intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Phân bón và độ phì - Chương 8: Chất hữu cơ trong đất và phân bón hữu cơ

Chia sẻ: Vi Đinh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:33

162
lượt xem
46
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài giảng Phân bón và độ phì - Chương 8: Chất hữu cơ trong đất và phân bón hữu cơ trình bày nội dung về chất hữu cơ trong đất, phân hữu cơ. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Phân bón và độ phì - Chương 8: Chất hữu cơ trong đất và phân bón hữu cơ

  1. CHƯƠNG 8 CHẤT HỮU CƠ TRONG ĐẤT VÀ PHÂN BÓN HỮU CƠ BÀI 1: CHẤT HỮU CƠ TRONG ĐẤT I Chất hữu cơ trong đất  Chất hữu cơ  có  ảnh hưởng rất lớn đến cấu trúc đất do thực vật và động vật chứa chủ  yếu là C, H, O. Chất hữu cơ  phân hóa dưới tác dụng của vi sinh vật đất, dần dần biến thành   mùn. 1.1 Thành phần các chất hữu cơ trong đất Chất hữu cơ có 3 thành phần chính Hydrate carbon Các chất này dưới tác dụng của vi sinh vật trong đất phân hủy thành những chất đơn   giản hơn để cuối cùng cho ra H2O, CO2, CH4, . . . Hợp chất lignin   Khi cây bắt đầu sinh trưởng, màng tế bào làm bằng cellulose, hemicellulose. Khi cây lớn,  màng tế bào hình thành chất lignin làm cho cây cứng chắc hơn, rất khó bị phân hóa. Hợp chất chứa N   Các vi sinh vật, các amino acid, các hợp chất protein từ thực vật và động vật phân hủy. 1.2 Các hiện tượng mùn hóa và khoáng hóa 1.2.1 Hiện tượng mùn hóa Trong điều kiện  ẩm độ  cao, yếm khí chất hữu cơ  phân hủy biến thành mùn, bền, chịu   đựng được sự phân hóa của vi sinh vật, cuối cùng biến thành keo mùn. 1.2.2 Hiện tượng khoáng hóa Trong điều kiện thoáng khí, các chất hữu cơ  bị  phân hủy thành những chất đơn giản  ở  thể khí hay ở thể hòa tan: NH3, CO2, SO3, H2O, NH4+, NO3­, . . . Sự khoáng hóa trong đất thoáng khí có 2 giai đoạn : ­ Ammonium hóa. ­ Nitrat hóa: Oxid hóa amon thành NO2, NO3    Nếu đất bị ngập nước, điều kiện trở nên yếm khí, chỉ  có giai đoạn amon hóa xảy ra. Ở  đất phèn, pH thấp = 2 – 3, nước ngập lâu dài, hiện tượng mùn hóa và khoáng hóa không thể xảy   ra. 2 Chất hữu cơ trong đất 2.1 Sơ lược về chất hữu cơ trong đất Chỉ nghiên cứu các tính chất vi sinh vật học sẽ không đầy đủ nếu không chú ý chất hữu cơ  trong đất. Chúng ta biết rằng thành phần hữu cơ  có ảnh hưởng rất lớn đến cấu trúc của đất và sự  thoái hóa về mặt cấu trúc của đất do cường độ  canh tác cao có thể  luôn được giảm thiểu trong  các loại đất có hàm lượng chất hữu cơ cao. 1
  2. Khả năng hấp thụ và giữ  nước, khả  năng dự trữ  các nguyên tố  bases, khả  năng cung cấp  đạm (N), lân (P), lưu huỳnh (S), và nhiều nguyên tố  vi lượng, và các tính chất khác của đất tất   cả đều phụ thuộc vào thành phần chất hữu cơ trong đất. Theo Broadbent (1953), mặc dù hàm lượng chất hữu cơ trong các loại đất khoáng rất thấp   nhưng ảnh hưởng của chúng đến các tính chất hóa học, lý học của đất là vô cùng to lớn so với tỉ  lệ  trọng lượng của chúng có trong đất. Vì vậy, có nhiều nghiên cứu đã nhấn mạnh đến tầm   quan trọng của thành phần này đến sản xuất nông nghiệp. Chất hữu cơ trong đất bao gồm tất cả các sản phẩm hữu cơ ở các giai đoạn khác nhau, từ  thực vật chưa phân giải và các mô động vật cho đến các sản phẩm phân giải vô định hình bền   vững, màu nâu hay đen (mùn) không còn vết tích cấu trúc của các vật liệu hình thành nên chúng   (Russell, 1961), sản phẩm đó được gọi là mùn. Mùn không phải là một hợp chất đơn giản.  Thành phần của chúng phụ thuộc vào loại đất chúng được trích ra và phụ thuộc vào cả phương   pháp được sử dụng để trích. Nhưng sự  hiểu biết của chúng ta về  thành phần và động thái của chất hữu cơ  trong các   loại đất nhiệt đới còn rất nhiều hạn chế. Tổng hàm lượng cacbon hữu cơ  trong tầng đất mặt  thường chứa khoảng 15­25 % các chất không phải là hợp chất mùn, chúng là các cacbonhydrats,   các hợp chất đạm, lipids, và phần còn lại (75 – 85 %) là các hợp chất mùn. 2.2 Thành phần chất hữu cơ trong đất 2.2.1 Carbohydrates Tổng hàm lượng carbohydrates của chất hữu cơ  trong đất thay đổi từ  5 – 20 %. Thành  phần này bao gồm polysacchrides và các đường đơn như glucose, galactosoe, arabinose… 2.2.1 Đạm  Hàm lượng đạm của chất hữu cơ  trong đất biến thiên từ  3 – 6 %. Sự  thủy phân acid sẽ  giải phóng các amino acids, amino đường và ammonia. Có khoảng 20 amino acids đã được định  danh và 2 amino đường là glucosamine và galactosamine, được nhận biết là chiếm tỉ lệ cao trong   thành phần đạm của chất hữu cơ. Một nghiên cứu trên các loại đất khác nhau cho thấy có  khoảng hơn 1/2 đạm tồn tại dưới dạng nối của các amino acids và amino đường.  2.2.3 Lân (P)           Chất hữu cơ trong đất chứa nhiều dạng lân hữu cơ, khoảng 15 – 80 % tổng lượng P trong   đất.   Các   hợp   chất   lân   hữu   cơ   được   tìm   thấy   trong   chất   hữu   cơ   của   đất   bao   gồm   inosilo   hexaphosphate (đây là hợp chất chính), phospholipids và một số nucleotides. 2.2.5 Các thành phần khác  2
  3. Phần còn lại của chất hữu cơ trong đất được xác định dựa trên sự  hợp nhất của các vòng   polyphenol có thể chứa các quinines và có rất nhiều hợp chất N được cho là được liên kết trong   các hợp chất này. Các chất này phần lớn bắt nguồn từ các sản phẩm của quá trình trao đổi chất  của vi sinh vật (Kononova, 1966), nhưng chúng cũng có thể có nguồn gốc từ sự phân giải thành   phần lignin của thực vật. 2.3 Hợp chất mùn  Mùn là hợp chất được dùng để  chỉ  các vật liệu hữu cơ  được phân giải, mịn, có màu tối,  hợp chất này được hình thành do quá trình phân giải vi sinh vật xảy ra trong đất. Khi mùn được   trích bằng dung dịch base, các chất có màu tối sẽ hòa tan vào dung dịch. Các chất hòa tan này bao  gồm các humic acid (thành phần hòa tan trong base, nhưng không hòa tan trong acids) và fulvic   acids (phần tan trong acids). H O C N Hình 8.1 Cấu trúc một phân tử của humic acid Hợp chất mùn là chất chính gây nên  ảnh hưởng tốt đối với khả  năng sản xuất của đất.   Hàm lượng N, P và S của hợp chất mùn sẽ được phân giải bởi vi sinh vật và cung cấp dần dần   cho cây trồng (quá trình này khá chậm), và chúng chỉ cung cấp một phần chất dinh dưỡng khi ta  không sử dụng phân bón hóa học. Phân nửa các amino acids và polysacharides còn lại không thể  tách ra khỏi các hợp chất   thơm nên tính chất và thành phần cấu tạo của nhóm này chỉ  có thể  suy luận từ  sự  nghiên cứu   tổng thể  thành phần mùn. Nhưng thành phần thơm này là thành phần tạo cho chất hữu cơ  hay  mùn có màu sậm và có thể hình thành nên nhiều tính chất khác của chất hữu cơ. 3
  4. 2.3.1 Trích và phân lập các thành phần của mùn Hàm lượng chất hữu cơ có thể biến đổi từ 
  5. hình thành đất. Ví dụ, sự tích lũy chất hữu cơ trong tầng Spodic của đất Spodosols là do sự tích   lũy Al các phức chất Al và Fe với fulvic acids. Humic acid thể  hiện mức độ  mùn hóa cao, tính ngưng tụ  cao hơn fulvic acids trong đất,   chúng ít di động hơn, nhưng liên kết chặt hơn với các sét silicate có cấu trúc dạng lớp. Vì những  lý do này và do trọng lượng phân tử cao hơn, nên humic acid được xem là thành phần chính tạo   sự ổn định của các hạt kết của đất và thành phần ít nhạy cảm với sự phân giải của vi sinh vật. Việc xác định trọng lượng tương đối của humic acid và fulvic acid (tỉ lệ FA/HA) trong đất   được dùng để phân loại đất. Ngoài ra, chúng cũng có thể giúp ta xác định động thái của hợp chất  mùn trong đất. Có 1 một số nghiên cứu về vấn đề này trên các loại đất nhiệt đới cho thấy rằng   có sự tương quan giữa khí hậu và tỉ  lệ  của hai dạng acids này trong hợp chất mùn. Trong điều   kiện rửa trôi mạnh sẽ có khuynh hướng hình thành fulvic acid. Fulvic acid có thể  được tích lũy   trong điều kiện nhiệt đới gió mùa hơn là điều kiện khí hậu  ẩm. Spodosols và Oxisols có tỉ  lệ  FA/HA tối thiểu trong những mùa khô, tỉ  lệ này gia tăng trong mùa mưa, nhưng sau đó sẽ  thấp  trở lại khi đất bị ngập nước. pH và hàm lượng sét vô định hình (sesquioxides ­ các oxides Si, Fe,   Al­ của đất cũng góp phần vào làm tăng mức độ  polymer hóa các hợp chất mùn như  diễn biến   trong đất Andisols. 2.3.2 Đặc điểm của mùn Dựa trên các phương pháp phân tích hóa học, các gốc chức năng có chứa Oxygen của dịch   trích FA và HA từ  các loại đất được hình thành trong các điều kiện khác nhau được trình bày  trong bảng sau: Gốc chức năng Vùng ôn đới Vùng á nhiệt đới Vùng nhiệt đới HA FA HA FA HA FA Tổng độ chua 5,7 ­ 8,9 8,9 ­14,2 6,3 ­ 7,7 6,1 ­ 12,3 6,2 ­ 7,5 8,2 ­10,3 Carboxyl COOH 1,5 ­ 5,7 6,1 ­ 8,5 4,2 ­ 5,2 5,2 ­ 9,6 6,2 ­ 7,5 7,2 ­11,2 Phenolic – OH 3,2 ­ 5,7 2,8 ­ 5,7 2,1 ­ 2,5 1,2 ­ 2,7 2,3 ­ 3,0 0,3 ­ 2,5 Alcolholic – OH 2, 7­ 3,5 3,4 ­ 4,6 2,9 6,9 ­ 9,5 0,2 ­ 1,6 2,6 ­ 5,2 Carbonyl C = O 0,1 ­ 1,8 1,7 ­ 3,1 0,8 ­ 1,5 1,2 ­ 2,6 0,3 ­ 1,4 1,6 ­ 2,7 Methoxyl OCH3 0,4 0,3 ­ 0,4 0,3 ­ 0,5 0,8 ­ 0,9 0,6 ­ 0,8 0,9 ­ 1,2 Tổng độ  chua của hợp chất mùn thể hiện tổng lực phản  ứng của mùn. Tổng độ  chua bao  gồm chức năng mang tính acid như carboxyls (­COOH) và phenolic­OH. Các gốc chức năng khác  như  alcoholic­OH, carbonyl (=CO), và methoxyl (­OCH3), mặc dù không góp phần vào tổng độ  chua, nhưng chúng góp phần vào sự  hình thành các phức chất bằng cách tạo các nối giữa chất   hữu cơ với các nguyên tố cation kim loại và các khoáng silicates. 5
  6. Do các loại đất nhiệt đới thường có tính kiềm tương đối thấp (Oxisols và Ultisols), nên các  hợp chất mùn trong thành phần hữu cơ của đất là nguồn chủ yếu duy trì độ  phì nhiêu của đất.   Các biện pháp kỹ thuật quản lý đất phải là các biện pháp hướng trực tiếp đến hướng cải thiện  hàm lượng chất hữu cơ của đất. Chất hữu cơ  trong đất thực tế  không hòa tan được trong nước, mặc dù có một phần rất   nhỏ có thể tạo huyền phù trong nước nguyên chất. Chất hữu cơ có khả năng hòa tan mạnh trong   dung dịch kiềm loãng, và một phần có thể phân ly trong acid loãng. Một trong những tính chất quan trọng của chất hữu cơ là hàm lượng đạm chứa trong chất   hữu cơ, hàm lượng N này thường biến động từ 3 – 6 %, tuy nhiên hàm lượng N có thể thấp hay  cao hơn hàm lượng trung bình này. Nhưng hàm lượng carbon thì ít biến động hơn và thường  chiếm khoảng 58 %. Vì vậy, để tính toán hàm lượng hữu cơ trong đất, chúng ta có thể xác định   % carbon (C %), và hàm lượng chất hữu cơ  là %C*1,724. Tỉ  lệ  giữa C và N (C\N) trong đất   thường là 10­12. Tỉ lệ này thay đổi tùy thuộc và nguồn gốc của các thành phần hữu cơ, giai đoạn   phân giải của chất hữu cơ, tính chất và độ sâu của đất, và các điều kiện khí hậu và môi trường   khác nơi đất được hình thành. Chất hữu cơ của đất cũng là nơi dự trữ lân và lưu huỳnh hữu cơ. Cũng như  đạm hữu cơ,   lân và lưu huỳnh hữu cơ  sẽ  được giải phóng trong quá trình khoáng hóa chất hữu cơ. Cả  hai   chất lân và lưu huỳnh hữu cơ đều trải qua quá trình khoáng hóa và hấp thụ  sinh học tùy thuộc   vào điều kiện thời tiết và tỉ lệ tương đối của chúng với carbon cao hay thấp. Một tính chất quan trọng khác của chất hữu cơ là khả  năng trao đổi cation cao của chúng   (200 meq/100 g). Khả năng trao đổi cation thường có liên quan đến gốc chức năng như carboxyl  (­COOH) và phenolic­OH. Phản ứng trao đổi cation của mùn được trình bày như phương trình sau: R­C­OH + KCl  R­C­OK + HCl Phương trình cho thấy KCl hòa tan trong nước phản  ứng với các gốc chức carboxyl của   chất hữu cơ. Ion K trao đổi ion H với gốc carboxyl. Ion K hấp phụ với 1 lực đủ  mạnh để  làm   hạn chế sự mất ion này do quá trình rửa trôi trong đất, nhưng lực giữa ion K này vẫn còn đủ yếu  để rễ cây trồng có thể hấp thu trao đổi được. Chất hữu cơ trong đất có khả  năng hấp thụ một lượng nước rất lớn nên chúng có tính co  ngót và trương nở mạnh. Tuy nhiên, nếu chúng bị  mất nước hoàn toàn, thì lực hấp thu nước bị  giảm mạnh. Chất hữu cơ của đất còn là một yếu tố quan trọng trong việc hình thành các hạt kết   nên chúng sẽ  làm tăng tốc độ  thấm nước ban đầu của đất sẽ  giảm được nguy cơ  xói mòn của   đất. Ngoài ra hàm lượng các gốc chức năng cao sẽ tạo điều kiện dễ dàng cho sự hình thành các   6
  7. phức chất với các nguyên tố  dinh dưỡng vi lượng, làm cho các nguyên tố  này có thể  di chuyển   dễ  dàng trong suốt phẫu diện đất, nhất là khi chúng kết hợp chất mùn có trọng lượng phân tử  thấp và di động cao. 2.4 Sự hình thành chất hữu cơ trong đất Chất hữu cơ  trong đất là một hỗn hợp của rất nhiều hợp chất hữu cơ  khác nhau. Tuy  nhiên, hai loại hợp chất, hợp chất mùn và các hợp chất polysaccharides hình thành nên hơn 80 %  tổng chất hữu cơ trong đất. 2.4.1 Hợp chất mùn Hợp chất mùn trong chất hữu cơ  trong đất là một polymer của các đơn vị  phenolic phức   tạp được nối với các amino acids, peptides, amino đường, và các thành phần hữu cơ khác. Tham  gia vào quá trình mùn hóa có protein, lipid, lignin, tanan và các sản phẩm khác của quá trình phân  giải chất hữu cơ. Từ các vật liệu hữu cơ ban đầu được phân giải thành các sản phẩm trung gian  và các hợp chất trung gian này lại liên kết với nhau tạo thành những hợp chất phức tạp và các  hợp chất phức tạp này lại nối với nhau một lần nữa để tạo thành các đại phân tử lớn hơn và ổn   định hơn.   Sau khi được nối với nhau, các phân tử  phenolic nhạy cảm có thể  bị  oxi hóa trở  lại và   trải qua quá trình liên kết khác. Các phản  ứng polymer hóa cũng có thể  bao gồm sự  hình thành   nên  các gốc chức  năng cơ  bản. Các gốc phenolic   được  hình thành  thông qua  tác  động của   phenolases và peroxidases có thể  sẽ  được  ổn định thông qua các nối này. Các hợp chất mùn có   thể khác nhau rất lớn về thành phần cấu tạo liên quan đến các đơn vị cấu trúc hiện diện trong   một vi môi trường nhất định trong quá trình hình thành. Tuy nhiên, tất cả đều có những tính chất   chung như chúng có rất nhiều các gốc chức năng, chủ yếu là các gốc COOH, phenolic­OH. Một số vi sinh vật, nhất là nấm Streptomyces, tổng hợp các vật liệu có màu sậm tương tự  như  các hợp chất mùn. Chúng có thể  được hình thành trong môi trường nuôi cấy, trong tế  bào,  hay trong cả hai môi trường. Chúng là các polymer phenolic kết hợp với các peptides và các chất   khác như  althraquynones và cũng có thể  là các hợp chất napthelenic. Hàm lượng peptides hay  phenolic có thể thay đổi rất lớn phụ thuộc vào hàm lượng và loại nguồn đạm và các điều kiện   khác. Các polymer do nấm hình thành này có tính chất tương tự như humic acid trong đất về mặt   CEC, tổng độ chua, hàm lượng carbon các gốc phenolic. Các phenolic đơn trong đất không bị phân giải hoàn toàn như những chất hữu cơ dễ phân   giải: glucose, acetic acid, amino acid, proteins, và polysacchrides. Các phenolic có hoạt tính thấp,  7
  8. nếu các vòng thơm bị phá vỡ, thì carbon của phenol sẽ bị mất tương tự như sự mất carbon trên   các hợp chất dễ  dàng phân giải khác. Điều này cho thấy là một phần của vòng phenolic nằm  trong cấu trúc của mùn trong đất, được bảo vệ bởi sự hiện diện của mùn hay sét, hay sự liên kết   thành các polymer phenolic bởi một số loại vi sinh vật đất. Các nghiên cứu với các hợp chất hữu cơ  bằng C14 đánh dấu cho thấy rằng các chất mùn  mới, mặc dù tương đối bền đối với sự phân giải của vi sinh vật, vẫn tiếp tục phân giải với tốc   độ  cao hơn tốc độ  phân giải của mùn đã được hình thành lâu đời. Điều này có thể  là do một   phần các phân tử  mới nhạy cảm với sự phá vỡ  của vi sinh vật hơn. Các polymer có cùng dạng  humic acid do nấm tạo thành có thể bị phân giải 5 – 30 % trong thời gian 3 ­ 6 tháng. Mô phỏng các polymer phenolase được thực hiện với các hợp chất có chứa C 14 đánh dấu  cho thấy là các đơn vị  amino acid, peptides, amino  đường được liên kết với nhau thành các  polymer phân giải với tốc độ nhanh hơn các carbon trong vòng của các đơn vị phenolic, carboxyl,  các chuỗi nhánh, và các carbon của OCH3 của các đơn vị  phenolic dễ bị phá vỡ  hơn các C trong  phenolic vòng. Khi tăng lượng các gốc carboxyl trong các polymer phenolic có thể  làm giảm sự  hữu hiệu của các chuỗi nhánh, amino đường, các carbon của amino acid của các polymers đối  với các vi sinh vật. Theo thời gian, các carbon dễ hữu dụng sẽ được sử dụng và phần dư thừa sẽ  trở nên bền vững hơn đối với sự phân giải của vi sinh vật. 8
  9. Sự hình thành mùn Lignin và các hợp chất  Các dư thừa thực vật  polyphenolic khác hữu cơ thông thường Phân giải của các vi sinh  Phân giải của các vi sinh  vật vật Đường, acid hữu cơ và  Các đơn vị polypenolic nhỏ  các hợp chất hữu cơ khác hơn, phenol trung gian Sự oxy hóa các chuỗi nhánh Hydroxyl hóa vòng Tổng hợp của các vi sinh    Khử carbonyl vật Tổng hợp và chuyển hóa của vi sinh  vật Phân giải của các vi sinh vật CO2, H2O, NH3 Sinh khối vi sinh  Các hợp chất vô cơ  vật khác Khoáng hóa và tách vòng Mono, di, Giải phóng và tổng hợp  trihydroxyphenols, các polymer của vsv Benzoic acid …. Phản ứng oxy hóa, enzyme Các gốc phenolic và Hydroxybenzoquinones… Peptides, amino acid,  amino đường… Polymer hóa Polymer hóa Acid fulvic Phân giải  tổng hợp Acid humic 9
  10. 2.4.2 Polysaccharides Polysacchrides là thành phần cấu tạo hay là các sản phẩm trao đổi chất của các sinh vật   chủ yếu trong đất. Hầu hết polysaccharides của thực vật, động vật và vi sinh vật là các chất rất   dễ phân giải, nhưng cũng có một số ít khá bền với sự phân giải này, và có từ 10 – 30 % chất hữu   cơ  trong đất chứa polysaccharides, thành phần khá bền đối với sự  phân giải của vi sinh vật.  Phần lớn các polysacchrides của thực vật và các vi sinh vật có 12 đơn vị cấu trúc (hay cao hơn).  Tất cả  các phương pháp hiện đại dùng để  tách các phân tử  hữu cơ  trong tổng hợp mùn  được áp dụng đối với polysaccharide của đất, nhưng tất cả  các thành phần thu được chỉ  chứa   khoảng 10 đơn vị  cấu trúc. Do đó người ta kết luận rằng có thể  các quy trình sử  dụng tách   polysaccharides không đúng, nhưng cũng có thể  là thành phần polysaccharides được hình thành   trong trạng thái tương tự như humic acid. Các đơn vị polysaccharides của thực vật và vi sinh vật trong tất cả các giai đoạn phân giải  có thể tác dụng như là những khung hình thành nên những polymer riêng biệt đối với môi trường   đất. Các kết hợp của các chất tương đối bền vững thông qua sự hình thành các mối hay các phức  chất với các ion kim loại hay các sét có thể hình thành các thành phần polysaccharides bền vững   của chất hữu cơ trong đất. Polysaccharides với các đơn vị amino đường có thể  bền vững do sự  liên kết thông qua các gốc amino tự do với các phân tử humic acid. Các thành phần cấu tạo có dạng polysaccharides của màng tế bào vi sinh vật bao gồm rất  nhiều đơn vị  cấu trúc, bao gồm nhiều amino đường và amino acids. Một số  các chất này, hay   một phần của các phân tử phức tạp, sẽ trải qua quá trình liên kết với các polymer phenolic trong   đất thông qua các gốc amoni và vì vậy chúng trở nên bền vững hơn. 2.5 Vai trò chất hữu cơ trong đất 2.5.1 Cải thiện các tính chất vật lý đất Nếu các thành phần cấp hạt cát, thịt và sét của đất có tính phân tán cao làm cho nước  không thể xâm nhập vào đất và rễ cây trồng không thể xuyên phá lớp váng cứng vào trong đất,  thì năng suất cây trồng sẽ bị giảm nghiêm trọng, ngay cả khi các chất dinh dưỡng hiện diện đầy  đủ trong đất (Harric và cộng tác viên, 1966). Trên quan điểm vật lý học, một loại đất tốt là đất  trong đó có hạt đất nhỏ  được liên kết thành những hạt kết bền vững với tác động của nước.   Những loại đất không hình thành lớp váng cứng như thế, sẽ có tốc độ  thấm ban đầu rất nhanh   khi mưa hay sau khi tưới, làm giảm được sự xói mòn, đất có thể được canh tác dễ dàng hơn độ  1
  11. thoáng sẽ  tăng cao hơn, và sẽ  tăng cường được khả  năng hô hấp của rễ  cây và các hoạt động   của vi sinh vật trong đất (Russell, 1961) đã cho rằng trong một loại đất nông nghiệp tốt nhất trên  thế  giới thì các chất liên kết trong tự  nhiên phần lớn là các chất hữu cơ  và chúng được hình   thành trong quá trình phân giải vi sinh vật của các dư thừa hữu cơ trong đất.  Thông thường các dư thừa hữu cơ chứa một tỷ lệ tương đối cao các thành phần hữu dụng  có tác động tạo nối nhanh nhất và lớn nhất trong đất, nhưng  ảnh hưởng đến sự  hình thành các   hạt kết chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn nhất. Các vật liệu càng bền vững yêu cầu thời gian   càng lâu dài để hình thành các hạt kết, nhưng tác động đến việc hình thành hạt kết kéo dài theo   thời gian. Bón nhiều chất hữu cơ cho đất sẽ có hiệu quả hơn trong việc hình thành các hạt kết,   và sự  tạo hạt kết thường tăng nhanh trong trường hợp đất có hàm lượng hạt kết thấp. Sự sinh   trưởng của cây trồng, nhất là các đồng cỏ, có thể  làm tăng sự  hình thành hạt kết trong đất  (Jonsonton, 1942). Điều này có thể là do một khối lượng rễ cỏ rất lớn được để lại trong đất, các   vi sinh vật đất sẽ sử dụng, và cũng có thể do rễ cỏ phân bố khá đều trong toàn bộ thể tích đất. Sau khi bón các dư thừa hữu cơ vào trong đất, hay cày vùi các đồng cỏ, các hạt kết trong   đất sẽ giảm. Để duy trì cấu trúc đất tốt, cần thiết phải bón các dư thừa hữu cơ theo chu kỳ hay   luân canh cây trồng. Nhiệt độ  thấp sẽ  thích hợp cho việc kéo dài thời gian hình thành hạt kết,   trong khi nhiệt độ cao sẽ nhanh chóng làm hủy hoại các chất liên kết các hạt đất (Harros, 1966). Trong thời gian hoạt động của vi sinh vật xảy ra mạnh mẽ sau khi bón các dư thừa hữu cơ,   các tế bào và hệ sợi nấm có thể liên kết cơ học với các hạt đất với nhau (Aspiras, 1971), nhưng   các chất được tổng hợp bởi các sinh vật đất thường được xem là có tầm quan trọng hơn. Các   thành phần khác nhau của chất hữu cơ trong đất có liên quan chặt đến quá trình hình thành hạt   kết trong đất nhưng thành phần polysaccharide cũng có thể  có tầm quan trọng đặc biệt. Tác  động cement hóa cao của các keo polysaccharides do (i) chiều dài và cấu trúc thẳng của chúng  cho phép chúng tiếp xúc được với nhiều hạt đất, (ii) bản chất uyển chuyển cho phép chúng tiếp   xúc được với nhiều điểm trên bề mặt các hạt đất, (iii) với số lượng lớn các gốc OH, tạo được   nối hydrogen, và (iv) các gốc COOH cho phép tạo nối thông qua các cation. 2.5.2 Hàm lượng và sự phân bố chất hữu cơ trong đất Trong quá trình hình thành và phát triển đất, chất hữu cơ được tích lũy từ các dư thừa thực   vật sinh trưởng trên đất tại chỗ. Chất hữu cơ  trong đất được tích lũy liên tục cho đến khi đạt   được sự cân bằng giữa tốc độ tích lũy và tốc độ phân giải chất hữu cơ. 1
  12. Chất hữu cơ thường hiện diện với hàm lượng cao ở tầng đất mặt và giảm dần theo độ sâu  của đất. Sự  phân bố  chất hữu cơ  theo độ  sâu của đất luôn tương  ứng với hàm lượng N trong  đất. Thông thường, khi bón nhiều dư  thừa hữu cơ, hàm lượng chất hữu cơ  trong đất sẽ  tăng.   Do đó, chúng ta có thể hiểu được là đất trong các sa mạc sẽ chứa hàm lượng hữu cơ thấp. Khi   lượng mưa tăng, kèm theo sự gia tăng sản xuất chất khô của thực vật nên hàm lượng chất hữu   cơ trong đất sẽ gia tăng. Trong một phạm vi nhất định, nhiệt độ  bình quân hàng năm tăng có thể  làm giảm hàm   lượng chất hữu cơ trong đất. Một nguyên nhân chính là khi nhiệt độ tăng tốc độ hoạt động của   vi sinh vật và sự  phân giải chất hữu cơ sẽ tăng. Tuy nhiên, điều này không hoàn toàn đúng với   vùng nhiệt đới ẩm, trong những vùng này, hàm lượng chất hữu cơ trong đất đôi khi cao hơn so   với các loại đất vùng ôn đới. Điều này có thể do trong vùng nhiệt đới không có băng giá nên thích hợp cho sự phát triển   của thực vật, nên làm tăng hàm lượng chất hữu cơ  trong đất. Nhiều loại đất trong vùng nhiệt  đới có hàm lượng khoáng sét cao và chứa nhiều loại khoáng sét vô định hình (allophanes), khoáng   này tương tác với chất hữu cơ và bảo vệ chống lại sự phân giải chất hữu cơ. Trong cùng một điều kiện khí hậu, người ta nhận thấy đất đồng cỏ thường có hàm lượng   chất hữu cơ trong tầng đất mặt và các tầng đất sâu bên dưới cao hơn so với đất rừng. Điều này,  có thể  là do sự  khác nhau về  mặt sinh trưởng của thực vật và dư  thừa thực vật được vùi lại  trong đất. Rễ  của thực vật đồng cỏ  có chu kỳ  sinh trưởng ngắn, và hàng năm đều có sự  phân   giải các rễ  chết, góp phần vào hàm lượng chất hữu cơ được mùn hóa trong đất. Ngoài ra, hàm  lượng rễ cũng tăng dần theo độ  sâu của đất. Ngược lại, trong đất rừng, rễ  cây có chu kỳ  sống   lâu dài hơn và sự bổ sung các dư thừa hàng năm chủ yếu thông qua các lá rụng và phần gỗ chết   rơi trên tầng đất mặt. Các nghiên cứu cho thấy rằng trong mỗi hệ sinh thái, tổng hàm lượng chất hữu cơ tương  tự nhau, nhưng trong đất rừng phần lớn các chất hữu cơ được liên kết chặt trong phần cây sống  (đang sinh trưởng). Trong khi đó, đối với đất đồng cỏ  có đến 90 % chất hữu cơ  lại hiện diện   trong đất. Khi con người khai hoang trong rừng, họ đốt hay khai thác gỗ, họ lấy đi ½ chất hữu  cơ trong hệ sinh thái rừng. Nhưng khi cày vỡ đất đồng cỏ, toàn bộ  chất hữu cơ sẽ được bỏ  lại  trong đất, ngay cả  khi người ta đốt cỏ  làm đất. Những khác biệt về  hàm lượng và sự  phân bố  chất hữu cơ là một trong những lý giải tại sao năng suất cây trồng trên đất đồng cỏ cao hơn đất   phát triển trên thảm thực vật rừng. 1
  13. Hàm lượng chất hữu cơ có thể bị giảm do quá trình canh tác, nhưng nếu canh tác có sự bổ  sung liên tục các loại dư thừa hữu cơ có thể làm tăng hàm lượng chất hữu cơ trong đất. Ngay cả  khi đất không bị  xói mòn, nếu canh tác liên tục, hàm lượng chất hữu cơ  có thể  bị  mất nhanh   chóng. Người ta nhận thấy rằng tốc độ  mất chất hữu cơ của đất xảy ra rất nhanh khi đất mới   được khai phá đưa vào sản xuất nông nghiệp, sau đó tốc độ  mất giảm dần và hàm lượng chất   hữu cơ đạt tới mức cân bằng mới. Các loại đất vùng khô hạn chứa hàm lượng chất hữu cơ  rất thấp. Nhưng nếu vùng đất   khô hạn được canh tác và có tưới thì hàm lượng chất hữu cơ trong đất sẽ đạt mức cân bằng mới   cao hơn mức cân bằng trước đó. 2.5.3 Tính bền vững về mặt sinh học của các chất hữu cơ trong đất Khi chúng ta dùng thuật ngữ “tính bền vững sinh học”, không có nghĩa là chất hữu cơ của   đất hoàn toàn kháng lại sự phân giải bởi các vi sinh vật. Nghĩa của tính bền vững sinh học ở đây   là một khái niệm, trong đó chất hữu cơ tương đối ổn định đối với sự tấn công về mặt sinh hóa   bởi các tác nhân sinh học trong đất. Nguyên nhân tạo tính bền vững chất hữu cơ trong đất hay   mùn chưa được hiểu biết rõ ràng. Những nguyên nhân được nhận biết là: (a) tính bền vững của   một số thành phần hóa học của các dư thừa thực vật, động vật đối với sự  tấn công của vi sinh  vật; (b) tính bền vững về mặt sinh học của các hợp chất sinh học của các hợp chất mùn; (c) sự  bảo vệ  của chất hữu cơ chống lại sự tấn công sinh hóa thông qua sự  tương tác của chúng với   sét, và (d) các yếu tố sinh học và/ hay các môi trường sinh học nhất định hiện diện  ở các điểm   có sự tích lũy chất hữu cơ. Ngoài các yếu tố nhiệt độ và ẩm độ, yếu tố địa hình ảnh hưởng rất lớn đến hàm lượng  chất hữu cơ  trong đất. Chất hữu cơ  có xu hướng tích lũy nhiều trong đất ngập nước hay các   vùng đầm lầy so với các vị trí có khả năng tiêu nước tốt và chất hữu cơ được tích lũy trong đất   sét nhiều hơn so với đất cát. Tuy nhiên, trong đất ngập nước, hay đất than mùn, đầm lầy, xu   hướng tích lũy chất hữu cơ có thể chịu ảnh hưởng bởi (a) hàm lượng dư thừa thực vật sản xuất   hàng năm, (b) chất lượng hay bản chất hóa học các dư thừa thực vật, hay (c) tốc độ và thời gian   phân giải trong môi trường yếm khí. Các loại đất có sa cấu mịn thường sản xuất với khối lượng   thực vật cao hơn so với đất cát do độ  phì nhiêu thường cao hơn và các quan hệ  về  nước đất   trong môi trường này thích hợp hơn cho sự phát triển của thực vật. Ngoài ra, trong môi trường   này sự phân giải chất hữu cơ bị chậm hơn do tác động bảo vệ của các khoáng sét chiếm ưu thế  trong đất có sa cấu mịn so với đất có sa cấu thô. 1
  14. 2.5.4 Duy trì chất hữu cơ trong đất Vấn đề  chính mà nông dân ngày nay thường phải đối đầu đó là việc duy trì sự  cung cấp  đầy đủ  chất hữu cơ  cho đất. Kinh nghiệm cho thấy rằng rất khó làm tăng hàm lượng hữu cơ  trong đất. Thực tế, tốc độ  giảm hàm lượng chất hữu cơ  trong đất bị  mất do quá trình canh tác   thường rất chậm, thường từ  3 đến 5 % mỗi năm, trong khi đó các tính chất khác của đất  ảnh   hưởng đến năng suất cây trồng như  cấu trúc đất, bị  giảm với tốc độ  nhanh hơn rất nhiều. Vì   vậy, chỉ khi hàm lượng chất hữu cơ thấp hơn một ngưỡng nào đó thì đất sẽ không còn khả năng   sản xuất nữa. Nhiều loại đất canh tác cây trồng cạn của chúng ta có thể hàm lượng chất hữu cơ  gần đạt mức ngưỡng này nên cần thiết phải có các biện pháp ngăn chặn sự  mất chất hữu cơ  trên các loại đất này. Mặc dù có sự kiệt quệ chất hữu cơ nhanh chóng trong các loại đất ngay sau khi khai phá  để  sản xuất nông nghiệp trong các vùng khí hậu  ẩm, nhưng tốc độ  này thường không kéo dài  quá lâu. Trong quá trình canh tác lâu dài, chất hữu cơ trong đất sẽ đạt đến mức độ  ổn định. Mức   độ   ổn định này được quyết định bởi các điều kiện môi trường kết hợp với một loại đất nhất  định. Một lần nữa, khi hàm lượng chất hữu cơ giảm đến mức độ  thấp, muốn nâng hàm lượng   này lên mức độ  như  nguyên thủy, cần thiết phải thiết lập lại thảm thực vật nguyên thủy trên   đất này. Trong thời kì của mức độ cân bằng mới của chất hữu cơ trong đất phải đạt được mức   độ bằng với mức độ trước khi đất này được sử dụng cho sản xuất nông nghiệp. Khi đất được canh tác, chúng hoàn toàn có thể nhưng rất tốn kém để  duy trì hàm lượng   chất hữu cơ đạt đến mức độ như trạng thái nguyên thủy. Do đó, nếu duy trì hàm lượng chất hữu  cơ trong đất cao hơn mức độ  thích hợp cho năng suất cây trồng cao sẽ là biện pháp không kinh  tế. Vì vậy, nên chú ý đến chu kỳ bón chất hữu cơ cho đất, có thể  là bón thường xuyên các vật   liệu hữu cơ tươi, mỗi lần bón một lượng nhỏ, thay vì duy trì chất hữu cơ  trong đất bằng biện   pháp bón chất hữu cơ không theo chu kỳ với một khối lượng lớn trong một lần bón.  Do có nhiều  ảnh hưởng của chất hữu cơ  trong đất có liên quan đến các tính chất biến  động của chúng, nên có thể ta cần chú ý tập trung việc duy trì cung cấp đầy đủ các dư thừa hữu   cơ  dạng phân giải trong đất hơn là cố  gắng làm tăng hàm lượng các chất hữu cơ  đã phân giải  hoàn toàn (ổn định). Các biện pháp kỹ  thuật canh tác duy trì việc cung cấp các chất hữu cơ  thường có xu hướng duy trì hơn là hoàn thiện mức độ sản xuất cây trồng. 3 Sự cần thiết phải duy trì chất hữu cơ trong đất Ảnh hưởng của hệ thống cây trồng 1
  15. Hệ  thống cây trồng và tập quán canh tác  ảnh hưởng lớn đến sự  biến đổi chất hữu cơ  trong đất: ­ Canh tác du canh, du mục: Khai thác đất đai của đồng bào thiểu số: làm rẫy, chặt, đốt rừng và dùng tro có các chất   dinh dưỡng Ca, Mg, K và chất hữu cơ  có sẵn trong đất để  trồng trọt, đất rẫy trơ  ra ánh sáng,   chất mùn chịu tác dụng của nhiệt độ  cao và ẩm độ  lớn vào mùa mưa sẽ  biến đổi, khoáng hóa   nhanh chóng. ­ Canh tác định canh:             Trên đất cao thoáng khí vùng nhiệt đới, cây rừng có rễ ăn sâu, hấp thu nước và các chất   dinh dưỡng  ở  dưới sâu, cây quang hợp thành chất hữu cơ  như  cành, lá; khi rụng lại cung cấp   chất hữu cơ cho đất, dinh dưỡng trong đất sẽ được duy trì. ­ Hệ thống cây trồng: . Luân canh: cây trồng sử dụng chất dinh dưỡng hợp lý. Ảnh hưởng của việc bón phân vô cơ và hữu cơ: ­ Bón phân vô cơ   ở  dạng dễ  tiêu, dễ  hòa tan v.v . . . sẽ  phát sinh ra những sự  mất cân   bằng trong dinh dưỡng, các chất dinh dưỡng được bón vào đất sẽ  đẩy các ion hấp phụ trên bề  mặt keo đất ra dung dịch đất. ­ Bón phân hữu cơ, làm tăng độ hấp phụ  của đất. 1
  16. BÀI 2 : PHÂN HỮU CƠ I Phân chuồng 1 Vai trò của phân chuồng trong sản xuất nông nghiệp Phân chuồng là một khâu trong chu kỳ  luân chuyển chất dinh dưỡng, những chất dinh   dưỡng mà cây trồng lấy đi từ đất và từ các loại phân đã được bón vào đất, một phần lớn được  gia súc sử dụng và làm các nguyên liệu độn chuồng rồi từ  đấy trở  ra đồng ruộng theo phân gia   súc. Phân chuồng không những có tác dụng làm tăng năng suất cây trồng mà còn có khả  năng   tăng cường hiệu lực của phân hóa học. Phân chuồng tăng cường khả năng quang hợp (trong quá trình phân hủy chất hữu cơ thải  ra nhiều khí CO2).  Cung cấp một lượng lớn mùn và các chất dinh dưỡng vô cơ trong đất. 2 Đặc điểm  2.1 Ưu điểm     ­ Phân chuồng là một loại phân toàn diện, chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng đa lượng,   vi lượng, chậm tiêu và dễ tiêu. Vì phân chuồng là những chất mà cây hút từ đất lên thông qua sự tiêu hóa của gia súc lại   trở về bón cho đất nên chứa đủ những yếu tố mà cây cần dùng. Ngoài ra trong phân chuồng còn   chứa nhiều loại hợp chất có khả  năng tác động tích cực đến dinh dưỡng của cây và hoạt động   của vi sinh vật trong đất như auxin, vitamin C, B12… ­ Các chất dinh dưỡng trong phân chuồng thường  ở  dạng dễ  tiêu đồng thời cũng có   những chất dự trữ ở dạng khó tiêu nhưng dưới tác động phân giải của vi sinh vật sẽ khoáng hóa   dần cho cây sử  dụng. Do đó, bón phân chuồng với lượng phân dẫu có thừa đi cũng không đến   nỗi tác hại, không gây hiện tượng héo lá, sốt rễ hoặc đổ lốp như phân vô cơ. ­ Đất được bón phân chuồng độ  phì đất tăng lên, tăng độ  xốp, cải tạo chế  độ  nước và   không khí, dễ cày, tăng khả năng trao đổi cation, tỷ lệ keo đất tăng lên, tạo điều kiện cho đất có   thể chịu đựng được những lượng phân hóa học cao và ít bị rửa trôi chất dinh dưỡng. ­ Đối với những vùng lạnh, ít ánh sáng, bón phân chuồng nhờ  vi sinh vật hoạt  động  mạnh, có khả  năng tăng nhiệt độ, quá trình phân giải chất hữu cơ  trong đất sinh ra nhiều khí   CO2, tăng cường khả năng quang hợp. 2.2 Khuyết điểm ­ Phân chuồng  ẩm độ  cao 75 %, dinh dưỡng thấp, tốn công chuyên chở, bảo quản khó,   tác dụng chậm. ­ Thành phần phân chuồng không  ổn định tùy thuộc vào thức ăn, tuổi, sức khoẻ gia súc,   loại gia súc, kỹ thuật chế biến và bảo quản. ­ Phân chuồng là một nguồn ô nhiễm cho môi trường sống của người và gia súc (quá trình   phân giải trong điều kiện yếm khí sinh ra CH4, NH3 tạo mùi hôi). ­ Phân chuồng là môi trường tốt cho vi sinh vật hoạt động, quá trình này dễ mất N, hàm   lượng chất dinh dưỡng luôn thay đổi. 2.3 Thành phần phân chuồng Phân nguyên:  thực  vật chưa  phân giải:  cellulose,  hemicellulose,  lignin,  protein,   amino acid, và lipid. Nước phân: nước tiểu và nước rửa chuồng: ­ Đạm trong nước phân ở 3 dạng: ure, acid uric và acid hyppuric. ­ Acid hữu cơ: acid benzoic, acid propionic.. . . ­ Muối khoáng ở dạng carbonat, acetate, sulfat, phosphat, . . . 1
  17. ­ Chất kích thích thuộc dạng   ­ indolacetic có khả  năng kích thích rễ  cây phát  triển.  ­ Kháng sinh: penicillin, aureomycine, tetracillin, . . . ­ Vitamin: C, B12, . . . ­ Vi sinh vật. Rác độn Muốn tăng số  lượng và chất lượng phân chuồng và giữ  cho chuồng sạch cần thiết phải  độn chuồng. Chất độn chuồng hút đạm NH3 và nước tiểu, giảm tỷ lệ mất đạm. Muốn rác độn  hút nhiều nước, rác độn phải có những tiêu chuẩn sau : ­ Thật khô và băm nhỏ. ­ Có khả năng hút nước và giữ nước tốt. ­ Có khả năng hoai mục nhanh. ­ Có tỷ lệ dinh dưỡng cao. Bảng 8.1Thành phần hóa học và khả năng giữ nước của rác độn Nguyên liệu Giữ nước % N% P2O5% K2O% Rơm rạ 400 0,30 0,15 0,70 Mạc cưa 400 0,12 0,30 0,70 Trấu 155 0,45 0,25 0,45 Thân lá bắp 334 0,48 0,38 1,16 Thân lá cây  Đậu 445 1,50 0,35 0,50 Than bùn 400 2,00 0,10 0,10 Phân xanh 300 1,00 0,20 0,3 2.4 Hàm lượng dinh dưỡng trong phân chuồng Thành phần nguyên tố đa lượng Do loại phân thông qua biện pháp kỹ  thuật chế  biến khác nhau nên thành phần phân   chuồng cũng rất khác nhau nên thành phần của phân chuồng hình thành sẽ rất khác nhau. Thông thường 1 tấn phân chuồng có độn rơm rạ bình quân : ­ Chất hữu cơ 25 % và 75 % H2O,  4,5 kg N,  2,3 kg P2O5,  4,5 kg K2O Vì vậy nước phân chuồng là sản phẩm có giá trị, giàu N, K nhưng thiếu P. Bảng 8.2Thành phần nguyên tố đa lượng trong phân chuồng Loại gia súc H2O% N% P2O5% K2O% Ngựa 74 0,5 0,4 0,3 Bò 84 0,3 0,2 0,2 Heo 82 0,6 0,6 0,2 Gà 50 1,6 0,2 0,2  Thành phần nguyên tố vi lượng  Nguyên tố vi lượng trong phân chuồng thay đổi phụ thuộc vào thức ăn : B     = 5 – 7 ppm; Mn  = 30 – 75 ppm; Co   = 0,2 – 0,5 ppm; Cu   = 4 – 8 ppm; Zn   = 20 – 45 ppm; Mo  = 0,8 – 1,0 ppm. Trong quá trình bảo quản, vi sinh vật công phá những nguyên liệu này và giải phóng ra  những chất khoáng hòa tan, dễ tiêu cho cây trồng. Về  mặt hóa học, tất cả  những chất trong phân chuồng đều có thể  xếp vào 1 trong 2   nhóm chính: ­ Hợp chất có N  ở dạng hòa tan trong nước phân và không hòa tan trong phân nguyên và  chất độn chuồng. 1
  18. ­ Hợp chất không có đạm: hemicellulose, cellulose, lignin, lipid chiếm tỷ lệ cao nhất (60 –  70 % trong phân nguyên và 70 – 90 % trong chất độn). Tỷ lệ C/N có vai trò quyết định đối với quá trình phân giải và tốc độ phân giải. Tỷ lệ C/N thích hợp nhất trong phân chuồng vào khoảng 35 – 40, nếu cao hơn đống phân   tiến hành phân giải chậm và nếu thấp hơn thì quá trình phân giải kết thúc nhanh chóng. Phân   nguyên gia súc có tỷ lệ C/N từ 20 đến 25. Chất độn có tỷ lệ C/N cao: Bảng 8.3 Tỷ lệ C/N của một số nguyên liệu độn chuồng Tên nguyên liệu C% N% C / N Phân bò nguyên 6,5 0,31 21 Rơm rạ lúa nước 40,8 0,36 113 Lúa mì 40,0 0,33 124 Thân lá bắp 44,2 0,84 53 Cỏ họ đậu 26,6 1,37 19 Cỏ họ hòa thảo 40,2 0,64 62 Bèo hoa dâu 42,1 4,2 10 Thân lá muồng sợi 47,6 0,62 60 Thân lá quỳ dại 53,6 3,83 14 Mùn cưa 56,2 0,11 511 Bã mía 39,4 0,35 113 Vỏ đậu phộng 18,7 1,20 15 2.5 Ủ phân chuồng Trong khi  ủ  phân có rất nhiều vi sinh vật tiến hành công phá các chất cellulose,   glucose, protein, lipid có trong thành phần phân chuồng. Nội dung của quá trình phân giải gồm 2  sự kiện chủ yếu: sự phá vỡ các hợp chất hydratcarbon, chất béo và sự khoáng hóa các hợp chất  có N. Do sự phân giải này thành phần phân chuồng luôn luôn biến đổi, có nhiều loại khí H 2, CH4,  CO2, NH3 và hơi nước thoát ra làm cho đống phân chuồng càng ngày càng giảm khối lượng. Các giai đoạn biến đổi của quá trình ủ: 4 giai đoạn: Giai đoạn phân tươi: phân còn nguyên rác độn, nước phân có màu vàng. Giai đoạn phân hoại dang dở: phân và rác độn đã mềm, nước phân chuyển màu   vàng đen, nâu đậm, t0 trong đống phân cao, trọng lượng giảm còn 70 – 80 %. Giai đoạn phân hoại: vật liệu trong đống phân mất hình dáng cũ, màu đen, xốp,  nước phân trong, trọng lượng còn 50 %. Giai đoạn phân biến thành mùn: phân giống đất đen tơi xốp, trọng lượng còn 25  %. Các cách ủ phân: 3 cách: Ủ nóng =  ủ tơi = Phân đổ  thành từng đống tơi xốp, thoáng khí, giữ   ẩm 50 % ­ 60 %,  ở  ẩm độ này nhiệt độ lên cao 60 – 70 0C, phân mau hoai, diệt cỏ dại, mầm bệnh nhưng mất nhiều   N. Ủ nguội = ủ chặt = Phân nén chặt đảm bảo đống phân tiến hành ủ trong điều kiện yếm   khí, ở ẩm độ 50 % ­ 60 % nhiệt độ đống phân không lên cao quá 350C. Trong điều kiện này, CO2  thoát ra kìm hãm hoạt động của vi sinh vật, phân lâu hoai, không diệt được mầm bệnh và cỏ dại   nhưng ít mất N. 1
  19. Ủ hỗn hợp: ủ trước nóng sau nguội: đối với phân chuồng có nhiều rác độn, hạt cỏ  dại,  mầm bệnh cần  ủ tơi xốp 5 – 7 ngày để  nhiệt độ  lên cao 60 ­ 700C, phân mau phân hủy, sau đó  nén chặt lại, nhiệt độ hạ, hạn chế mất N. Thường để ủ phân người ta thường cho vào Super P để giữ NH3: Ca(H2PO4)2 + 4NH3 + H2O  2( NH4)2HPO4 + Ca(OH)2 Có thể dùng tro trấu vì có chứa SiO2 có khả năng giữ NH3 Không nên dùng tro bếp trong quá trình ủ phân: CaO, K2O  +  H2O    Ca(OH)2 , KOH là những chất kiềm mạnh. 2.5.1 Ủ phân chuồng nhân tạo  Qua 3 cách ủ căn bản trên, trong thực tế sản xuất, lượng phân chuồng không đủ đáp ứng  nhu cầu cho cây trồng, do đó, hiện nay người ta phải  ủ  phân chuồng nhân tạo, nếu  ủ  đúng kỹ  thuật có  thể  tăng  được  4 lần phân chuồng nguyên với chất lượng tương   đương. Người  ta   thường thêm: rơm rạ, than bùn hoặc các phế phẩm thực vật khác (thân lá cây đậu, cây bắp, bùn  đáy ao, cây phân xanh hoang dại, ...) với phân chuồng tươi để  cung cấp vi sinh vật, phân vô cơ  để tăng cường chất lượng phân. Nguyên liệu ­ Phân chuồng tươi: 25 % được coi như chất mồi cung cấp vi sinh vật giúp sự phân hủy chất hữu cơ tốt, giàu dinh dưỡng. ­ Rác độn: 73 % gồm dư thừa thực vật, phân xanh, bùn đáy ao, . . . ­ Vôi: 1,5 – 2 % để duy trì pH = 7. ­ Phân lân: 1 – 2 % super P hay 2 –3 % apatid, phosphorit để làm thức ăn cho vi sinh  vật và để giữ N. Ca(H2PO4)2    +   2NH3 NH4H2 PO4         +     CaHPO4 (NH4)2H PO4         +     CaHPO4 ­ Phân N : 0,5 – 1 % urea, SA nếu rác độn là rơm rạ để hạ tỷ số C/N, . . . Hố ủ  Tùy điều kiện địa hình nơi ủ phân, hố ủ sẽ được đào khác nhau :           ­ ­ ­ ­ ­ ­ ­ ­ ­ ­ ­ ­             ­ ­ ­ ­ ­ ­ ­ ­ ­ ­ ­ ­ ­ ­ ­ ­ ­ ­                                 ­ ­ ­ ­ ­ ­ ­ ­ ­ ­ ­ ­ ­                          Ủ chìm Ủ nổi Ủ trung gian Cách ủ  Sau khi đào hố   ủ, cho rác độn thành từng lớp dày 20 – 30 cm, nén chặt, tưới nước giữ  ẩm độ 50 – 60%, cho một lớp phân chuồng tươi, rắc vôi và phân vô cơ. Tiếp tục xếp thành từng   lớp tương tự như vậy cho đến khi đầy hố ủ. Tùy theo hố ủ lớn hay nhỏ, giữa hố phân người ta   chọc vào những cây tre đã thông các mắt và khoét nhiều lỗ nhỏ  với mục đích cho nhiệt kế vào   để biết nhiệt độ đống phân và cho nước vào giữ  ẩm độ. 1
  20. Sau 1 tháng ủ, đảo phân và nén chặt lại. Độ 2 tháng đến 2,5 tháng phân hoại có thể  đưa   ra bón. Trước khi bón 10 –15 ngày, có thể  kết hợp khi đảo phân nên rắc thêm phân 1 – 1,5%   P2O5. Sau khi ủ 1 tháng nếu nhiệt độ không lên được 60 – 700C có thể do các nguyên nhân:  . Phân chuồng quá hoai, lượng vi sinh vật trong phân không đủ để phân giải chất hữu cơ  trong phân. . Không đủ ẩm. . Môi trường chua vi sinh vật không hoạt động. Ủ phân chuồng để lấy khí đốt = phân khí biogas   Khi các nguyên liệu thực vật giàu cellulose như  phế  phẩm nông nghiệp, phân gia súc   được phân giải trong điều kiện yếm khí sẽ sinh ra CH4, H2, … Điều kiện  Ủ phân cần đáp ứng 4 điều kiện: Nhiệt độ cao và ổn định 320C. Môi trường phải hoàn toàn yếm khí, không có oxy lọt vào. Môi trường có đủ thức ăn khoáng cho vi sinh vật hoạt động. Môi trường trung hòa, hơi kiềm, không chua. Hầm phân  Hầm ủ phân gồm 2 bộ phận: ủ và chứa khí. Túi ủ phân chuồng để lấy khí đốt bằng nylon, kích thước như sau: Chiều dài: 10m (có thể dài hơn hoặc ngắn hơn tùy lượng phân). Chiều ngang: 2m. Chiều sâu: 0,8m. Lượng phân và nước rửa chuồng theo tỷ  lệ  1:1, cứ  50 kg phân  ủ  sau 7 đến 10 ngày thì   hỗn hợp này bắt đầu lên men và có khí thoát ra mỗi ngày cho từ 2,5 đến 2,8 m 3 khí đốt. Với phân  chuồng lỏng sau khi ủ rất giàu N vì không bị mất N, chất hữu cơ mất không đáng kể. Lổ thoát gas Đầu ra Gas ( 20 – 30%) Nước  +  phân  ( 70 – 80%)         Hồ lắng           Hồ chứa Đầu vào Túi ủ Hình 8.1 Sơ đồ hố ủ biogas 2.6 Sự phân giải của phân chuồng Trong khi ủ phân, có rất nhiều loại vi sinh vật tiến hành công phá cellulose, các hợp chất  đường, bột, các loại protid, lipid trong thành phần của phân chuồng. Vì vậy, trong quá trình  ủ  phân thành phần phân chuồng luôn luôn biến đổi, có nhiều loại khí và hơi nước thoát ra làm cho   khối lượng phân ngày càng giảm trọng lượng. 2.6.1 Chất đường bột Hydratcarbon CnH2nOn Monosaccharid (Đường đơn): chủ yếu gồm có pentose và hexose. 2
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2