Đề bài: Bài thơ Việt Bắc là bức tranh hùng tráng, tràn đầy khí thế chiến thắng của <br />
quân dân ta. Phân tích đoạn thơ trong bài Việt Bắc của Tố Hữu để làm sáng tỏ: <br />
"Những đường Việt Bắc của ta,… Đèn pha bật sáng như ngày mai lên"<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Bức tranh "Việt Bắc ra quân" đã được Tố Hữu miêu tả thật là hoành tráng, với hào khí <br />
ngất trời của những con người mới xuất quân mà như đã cầm chắc chiến thắng trong tay.<br />
<br />
Hai câu đầu là nét tả khái quát. Tác giả tả con đường ra trận nhưng là để nói lên khí thế <br />
dũng mãnh của những người ra trận.<br />
<br />
Những đường Việt Bắc của ta<br />
<br />
Đêm đêm rầm rập như là đất rung<br />
<br />
Tưởng như mặt đất cũng đang chuyển động dưới bàn chân những người chiến sĩ trong <br />
mọi cuộc ra quân vĩ đại từ khắp các ngả đường của căn cứ địa cách mạng.<br />
<br />
Hai câu 3, 4 là hình ảnh "quân đi" rất đẹp. Đẹp trong đội ngũ "điệp điệp trùng trùng" như <br />
một sức mạnh vô tận. đẹp trong "ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan" gợi nhớ hình ảnh <br />
"đầu súng trăng treo" trong thơ Chính Hữu. Cái ánh sao ở đây vừa như gần gũi thân quen <br />
với mũ nan của anh, lại như rực sáng lý tưởng trên đầu mũi súng người lính. Một hình <br />
ảnh thơ vừa hiện thực, vừa lãng mạn, gợi nhiều liên tưởng đẹp về anh bộ đội cụ Hồ.<br />
<br />
Hai câu 5, 6 là hình ảnh những đoàn dân công phục vụ tiền tuyến:<br />
<br />
Dân công đỏ đuốc từng đoàn<br />
<br />
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.<br />
<br />
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ban ngày là của địch nhưng ban đêm là của ta. Hình <br />
ảnh những đoàn dân công đỏ đuốc đi trong đêm là đúng với hiện thực. Nhưng với ánh <br />
đuốc đỏ rực ấy cùng với "muôn tàn lửa hay" thì lại lãng mạn biết bao. Có khác gì một hội <br />
hoa đăng! Còn "bước chân nát đá" là bước chân của những con người đạp bằng mọi <br />
chông gai để đi tới. Lấy ý từ câu ca dao "trông cho chân cứng đá mềm", Tố Hữu đã sáng <br />
tạo nên một hình ảnh thơ vừa quen thuộc vừa mới lạ để ngợi ca sức mạnh của những con <br />
người chiến thắng.<br />
<br />
Hai câu cuối là hình ảnh những đoàn xe ra trận mà đèn pha bật sáng quét sạch màn sương <br />
đêm dày thăm thẳm của núi rừng Việt Bắc. Rất hiện thực mà cũng rất lãng mạn. Đằng <br />
sau cái nghĩa thực, câu thơ còn mang nghĩa bóng nghĩa tượng trưng trong một hình ảnh <br />
lạc quan phơi phới.<br />
<br />
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.<br />
<br />
Ngày mai đã lên từ trong đêm dày thăm thẳm nhờ đèn pha bật sáng, nhờ sức con người tỏa <br />
sáng. Bởi họ đã cầm chắc chiến thắng trong tay ngay từ khi mới xuất quân. Câu thơ để <br />
lại nhiều dư vị, dư vang về một cảnh ra quân hoành tráng, đầy hào khí.<br />
<br />
Chỉ 8 câu thơ, Tố Hữu đã dựng lên bức tranh "Việt Bắc ra quân" thật đẹp. Bức tranh <br />
không chỉ làm sống dậy những ngày tháng hào hùng của quân dân ta trên căn cứ địa thần <br />
thánh mà còn đem đến cho ta niềm tin yêu quê hương cách mạng anh hùng. Nó xứng đáng <br />
là một trong những đoạn thơ hay nhất của bài thơ Việt Bắc.<br />
<br />
Bài làm 2<br />
<br />
Bài thơ "Việt Bắc" không chỉ là khúc hùng ca hoành tráng về những người anh hùng dân <br />
tộc mà còn là bản tình ca sâu sắc, mặn nồng giữa đồng bào chiến khu với cán bộ cách <br />
mạng. Đồng thời, đó cũng là bản tổng kết lịch sử kéo dài suốt 15 năm cách mạng mà tiêu <br />
biểu là bức tranh "Việt Bắc ra quân":<br />
<br />
Những đường Việt Bắc của ta<br />
<br />
Đêm đêm rầm rập như là đất rung<br />
<br />
Quân đi điệp điệp trùng trùng<br />
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan<br />
<br />
Dân công đỏ đuốc từng đoàn<br />
<br />
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay<br />
<br />
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày<br />
<br />
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên<br />
<br />
Bao trùm đoạn thơ là nỗi nhớ với tất cả niềm tự hào, nhớ những con đường chiến dịch, <br />
những đoàn quân, dân công,... Qua đó, tác giả ngợi ca sức sống mãnh liệt của đất nước, <br />
con người Việt Nam trong máu lửa chiến tranh.<br />
<br />
Từ những thắng lợi bước đầu Phủ Thông, đèo Giang, sông Lô, Cao Lạng, quân ta đánh lên <br />
dành tự tin ở thế chủ động:<br />
<br />
Những đường Việt Bắc của ta<br />
<br />
Đêm đêm rầm rập như là đất rung<br />
<br />
Quân đi điệp điệp trùng trùng<br />
<br />
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan<br />
<br />
Hình ảnh thơ "Đêm đêm rầm rập như là đất rung" đã diễn tả sự trưởng thành, lớn mạnh <br />
nhanh chóng vượt bậc và khí thế ra trận hào hùng, ngất trời tráng khí của bộ đội ta. Nhớ <br />
ngày nào, trong lễ xuất quân của đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân chỉ vỏn vẹn <br />
34 đồng chí. Vậy mà chỉ qua mấy năm kháng chiến, quân đội của ta đã phát triển cả về <br />
lực và thế với bao sư đoàn, quân đoàn tinh nhuệ, thiện chiến. Ngày cũng như đêm, đoàn <br />
quân ấy ra trận như vũ bão.<br />
<br />
Hình ảnh thơ "ánh sao đầu súng" vừa đậm chất hiện thực vừa dạt dào cảm hứng lãng <br />
mạn. Nơi đầu súng của người lính cụ hồ luôn người sáng ánh sao lấp lánh, cộng hưởng <br />
với ánh sao của lí tưởng Cách mạng hòa bình, niềm tin chiến thắng.<br />
Cùng ra trận với những đoàn quân chủ lực còn có lực lượng dân công phục vụ tiền tuyến:<br />
<br />
Dân công đỏ đuốc từng đoàn<br />
<br />
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay<br />
<br />
Hình ảnh "dân công đỏ đuốc từng đoàn" thật đúng với hiện thực. Từng đoàn, từng đoàn <br />
dân công với bó đuốc trên tay rực cháy hối hả nối nhau ra trận. "Bước chân nát đá muôn <br />
tàn lửa bay" là hình ảnh cường điệu, phóng đại, đậm chất lãng mạn bật lên sức mạnh phi <br />
thường của lực lượng dân công trên tiền tuyến. Đó không chỉ là biểu tượng cho sức mạnh <br />
của đoàn dân công mà còn là biểu tượng cho sức mạnh của toàn dân tộc. Hình ảnh rực rỡ, <br />
âm hưởng câu thơ rộn rã niềm vui.<br />
<br />
Hai câu cuối là hình ảnh đèn pha xuyên màn đêm đen thăm thẳm ở rừng Việt Bắc:<br />
<br />
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày<br />
<br />
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên<br />
<br />
Những câu thơ "Nghìn đêm thăm thẳm sương dày / Đèn pha bật sáng như ngày mai" lên <br />
mang lại cảm nhận về niềm lạc quan, tin tưởng vào tương lai chiến thắng của dân tộc. <br />
Ánh đèn pha của ô tô kéo pháo soi sáng màn đêm dày đặc, soi đường cho các chiến sĩ <br />
nhưng đồng thời nó cũng mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Ánh sáng ấy sẽ xuyên thủng <br />
màn đêm đen để hướng tới tương lai tươi sáng, tương lai hòa bình của dân tộc.<br />
<br />
Chỉ với 8 câu thơ, Tố hữu đã tái hiện lại chân thực, hào hùng khí thế ra trận của quân và <br />
dân ta. Toàn quân ra trận với tốc độ khẩn trương, lực lượng hùng hậu, với ý chí chiến <br />
đấu quyết tâm giành lại hòa bình cho dân tộc. Có thể nói, đây là một đoạn thơ hay và đẹp <br />
trong "Việt Bắc.<br />
<br />
Bài làm 3<br />
<br />
Việt Bắc không chỉ là khúc ca ân tình mà còn là bản tổng kết bằng thơ 15 năm cách mạng. <br />
Bên cạnh những đoạn trữ tình ngọt ngào, ta lại gặp những khúc anh hùng ca tràn đầy khí <br />
thế chiến thắng của quân dân ta mà tiêu biểu là bức tranh ''Việt Bắc ra quân'' hùng vĩ:<br />
<br />
Những đường Việt Bắc của ta...<br />
<br />
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.<br />
<br />
Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác vào tháng 101954, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống <br />
thực dân Pháp thắng lợi, các cơ quan trung ương Đảng và chính phủ từ Việt Bắc về lại <br />
thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong số những cán bộ kháng chiến từng sống gắn bó <br />
nhiều năm với Việt Bắc, nay từ biệt chiến khu để về xuôi. Bài thơ như được viết trong <br />
buổi chia tay lưu luyến đó.<br />
<br />
Hoàn cảnh sáng tác tạo nên một sắc thái tâm trạng đặc biệt, đầy xúc động bâng khuâng. <br />
Tố Hữu đã vận dụng thành công thể thơ lục bát truyền thống, sử dụng sáng tạo cặp đại <br />
từ nhân xưng mìnhta, lối đối đáp quen thuộc của ca dao, giọng thơ tâm tình ngọt ngào, lời <br />
thơ đậm sắc thái dân gian để mở ra bao nỗi niềm nhớ thương, bao kỉ niệm về một thời <br />
kháng chiến gian khổ mà anh hùng. Qua đó nghĩa tình gắn bó thắm thiết thuỷ chung của <br />
những người kháng chiến với nhân dân, với Việt Bắc, với đất nước được bộc lộ một <br />
cách thấm thía, chân thành, cảm động.<br />
<br />
Nếu như ở những đoạn thơ trước, Tố Hữu mang đến cho người đọc vẻ đẹp của tình <br />
nghĩa quân dân qua những kỷ niệm ngọt ngào gắn bó. Thì ở đoạn thơ này, nhà thơ đã đột <br />
ngột chuyển dòng. Không còn những dòng thơ ngọt ngào như ca dao nữa mà đoạn thơ này <br />
đã mang âm hưởng của cảm hứng sử thi hùng tráng. Đó là những hình ảnh gợi ra ấn <br />
tượng chung về sức mạnh của dân tộc trong kháng chiến, là hình ảnh của những đoàn <br />
quân ra trận vô tận điệp trùng, là hình ảnh hùng vĩ của cuộc chiến tranh nhân dân. Từ hình <br />
ảnh những đoàn dân công, là hình ảnh những đoàn xe cơ giới trên đường ra trận làm bừng <br />
sáng những đêm kháng chiến. Đó là khí thế của "40 thế kỷ cùng ra trận" ngời sáng trong <br />
trận chiến sinh tử với kẻ thù.<br />
<br />
Trước hết đó là ấn tượng chung về sức mạnh của dân tộc ta trong kháng chiến với <br />
"những đường Việt Bắc của ta... đất rung". Đọc câu thơ ta đã thấy ngay âm hưởng hết <br />
sức hùng tráng của bài ca kháng chiến vang lên từ những điệp từ "đêm đêm", từ láy "rầm <br />
rập". Và từ gợi tả hình ảnh "đất rung". Những từ ấy đều là những từ được cấu tạo bởi <br />
phụ âm nổ(đ "đêm đêm"), những phụ âm rung (r "rầm rập"). Ấn tượng ở những câu thơ <br />
này còn được nổi bật lên bởi ý nghĩa khái quát, ý nghĩa biểu trưng của hình ảnh con <br />
đường. Khi tác giả nói "những đường Việt Bắc" đó là những con đường vừa rất thực như <br />
tác giả từng viết "đường ta rộng thênh thang tám thước". Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái <br />
Nguyên, đường qua Tây Bắc, đường lên Điện Biên... những con đường mở ra cùng với <br />
chiến thắng của quân dân ta, nhưng cũng là con đường đầy ý nghĩa tượng trưng khái quát <br />
cả một quá trình đi lên của kháng chiến và cách mạng. Con đường đang dẫn tới thành <br />
công:<br />
<br />
"Những đường Việt Bắc của ta<br />
<br />
Đêm đêm rầm rập như là đất rung''<br />
<br />
Chúng ta có thể cảm nhận được lịch sử không chỉ còn ở trên trang thơ nữa mà chúng ta <br />
như đang hòa mình vào đoàn quân ấy. Không khí của câu thơ khiến ta hồi tưởng lại hào <br />
khí Đông A ngút trời:<br />
<br />
"Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu"<br />
<br />
(Phạm Ngũ Lão)<br />
<br />
Sức mạnh ấy trước hết toả ra từ đoàn quân hùng hậu:<br />
<br />
''Quân đi điệp điệp trùng trùng<br />
<br />
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.''<br />
<br />
Nhớ ngày 22.12.1944, tại cây đa Tân Trào, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã làm lễ xuất quân <br />
cho đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (Tiền thân của QĐND Việt Nam). Khi <br />
ấy, đội quân mới chỉ có 34 người. Vậy mà mấy năm sau từ 34 người với trang bị vũ khí <br />
thô sơ, quân đội ta đã phát triển thành tinh nhuệ với "điệp điệp trùng trùng". Điệp ngữ <br />
"điệp điệp trùng trùng" gợi lên sự đông đảo, lớn mạnh, đoàn quân như trải dài vô tận, <br />
vươn ra khắp núi rừng Việt Bắc. Sự tinh nhuệ ấy là sức mạnh vô địch chứng tỏ sự <br />
trưởng thành của quân dân ta, đồng thời cũng cho thấy, quân đội ta đã thực sự lớn mạnh <br />
cả về chất và lượng, có thể đương đầu với mọi kẻ thù to lớn.<br />
<br />
Tác giả sử dụng nghệ thuật tách từ "trùng điệp" thành hai từ láy trùng trùng điệp điệp để <br />
ghi lại ấn tượng về những cuộc hành quân không nghỉ của một đoàn quân đông đảo như <br />
trải dài vươn rộng trong khắp núi rừng Việt Bắc. Hình ảnh hoán dụ "ánh sao đầu súng" , <br />
"mũ nan" kết hợp với biện pháp nhân hoá "ánh sao bạn cùng mũ" vừa tả thực vừa gợi ra <br />
một vẻ đẹp thơ mộng về đoàn quân kháng chiến. Những hình ảnh này diễn tả sự sát cánh <br />
kề vai của mọi lực lượng trên đất nước Việt Nam, từ bộ đội chính quy đến dân quân du <br />
kích, từ con người đến thiên nhiên sông núi vũ trụ, tất cả hợp thành một khối đoàn kết <br />
vững vàng, có sức mạnh vũ bão. Hình ảnh đoàn quân ra trận đã được cảm hứng lãng mạn <br />
tạo nên tầm vóc vũ trụ bởi hình ảnh ánh sao đầu súng, một hình ảnh rất thật nhưng đã <br />
vụt lớn lên bởi cảm hứng lãng mạn. Ba hình ảnh: súngsaomũ như đi cùng nhau. Khẩu <br />
súng tượng trưng cho ý chí đánh giặc của người lính, chiếc mũ là cách nói hoán dụ để nói <br />
về người lính nhưng đồng thời lại để chỉ tầm vóc vươn tới sao trời của người lính. Ánh <br />
sao là hình ảnh chỉ ngôi sao trên mũ người chiến sĩ. Sao cũng là biểu tượng của tổ quốc. <br />
Người lính ra chiến trận mang theo cả tổ quốc bên mình:<br />
<br />
"Anh vào bộ đội sao trên mũ<br />
<br />
Vẫn mãi là sao sáng dẫn đường<br />
<br />
Em mãi là hoa thơm trên đỉnh núi<br />
<br />
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm"<br />
<br />
(Vũ Cao)<br />
<br />
Hình ảnh "ánh sao đầu súng" gợi nhắc đến vẻ đẹp của những chiến sĩ kiên trung mà vẫn <br />
lãng mạn yêu đời trong thơ Chính Hữu:<br />
<br />
"Đêm nay rừng hoang sương muối<br />
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới<br />
<br />
Đầu súng trăng treo".<br />
<br />
Nhà thơ đã dùng thước đo vũ trụ để đo tầm vóc của người chiến sĩ cách mạng. Những <br />
người chiến sĩ đang hành quân ra trận. Đó là âm hưởng của những chữ "đi", "điệp điệp", <br />
"trùng trùng". Từ hình ảnh ấy Tố Hữu như dựng lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của <br />
những đoàn binh ra trận mà như một dải ngân hà lấp lánh đang cuồn cuộn đổ về phía tiền <br />
phương.<br />
<br />
Trong bức tranh tổng hợp về sức mạnh của dân tộc ta trong kháng chiến, Tố Hữu còn <br />
dùng một màu sáng, một màu sáng chói lóa để làm bừng lên vẻ đẹp hùng vĩ của cuộc <br />
chiến tranh nhân dân, dù chỉ qua một chi tiết về đoàn dân công. Đó là hình ảnh:<br />
<br />
"Dân công đỏ đuốc từng đoàn<br />
<br />
Bước chân nát đã muôn tàn lửa bay"<br />
<br />
Tô Hữu đã sử dụng những từ chỉ số nhiều "từng đoàn", "muôn tàn lửa" kết hợp với các <br />
động từ đỏ đuốc, bước chân, nát đá, lửa bay, kết hợp với phép cường điệu "bước chân nát <br />
đá" để ca ngợi lòng nhiệt tình, sự hăng hái, sự đông đảo và sức mạnh khiến thiên nhiên <br />
phải khuất phục của những đoàn dân công. Sức mạnh bạt núi san rừng, tinh thần làm việc <br />
bất kể đêm ngày của họ khiến cho núi cao cũng phải cúi đầu, đêm tối cũng phải bừng <br />
sáng. Những đoàn xe vận tải càng làm cho không khí những con đường kháng chiến thêm <br />
phấn chấn:<br />
<br />
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày<br />
<br />
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên<br />
<br />
Tác giả sử dụng những từ chỉ số nhiều "nghìn đêm" kết hợp với các từ láy thăm thẳm để <br />
khắc họa những khó khăn gian nan của kháng chiến nhưng với sức mạnh và lòng quyết <br />
tâm, những đoàn xe vận tải vẫn vượt qua đêm tối, đèo cao mây mù, sương dày để vận <br />
chuyển vũ khí lương thực tới tiền tuyến. Biện pháp so sánh phóng đại "đèn pha bật sáng <br />
như ngày mai lên" vừa thể hiện khí thế sôi nổi, hào hùng, vừa bộc lộ niềm vui sướng hi <br />
vọng, tin tưởng vào tương lai tất thắng.<br />
<br />
Tám câu thơ trên sử dụng nhiều từ láy, nhiều hình ảnh so sánh phóng đại, sử dụng một <br />
loạt những từ chỉ số nhiều, những hình ảnh giàu sức gợi, âm điệu và nhịp điệu thơ khoẻ <br />
khoắn, dồn dập đã tái hiện sự hùng tráng, khí thế sôi nổi của Việt bắc trong kháng chiến. <br />
Sự hào hùng ấy biểu hiện rõ trên con đường Việt Bắc trải dài bất tận, có sự hoà hợp tiếp <br />
nối của mọi lực lượng từ bộ đội du kích, dân công đến những đoàn xe vận tải. Con <br />
đường đi đến tiền tuyến là con đường đến chiến thắng. Sức mạnh trên con đường ấy <br />
cũng đã từng được Tố Hữu nhắc đến trong bài Ta đi tới:<br />
<br />
"Những bàn chân từ than bụi, lầy bùn<br />
<br />
Đã bước dưới mặt trời cách mạng.<br />
<br />
Những bàn chân của Hóc Môn, Ba Tơ, Cao Lạng<br />
<br />
Lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu<br />
<br />
Những bàn chân đã vùng dậy đạp đầu<br />
<br />
Lũ chúa đất xuống bùn đen vạn kiếp!''<br />
<br />
Mọi nỗ lực của quân và dân ta nhận được sau những khó khăn gian khổ đó chính là:<br />
<br />
Tin vui chiến thắng trăm miền<br />
<br />
...<br />
<br />
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng<br />
<br />
Trong 4 câu thơ, tác giả đã liệt kê một loạt 8 địa danh, kết hợp với điệp từ vui, nhịp thơ <br />
nhanh, mạnh, dồn dập bộc lộ một cách sâu sắc niềm sung sướng về chiến thắng của dân <br />
tộc.<br />
<br />
Chiến thắng ấy trải dài khắp mọi miền Tổ quốc tạo nên ngày hội chiến thắng của toàn <br />
thể dân tộc ta. Câu một là cảm xúc bao quát: "Tin vui chiến thắng trăm miền", còn ở câu <br />
sau nhằm thể hiện sự lan toả của những tin vui khắp trăm miền ấy. Vì thế những địa <br />
danh liên tiếp xuất hiện gắn liền với các tin vui chiến thắng. Sự liệt kê các địa danh <br />
chiến thắng cũng chứa đựng những giá trị tư tưởngnghệ thuật. Đó là sự sắp xếp nhằm <br />
làm nổi bật tin vui như bay đi trong một tốc độ "siêu tốc". Vừa mới đó là Hòa BìnhTây <br />
BắcĐiện Biên, tiếp sau đã là Đồng Tháp (Nam Bộ), An Khê (Tây Nguyên), lại đã là Việt <br />
Bắc, đèo De, núi Hồng.<br />
<br />
Tóm lại, chỉ với những câu thơ trên đã cho ta thấy được một bức tranh "Việt Bắc ra quân" <br />
thật đẹp với niềm vui chiến thắng của quân và dân ta trong những ngày kháng chiến <br />
chống thực dân pháp gian khổ rất hoành tráng, đầy hào khí. Qua đó, bộc lộ niềm tự hào <br />
sâu sắc của nhà thơ về sức mạnh đoàn kết vĩ đại của dân tộc. Đoạn thơ mang âm điệu <br />
sôi nổi, dồn dập, mạnh mẽ, sử dụng nhiều hình ảnh phóng đại kết hợp thể thơ truyền <br />
thống cho thấy đây là đoạn thơ tiêu biểu góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm cũng <br />
như cho phong cách thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu.<br />
<br />
<br />