intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Áp lực nội sọ trong thực hành lâm sàng

Chia sẻ: ViHera2711 ViHera2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:22

31
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tăng áp lực nội sọ (ALNS) là một biến chứng thần kinh thường gặp ở những bn (BN) nặng, Tăng ALNS có thể là biểu hiện của các rối loạn thần kinh hoặc không thuộc thần kinh. Tăng ALNS có thể là hậu quả của tổn thương chiếm chỗ nội sọ, rối loạn tuần hoàn dịch não tủy (DNT) hay trong các giai đoạn bệnh lí lan tỏa nội sọ. Tăng ALNS có thể là cấp tính hoặc mãn tính.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Áp lực nội sọ trong thực hành lâm sàng

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 3 * 2016 Tổng Quan<br /> <br /> <br /> ÁP LỰC NỘI SỌ TRONG THỰC HÀNH LÂM SÀNG<br /> Nguyễn Ngọc Anh*, Lê Hoàng Quân**<br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ Những khẳng định này được gọi là giả thuyết<br /> hay học thuyết Monro - Kellie. Tuy nhiên, cả hai<br /> Tăng áp lực nội sọ (ALNS) là một biến chứng đều thiếu một thành phần quan trọng: dịch não<br /> thần kinh thường gặp ở những bn (BN) nặng, tủy. Nhà giải phẫu học Vesalius đã mô tả não<br /> Tăng ALNS có thể là biểu hiện của các rối loạn thất chứa đầy dịch lỏng từ thế kỷ 16, mặc dù<br /> thần kinh hoặc không thuộc thần kinh. Tăng<br /> quan điểm này chưa bao giờ được chấp nhận<br /> ALNS có thể là hậu quả của tổn thương chiếm rộng rãi. Cho đến khi nhà sinh lí học người Pháp<br /> chỗ nội sọ, rối loạn tuần hoàn dịch não tủy Francois Magendie năm 1842 thực nghiệm trên<br /> (DNT) hay trong các giai đoạn bệnh lí lan tỏa nội động vật chọc dò và phân tích DNT thì quan<br /> sọ. Tăng ALNS có thể là cấp tính hoặc mãn tính. điểm dịch trong não được chấp nhận(5).<br /> Tăng ALNS là nguyên nhân gây tử vong phổ Chọc dò tủy sống được đưa vào thực hành<br /> biến nhất ở bn phẫu thuật thần kinh. Nhiều<br /> lâm sàng năm 1897 (Quincke) và sau đó áp lực<br /> nghiên cứu cho thấy tăng ALNS kéo dài luôn DNT cột sống đã được sử dụng để gián tiếp<br /> thường tiên lượng xấu . Điều trị hiệu quả tăng đo ALNS. Áp lực DNT được định nghĩa là áp<br /> ALNS đã chứng minh làm giảm tỷ lệ tử vong(3). lực cần thiết để ngăn chặn sự thoát chất lỏng<br /> Những tiến bộ kĩ thuật gần đây trong theo vào cây kim được đưa vào khoang dưới nhện<br /> dõi thần kinh và việc thành lập các đơn vị ICU ở thắt lưng(7).<br /> chuyên sâu thần kinh cho phép xác định bệnh<br /> Sharpe xuất bản một chuyên đề về chấn<br /> nhân tăng ALNS nhanh chóng và dễ dàng hơn,<br /> thương đầu năm 1920 và cho rằng chỉ định chính<br /> giúp khởi đầu điều trị sớm hơn ,từ đó cải thiện để phẫu thuật giải ép dưới thái dương là khi áp<br /> tỷ lệ biến chứng và tử vong của những bn này. lực DNT >15mmHg . Năm 1922 Jackson cũng<br /> Tuy nhiên, đo ALNS vẫn chưa có chỉ định rõ<br /> ủng hộ việc chọc dò tủy sống và đo áp lực trong<br /> ràng, phần lớn sử dụng trong theo dõi CTSN và chấn thương đầu, nhưng có nhiều bất đồng về vị<br /> ngoại suy từ CTSN cho các bệnh lí nội sọ khác(3). trí và nguy cơ của chọc dò tủy sống và độ tin cậy<br /> Tuy nhiên, cần phải đo ALNS trước khi của thủ thuật trong việc đo chính xác ALNS.<br /> có thể chẩn đoán tăng ALNS , sự hiểu biết về Hầu hết các tác giả đồng ý rằng khi áp lực vượt<br /> các nguyên lí của phương pháp đo ALNS là quá 20 mmHg chắc chắn là bất thường.<br /> điều kiện tiên quyết quan trọng để xác định Đo ALNS được thực hiện gián tiếp bằng đo<br /> các rối loạn chức năng não. Bài viết này trình áp lực DNT cột sống thắt lưng của Guillaume và<br /> bày về sinh lí bệnh của tăng ALNS và dữ liệu Janny là vào năm 1951 nhưng không gây được<br /> ủng hộ kiểm soát tăng ALNS dựa trên y học sự chú ý và chỉ công bố ở Pháp. Hai vấn đề chủ<br /> bằng chứng. yếu của chọc dò tủy sống trong chẩn đoán tăng<br /> TỔNG QUAN ALNS là gây nguy hiểm do chèn ép thân não<br /> qua lều hoặc thoát vị hạnh nhân tiểu não và<br /> Lịch sử phát triển<br /> quan điểm cho rằng áp lực DNT không phải lúc<br /> Nhà giải phẫu học Scotland Alexander<br /> nào cũng phản ánh chính xác ALNS. Năm 1964<br /> Monro là người đầu tiên mô tả ALNS năm 1783.<br /> Langfitt đã chứng minh sự thiếu tương quan<br /> Đồng nghiệp của Monro là George Kellie tán<br /> giữa ALNS và áp lực DNT cột sống trong điều<br /> thành quan sát của Monro sau đó vài năm dựa<br /> kiện ALNS cao(7).<br /> trên khám nghiệm tử thi người và động vật.<br /> <br /> * Bệnh viện ND 115 ** Bệnh Viện Quốc Tế CITY<br /> Tác giả liên lạc: BSCK2 Nguyễn Ngọc Anh ĐT:0913673757 Email: dranh957@yahoo.com.vn<br /> 61<br /> Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 3 * 2016<br /> <br /> Chọc dò não thất để giảm ALNS là một trong ép nhỏ lại được, nên thể tích máu, thể tích DNT<br /> những thủ thuật lâu đời nhất trong phẫu thuật và não trong hộp sọ ở bất kỳ thời điểm nào cũng<br /> thần kinh. Đo áp lực thường được thực hiện phải giữ tương đối hằng định. Sự gia tăng một<br /> trong quá trình làm thủ thuật này nhưng thời thành phần sẽ gây ra giảm 1 hoặc 2 thành phần<br /> gian đo kéo dài và phải thực hiện thường xuyên kia. Cụ thể hộp sọ là 1 khoang kín với 3 thành<br /> vì áp kế nước và thủy ngân cồng kềnh và có phần: não chiếm khoảng 80%, máu chiếm<br /> nguy cơ nhiễm trùng nội sọ. Sự phát triển của khoảng 12% và DNT khoảng 8% với tổng thể<br /> cảm biến biến đổi (strain gauge) cho phép đo tích khoảng 1600ml(5).<br /> ALNS trực tiếp thông qua một catheter não thất Khi ALNS tăng do bất kỳ nguyên nhân gì,<br /> và một cảm biến bên ngoài. Trong giai đoạn các mạch máu não sẽ bị chèn ép. Áp lực tĩnh<br /> 1950-1960 Janny và Lundberg là các phẫu thuật mạch nếu có bất kỳ thay đổi nào cũng sẽ nhanh<br /> viên thần kinh tiên phong phát triển kĩ thuật đo chóng gây thay đổi cùng hướng cho ALNS. Vì<br /> ALNS, kể từ đó kĩ thuật này đã được áp dụng thế, tăng áp lực tĩnh mạch sẽ gây giảm lưu lượng<br /> rộng rãi(1). máu não theo cả hai cách, vừa giảm trực tiếp áp<br /> Bước ngoặt quan trọng tiếp theo trong theo lực tưới máu hữu hiệu vừa tăng chèn ép mạch<br /> dõi ALNS là năm 1973 với sự ra đời của vít dưới máu não. Mối liên hệ này giúp bù trừ những<br /> nhện (Vries) dẫn đến sự phát triển của các thay đổi HA động mạch ở đầu do tư thế. Ví dụ,<br /> phương pháp theo dõi ALNS khác gồm catheter khi đứng thẳng (gia tốc trọng trường dương),<br /> dưới màng cứng (Wilkinson, 1977), ngoài màng máu chạy về hướng chân và HA động mạch ở<br /> cứng (Wald, 1977) và catheter sợi quang học. Từ đầu giảm. Tuy nhiên, áp lực tĩnh mạch cũng<br /> khi có sự phát triển của cảm biến áp lực (strain giảm và ALNS cũng giảm nên áp lực đè lên các<br /> gauge) thì theo dõi ALNS trong nhu mô não mạch máu cũng giảm và lưu lượng máu ít bị ảnh<br /> cũng được áp dụng (Guyot, 1998). Năm 1995 hưởng hơn. Ngược lại, khi đầu cúi hướng xuống,<br /> (cập nhật năm 2000) Hội chấn thương não Mỹ lực tác động lên đầu (gia tốc trọng trường âm)<br /> công bố hướng dẫn điều trị tăng ALNS đã làm làm tăng HA động mạch ở đầu, nhưng ALNS<br /> cho việc sử dụng theo dõi ALNS trở nên thường cũng tăng nên các mạch máu não được nâng đỡ<br /> quy hơn. ALNS có thể sử dụng để theo dõi, điều và không bị vỡ ra. Các mạch máu não cũng được<br /> trị và tiên lượng cho xuất huyết dưới bảo vệ theo cách tương tự trong những tình<br /> nhện(XHDN), dãn não thất, u não, nhồi máu, huống ho rặn khi đi tiêu hoặc rặn đẻ(3).<br /> Xuất huyết não(XHN) không do chấn thương, Nếu có sự phát triển của khối choán chỗ<br /> nhưng nhiều nhất là theo dõi ALNS trong chấn trong não, ban đầu sẽ có đáp ứng bù trừ bằng<br /> thương đầu(10). cách giảm thể tích của DNT và máu (chủ yếu từ<br /> Áp lực nội sọ các xoang tĩnh mạch) và đến khi cơ chế bù trừ<br /> Alexander Monro là người đầu tiên mô tả thất bại ALNS sẽ tăng. Cơ chế bù trừ giữa ALNS<br /> ALNS: (1) não được bọc trong một hộp sọ có cấu và thể tích này còn gọi là bù trừ dự trữ hay bù<br /> trúc cứng, (2) não không giãn nở, (3) thể tích trừ khoảng trống. Khoảng bù trừ này là 60-80ml<br /> máu trong khoang trong sọ là hằng định, (4) dẫn ở người trẻ và 100-140ml ở người già (chủ yếu<br /> lưu liên tục máu tĩnh mạch để nhường chỗ cho do teo não). Đường cong thể tích/áp lực được thể<br /> cung cấp máu động mạch. Từ học thuyết Monro hiện trong hình 1. Phần đầu tiên của đường cong<br /> – Kellie, Harvey Cushing (1926) phẫu thuật viên được đặc trưng bởi một sự gia tăng rất hạn chế<br /> thần kinh người Mỹ đã xây dựng học thuyết như áp lực do bù trừ dự trữ đủ lớn để chứa thêm thể<br /> chúng ta biết ngày nay, cụ thể là một hộp sọ tích. Với thể tích ngày càng tăng, bù trừ dự trữ<br /> nguyên vẹn, thể tích của não, máu và DNT là cuối cùng bị vượt quá gây ra sự tăng nhanh<br /> không đổi. Vì bản chất mô não và tủy là không chóng áp lực. Điểm giới hạn thường khoảng<br /> <br /> <br /> 62<br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 3 * 2016 Tổng Quan<br /> <br /> 20mmHg ở dân số chung (hình 1: đường không động mạch trung bình hệ thống (MAP) là yếu tố<br /> liên tục màu vàng)(2). quan trọng nhất trong duy trì áp lực tưới máu<br /> não. Bình thường áp lực tưới máu não (ALTMN)<br /> có thể ước lượng bằng công thức:<br /> ALTMN = MAP – ALNS với MAP = (2×HATTr<br /> + HATT)/3<br /> Ghi chú: MAP: huyết áp động mạch trung bình, ALTMN:<br /> áp lực tưới máu não, ALNS: áp lực nội sọ, HATT: huyết<br /> áp tâm thu, HATTr: huyết áp tâm trương<br /> <br /> ALTMN bình thường khoảng 70-90mmHg.<br /> Nếu 15 oxymetry), kĩ thuật vi thẩm tích (microdialysis),<br /> mmHg được xem là cao, trong khi CTSN ở bảo hòa oxy mô não (brain tissue oxymetry) và<br /> người lớn ngưỡng ALNS >20-25 mmHg sẽ ảnh chỉ số phản ứng áp lực (index of pressure<br /> hưởng tiêu cực đến kết quả. Trên 25 mmHg là reactivity). Nhưng cho đến nay, vẫn chưa có<br /> cần bắt đầu điều trị tích cực ở hầu hết các đơn vị bằng chứng của bất kì cách tiếp cận nào giúp cải<br /> ICU. Vẫn còn chưa thống nhất về ngưỡng ALNS thiện kết quả. Các nghiên cứu gần đây nhất cũng<br /> nguy hiểm ở trẻ em. Gần đây, người ta đề nghị cho thấy ALTMN cao không phù hợp và có liên<br /> rằng ALNS nên được điều trị nếu trên 15 mmHg quan đến kết quả xấu. Hiện nay vẫn chưa có<br /> ở trẻ sơ sinh, 18 mmHg ở trẻ em 40<br /> não (thể hiện dọc theo trục x) được chuyển đổi từ<br /> mmHg), AMP giảm và giá trị RAP rơi xuống<br /> đường cong thể tích-áp lực. Đường cong này có 3<br /> dưới 0, chỉ số này trở thành âm tính và tiến tới -1.<br /> vùng: vùng bằng phẳng thể hiện khả năng bù trừ dự<br /> Điều này xảy ra khi khả năng tự điều hòa của<br /> trữ tốt, vùng thuộc hàm số mũ thể hiện dự trữ bù trừ<br /> não bị mất và đường cong thể tích-áp lực bị bẻ<br /> kém và vùng bằng phẳng ở ALNS rất cao (trên mức<br /> cong về bên phải khi khả năng giãn mạch của hệ<br /> ALNS nguy hiểm) thể hiện rối loạn khả năng phản<br /> tiểu động mạch não đáp ứng với sự giảm<br /> ứng của mạch máu não bình thường (cerebrovascular<br /> ALTMN đã hết hoàn toàn, và chúng có xu<br /> responses). Biên độ xung của ALNS là thấp và không<br /> hướng sụp đổ một cách thụ động. Điều này cho<br /> phụ thuộc vào ALNS trung bình ở vùng đầu tiên.<br /> thấy sự rối loạn mạch máu não đoạn cuối<br /> Biên độ xung tăng tuyến tính với ALNS trung bình ở<br /> (terminal) với giảm truyền áp lực mạch từ<br /> vùng có dự trữ bù trừ kém. Ở vùng thứ ba, biên độ<br /> giường động mạch đến khoang nội sọ. Các<br /> xung bắt đầu giảm với gia tăng ALNS. Chỉ số RAP là<br /> nghiên cứu trước đó cho thấy chỉ số này chỉ ra sự<br /> chỉ số bù trừ dự trữ. “nguồn Balestreri M. và<br /> mất khả năng co giãn mạch tại đỉnh của sóng cao<br /> Czosnyka M., 2004, Acta Neurochir”<br /> nguyên và nó đã được chứng minh sự kết hợp<br /> của một ALNS cao (>20 mmHg) và một giá trị Phản ứng áp lực mạch máu não<br /> chỉ số (
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0