ hòa bình từ thập niên 1940: Nằm mơ, mơ thấy trăm họ tốt tươi, mơ thấy bên lề cuộc đời, áo dài đùa trong nắng cười... (Quê nghèo) Bài "Một thoáng quê hương" của Từ Huy nổi tiếng một thời với câu: Tà áo em... bay, bay, bay, bay... trong gió nhẹ nhàng... Dù ở đâu, Paris, Luân Đôn hay ở những miền xa. Thoáng thấy áo dài bay trên đường phố, sẽ thấy tâm hồn quê hương ở đó... em ơi... Các nhạc sĩ tiền chiến cũng hay ca ngợi áo dài như bài "Tà áo xanh" của Đoàn Chuẩn - Từ Linh. Và cảm xúc về chiếc áo dài cũng làm nên những câu hát nổi tiếng của Hoàng Trọng: Ngàn thu mưa rơi trên áo em màu tím Ngàn thu đau thương vương áo em màu tím Nhuộm tím những chuỗi ngày vắng nhau Tháng năm càng lướt mau Biết bao giờ trông thấy nhau(Ngàn thu áo tím) [sửa] Trong hội họa Thiếu nữ bên hoa huệ Bức tranh "Thiếu nữ bên hoa huệ" của họa sĩ Tô Ngọc Vân sáng tác năm 1943, là một trong những tác phẩm hội họa hiện đại Việt Nam đầu tiên và nổi tiếng bậc nhất, miêu tả một cô gái mặc áo dài trắng ngồi bên một bình hoa huệ tây(hoa loa kèn). 6
  7. [sửa] Áo dài nam Theo nhà biên khảo Trần Thị Lai Hồng thì áo ngũ thân đi đôi với quần hai ống và khăn đội đầu cũng là quốc phục của phái nam. Các bà các cô dùng mầu sắc óng ả dịu mát trong khi đàn ông con trai chỉ dùng màu đen, trắng, hoặc lam thẫm. Theo sắc dụ ban hành từ thời Chúa Nguyễn Vũ Vương thì sự quy định trang phục cho nam giới ít gò bó và thoáng hơn, "Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay hoặc rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền không cho xẻ mớ. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho tiện làm việc thì cũng được" (trích sắc dụ này). Một giả thuyết khác cho rằng từ khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát ban hành sắc dụ về quốc phục đã xuất hiện lối ăn mặc theo cách Việt Nam ở phái nam cho khác biệt với lối ăn mặc của người khách trú. Cơ sở chính của cách tạo ra khác biệt là lối cài nút về bên trái thay vì bên phải giống như người Hoa kiều (theo sách Việt Nam Văn Hóa Sử, tác giả Đào Duy Anh, đã chú dẫn trên phần đầu mục Lịch Sử Áo Dài). Sự khác biệt thứ hai là trên chất liệu vải (thường bằng the mỏng, và mặc ra ngoài áo bà ba trắng, với phụ tùng lệ bộ kèm theo là khăn đóng (tức khăn vành cho nam). Có thể ngay từ đầu, "quốc phục sơ khai" của nam giới đã chỉ có hai vạt và được biến cách trên chiếc áo Tàu "nhà Thanh": dài gần tới gối và có đường xẻ hai bên từ hông trở xuống. Đến thập kỷ 1930 khi xuất hiện áo nữ với hai tà dài thì được thay đổi chút ít cho gần gũi chiếc áo dài nữ phục. Kể từ năm 1952 thời Quốc gia Việt Nam, thủ tướng Trần Văn Hữu đã ấn định quốc phục cho các viên chức hành chánh trong chính phủ: nếu buỏi lẽ mang tính cách tôn giáo hay lịch sử thì lễ phục là áo dài chẽn, khăn đen, quần lụa trắng.[4] Vậy nếu nói đến quốc phục truyền thống thì chính chiếc áo dài nữ phục mới đậm nét hơn, được quy định bởi những văn bản pháp quy (sắc dụ chúa Nguyễn Vũ Vương) và chuẩn mực ăn mặc rõ ràng hơn (chiếu chỉ quy định của vua Minh Mạng về trang phục hoàn chỉnh cho áo dài nữ phục). Do đó khi nói đến áo dài Việt Nam, người trong lẫn ngoài nước thường nghĩ đến chiếc áo dài nữ phục. Áo dài nam phục Việt Nam lại không có số phận may mắn như áo dài nữ phục. Ngày nay ta ít có dịp bắt gặp hình ảnh một thanh niên, thậm chí một ông cụ già Việt Nam, vận chiếc áo dài nam phục truyền thống. Áo dài nam phục chỉ còn xuất hiện tại những lễ hội mang đậm nét truyền thống Việt Nam. Đặc biệt tại tuần lễ cấp cao APEC 2006 được tổ chức tại Việt Nam, trong lễ công bố Tuyên bố chung, các nhà lãnh đạo các nền kinh tế APEC đều mặc trang phục truyền thống của nước chủ nhà. Lịch sử áo dài LỊCH SỬ ÁO DÀI (trích từ "Chiếc Áo Dài Việt Nam và Đạo Làm Người") Mỗi dân tộc trên thế giới đều có một loại y phục cá biệt, khi nhìn cách phục sức của họ, chúng ta nhận biết họ thuộc quốc gia nào. Người Nhật Bản có chiếc áo Kimono, người Trung 7
  8. Hoa đời Măn Thanh có chiếc áo Thượng Hải mà quí bà quí cô thường gọi là áo "xường xám", người Đại Hàn, người Phi, người Thái v.v. Người Việt Nam, chúng ta hănh diện về chiếc áo dài, được trang trọng nâng lên ngôi vị quốc phục, cũng có người gọi một cách hoa mỹ hơn: "chiếc áo dài quê hương". Kẻ viết bài nầy cố gắng góp nhặt răi rác một số ít các tài liệu về chiếc áo dài được ghi chép rất vắn tắt trong các sách sử. Ngoài ra, cũng còn có một ít tài liệu tìm thấy trên sách báo cũ, ̣ nhưng không ghi rỡ xuất xứ. Tài liệu ghi trong sách cũ tuy vắn tắt, nhưng đáng tin cậy. Dân tộc Việt Nam có một chiều dài lịch sử trên bốn ngàn năm theo như sử sách đă ghi, trong đó có một ngàn năm bị Bắc thuộc, tám mươi hai năm bị Pháp đô hộ, tiếp theo là cuộc nội chiến tương tàn! Một dân tộc mà bị dân tộc khác đô hộ trên ngàn năm quả là quá lâu. Bao nhiêu tài sản của quốc gia, sử sách quí giá, tài liệu về lịch sử v.v... đă cướp đi hoặc tiêu hủy hết. Mục đích của kẻ thống tri. là triệt tiêu nền văn hóa của ta để đồng hóa. Mặc dầu bị ngoại xâm, chiến tranh tàn phá liên miên, nhưng dân tộc ta luôn có sự đề kháng tinh vi để trường tồn. Sử gia Đào Duy Anh chép: "Theo sách Sử ký chép thì người Văn Lang xưa, tức là tổ tiên ta, mặc áo dài về bên tả (tả nhiệm). Sử lại chép rằng ở thế kỷ thứ nhất, Nhâm Điên dạy cho dân quận Cửu chân dùng kiểu quần áo theo người Tàu. Theo những lời sách chép đó thì ta có thể đoán rằng trước hồi Bắc thuộc dân ta gài áo về tay trái, mà sau bắt chước người Trung quốc mới mặc áo gài về tay phải." (Việt nam Văn Hóa Sử, Đào Duy Anh, trang 172). Mặc dầu cuộc sống chung đụng và bắt chước theo người ngoại quốc, nhưng tổ tiên ta vẫn khôn khéo duy trì nét đặc thù của nền văn hóa, không đánh mất bản sắc dân tộc. Không ai biết rõ chiếc áo dài nguyên thủy ra đời từ lúc nào và hình dáng ra sao, vì thiếu tài liệu kiểm chứng. Mới đây, nhân đọc cuốn kể chuyện "Chín Chúa Mười Ba Vua Triều Nguyễn" của ông Tôn Thất Bính, (Nhà Xuất Bản Đà Nẵng, 1997) có bài "Những Trang Đầu của Lịch Sử Áo Dài" tác giả chép như sau: "Chiếc áo dài tha thướt xinh đẹp hiện nay phải qua một quá trình phát triển. Nó được hình thành từ đời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Nguyên chúa Nguyễn Phúc Khoát nghe người Nghệ an truyền câu sấm: "Bát đại thời hoàn trung nguyên" (tám đời trở về trung nguyên), thấy từ Đoan Quốc Công đến nay vừa đúng tám đời bèn xưng hiệu lấy thể chế áo mũ trong Tam tài đồ hội làm kiểu... lại hạ lệnh cho trai gái hai xứ đổi dùng áo quần Bắc quốc để tỏ sự biến đổi, khiến phụ nữ bận áo ngắn hẹp tay như áo đàn ông thời Bắc quốc không có thế. Thế là do tinh thần độc lập, muốn dân chúng trong địa phận mình cai trị mang y phục riêng để phân biệt với miền Bắc, Nguyễn Phúc Khoát hiểu dụ: "Y phục bản quốc vốn có chế độ, địa phương này từ trước cũng chỉ tuân theo quốc tục, nay kính vâng thượng đức, dẹp yên cỡi biên, trong ngoài như nhau, chính trị và phong tục cũng nên thống nhất. Nếu còn có người mặc quần áo kiểu người khách (Trung quốc, TTB chú) thì nên ̣ đổi theo thể chế của nước nhà. Đổi may y phục thì theo tục nước mà thông dụng vải, lụa, duy có quan chức thì mới cho dùng xen the, là, trừu, đoạn, còn gấm vóc và các thứ hoa rồng phượng nhất thiết không được quen thói cũ dùng càn. Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay hoặc rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền không cho xẻ mớ. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho 8
  9. tiện làm việc thì cũng được. Lễ phục thì dùng áo cổ đứng tay dài, vải xanh chàm hoặc vải đen, hay vải trắng tùy nghi. Còn các bức viền cổ và kết lót thì đều theo như điều hiểu dụ năm ́ trước mà chế dùng." Như vậy từ thế kỷ XVIII, chiếc áo dài đă được ra đời, dù ban đầu còn thô sơ, nhưng kín đáo. Nó là sản phẩm mang màu sắc dung hạp Bắc Nam. Cũng ở thời Nguyễn Phúc Khoát, phụ nữ đă biết trang điểm, thêu thùa hoa lá quanh cổ áo để tăng vẻ đẹp, hàng vải khá tốt và tinh xảo. Các loại áo đoạn hoa bát ty, sa, lương, địa, the là hàng hoa được mặc vào ngày thường, áo vải, áo mộc bị chê là vải xấu. Chúa Nguyễn Phúc Khoát đă viết những trang lịch sử đầu cho chiếc áo dài vậy." (Theo Lê Qúi Đôn Phủ biên tạp lục, trong cuốn "Kể chuyện Chín Chúa Mười Ba Vua Triều Nguyễn, của Tôn Thất Binh, trang 29.) ́ Chúa Nguyễn Phúc Khoát hùng cứ ở xứ Đàng Trong, sau khi chiếm trọn nước Chiêm thành, mở mang bờ cõi về phương Nam, theo Lê Quý Đôn, đă có được thời kỳ thịnh vượng bình yên. Chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương hiệu là Vũ Vương, có triều nghi xây hai điện Kim Hoa, Quang Hoa, có các nhà Tụ Lạc, Chính Quang, Trung Hoà, Di Nhiên, đài Sướng Xuân, các Dao Tŕì, các TriềuĐương, các Quan Thiên, đình Thụy Vân, hiên Đồng Lạc, an Nội Viên, đình ́ Giáng Hương, điện Trường Lạc, hiên Duyệt Vơ v.v., có cơ chế chính trị, hành chánh, xă hội có kỷ cương, nhưng chưa có quốc hiệu. Tuy nhiên, người ngoại quốc tới lui buôn bán tại cửa Hội an thường gọi là "Quảng Nam quốc". Để chứng tỏ tinh thần độc lập, Chúa Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát đă chú trọng đến vấn đề cải cách xă hội, phong tục mà điều quan trọng là sự cải cách về y phục. Nếu căn cứ theo tài liệu kể trên thì́ chiếc áo dài Việt nam đă ra đời vào thế kỷ XVIII, trong thời Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1739 1765) (?). Từ đó đến nay chắc chắn chiếc áo dài Việt Nam cũng đă thay hình đổi dạng để thích nghi với trào lưu tiến hóa và sự trường tồn của dân tộc. Sách Đại Nam thực lục tiền biên cũng có chép: "Vào khoảng năm 1744 chúa Võ Vương ở phương Nam bắt dân gian cải cách y phục". Có lẽ vào thời xa xưa đàn bà Việt Nam mặc áo thắt vạt và mặc váy. Ta đọc đoạn sử sau đây: "Đến đời Minh Mệnh có lệnh cho đàn bà đường ngoài phải mặc quần, nhưng chỉ những người giàu sang ở thành thị tuân theo,chứ ở nhà quê thì đến nay đàn bà cũng vẫn mặc váy." (Việt Nam Văn Hóa Sử, Đào Duy Anh, trang 173). Mặc dầu bị ngoại xâm và bị đô hộ lâu dài, nhưng tổ tiên ta vẫn khôn khéo duy trì một xă hội có kỷ cương, tôn ti trật tự. Cứ nhìn vào trang phục và màu sắc để phân biệt giai tầng trong xă hội. Sách Vũ Trung Tùy Bút chép: "Đời xưa học trò và người thường, khi có việc công thì mặc áo xanh lam (thanh cát), lúc thường thì mặc áo màu thâm (chuy y), người làm lụng thì mặc áo mùi sừng (qú sắc). Từ đời Lê về sau thì sắc trắng ít dùng. Cứ trạng thái y phục gần nhất của người nưóc ta thì các quan hay mặc áo xanh lam, học trò cùng những chức viên, tổng lư và hạ lại thường dùng mùi sừng và mùi đen, người nhà quê và người làm lụng thì thường dùng mùi nâu. Người giàu sang thì mặc the lụa gấm vóc, còn người nghèo hèn thì chỉ dùng vải to ... vua quan thì có phẩm phục, quân lính thì có nhung phu.c, thường dân thì có lễ phục". 9
  10. Trong Việt Nam Sử Lược của học giả Trần Trọng Kim viết: "Vua Lê Lợi, ngày ấy dấy quân khởi nghĩa chống giặc Tàu ở đất Lam sơn. Ngài dùng chiếc áo vải màu lam là màu áo biểu tượng để kháng giặc". Vì thế vua Lê Lợi được mệnh danh là "Anh hùng áo vải Lam Sơn". Qua các đoạn sử vừa trích dẫn ở trên, ta thấy y phục là một biểu tượng của quốc gia dân tộc. Trải qua bao biến thiên của đất nước, chiếc áo dài cũng đă được cải tiến. Vào khoảng thập niên 1930, nhóm văn sĩ trong Tự Lực Văn Đoàn đă chủ xướng cuộc cải cách văn hóa, tư tưởng mới cho thế hệ trẻ. Trong nhóm này có hai họa sĩ du học từ Pháp về, đó là các ông Nguyễn Cát Tường và Lê Phổ, dùng hai tờ báo Ngày Nay và Phong Hóa làm phương tiện truyền bá của nhóm. Hai họa sĩ đă vẽ và chỉnh trang kiểu áo dài phụ nữ gọi là áo "Le Mur Cát Tường" cổ cao, không có eo. Ông Nguyễn Cát Tường viết trong tờ Phong Hóa, có đoạn: "Muốn biết nước nào có tiến bộ, có kỷ thuật hay không? Cứ xem y phục người nước của họ, ta cũng đủ hiểu." (Phong Hóa số 86, tháng 2 1934). Một nhân vật nữ khác không thể không nhắc đến, đó là bà Trịnh Thục Oanh, một hiệu trưởng của trường nữ Trung học Hà Nội, đă làm thêm một cuộc cải cách táo bạo hơn, bà nhấn eo chiếc áo, ôm sát theo đường nét mỹ miều duyên dáng của phái nữ. Đến ngày nay, chiếc áo dài của quí bà quí cô là một tác phẩm mỹ thuật tuyệt vời. Nó đă trở thành một thứ y phục độc đáo của phụ nữ Việt nam. Tại cuộc hội chợ quốc tế Osaka, năm 1970 tại Nhật bản, chiếc áo dài phụ nữ Việt Nam đă lên ngôi và đem lại vinh dự cho phái đoàn VNCH. Khách quốc tế trầm trộ thán phục trước các vạt áo lă lơi như cánh bướm trước gió. Khách bình phẩm: - Hơi mỏng! - Nhưng rất kín đáo, đủ sức che mắt thánh! Một nhiếp ảnh gia quốc tế của Việt nam cũng đă hănh diện về hấp lực của chiếc áo dài tại hội chợ, nên có nhận xét: -Nó có sức chở gió đi theo. Những lời nhận xét trên không có gì quá đáng. Chiếc áo dài Việt nam chỉ thích hợp cho thân hình kiều diễm, ẻo lả, mảnh mai của phụ nữ Việt nam. Nó vừa kín đáo, vừa e ấp, vừa khêu gợi. Nó khai thác được đường nét tuyệt mỹ của thân thể. Thi sĩ Xuân Diệu thú nhận: Những tà áo lụa mong manh ấy, Đă gói hồn tôi suốt trọn đời. Chiếc áo dài hiển nhiên là một loại "quốc phục". Khách khứa đến thăm, chủ nhà trịnh trọng bận chiếc áo dài như là một chiếc áo lễ để tiếp khách. Tại học đường nó là chiếc áo học trò ngây thơ, tung tăng như cánh bướm, gói trọn mộng đẹp của tương lai. Một chiếc khăn vành có tác dụng như một "vương miện", thêm vào chiếc áo choàng bên ngoài sẽ trở thành bộ y phục "hoàng hậu" cho cô dâu khi bước lên xe hoa. Trong buổi dạ tiệc, chiếc áo dài Việt nam 10
  11. cũng sẽ lộng lẫy, độc đáo, không thua bất kỳ bộ trang phục của các quốc gia nào khác trên thế giới. Tại miền quê Quảng Nam, những người buôn thúng bán bưng, mặc dầu nghèo khổ, cũng luôn luôn bận chiếc áo dài khi ra chợ. Nếu áo rách, sờn vai thì chắp vào chỗ rách một phần vải mới, gọi là áo "vá quàng". Dầu là áo rách, áo vá quàng, vẫn tăng giá trị: Đố ai kiếm được cái vảy con cá trê vàng, thân. Cái gan con tép bạc, mấy ngàn tôi cũng Áo may cái thuở anh mới thương nàng, Đến nay áo rách lại vá quàng thay tay. mua. Chẳng thương cái cổ em có hột xoàn, (Ca dao) Thương em mặc chiếc áo vá quàng năm Chiếc áo dài, một đề tài phong phú để dành cho các thi sĩ dệt thơ. Trong bài "Áo Trắng" Huy Cận viết: ... Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong, Dịu dàng áo trắng trong như suối, Hôm xưa em đến, mắt như lòng, Tỏa phất đôi hồn cánh mộng bay. Nở bừng ánh sáng, em đi đến, Gót ngọc dồn hương, bước tỏa hồng (Huy Cận) ...... Nắng thơ dệt sáng trên tà áo, Lá nhỏ mừng vui phất cửa ngoài. Thi sĩ Đông Hồ cũng đă tình nguyện bán thơ mình để "Mua Áo" cho cô gái xuân, lời thơ nhẹ nhàng phơi phới yêu đương, có chiều lă lơi mà trong sạch, nũng nịu đến dễ thương: Chiếc áo năm xưa đă cũ rồi, Còn thước tấc, quên! Em chưa bảo: Em đâu còn áo mặc đi chơi. Kích tùng bao rộng, vạt bao dài? Bán thơ nhân dịp anh ra chợ. Đành gởi anh mua chiếc áo thôi. Ô hay! Nghe hỏi mà yêu nhỉ! Thước tấc anh còn lựa hỏi ai. Hàng bông mai biếc màu em thích, Rộng hẹp, tay anh bồng ẳm đó, Màu với hàng, em đă dặn rồi. Ngắn dài, người mới tựa bên vai! (Đông Hồ, "Cô Gái Xuân") Thi sĩ Phan Long cũng trải hồn mình qua bài cảm tác "Chiếc Áo Dài Tà Áo quê Hương" sau đây: Em yêu mến chiếc áo dài, Tình che vạt trước gió lùa vạt sau. Thướt tha duyên dáng đẹp hoài thời gian. Những ngày đẹp măi bên nhau, Ngày xuân nắng trải tơ vàng, Vạt vui in dấu vạt sầu còn vương. Khoe tà áo mới ngập tràn tuổi thơ. Đẹp sao tà áo quê hương, Lớn theo lứa tuổi học trò Áo dài màu trắng nhớ thương năm nào 11
  12. . (Phan Long) Cái tài tình của chiếc áo dài Việt Nam qua cách cấu trúc chẳng những là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời, nhưng bên trong còn ẩn tàng ý nghĩa dạy dỗ về đạo làm người. Dân tộc Việt nam phải phấn đấu không ngừng chống nạn ngoại xâm để trường tồn, và bảo vệ những giá trị truyền thống về văn hóa, kỷ cương gia đình Dầu muốn hay không thì dân tộc ta, cũng như các dân tộc Á châu khác đă chịu ảnh hương sâu đậm của Tam Giáo và học thuyết Khổng Mạnh. Gia đình, xă hội được xây dựng trên nền tảng tam cương, ngũ thường. Tổ tiên ta răn dạy con cháu thật chặt chẻ về đạo làm người, chẳng những trên sách vở, mà còn phải luôn luôn mang nó theo trên người. Phải chăng đây là sự dạy dỗ sâu sắc, khéo léo của tiền nhân? Nếu qủa đúng như vậy thì chiếc áo dài Việt Nam là cái gia phả vô cùng quí giá ẩn tàng sự dạy dỗ con cháu về đạo làm người. Ta phải hănh diện, nâng niu, bảo vệ, xem như một di sản văn hóa do tổ tiên truyền dạy. Ta thử xem cách cấu trúc của chiếc áo dài xưa: Phía trước có hai tà (hay hai vạt), phía sau hai tà, tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu (cha mẹ chồng, cha mẹ vợ). Một vạt cụt, hay vạt chéo phía trước có tác dụng như một cái yếm che ngực, nằm phía bên trong hai vạt lớn, tượng trưng cho cha mẹ ôm ấp đứa con vào lòng. Năm hột nút nằm cân xứng trên năm vị trí cố định, giữ cho chiếc áo được ngay thẳng, kín đáo, tượng trưng cho năm đạo làm người: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Trong chiếc áo tứ thân, người ta thường buộc hai vạt trước lại với nhau để giữ cho chiếc áo cân đối, tượng trưng cho tình nghĩa vợ chồng âu yếm, quấn quít bên nhau. (trích từ "Chiếc Áo Dài Việt Nam và Đạo Làm Người") Ai đã từng dắt xe đạp chở nàng áo thướt tha ở cổng trường Gia Long, ai đã từng theo trêu ghẹo các nữ sinh áo trắng trường Trưng Vương, ai đã mê mẫn đuổi theo vạt áo để đề thơ hẳn không quên những tà áo sinh viên mượt mà, tung bay trong gió thu. Từ những tà áo thật giản đơn đến những tà áo lộng lẫy từ những tà áo tô điễm cho các dịp lễ hội, đám cưới, đám tang, đến những tà áo thơ ngây dưới sân trường, tất cả đều có thể được mô tả bằng một danh từ chung: ÁO DÀI. Cho đến nay, chưa ai rõ nguồn gốc đích thực của chiếc áo dài, chỉ biết rằng thủy tổ của nó, vốn làm bằng da thú và lông chim, xuất hiện trước thời Hai Bà Trưng (năm 38 42 trước Tây lịch) qua các hình khắc trên mặt trống đồng Ngọc Lũ (5000 năm trước Tây Lịch). Theo truyền thuyết, Hai Bà Trưng đã mặc áo dài hai tà giáp vàng, che lọng vàng, trang sức thật lộng lẫy khi cưỡi voi xông trận đánh đuổi quân nhà Hán. Cũng tương truyền, do tôn kính Hai Bà, phụ nữ Việt Nam tránh mặc áo hai tà mà may thay bằng áo tứ thân với bốn thân áo tượng trưng cho bốn bậc sinh thành (của hai vợ chồng). Vả lại, khi đó kỹ thuật còn thô sơ, vải được dệt thành từng mảnh khổ nhỏ nên phải ghép bốn mảnh lại mới may đủ một áo, gọi quen là áo tứ thân. Áo gồm hai mảnh đằng sau chắp lại giữa sống lưng (gọi là sống áo), mép của hai mảnh 12
  13. được nối vào nhau và dấu vào phía trong. hai mảnh trước được thắt lên và để thòng xuống thành hai tà áo ở giữa, nên không phải cài khuy (cúc, nút) khi mặc. Bình thường, gấu áo được vén lên, chỉ khi có đại tang (tang chồng hay cha mẹ) mới thả xuống và mép vải để lộ ra ngoài thay vì dấu vào trong. Đấy là hình ảnh chiếc áo dài tứ thân mộc mạc, khiêm tốn. Sau khi xua quân đánh đuổi quân Hai Bà, tướng Mã Viện áp đặt một chế độ cai trị hà khắc nhằm đồng hóa nền văn hóa Việt. Hơn 1000 năm dưới sự đô hộ của Trung Hoa, chiếc áo dài, áo tứ thân cũng nỗi trôi theo mệnh nước nhưng không bao giờ bị xóa bỏ. Áo tứ thân vẫn còn tồn tại ở một số địa phương, nhất là miệt quê, cho đến ngày hôm nay. Vào thời vua Gia Long (1802 1819), chiếc áo dài tứ thân được biến cải thành áo ngũ thân, rất phổ thông trong giới quyền quý và dân thành thị. Áo ngũ thân cũng dược may như áo tứ thân, nhưng vạt áo bên phải phía trước chỉ được may bằng một thân vải, còn vạt áo bên trái được may bằng hai thân vải như vạt áo đằng sau. Ngoài ra, áo năm thân có khuy áo như đàn ông, lúc mặc có thể cài khuy như áo dài ngày nay hoặc thắt vạt như áo tứ thân. Về ý nghĩa, bốn thân áo chính tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, và thân thứ năm (vạt con) tượng trưng cho người mặc áo; năm chiếc khuy tượng trưng cho đạo làm người theo Khổng Giáo: Nhân (lòng thương người, nhân từ), Lễ (biết trên, dưới), Nghĩa (nghĩa khí), Trí (sự sáng suốt, trí tuệ), Tín (uy tín). Rõ ràng, chiếc áo dài ngũ thân diễn đạt nhân sinh quan của Việt Nam nhưng không khỏi sự ảnh hưởng của Trung Hoa qua nhiều năm đô hộ. Khi triều đình Huế ký hòa ước Patenôtre nhượng quyền cai trị nước vào tay Pháp năm 1884, văn hóa Tây Phương bắt đầu du nhập vào Việt Nam, đi đôi với việc dạy chữ Quốc Ngữ thay chữ Nho. Cuộc sống bỗng biến đổi theo đà đua đòi của văn hóa Tây Phương, nhất là ở những đô thị lớn. Sau khi chính phủ Pháp mở trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Hà Nội, một lô cải cách cho chiếc áo dài truyền thống đã được một số người có tâm huyết với chiếc áo dài đưa ra. Các màu nâu, đen thường được thay bằng bằng các sắc màu tươi sáng hơn, gây sôi nổi trong dư luận quần chúng thời ấy. Năm 1934, họa sĩ Nguyễn Cát Tường đã khích động phong trào cải cách: "...Các nhà đạo đức thường nói: Quần áo chỉ là những vật dụng để che thân thể ta khỏi bị gió mưa, nắng lạnh, ta chẳng nên để ý đến cái đẹp, cái sang của nó làm gì...Theo ý tôi, quần áo tuy dùng để che thân, song nó có thể là tấm gương phản chiếu ra ngoài cái trình độ trí thức của một nước. Muốn biết nước nào có tiến bộ, có mỹ thuật hay không, cứ xem y phục của người nước họ, ta cũng đủ hiểu...." Trong thập niên 1930, Cát Tường đưa ra thị trường kiểu áo dài mới Le mur. Kiểu Le mur được vẽ theo kiểu áo đầm Tây Phương với nối vai và tay phồng, cổ lá xen, cài khuy trên vai, mặc với quần trắng, đeo bóp, che dù, v.v... Sau đó, họa sĩ Lê Phổ cải tiến áo Le mur và mẫu áo dài này được hoan nghênh trong Hội chợ Nữ Công Đà Nẵng. Đây là một kết hợp giữa áo Le mur và áo tứ thân, rất gần gũi với chiếc áo dài tân thời ngày nay: nối vai và tay không phồng lên, cổ kín, cài nút bên phải, thân ôm sát người, hai tà áo mềm mại bay lượn. Áo dài Lê Phổ được may bằng vải màu mặc với quần trắng, tóc búi lỏng hay vấn trần hoặc vấn khăn nhung. trong suốt gấn 30 năm sau đó chiếc áo dài Việt Nam không thay đổi bao nhiêu, ngoại trừ cổ áo, gấu áo, và eo áo: cổ áo thì lúc cao, lúc thấp, lúc rộng, lúc hẹp; gấu áo thì lúc vén cao, lúc hạ thấp; eo áo thí lúc nhỏ lúc to. Những thay đổi này đi đôi với những thay đổi nho 13
  14. nhỏ cũa chiếc quần phụ nữ: chân què qua đáy giữa, lưng quần thắt giải rút rồi tới giây thung, gài nút, và sau cùng là dùng phẹc mo tuya (fermeture), ống quần thì lúc rộng lúc hẹp theo thị hiếu thẩm mỹ của từng giai đoạn một. Mãi đến đầu thập niên 1960, nhà may Dung Đakao ở Sài Gòn đưa ra một kiểu áo dài mới: áo dài tay raglan mặc với quần xéo. Vì tay áo và thân áo được nối xéo góc khoảng 45 độ, kiểu áo dài raglan này tránh được những đường nhăn hai bên nách và vai (so với kiểu áo Lê Phổ). Chiếc quần xéo may bằng vải mềm, được xếp xéo góc khi cắt, có hông ôm sát người và hai ống lòa xòa dài qua mắt cá chân giúp cho nữ giới có những bước đi tha thước qua đôi guốc ẩn hiện dưới hai ống quần. Sau áo dài raglan là áo dài mini raglan, vốn là áo raglan may với tà áo cao gọn ghẽ. kiểu mini raglan này được các nữ sinh Sài Gòn ưa chuộng mãi cho đến cuối tháng Tư 1975. Cảm thấy muốn tiến xa hơn, một số nhà may tại Sài Gòn đã tung ra thị trường kiểu áo dài ba tà gốm một vạt sau và hai vạt trước. Cổ áo cao, có khuy cài từ cổ xuống eo. Áo ba tà được mặc với quần ống voi, thứ quần dài có ống rộng thùng thình. Kiểu áo này không ưa chuộng cho lắm vì không thích hợp với bản chất ôn nhu cũa nữ giới Việt Nam. Ngày nay, khi tị nạn đến xứ người, các nhà vẽ kiểu thời trang lại "thêm bớt" cho chiếc áo dài. Trong đó, có kiểu áo dài "ngắn" với hai tà áo ngắn lên quá đầu gối, áo hở cổ, áo một tay, v.v... Nhưng có lẽ khó có kiểu nào sánh được những chiếc áo mini raglan trắng nõn mà các chàng ngơ ngẫn đứng chờ trước cổng trường Gia Long, Trưng Vương ngày nào. Tà áo dài Việt Nam Cũng không ngạc nhiên khi một người Việt Nam trả lời rằng tà Áo Dài là một trong những hình tượng tiêu biểu ở đất nước này. Thật khó mà dịch từ "Áo Dài" sang bất cứ ngôn ngữ nào vì không ở đâu có một tà áo Dài như ở Việt Nam. Áo Dài, trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam, Ôm sát cơ thể, có cổ cao và dài khoảng ngang gối. Nó được xẻ ra ở hông. áo Dài vừa quyến rữ lại vừa gợi cảm, vừa kín đáo nhưng vẫn biểu lộ đường nét của một người thiếu nữ. Nhìn lại chiều dài lịch sử đất nước, tà áo Dài là một sáng tạo nghệ thuật mới. Nó thay thế trang phục cổ truyền mà mầu sắc và kiểu dáng phải tuân theo những đòi hỏi lễ nghi và những tầng lớp xã hội. Mầu vàng chỉ dành cho những ông vua và họ được mặc áo lông bào. Mầu trắng là mầu tang còn mầu xanh dành cho các vị quan trong những dịp trang trọng. Trước n ữa, đầu thế kỷ 18, phụ nữ Việt Nam mặc váy dài. Vào năm 1744, viên quan Vũ Vương cai trị phía Bắc miền Trung VN của triều Nguyễn yêu cầu thay đổi trang phục VN trên cơ sở kiểu cáo Trung Hoa. Bộ quần áo có nút thay thế cho váy và áo xẻ ngực thắt dây. Vua Minh Mạng, vị vua thứ hai của triều Nguyễn ban hành sắc lệnh cấm phụ nữ mặc váy. 14
  15. áo Dài được phát hiện từ thời Pháp thuộc khi một phụ nữ Việt Nam tên Tường thay đổi chiếc áo tứ thân (áo dài có bốn mảnh) thành chiếc áo hai tà đầu tiên. Người Pháp gọi chiếc áo dài đó là Le Mur có nghĩa là "the wall" trong Anh ngữ. Từ đó, chiếc áo Dài đã được thau đổi khá sâu sắc. Hai kiểu áo Dài được ưu chuộng là kiểu cổ tròn, tay raglan (tay liền) và kiểu tay puff (tay phồng). Ngoài ra tà áo được nối liền với phần thân qua những đường chỉ nối quanh cổ áo. Ngoài hai kiểu áo nêu trên, nhiều kiểu áo kiểu áo khác như kiểu cổ thuyền, cổ vuông, cổ chữ V, Uthích hợp với những người tương đối đầy đặn, kiểu vai phồng cho những thiếu nữ mảnh mai. Chất liệu mới cho áo Dài được kết hợp từ những tấm vải mẫu, thường được trang trí bằng những đường nét thủ công hoặc thêu thùa. Tà áo Dài không thể gia công hoặc bán hàng loạt như những loại quần áo may sẵn khác. Mỗi mảnh được tạo ra là một công trình nghệ thuật của người thợ thủ công. Những thợ may áo Dài thường phải từ chối đơn đặt hàng trước dịp năm mới. Đôi khi người ta nhận làm chỉ 24 giờ với giá gấp đôi. Bà James Sterson, một sứ giả Mỹ đã nói rằng: Không một đất nước nào có một trang phục dân tộc vừa đẹp, truyền thống mà lại có chiều sâu văn hóa như tà áo Dài VN. Ngày nay, áo Dài xuất hiện khắp nơi trên thế giới. Những phụ nữ Việt Kiều biểu lộ tình cảm với quê hương qua chiếc áo dài. Nhiều du khách nước ngoài đã có những ấn tượng rất tốt về tà áo Dài VN. Họ cảm thấy được tiếp rất nồng hậu khi những tà áo Dài bay bay trước gió ở phi trường. Thật tiếc cho những ai đến VN mà không mang về một chiếc áo Dài làm kỷ niệm và để khoe với những ai chưa từng đến VN. Tà áo dài xứng đáng với mệnh danh "Nét duyên dáng Việt Nam". Tìm hiểu cội nguồn Áo Dài Việt Nam “Có tìm hiểu dĩ vãng của chính mình thì mới quý nó được, và có quý trọng dĩ vãng thì mới tìm được hướng đi cho tương lai”. Ðó là lời của cố học giả Nguyễn Hiến Lê mà người viết bài này muốn gửi đến các bạn trẻ và nhưng ai quan tâm đến việc bảo vệ kho tàng văn hóa dân tộc. Khi tìm đọc Văn học sử Việt Nam, chiếc áo dài quả đã ghi lại rất nhiều nét đan thanh không những qua ca dao tục ngữ mà còn qua điêu khắc, hội họa, kịch nghệ, văn chương và âm nhạc. Ngược dòng thời gian tìm về nguồn cội, chiếc áo dài Việt Nam đầu tiên với hai tà áo thướt tha bay lượn đã được tiền nhân ghi khắc trên cổ vật, như trống đồng Ngọc Lũ, Hòa Bình, Hoàng Hạ... từ trên ba ngàn năm trước. Áo dài Việt Nam quả đã có một quá trình đi sát với lịch sử dân tộc để lắm phen khóc cười theo mệnh nước nổi trôi. Trải qua cả mười thế kỷ bị Trung Hoa đô hộ một Trung Hoa vĩ đại về mọi phương diện rồi ngót một thế kỷ dưới ách thống trị của Pháp quốc gia đứng hàng đầu về thời trang quốc tế tà áo dài Việt Nam vẫn uyển chuyển tung bay, biểu dương tinh thần bất khuất, đặc tính thích nghi với hoàn cảnh, và khiếu thẩm mỹ của người Việt. Dưới thời kỳ bị Trung Hoa đô hộ, dân ta đã bao phen bị người Tàu ra lệnh đồng hóa: Ðàn ông phải dóc tóc bím đuôi sam, đàn bà phải cắt tóc ngắn và mặc quần thay vì mặc váy, mọi người đều phải để răng trắng không được nhuộm... Nhưng những cổ vật tiền nhân để lại cho thấy người Việt xưa vẫn búi tóc, vẫn mặc áo dài và váy. 15
  16. Chiếc áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, tương tự như áo tứ thân nhưng khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại. Áo mặc phủ ngoài yếm lót, váy tơ đen, thắt lưng mầu buông thả. Xưa các bà các cô búi tóc trên đỉnh đầu hoặc quấn quanh đầu, đội mũ lông chim dài; về sau bỏ mũ lông chim để đội khăn, vấn khăn, đội nón lá, nón thúng. Cổ nhân xưa đi chân đất, về sau mang guốc gỗ, dép, giày. Vì phải làm việc đồng áng hoặc buôn bán, chiếc áo giao lãnh được thu gọn lại thành kiểu áo tứ thân với váy xắn quai cồng để tiện việc gồng gánh, nhưng vẫn không làm giảm nét đẹp của người nữ. Vẻ yêu kiều, nét duyên dáng, nết đoan trang của phụ nữ thời áo tứ thân được mô tả rõ rệt qua bài ca dao Mười Thương: Một thương tóc bỏ đuôi gà Sáu thương nón thương quai tua dịu dàng Hai thương ăn nói mặn mà có duyên Bẩy thương nết ở đoan trang Ba thương má lúm đồng tiền Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém Chín thương cô ở một mình Mười thương con mắt hữu tình với ai? thua Năm thương cổ yếm đeo bùa Ngoài đồng ruộng hay trong những buổi chợ, chiếc áo tứ thân có mầu nâu non, nâu già hoặc đen, mặc với váy vải thô nhuộm bùn, nhưng trong những dịp hội hè đình đám cưới hỏi, áo được may bằng hàng the, nhiễu, thao, lụa, khoác bên ngoài chiếc yếm đỏ thắm hay hồng đào và phủ lên chiếc váy lĩnh hoa chanh hoặc váy sồi có thắt lưng mầu lá mạ hay mầu cánh chả bay lượn trong gió. Các bà các cô vấn tóc trong khăn nhung hoặc vấn trần có một lọn để đuôi gà làm duyên, đội nón thương quai thao, lưng đeo bộ xà tích bằng bạc, tay đeo vòng hay xuyến, cổ đeo chuỗi hạt vàng, chân mang giày dừa, dép cong. Bộ áo tứ thân đứng vững trên đất nước Việt Nam cả mấy ngàn năm trong khi bộ xiêm y lượt thượt của người nữ Trung Hoa chỉ còn xuất hiện trong cung điện hoặc trong những nhà quyền quý. Ðến thế kỷ thứ ba sau Tây lịch thì đàn bà Trung Hoa bỏ váy để mặc quần, khi chiếc quần xuất hiện dưới thời Gaulois bên Pháp truyền sang Cổ Ba Tư rồi vào đất Tàu. Phụ nữ Trung Hoa lại tiến xa hơn dưới thời vua Võ Vương nhà Thanh năm 1774, mặc kiểu áo xường xám không có... quần! Trong thời gian đó, truyền thống mặc váy vẫn tồn tại ở Việt Nam cho đến thế kỷ mười bảy như đã ghi trong sách Lê Triều Thiên Chính đời vua Lê Huyền Tông, tháng 3 năm 1665 với sắc lệnh nhắc nhở: ”... áo đàn bà con gái không có thắt lưng, quần không có hai ống từ xưa đến nay đã có tục cũ...” Tuy nhiên, thời trang Việt Nam cũng thay đổi theo thời gian. Phụ nữ tỉnh thành chế biến ki ểu áo ngũ thân từ áo tứ thân để có dáng dấp trang trọng hơn. Áo ngũ thân cũng cắt may giống như áo tứ thân nhưng vạt trước là một vạt lớn như vạt sau, còn vạt nửa trước bên phải của áo tứ thân nay trở thành vạt con. Áo ngũ thân che kín thân hình không để hở áo lót. Mỗi vạt có hai thân nối sống tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, và vạt con nằm dưới vạt trước là thân thứ năm tượng trưng cho người mặc áo. Vạt con nối với hai vạt cả nhờ cổ áo có bâu đệm, và khép kín nhờ năm chiếc khuy tượng trưng cho đạo làm người theo quan niệm Nho giáo: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Áo ngũ thân không những tôn vinh giá trị cao quý của người nữ trong gia đình cũng như xã hội, mà còn gói ghém nhân sinh quan của dân tộc: Con người nhờ cha sinh mẹ dưỡng, khi thành thân có cha mẹ người bạn đời cùng che chở bao bọc là tứ thân phụ mẫu, luôn tôn trọng đạo làm người và giữ lòng nhân ái, ăn ở 16
  17. có nhân nghĩa trên kính dưới nhường, biết nơi trọng chỗ khinh, biết suy luận tính toán và giữ vững niềm tin nơi người. Áo ngũ thân đi đôi với quần hai ống và khăn đội đầu cũng là Quốc phục của phái nam. Các bà các cô dùng mầu sắc óng ả dịu mát trong khi đàn ông con trai chỉ dùng màu đen, trắng, hoặc lam thẫm. Thời đó, các bà các cô giới thượng lưu hoặc nhà giàu, có những cách phô trương áo quần như mặc áo mớ ba mớ bảy tức là nhiều lớp áo mặc chồng lên nhau, nhất là về mùa Ðông. Mùa hè, họ mặc áo the mỏng phủ ngoài áo dài trắng bên trong. Các kiểu trang sức thì đeo chuỗi hạt trai, hạt ngọc, hạt cườm, hoa tai, vòng, xuyến, nhẫn... Tóc vẫn còn để dài. Khi trẻ thì xõa rồi cặp rồi búi sau gáy hoặc vấn khăn nhung, trời lạnh thì trùm khăn nhung khăn nỉ. Từ đôi guốc gỗ thô sơ, các bà các cô có những đôi hài nhung thêu cườm hoặc chỉ ngũ sắc, hoặc những đôi dép da bóng. Tuy nhiên, quá trình chiếc áo dài chưa chịu ngưng ở kiểu áo ngũ thân. Nhật nhật tân, hựu nhật tân, nhất là trang phục. Sau Ðông phương, áo dài Việt Nam một lần nữa chịu ảnh hưởng Tây phương, bởi thời trang cũng đi liền với lịch sử. Nhưng cũng một lần nữa, tinh thần bất khuất của dân tộc Việt lại được biểu lộ qua chiếc áo dài. Áo Lemur ra đời vào năm 1930 lúc nhóm Tự Lực Văn Ðoàn cổ xúy cải cách xã hội, và được cổ động mạnh mẽ trên báo Phong Hóa, gây chấn động tại các đô thị, nhất là tại Hà Nội, n ơi từng được mệnh danh là đất ngàn năm văn vật. Áo Lemur cắt may hoàn toàn theo lối Tây phương nối vai ráp tay phồng, cổ bồng, cổ lá sen, cổ nhún tai bèo hoặc táo bạo hơn được khoét rộng để hở cổ. Vạt áo không nối sống nữa vì hàng vải mới sản xuất hoặc nhập cảng từ Pháp có khổ rộng hơn hàng nội hóa thời đó, nhưng vẫn giữ nguyên hai tà dài với gấu áo viền tròn nên tà áo không được mềm mại, được các cô tân thời dùng khăn ”san” bằng ”voan” mỏng quấn lơi quanh cổ để níu kéo nét dịu dàng yểu điệu. Áo mặc với quần dài trắng, chân mang giày cao gót, vai đeo bóp đầm, che dù tránh nắng. Phụ nữ thời đại cải cách này không nhuộm răng đen nữa mà để trắng, tóc vấn trần hoặc búi lỏng, rẽ ngôi lệch. Tại Sài Gòn vào năm 1934, trong truyện dài bằng thơ Lời Tâm Sự của Thuần Phong đăng trên tạp chí Cùng Bạn, cũng có một bài thơ giễu nhẹ các cô tân thời: Một yêu mặt trắng má tròn Bảy yêu vóc liễu dịu mềm Hai yêu môi mọng thoa son điểm hồng Tám yêu giọng nói vừa hiền vừa vui Ba yêu mắt sáng mày cong Chín yêu học thức hơn người Bốn yêu mái tóc nực nồng nước hoa Mười yêu, yêu cả đức tài hình dong! Năm yêu mảnh áo ngắn tà Sáu yêu quần trắng là đà gót sen Những hình ảnh lố lăng quá trớn của một số phụ nữ chạy đua theo thời trang và kiểu áo Lemur mới mẻ đã được Vũ Trọng Phụng mô tả tỉ mỉ trong tác phẩm trào lộng thời đại Số Ðỏ. Một số các bà thủ cựu đã không ngần ngại tẩy chay kiểu áo quá tân thời này, thậm chí có bà đã xé toang vạt áo Lemur khi gặp một cô ăn mặc táo bạo trên đường phố Hà Nội. Bốn năm sau khi áo Lemur xuất hiện và chết yểu, vào năm 1934, họa sĩ Lê Phổ đã cải tiến Lemur, loại bỏ những đường nét Tây phương táo bạo để dung hòa với kiểu áo ngũ thân cũ, 17
  18. không nối vai nối tay, không tay phồng cổ hở mà vẫn cổ kín vạt dài không viền tròn nhưng ôm sát thân người để hai tà áo mềm mại tự do bay lượn. Chiếc áo dài canh tân này được hoan nghênh nhiệt liệt trong Hội Chợ Nữ Công Ðà Nẵng năm 1934 với gian hàng phụ nữ có các bà các cô đứng bán mứt bánh và đồ thêu đan, đoan trang hiền thục dịu dàng với áo mầu quần trắng tóc búi lỏng hoặc vấn trần hay vấn khăn nhung. Tới đây, chiếc áo dài dung hòa được mới với cũ để tôn vinh những nét đẹp của người nữ và tìm được nhân dáng chính xác, để đứng vững từ đó cho đến bây giờ. Suốt cả ba thập niên sau đó, chiếc áo dài không có nhiều thay đổi lớn ngoại trừ cổ áo khi cao lúc thấp, khi vuông lúc tròn, khi kín lúc hở; chiều dài cũng lên xuống khi mini lúc maxi; gấu áo cũng khi lớn lúc nhỏ; vòng eo có khi rộng lúc thắt chặt. Chiếc quần cũng thay đổi từ kiểu cẳng què qua đáy giữa, lưng từ to bản luồn giải rút đổi sang lưng nhỏ luồn dây thun rồi đổi gài nút, và sau cùng là khóa kéo kiểu Tây phương; trong khi ống quần cũng theo thời khi chân voi lúc ống túm. Cho đến cuối thập niên 50, áo dài Việt Nam theo dòng lịch sử thay đổi từ chế độ Quân chủ sang chế độ Cộng Hòa với một nhân vật nữ: Bà Ngô Ðình Nhu nhũ danh Trần Lệ Xuân, phu nhân bào đệ cố Tổng Thống Ngô Ðình Diệm. Ngày 6 tháng 12 năm 1958, trong dịp khai mạc Triển Lãm Nữ Công tại Cô Nhi Viện Nữ Vương Hòa Bình ở Sài Gòn, bà Nhu xuất hiện với kiểu áo dài không cổ tay ngắn mang bao tay trắng, tóc bới cao. Một số các bà các cô trong Hội Phụ Nữ Liên Ðới vội vàng may mặc theo kiểu mới hở cổ: Cổ thuyền, cổ vuông, cổ tròn, cổ trái tim... Nhưng bà Nhu lộng quyền thao túng nền Ðệ Nhất Cộng Hòa và gây bất mãn khắp nơi. Nhiều vụ xuống đường, tuyệt thực, tự thiêu đã xẩy ra để bầy tỏ chống đối. Chiếc áo dài cũng tham gia cuộc chống đối nhưng thầm lặng hơn, với kiểu áo dài cổ cao tận cằm đối lập kiểu áo không cổ. Sau đó, áo không cổ của bà Nhu cũng theo bà qua Tây nấp trong bóng tối mà mai một. Ðầu thập niên 60, nhà may Dung Dakao ở Sài Gòn tung một kiểu mới: Áo dài tay Raglan mặc với quần xéo ống rộng. Kiểu áo cập nhật này giúp xóa bớt những đường nhăn hai bên nách và vai vì được ráp tay xéo vai, nên thân hình người nữ được ôm gọn trong hàng lụa một cách đầy thẩm mỹ. Thuở đó, giới nữ sinh thích mặc ngắn gọn nên có kiểu mini raglan tay ngắn vạt nhỏ và tà áo chỉ dài tới gối, trong khi các bà thích kiểu maxi raglan tha thướt nhu mì hơn. Chiếc quần xéo may bằng hàng mềm xếp xéo góc khi cắt, ôm sát hông nhưng hai ống lòa xòa mà mỗi bước đi thấp thoáng thấy mũi giầy ẩn hiện dưới sóng lụa. Nhiều người còn cầu kỳ hơn, may quần xéo bằng hàng mỏng hai lớp trông thật yểu điệu. Sau đó, một vài nhà may ở Sài Gòn tung kiểu áo ba tà gồm thân sau nguyên một vạt nhưng thân trước chia làm hai như kiểu áo tứ thân xưa, gài nút từ cổ xuống ngực rồi tới bụng thì để thả mặc với quần tây kiểu chân voi để cập nhật với thời trang Âu Mỹ đang có kiểu quần ”bell bottom”. Cuối thập niên 60, nhiều bà đưa ra một ”mốt” hay hay là mặc nguyên một bộ áo dài và quần mầu phấn tiên, may bằng tơ lụa nội hóa trông rất dịu dàng khả ái. Một số ca sĩ lên sân khấu lại mặc nguyên bộ mầu sắc đỏ chói hay xanh ngắt viền kim tuyến sặc sỡ. Từ kiểu Raglan có nhiều kiểu biến chế lạ mắt: Thân áo may bằng hàng dày, nhưng phía ngực và tay ráp bằng hàng ren hoặc hàng mỏng; hoặc thân áo khác mầu với hai tay, có khi là hai mầu tương phản như đen trắng, hoặc đậm nhạt, và có khi may bằng hàng rất mỏng nên phải 18
  19. dùng hai hoặc ba lớp, ý hẳn nhắc nhở đến ngày xưa các cụ mặc áo mớ ba mớ bảy để phô trương sự giàu có của mình. Nữ sinh Việt Nam trước 75 đến trường đều thường là ”áo trắng học trò”, nhưng thứ hai chào cờ phải mặc đồng phục: Áo trắng nữ sinh Ðồng Khánh Huế, áo lam Hà Nội, áo xanh da trời Trưng Vương, áo hồng Gia Long... những mầu áo thơ mộng đã một thời lên hương qua thơ nhạc. Một điều ghi nhận là sau khi không còn thể chế quân chủ, kể từ thời Ðệ nhất Cộng hòa (tháng 7 1954), hầu hết các cô dâu đều mặc quốc phục áo dài có khoác ngoài một áo thụng rộng may theo kiểu áo mệnh phụ hoặc áo hoàng hậu, và đội khăn vành xanh hoặc vàng. Ý hẳn đó là ngày nàng trở thành một bậc mệnh phụ và bước lên ngôi hoàng hậu trong cuộc đời của chàng vậy. Từ cuối thập niên 60, nhà may Thanh Khánh ở Dakao đưa ra những mẫu hàng thêu hoa lá cành để may áo dài, và tiệm Saigon Souvenirs khu Thương xá Tax Sài Gòn đưa ra những mẫu hàng vừa vẽ vừa thêu trên lụa rất quý phái lịch sự. Ba nhà may nổi tiếng tại Sài Gòn trước 75 là nhà may Thanh Khánh nay mở tại Paris, Pháp nhà may Dung Dakao và nhà may Thiết Lập Pasteur nay mở tại đường Brookhurst, Garden Grove, California, Hoa Kỳ. Như trên đã nói, chiếc áo dài Việt Nam có số phận gắn liền với lịch sử dân tộc. Khi Cộng sản xâm chiếm miền Nam vào cuối tháng Tư, 1975, chiếc áo dài cũng theo những bước chân di tản lưu vong ra ngoại quốc, trong khi chính sách đàn áp và nền kinh tế kiệt quệ trong nước đã đẩy lui chiếc áo dài vào bóng tối hoặc chôn kín trong đáy tủ và chỉ được đưa ra ánh sáng trong dịp cưới hỏi lễ lạc. Trên bước đường lưu vong, bất cứ ở Mỹ, Phi, Âu, hay Á, chiếc áo dài được nâng niu bảo trọng hơn bao giờ. Ở đâu có người Việt tỵ nạn là ở đó có áo dài, áo lụa, áo nhung, áo tơ, áo gấm, áo vải, áo thêu, áo vẽ... kể cá áo gấm lam, áo thụng khăn đóng của quý vị tu mi nam tử. Phẩm chất, mầu sắc cũng như những hình tượng trên áo được hòa hợp với trình độ thẩm mỹ khá cao. Trong số những nhà sáng chế kiểu áo, phải kể đến Thành Lễ Hoàng Ðình Tuyên ở Paris với những kiểu hoàn toàn mới lạ và táo bạo như áo dài hở ngực hở cổ, áo dài không có tay hoặc chỉ có một tay kiểu... độc thủ nữ hiệp, áo dài cũn cỡn ngắn trên đầu gối kiểu... lính thú đời xưa, áo dài năm lớp hàng mầu v.v... Ðặc biệt các kiểu áo dài mới của Thành Lễ đều mặc với quần cùng màu hoặc màu tương phản để tạo sự bắt mắt. Rất may, đa số các kiểu mới này đều còn giữ nguyên hai tà áo bất khuất bay lượn, nét đặc biệt của áo dài Việt Nam. Hiện nay phong trào áo vẽ và nhuộm mầu đang lấn át những mẫu áo thêu loan phượng giao long, cúc trúc lan mai và cảnh trí thời xưa, đồng thời với sự tái xuất kiểu áo Lemur tay phồng nối vai. Nhiều họa sĩ nổi danh tung ra vô số mẫu vẽ trên lụa: Thành Lễ Hoàng Ðình Tuyên, Thúy Uyển, Nhung ở Paris, Tiểu Linh, Frederic Thọ ở Cali, Anh Ðào, Kim Liệu ở Virginia... Người viết bài này vì yêu áo dài Việt Nam nên cũng mượn mầu sắc ghi lại những hình ảnh quê hương qua hoa lá cành mây nước trăng sao trên lụa, để mong phổ biến những vẻ đẹp của quê hương thể hiện qua tà áo, đóng góp phần nào vào việc gìn vàng giữ ngọc. Những chiếc áo dài Việt Nam dù với mầu sắc đậm chói hay dịu mát, may bằng hàng vải thô sơ hay tơ gấm lụa là, vạt áo có ngắn cũn hay dài thượt, thân áo có nhỏ hẹp hay rộng rãi, cổ áo có kín cổng cao tường hay hở hang lộ liễu... vẫn là một kết hợp của chân thiện mỹ. Áo dài Việt Nam không những nói lên nhân sinh quan Việt Nam mà còn gói trọn tinh thần Việt Nam: Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng chỉ tiếp nhận tinh hoa mà gạn lọc cặn bã, tô bồi 19
  20. thêm nét đẹp mà vẫn giữ cá tính độc lập. Áo dài Việt Nam là niềm kiêu hãnh của người Việt Nam. Chính vì vậy mà người Việt vẫn yêu quý tà áo Việt, nhất là thế hệ trẻ lưu vong trong sứ mạng gìn vàng giữ ngọc./. Áo tứ thân Một người phụ nữ Miền Bắc Việt Nam mặc áo tứ thân và đội nón quai thao; hình chụp đầu thế kỷ 19 Một cô gái trong trang phục áo tứ thân bên cạnh một cô gái trang phục hiện đại đội nón quai thao Áo tứ thân là một trang phục của phụ nữ Miền Bắc Việt Nam. Áo được sử dụng như trang phục hàng ngày đến đầu thế kỷ 20. Ngày nay, áo tứ thân chỉ được mặc trong các dịp lễ hội truyền thống. [sửa] Miêu tả Phần lưng áo gồm hai mảnh vải ghép lại, thường là màu nâu hoặc nâu non ghép với màu cùng gam; phía trước có hai thân tách rời, được buộc lại với nhau, thả trước bụng để tạo dáng người thon thả, phía trên không gài khít mà để lộ yếm màu bên trong; cổ áo viền 1 - 2 cm. Áo tứ thân dài gần chấm gót, tay áo bó chặt. Trên sân khấu truyền thống, áo tứ thân dùng cho các vai nữ nông thôn, thường may bằng vải màu sẫm có khuy tròn gài bên nách phải. Bài Chân quê của Nguyễn Bính tả hình ảnh truyền thống của người phụ nữ Việt Nam: Nào đâu cái yếm lụa sồi? Nào đâu cái áo tứ thân? Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen? xuân? YếmLịch sử Yếm xuất hiện từ bao giờ không ai rõ, chỉ biết rằng nó đã có mặt trong cuộc sống của người dân Việt từ rất xa xưa. Nó được mặc bởi phụ nữ Việt ở mọi tầng lớp giai cấp xã hội, từ các tôn nữ công chúa nơi thâm cung, các phu nhân tiểu thư của những gia đình quý tộc, đến những người phụ nữ bình dân tần tảo, vất vả sớm hôm để nuôi chồng, nuôi con. Một số nhà nghiên cứu cho rằng chiếc yếm được ra đời là để tôn lên cái lưng ong vốn được xem là một nét đẹp của người phụ nữ trong văn hóa Việt Nam. Theo quan niệm truyền thống của người Việt, một cô gái đẹp là phải có cái lưng được thắt đáy nhỏ nhắn như cái lưng ong. Người Việt xưa cho rằng những cô gái với cái lưng ong không chỉ mang một dáng hình đẹp mà còn có đầy đủ tất cả những đức hạnh của một người vợ, người mẹ. Chúng ta có câu ca dao: Đàn bà thắt đáy lưng ong 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2