intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Phương pháp nghiên cứu khoa học - Bài 12: Số đo hậu quả và số đo tác động

Chia sẻ: Nguyễn Bình Minh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:8

73
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài giảng "Phương pháp nghiên cứu khoa học - Bài 12: Số đo hậu quả và số đo tác động" cung cấp cho người học các kiến thức: Số đo sự kết hợp - số đo hậu quả, số đo tỉ số, số đo hiệu số, biện luận thêm về tỉ số nguy cơ và hiệu số nguy cơ, số đo tác động,... Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Phương pháp nghiên cứu khoa học - Bài 12: Số đo hậu quả và số đo tác động

  1. Số đo hậu quả và số đo tác động I. Nhắc lại về  số  đo sự  xuất hiện của bệnh: tỉ  suất, nguy cơ  và số   chênh Số mới mắc (incidence) là đo lường của sự xuất hiện của bệnh. Số mới mắc có thể  trình bày dưới dạng số  tuyệt đối hay số  tương đối. Những đo số  tương đối của sự  xuất hiện bệnh thường gặp là nguy cơ, tỉ suất mới mắc, hay số chênh. Nguy cơ  (risk) là xác suất xuất hiện bệnh trong một khoảng thời gian nhất định. Do  bản chất của nguy cơ là xác suất nên nguy cơ không có thứ nguyên và  0 
  2. III. Số đo tỉ số Số  đo tỉ  số  thông dụng nhất là tỉ  số  nguy cơ  (Risk ratio ­ RR). Tỉ số  nguy cơ là tỉ  số  của nguy cơ  trong nhóm phơi nhiễm (r1) trên nguy cơ  trong nhóm không phơi nhiễm  (r0). RR = r1 / r0 Tỉ  số nguy cơ còn được gọi là nguy cơ  tương đối (Relative risk ­ RR). Tỉ số nguy cơ  nói lên người bị phơi nhiễm có nguy cơ  bị mắc bệnh gấp bao nhiêu lần người không   bị phơi nhiễm. Thí dụ:  Bảng 1 trình bày một ví dụ  rút ra từ  nghiên cứu Framingham, trình bày số  mới mắc  bệnh mạch vành tim trong 6 năm theo dõi tùy theo nồng độ cholesterol huyết thanh ban  đầu trên nam giới tuổi từ 40­59. Nếu ta xem nhóm có cholesterol huyết thanh 
  3. tỉ số số hiện mắc (prevalence ratio).  Tỉ  số  tỉ  suất thường được dùng trong những nghiên cứu đoàn hệ. Ðối với bệnh tật   không quá phổ biến, tỉ số nguy cơ bằng với tỉ số tỉ suất về mặt con số, do đó, trong y  văn, người ta thường dùng lẫn lộn tỉ  số nguy cơ và tỉ  số  tỉ  suất. Khi bệnh tương đối  phổ  biến thì tỉ  số nguy cơ sẽ bị sai lệch tiến tới giá trị đơn vị  và người ta cho rằng tỉ  số tỉ suất là ước lượng tốt hơn cho độ mạnh của sự kết hợp. Thí dụ: Trong số liệu của nghiên cứu Framingham được trình bày trong bảng 1. Tỉ số  tỉ  suất mắc bệnh mạch vành tim trong nhóm cholesterol cao (cholesterol  ≥  245 mg%)  so với nhóm có cholesterol thấp (cholesterol  1 thì OR ( RR trong trường hợp bệnh hiếm và 1 
  4. sự  kết hợp đó có độ  lớn là bao nhiêu. Ðể  tính số  đo kết hợp, ta cần những tính toán   thêm như sau: Nguy cơ nhồi máu ở những người hút thuốc  (Risk1) = 400/4.000 = 0.1 Nguy cơ nhồi máu ở những người không hút  (Risk0) = 120/6.000 = 0.02 Nguy cơ tương đối (hay tỉ số nguy cơ) RR= Risk1/Risk0 =0.1/0.02=5 Ðó là những số đo sự kết hợp cổ điển trong nghiên cứu đoàn hệ. Dù vậy trong nghiên   cứu đoàn hệ cũng có thể dùng tỉ số số "chênh".  Số "Chênh" nhồi máu ở những người hút thuốc  (Odds1) = 0.10/(1­0.10) =400/(4.000­400) = 0.11 Số "Chênh" nhồi máu ở những người không hút  (Odds0) = 0.02/(1­0.02) =120/(6.000­120) = 0.02 Tỉ số số "Chênh" nhồi máu trong 2 nhóm tiếp xúc và không tiếp xúc OR= Odds1/Odds0 = (400/3600):120(5880)=(400*5880)/3600/120= 5.44 Ta thấy OR ≈  RR và OR hơi lớn hơn RR (trong trường hợp RR lớn hơn 1). Trong nghiên cứu bệnh chứng cũng có thể  tính được OR. Và nếu không có sai lêch   trong nghiên cứu thì OR tính được trong nghiên cứu bệnh chứng cũng bằng OR tính   được trong nghiên cứu đoàn hệ. Ví dụ minh họa cho điều này sẽ được trình bày trong   bài nghiên cứu bệnh chứng. IV. Số đo hiệu số Hiệu số  nguy cơ  (Risk difference) là hiệu số  của nguy cơ   ở  nhóm phơi nhiễm và  ở  nhóm không phơi nhiễm RD = r1 ­ r0 Hiệu số nguy cơ nói lên người bị phơi nhiễm phải gánh chịu một nguy cơ thặng dư là   bao nhiêu. Thí dụ: Nếu ta xét trở lại số liệu ở bảng 1 và tìm hiệu số nguy cơ ở nhóm phơi nhiễm (những   người có cholesterol ≥  245 mg%) và ở nhóm không phơi nhiễm (cholesterol 
  5. ARF= (r1­r0)/r1 = 1 ­ 1/RR Phân số nguy cơ  quy trách nói lên rằng việc phơi nhiễm chiếm bao nhiêu phần trong   nguy cơ của người bị phơi nhiễm. V. Biện luận thêm về tỉ số nguy cơ và hiệu số nguy cơ 1. Giả  sử  có một yếu tố  nguy cơ  là nguyên nhân của một bệnh tật nào đó (hay  bệnh tật là hậu quả của yếu tố nguy cơ). Khi đó, nếu có một quần thể bị phơi nhiễm   với yếu tố nguy cơ  và một quần thể không bị  phơi nhiễm thì  nguy cơ  (hoặc tỉ  suất  mới mắc)  ở  hai quần thể  sẽ  khác nhau. Hậu quả  của việc phơi nhiễm có thể  được   thấy bằng sự gia tăng nguy cơ (hoặc tỉ suất mới mắc) ở một quần thể khi so sánh với  quần thể khác. Hai nguy cơ (hoặc tỉ suất mới mắc) có thể được so sánh bằng cách tính   tỉ số  hay hiệu số của chúng. Tóm lại, tỉ  số nguy cơ hay hiệu số nguy cơ có thể  dùng   để  đánh giá độ  mạnh của sự  kết hợp giữa yếu tố  nguy cơ và sự  xuất hiện bệnh, và  đánh giá hậu quả của việc tiếp xúc với yếu tố nguy cơ. Tỉ số nguy cơ và hiệu số nguy   cơ là số đo sự  kết hợp hay số đo hậu quả. Nhưng nó không thể  dùng để  đánh giá sự  tác động của yếu tố  nguy cơ  lên dân số. Sự  tác động lên dân số  không những phụ  thuộc vào tỉ số nguy cơ mà còn phụ thuộc vào mức độ phổ biến của bệnh và mức độ  phổ biến của yếu tố nguy cơ 2. Nếu yếu tố nguy cơ là nguyên nhân của bệnh tật thì  tỉ số  nguy cơ và hiệu số  nguy cơ sẽ cho thấy sự kết hợp. Do đó tỉ số nguy cơ lớn hơn đơn vị (RR  ≥  1) là điều  kiện cần, nhưng chưa đủ để chứng minh mối quan hệ nhân quả. 3. Chọn lựa giữa tỉ số  hay hiệu số phụ thuộc vào hiểu biết của chúng ta vào cơ  chế làm tăng tỉ suất mới mắc của yếu tố nguy cơ: nếu chúng ta nghĩ  yếu tố nguy cơ  làm nhân lên tỉ suất mới mắc thì tỉ  số là đo lường tốt nhất (những yếu tố nguy cơ có   tác dụng gây bệnh phối hợp ­ Synergic), nếu chúng ta nghĩ rằng yếu tố  nguy cơ  làm  cộng thêm tỉ suất mới mắc thì hiệu số là số đo lường tốt nhất (những yếu tố nguy cơ  có tác dụng gây bệnh cộng ­ Additive).  Thí dụ: Xét việc truyền máu và vết lở  ở cơ quan sinh dục với tư cách là yếu tố  nguy   cơ của nhiễm HIV. Bởi vì truyền máu là nguy cơ cộng thêm và sự  hiện diện của vết   lở   ở  cơ  quan sinh dục là nguy cơ  phối hợp nên người ta cho rằng nên dùng hiệu số  nguy cơ  để  đánh giá hậu của dùng bao cao su và tỉ  số  nguy cơ  để  đánh giá hậu quả  của dùng bao cao su. 4. Trên đây, ta đã trình bày thí dụ về bệnh mạch vành tim là hiện tượng sức khỏe   có sự phân biệt rạch ròi giữa bệnh và không bệnh (nói cách khác, bệnh mạch vành tim   được xem là biến nhị phân ­ rời rạc) và ta có thể dùng tỉ số nguy cơ (RR) hay hiệu số  nguy cơ (RD) để  đánh giá sự  kết hợp. Dù vậy nếu hiện tượng sức khỏe là biến liên   tục (thí dụ  như  tình trạng dinh dưỡng của trẻ  hoặc huyết áp tâm thu) ta không nên   dùng RR hay RD mà nên dùng hệ số hồi quy để đánh giá sự kết hợp. 5. Trong trường hợp có nhiều mức độ   phơi nhiễm, như  trong thí dụ  trình bày ở  bảng 1.Ta phải chọn một mức phơi nhiễm (thí dụ  như  cholesterol 
  6. cholesterol từ  210 đên 245 mg%  là 0,0637 / 0,0352 = 1,8. Tỉ  số  nguy cơ   ở  người có   cholesterol ≥  245 mg% là 0,1203 / 0,0352 = 3,4. 6. Nhóm được chọn làm nền tảng thường là nhóm có nguy cơ  thấp nhất. Khi có  nhiều mức độ phơi nhiễm, người ta có thể  chọn nhóm đông nhất làm nhóm nền tảng  để làm tăng tính chính xác của ước lượng. 7. Khi cả  hai nhóm phơi nhiễm và không phơi nhiễm   có thể  được chia thành   những tầng (strata)  theo một biến số khác ­thí dụ như tuổi ­ ta có thể  tính tỉ  số nguy   cơ đặc hiệu theo tầng (stratum  specific ratio) bằng cách xem xét nguy cơ ở từng tầng   riêng biệt. Thí dụ: Bảng 3 trỉnh bày tỉ suất chết do bệnh mạch vành tim ở những người hút thuốc  và không hút thuốc theo nhóm tuổi. Ở nhóm tuổi 35­44, người hút thuốc có nguy cơ bị  chết do bệnh mạch vành tim cao gấp 5 lần người không hút thuốc, trong khi  ở nhóm  tuổi  từ 55­64 nguy cơ tương đối chỉ khoảng 1,5 lần. Table 3 Tỉ suất chết do bệnh mạch vành tim ở những người hút thuốc và không hút  thuốc theo nhóm tuổi Tuổi Tỉ suất ở người  Tỉ suất ở người  Tỉ số tỉ suất hút thuốc không hút thuốc 35­44 0,61 0,11 5.5 45­54 2,40 1.12 2,1 55­64 7,20 4,9 1,5 65­74 14,69 10,83 1,4 75­84 19,18 21,20 0,9 85 + 39,52 35,93 1,1 Tính chung 4,29 3,30 1,3 8. Có thể  tính tỉ  số  tỉ  suất tóm tắt (summary rate ratio). Có thể  tính tỉ  số  tỉ  suất  tóm tắt bằng cách lấy trung bình cộng những tỉ số tỉ  suất đặc hiệu theo tầng. Nhưng   người ta thường gán trọng số  (weight) cho tỉ số tỉ suất đặc hiệu. Có nhiều cách gán   trọng số, hai cách phổ  biến là nguy cơ  tương đối tóm tắt của Mantel­Hanenszel và tỉ  số tử vong chuẩn hóa (Standardized mortality ratio ­ SMR). 9. Hiệu lực vaccin (vaccine efficacy ­ VE) là tỉ  lệ số mới mắc được giảm bớt do   việc chủng ngừa vaccin. Nếu xem nhóm không tiêm chủng vaccin là nhóm không phơi   nhiễm có tỉ suất mới mắc là r0 và nhóm có tiêm chủng có tỉ suất mắc bệnh r1, thì  VE = 1 ­ RR = 1 ­ (r1 / r0) Nếu ta có tỉ  lệ  chủng ngừa trong dân số  P N và tỉ  lệ  chủng ngừa trong những trường   hợp bệnh PC ta có thể ước tính hiệu lực vaccin theo công thức sau: VE = (PN ­ PC) / [PN (1­PC)] Thí dụ: Chương trình tiêm chủng mở rộng được thực hiện ở Huyện A và người ta báo 
  7. cáo rằng 90% đứa trẻ  dưới 3 tuổi đã được tiêm chủng phòng sởi (P N = 0,9).  Ở bệnh  viện người ta thấy rằng 70% đứa trẻ bị sởi dưới 3 tuổi đã được chủng ngừa sởi (PC =  0,7). VE được ước tính sẽ là 74%. VI. Số đo tác động Một số yếu tố nguy cơ có nguy cơ tương đối cao chưa hẳn có tác động quan trọng lên   sức khỏe của cộng đồng. Thí dụ, tình trạng vô toan  ở  dạ  dày là một yếu tố  nguy cơ  của bệnh dịch tả (RR từ 10 đến 20) tuy vậy, tình trạng vô toan ở dạ dày chỉ góp phần  rất nhỏ  trong những case bệnh dịch tả   ở  cộng đồng. Thực vậy,  ở  bệnh viện truyền   nhiễm chúng ta rất hiếm khi (có thể  nói là không bao giờ) gặp được một bệnh nhân   dịch tả  do tình trạng vô toan mà chúng ta thường gặp bệnh nhân bị  bệnh dịch tả  do  không có nguồn nước sạch. Vì vậy người làm y tế công cộng không quan tâm lắm đến   tình trạng vô toan dạ dày như là một yếu tố nguy cơ của bệnh dịch tả, bởi vì việc loại   bỏ hoàn toàn yếu tố nguy cơ này chỉ có thể giảm một phần rất nhỏ số case bệnh dịch   tả. Ta nói yếu tố nguy cơ này có tác động nhỏ  lên bệnh trạng của dịch tả. Ðể  lượng   hóa tác động của yếu tố nguy cơ ta sử dụng nguy cơ quy trách dân số và phân số nguy  cơ quy trách dân số. Hiệu số  nguy cơ  dân số  (Population Risk Difference ­ PRD) là hiệu số  giữa nguy cơ  (hay tỉ suất) của toàn bộ dân số r và nguy cơ (hay tỉ suất) của nhóm không phơi nhiễm   (r0).  PRD  = r ­ r0 Nếu ta kí hiệu p là tỉ lệ trong dân số bị phơi nhiễm thì  r = pr1 + (1 ­ p)r0 Do đó PRD = pr1 + (1 ­ p)r0  ­ r0  = pr1 + r0 ­ pr0 ­ r0 = pr1 ­ pr0 = p(r1 ­ r0) Nguy cơ quy trách dân số nói lên nguy cơ thặng dư gây nên do sự hiện diện của yếu  tố  nguy cơ  trong dân số. Nguy cơ  quy trách dân số  là tích số  của tỉ  lệ  dân số  bị  phơi   nhiễm và hiệu số nguy cơ. Tình trạng vô toan dạ dày có nguy cơ quy trách dân số thấp   bởi vì tỉ lệ dân số bị phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ đó (tỉ lệ dân số bị vô toan dạ dày)  thấp. Phân số nguy cơ quy trách dân số (Population Attributable Risk Fraction ­ PAF): là tỉ lệ  của những trường hợp bị bệnh trong toàn thể dân số nghiên cứu có thể quy kết cho sự  phơi nhiễm (với giả định là sự kết hợp nhân quả). Phân số  nguy cơ  quy trách dân số  còn được gọi là phân số căn nguyên (etiological fraction ­ EF), phần trăm nguy cơ quy  trách   dân   số   (percentage   population   attributable   fraction)   hay   phân   số   quy   trách  (attributable fraction ­ AF) PAF  = PRD / r = p (r1 ­ r0)/ [pr1 + (1 ­ p)r0] = p(RR ­ 1)/[pRR + 1 ­ p] = p(RR ­ 1)/[p(RR ­ 1) + 1] Thí dụ: 1. Giả sử phân số nguy cơ quy trách dân số (PAF) tương ứng giữa hút thuốc lá và  tử  vong do ung thư phổi là 0,80. Kết quả  này có nghĩa là 80% những tử  vong do ung   thư  phổi là do hút thuốc lá. Hơn nữa, ta có thể  tiên đoán nếu hút thuốc lá bị  loại bỏ 
  8. hoàn toàn, tỉ suất tử vong do ung thư phổi sẽ giảm đi 80% 2. Xem lại số  liệu được trình bày trong bảng 2. Ta tính được những số  đo tác   động như sau: Nguy cơ nhồi máu trong dân số    Risk =520 / 10.000 = 0.052 Hiệu số nguy cơ dân số PRD = 0.052­0.02 = 0.032  = Risk0 ×  p ×  (RR­1) = 0.02 x 0.4 x (5­1) = 0.032 Phân số nguy cơ quy trách dân số PAF = 0.032/0.052 = 0.62 = 62% 3. Ðối với bệnh hiếm, ta có thể tính được PAF dựa trên kết quả  của một nghiên   cứu bệnh chứng (lưu ý rằng đối với bệnh hiếm OR là  ước lượng khá tốt cho RR).  Dựa vào kết quả được trình bày trong bảng 4, ta có thể tính được: RR ≈  OR = 40 ×  320 / (80 ×  60) = 2,67 Tỉ lệ phơi nhiễm trong dân số = tỉ lệ phơi nhiễm trong nhóm chứng = 80/400 = 0,2 PAF = 0,2 ×  (2,67 ­ 1)/[0,2 (2,67 ­1) + 1] = 0,25 Table 4. Số các đối tượng chia theo tình trạng phơi nhiễm và tình trạng bệnh trong một   nghiên cứu bệnh chứng (Số liệu giả lập) Phơi  Không phơi  Tổng số nhiễm nhiễm Bệnh 40 60 100 Chứng 80 320 400 Tổng  120 380 500 số VII. Bàn luận thêm về phân số nguy cơ quy trách dân số 1. Việc sử dụng phân số nguy cơ quy trách đòi hỏi một số những giả định: (1)  sự  kết hợp giữa yếu tố nguy cơ và bệnh tật là nhân quả (2) RR và p được đo lường chính   xác (3) việc loại bỏ  nguy cơ loại bỏ  hoàn toàn nguy cơ  do nó gây ra (điều này chưa   chắn đúng bởi vì người bỏ  thuốc lá sẽ  không thể  có nguy cơ  bị  ung thư  phổi bằng   người chưa từng hút thuốc lá) và (4) có thể loại bỏ hoàn toàn yếu tố nguy cơ. 2. Công thức tính toán này chỉ đúng khi áp dụng cho một yếu tố nguy cơ duy nhất   và những yếu tố  nguy cơ  không tương tác với nhau. Nếu áp dụng cho nhiều yếu tố  nguy cơ có thể xảy ra trường hợp tổng số những phân số nguy cơ quy trách dân số lớn   hơn 100%.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2