intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài tiểu luận: Lợi ích và bất lợi của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Liên hệ Việt Nam

Chia sẻ: Thiều Thị Hường | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:24

209
lượt xem
23
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài tiểu luận "Lợi ích và bất lợi của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Liên hệ Việt Nam" thuộc môn Tài chính tiền tệ cung cấp cho các bạn những nội dung về lợi ích và bất lợi của hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, liên hệ với Việt Nam. Với các bạn đang học Tài chính - Ngân hàng thi đây là tài liệu tham khảo hữu ích.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài tiểu luận: Lợi ích và bất lợi của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Liên hệ Việt Nam

  1. 1 BÀI THẢO LUẬN MÔN NHẬP MÔN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Nhóm 5 Thành viên:  ­ Nguyễn Thị Thảo Ngân (nhóm trưởng) ­ Lê Thị Phương Thảo ­ Trần Thị Hoàn ­ Thiều Thị Hường (thư ký) ­ Trần Thị Lan Hương ­ Hoàng Minh Nhật ­ Tạ Minh Anh ­ Mai Thị Ngoan ­ Trần Thị Huyền ­ Vũ Thị Thu Thúy ­ Nguyễn Thị Khánh Trinh
  2. 2 Đề  tài: Lợi ích và bất lợi của vốn đầu tư  trực tiếp nước ngoài. Liên hệ  Việt  Nam. Bài làm: I. Lợi ích và bất lợi của hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài 1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài a. Khái niệm Đầu tư  trực tiếp nước ngoài (tiếng Anh: Foreign Direct Investment, viết tắt  là FDI) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước   khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước   ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này. Tổ chức Thương mại Thế giới đưa ra định nghĩa như sau về FDI: Đầu tư  trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư  từ  một nước   (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư)   cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ  để  phân biệt   FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư   lẫn tài sản mà người đó quản lý  ở  nước ngoài là các cơ  sở  kinh doanh. Trong   những trường hợp đó, nhà đầu tư  thường hay được gọi là "công ty mẹ" và các   tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty". b. Nhân tố thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài Chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước Helpman và Sibert, Richard S. Eckaus cho rằng có  sự  khác nhau về năng suất  cận biên (số có thêm trong tổng số đầu ra mà một nhà sản xuất có được do dùng  thêm một đơn vị  của yếu tố  sản xuất)của  vốn giữa các nước. Một nước thừa  vốn thường có năng suất cận biên thấp hơn. Còn một nước thiếu vốn thường có  năng suất cận biên cao hơn. Tình trạng này sẽ  dẫn đến sự  di chuyển dòng vốn  từ  nơi dư  thừa sang nơi khan hiếm nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Vì chi phí sản  xuất của các nước thừa vốn thường cao hơn các nước thiếu vốn. Tuy nhiên như  vậy không có nghĩa là tất cả  những hoạt động nào có năng suất cận biên cao 
  3. 3 mới được các Doanh nghiệp đầu tư sản xuất mà cũng có những hoạt động quan  trọng, là sống còn của Doanh nghiệp thì họ  vẫn tự  sản xuất cho dù hoạt động  đó cho năng suất cận biên thấp. Chu kỳ sản phẩm Đối với hầu hết các doanh nghiệp tham gia kinh doanh quốc tế thì chu kỳ sống  của các sản phẩm này bao gồm 3 giai đoạn chủ yếu là: giai đoan sản phẩm mới;  giai   đoạn   sản   phẩm   chín   muồi;   giai   đoạn   sản   phẩm   chuẩn   hóa.   Akamatsu   Kaname (1962) cho rằng sản phẩm mới, ban đầu được phát minh và sản xuất ở  nước   đầu   tư,   sau   đó   mới   được xuất   khẩu rathị   trường nước   ngoài.   Tại  nước nhập khẩu,  ưu điểm của sản phẩm mới làm nhu cầu trên thị  trường bản  địa tăng lên, nên nước nhập khẩu chuyển sang sản xuất để  thay thế  sản phẩm   nhập khẩu này bằng cách chủ  yếu dựa vào vốn, kỹ  thụât của nước ngoài(giai   đoạn sản phẩm chín muồi). Khi nhu cầu thị trường của sản phẩm mới trên thị  trường trong nước bão hòa, nhu cầu xuất khẩu lại xuất hiện (giai đoạn sản   phẩm chuẩn hóa). Hiện tượng này diễn ra theo chu kỳ và do đó dẫn đến sự hình   thành FDI. Raymond Vernon (1966) lại cho rằng khi sản xuất một sản phẩm đạt tới giai   đoạn chuẩn hóa trong chu kỳ  phát triển của mình cũng là lúc thị  trường sản  phẩm này có rất nhiều nhà cung cấp.  Ở  giai đoạn này, sản phẩm ít được cải   tiến, nên cạnh tranh giữa các nhà cung cấp dẫn tới quyết định giảm giá và do đó   dẫn tới quyết định cắt giảm chi phí sản xuất. Đây là lý do để  các nhà cung cấp  chuyển sản xuất sản phẩm sang những nước cho phép chi phí sản xuất thấp  hơn. Lợi thế đặc biệt của các công ty đa quốc gia Stephen H. Hymes (1960, công bố  năm 1976), John H. Dunning (1981), Rugman  A. A. (1987) và một số  người khác cho rằng các công ty đa quốc gia có những  lợi thế  đặc thù (chẳng hạn năng lực cơ bản) cho phép công ty vượt qua những  trở  ngại về  chi phí  ở  nước ngoài nên họ  sẵn sàng đầu tư  trực tiếp ra nước  ngoài. Khi chọn địa điểm đầu tư, những công ty đa quốc gia sẽ chọn nơi nào có  các điều kiện (lao động, đất đai,chính trị) cho phép họ phát huy các lợi thế  đặc  thù nói trên. Những công ty đa quốc gia thường có lợi thế  lớn về  vốn và công  nghệ đầu tư ra các nước sẵn có nguồn nguyên liệu, giá nhân công rẻ và thường   là thị trường tiêu thụ tiềm năng... ta dễ dàng nhận ra lợi ích của việc này! Tiếp cận thị trường và giảm xung đột thương mại Đầu tư  trực tiếp ra nước ngoài là một biện pháp để  tránh xung đột thương  mại song phương. Ví dụ, Nhật Bản hay bị Mỹ và các nước Tây Âu phàn nàn do 
  4. 4 Nhật Bản có thặng dư  thương mại còn các nước kia bị  thâm hụt thương mại  trong quan hệ song phương. Đối phó, Nhật Bản đã tăng cường đầu tư trực tiếp   vào các thị  trường đó. Họ  sản xuất và bán ô tô, máy tính ngay tại Mỹ  và châu   Âu, để  giảm xuất khẩu các sản phẩm này từ  Nhật Bản sang. Họ  còn đầu tư  trực tiếp vào các nước thứ  ba, và từ  đó xuất khẩu sang thị  trường Bắc Mỹ  và   châu Âu. Tiếp cận và chuyển giao công nghệ Không phải FDI chỉ đi theo hướng từ  nước phát triển hơn sang nước kém phát  triển hơn. Chiều ngược lại thậm chí còn mạnh mẽ hơn nữa.  Nhật Bản là nước  tích cực đầu tư trực tiếp vào Mỹ  để  khai thác đội ngũ chuyên gia ở Mỹ. Ví dụ,  các công ty ô tô của Nhật Bản đã mở các bộ phận thiết kế xe ở Mỹ để sử dụng  các chuyên gia người Mỹ. Các công ty máy tính của Nhật Bản cũng vậy. Không  chỉ  Nhật Bản đầu tư  vào Mỹ, các nước công nghiệp phát triển khác cũng có  chính sách tương tự. Trung Quốc gần đây đẩy mạnh đầu tư  trực tiếp ra nước  ngoài, trong đó có đầu tư  vào Mỹ. Việc công ty đa quốc gia quốc tịch Trung   Quốc là Lenovo mua bộ  phận sản xuất máy tính xách tay của công ty đa quốc  gia mang quốc tịch Mỹ là IBM được xem là một chiến lược để Lenovo tiếp cận  công nghệ  sản xuất máy tính  ưu việt của IBM. Hay việc  TCL (Trung Quốc)  trong   sáp   nhập   với   Thompson   (Pháp)   thành TCL­Thompson   Electroincs,  việc National Offshore Oil Corporation (Trung Quốc) trong ngành khai thác dầu  lửa mua lại Unocal (Mỹ) cũng với chiến lược như vậy. Tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên Để  có nguồn nguyên liệu thô, nhiều công ty đa quốc gia tìm cách đầu tư  vào   những nước có nguồn tài nguyên phong phú. Làn sóng đầu tư trực tiếp ra nước  ngoài lớn đầu tiên củaNhật Bản vào thập niên 1950 là vì mục đích này. FDI của  Trung Quốc hiện nay cũng có mục đích tương tự. 2. Hình thức đầu tư a. Phân theo bản chất đầu tư Đầu tư phương tiện hoạt động Đầu tư phương tiện hoạt động là hình thức FDI trong đó công ty mẹ đầu tư mua  sắm và thiết lập các phương tiện kinh doanh mới  ở  nước nhận đầu tư. Hình  thức này làm tăng khối lượng đầu tư vào. Mua lại và sáp nhập
  5. 5 Mua lại và sáp nhập là hình thức FDI trong đó hai hay nhiều doanh nghiệp có  vốn FDI đang hoạt động sáp nhập vào nhau hoặc một doanh nghiệp này (có thể  đang hoạt động  ở  nước nhận đầu tư  hay  ở  nước ngoài) mua lại một doanh   nghiệp có vốn FDI ở nước nhận đầu tư. Hình thức này không nhất thiết dẫn tới   tăng khối lượng đầu tư vào. b. Phân theo tính chất dòng vốn Vốn chứng khoán Nhà đầu tư  nước ngoài có thể  mua  cổ  phần hoặc trái phiếu doanh nghiệp do  một công ty trong nước phát hành ở một mức đủ lớn để có quyền tham gia vào  các quyết định quản lý của công ty. Vốn tái đầu tư Doanh nghiệp có vốn FDI có thể  dùng lợi nhuận thu được từ  hoạt động kinh  doanh trong quá khứ để đầu tư thêm. Vốn vay nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ Giữa các chi nhánh hay công ty con trong cùng một công ty đa quốc gia có thể  cho nhau vay để đầu tư hay mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp của nhau. c. Phân theo động cơ của nhà đầu tư Vốn tìm kiếm tài nguyên Đây là các dòng vốn nhằm khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên rẻ và dồi dào  ở  nước tiếp nhận, khai thác nguồn lao động có thể  kém về  kỹ  năng nhưng giá   thấp hoặc khai thác nguồn lao động kỹ  năng dồi dào. Nguồn vốn loại này còn   nhằm mục đích khai thác các tài sản sẵn có thương hiệu ở nước tiếp nhận (như  các điểm du lịch nổi tiếng). Nó cũng còn nhằm khai thác các tài sản trí tuệ  của   nước tiếp nhận. Ngoài ra, hình thức vốn này còn nhằm tranh giành các nguồn tài  nguyên chiến lược để khỏi lọt vào tay đối thủ cạnh tranh. Vốn tìm kiếm hiệu quả Đây là nguồn vốn nhằm tận dụng giá thành đầu vào kinh doanh thấp  ở  nước   tiếp nhận như giá nguyên liệu rẻ, giá nhân công rẻ, giá các yếu tố sản xuất như  điện nước, chi phí thông tin liên lạc, giao thông vận tải, mặt bằng sản xuất kinh   doanh rẻ, thuế suất ưu đãi,điều kiện pháp lí v.v... Vốn tìm kiếm thị trường
  6. 6 Đây là hình thức đầu tư  nhằm mở  rộng thị  trường hoặc giữ thị trường khỏi bị  đối thủ  cạnh tranh giành mất. Ngoài ra, hình thức đầu tư  này còn nhằm tận  dụng các hiệp định hợp tác kinh tế  giữa nước tiếp nhận với các nước và khu  vực khác, lấy nước tiếp nhận làm bàn đạp để thâm nhập vào các thị trường khu   vực và toàn cầu. 3. Lợi ích của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Đầu tư  trực tiếp nước ngoài đã góp phần chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế  VN từ  tập trung sang nền kinh tế thị trường, đồng thời nâng cao năng lực sản  xuất công nghiệp. Tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước   ngoài tăng bền vững ở tất cả các địa phương trong cả nước góp phần thúc đẩy   chuyển giao công nghệ tiên tiến vào VN trong một số ngành kinh tế quan trọng   của đất nước như viễn thông, khí hòa dầu,tin học, ô tô..... Trước hết ta phải khẳng định là: Đầu tư  nước ngoài đem lại nhiều lợi ích cho   thúc đẩy phát triển kinh tế, đặc biệt là những nước đang phát triển như VN. Đem lại nguồn vốn để  phát triển kinh tế: Trong các lí luận về tăng  trưởng kinh tế, nhân tố vốn luôn được đề cập. Khi một nền kinh tế  muốn tăng trưởng nhanh hơn,nó cần nhiều vốn hơn nữa. Nếu vốn   trong nước không đủ, nền kinh tế này sẽ  muốn có cả  vốn từ nước  ngoài, trong đó có vốn FDI. VN là một trong những nước  đang phát  triển, vì vậy mà chúng ta rất cần ngồn vốn đầu tư  từ  nước ngoài.  Việc huy động, thu hút vốn từ nước ngoài sẽ giúp nước ta có ngồn   vốn để  sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế, tận dụng và khai  thác hiệu quả  các nguồn lực của đất nước như: tài nguyên thiên  nhiên, khí hậu,… Khi thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài chúng ta còn có thể  thu hút được khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới: điều đó góp  phần nâng cao năng suất lao động, phát triển kinh tế trong nước, thu  hút được các chuyên gia nước ngoài vào làm việc, từ  đó tạo điều  kiện cho đội ngũ kĩ sư  trong nước có điều kiện học hỏi, trau dồi   kiến thức, kinh nghiệm tiến tới làm chủ công nghệ.
  7. 7 Trong một số trường hợp, vốn cho tăng trưởng dù thiếu vẫn có thể  huy động được phần nào bằng” chính sách thắt lưng buộc bụng”.  Tuy nhiên, công nghệ  và bí quyết quản lí thì không thể  có được  bằng chính sách đó. Thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia sẽ giúp  một nước có cơ  hội tiếp thu công nghệ  và bí quyết quản lí kinh  doanh mà các công ty này đã tích lũy và phát triển qua nhiều năm và   bằng những khoản chi phí lớn. Tuy nhiên, việc phổ  biến các công  nghệ  và bí quyết quản lí đó ra cả  nước thu hút đầu tư  còn phụ  thuộc rất nhiều vào năng lực tiếp thu của đất nước. Tạo công ăn việc làm cho người lao động, nhất là  ở  các vùng kinh  tế   còn   kém   phát   triển:   từ   đó   góp  phần  nâng   cao   mức   sống   của  người dân, tránh lãng phí nguồn lực lao động  (nước ta lại là một  nước có cơ cấu dân số  trẻ có nguồn lực lao động dồi dào). Vì một   trong những mục đích của FDI là khai thác các điều kiện để  đạt  được chi phí sản xuất thấp, nên công ty có vốn đầu tư  nước ngoài  sẽ  thuê mướn nhiều lao động địa phương. Thu nhập của một bộ  phận dân cư  địa phương được cải thiện sẽ  đóng góp tích cực vào  tăng trưởng kinh tế  của địa phương. Thu nhập của một bộ  phận   dân cư  địa phương được cải thiện sẽ  đóng góp tích cực vào tăng  trưởng kinh tế  của địa phương. Trong quá trình thuê mướn đó, đào  tạo các kĩ năng nghề nghiệp mà trong nhiều trường hợp là mới mẻ  và tiến bộ ở các nước đang phát triển thu hút FDI, sẽ được công ty  cung cấp. Điều này tạo ra một đội ngũ lao động có kĩ năng cho  nước thu hút FDI. Không chỉ  có lao động thông thường mà cả  các   nhà chuyên môn địa phương cũng có cơ  hội làm việc và được bồi  dưỡng nghiệp vụ ở các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.  Ở  VN, bình quân trong thời kì 2005­2010 khu vực có vốn đầu tư  nước ngoài đã tạo việc làm thêm cho khoảng 16 vạn việc làm mỗi  năm. Ngoài ra khu vực kinh tế có vốn đầu tư  nước ngoài đã tạo ra  khoảng vài triệu lao động gián tiếp trong 6 năm qua.
  8. 8 Giúp tạo nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà Nước: Đối với nhiều  nước đang phát triển, hoặc đối với nhiều địa phương, thuế  do các  xí nghiệp có vốn đầu tư  nước ngoài nộp là nguồn thu ngân sách  quan trọng. FDI cũng đã giúp VN có một bước tiến lớn hơn vào các  thị  trường quốc tế, cải thiện tiềm năng xuất khẩu của VN. FDI  chiếm một tỉ lệ đáng kể  trong các ngành công nghiệp chủ  đạo của  VN, cụ thể là 42% công nghiệp giầy da, 25% trong ngành may mặc   và 84% trong điện tử, máy tính và các linh kiện Học   tập  được  kinh  nghiệm quản  lí, lãnh  đạo  điều  hành doanh  nghiệp công ti chuyên nghiệp của các nước tiên tiến hơn. Từ đó góp   phần nâng cao năng lực quản lí, điều hành của các nhà lãnh đạo  trong nước Tạo điều kiện cho việc giao lưu kinh tế, tăng khả  năng cạnh tranh  của doanh nghiệp trong nước: khi thu hút FDI từ  các công ty đa  quốc gia, không chỉ công ty có vốn đầu tư  của công ty đa quốc gia  mà ngay cả các công ty khác trong nước có quan hệ làm ăn với công  ty cũng sẽ  tham gia quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì  vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất   toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu. Tạo đà phát triển cho kinh tế  trong nước: việc Việt Nam đã công   nhận một cách chính thức và rộng rãi rằng FDI đang ngày càng đóng  vai   trò   quan   trọng   trong   sự   phát   triển   của   Việt   Nam   trên   nhiều  phương diện: vốn, công nghệ, nâng cao khả  năng thanh toán quốc  tế, phát triển xuất khẩu, tham gia vào các thị trường quốc tế,…FDI   đã hỗ trợ VN một cách tích cực trong việc mở rộng quan hệ kinh tế  đối ngoại để  VN gia nhập ASEAN,   kí kết thỏa thuận chung với   EU, bình thường hóa và thỏa thuận thương mại song phương với   Mỹ. Trong những năm gần đây, vốn đầu tư  trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đã   tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, việc mở  cửa thị  trường vốn cũng đồng nghĩa với  việc Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều áp lực, nhất là khi khả năng hấp thụ 
  9. 9 vốn của nền kinh tế  Việt Nam là chưa cao. Đầu tư  trực tiếp nước ngoài có   nhiều tác động tích cực, nhưng tác động đó không tự nhiên xảy ra. 4. Bất lợi của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Mặc dù FDI đã mang lại nhiều lợi ích cho nước trực tiếp nhận đầu tư, nhưng   nó cũng có không ít những bất lợi gây thua thiệt  ảnh hưởng xấu cho họ. Trong   quá trình thu hút và quản lý FDI, các nước tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp nước   ngoài có thể phải đối điện với những bất lợi sau: Thứ  nhất, thực tiễn thế  giới cho thấy, dòng vốn đầu tư  này chỉ  thực sự  tích cực và góp phần làm dịu lạm phát khi chúng làm  tăng cung những hàng khan hiếm, tăng nhập khẩu phụ tùng thiết  bị sản xuất và công nghệ tiên tiến, từ đó làm tăng tiềm lực xuất   khẩu, khả năng cạnh tranh, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu  ngân sách cho nước chủ  nhà và giúp hạn chế  sức ép tăng tỷ  giá  tiền tệ  thực tế. Ngược lại, nếu thiên về  khuynh hướng kích  thích nền kinh tế  bong bóng, kích thích và thoả  mãn những tiêu  dùng cao cấp vượt quá khả năng kinh tế và sự tích luỹ cần thiết  của nước tiếp nhận đầu tư, thì về  lâu dài, chúng sẽ  có hại cho   các nguồn lực tăng trưởng kinh tế, tăng nhập siêu và làm mất cân  đối tài khoản vãng lai, do đó làm tăng các xung lực lạm phát  tương lai của đất nước. Thứ  hai, nếu việc chuyển giao công nghệ  (cả  phần “cứng” lẫn   phần “mềm”) không được thực hiện đầy đủ, hoặc chỉ  chuyển  giao những công nghệ  lạc hậu, thì mặc nhiên “những lợi thế  tương đối của nước bắt đầu muộn” sẽ  bị  tước bỏ  – đó là một   mặt. Mặt khác, khi đó nước tiếp nhận không chỉ không cải thiện  được tình trạng công nghệ, khả  năng xuất khẩu, mà còn phải   chịu thêm gánh nặng nuôi dưỡng và dỡ bỏ những công nghệ “bất  cập” này theo kiểu “bỏ thì vương, thương thì tội”. Ngoài ra, còn  phải kể  thêm tình trạng phụ  thuộc một chiều vào đối tác nước  ngoài về  kinh tế  – kỹ  thuật của nước tiếp nhận dòng đầu tư  kiểu ấy gây ra. Do đó, hiệu quả tiếp nhận vốn đầu tư sẽ  không 
  10. 10 như mong đợi, hoặc không tương xứng với chi phí của nước chủ  nhà bỏ  ra, cả  về  chi phí tài chính, nhân lực và môi trường, tức  “một tiền gà, ba tiền thóc”. Thứ  ba, để  hấp thụ  được 1 USD đầu tư  nước ngoài, theo tính  toán của các chuyên gia thế  giới, nước tiếp nhận cũng phải có  sự  bỏ  vốn đầu tư đối ứng từ 0,5 – 3 USD, thậm chí nhiều hơn.   Thêm nữa, lượng ngoại tệ đổ vào trong nước sẽ làm tăng lượng   cung tiền tệ  lẫn lượng  cầu hàng hoá và dịch vụ  tương  ứng.   “Hợp lực” của những yếu tố đó sẽ tạo nên những xung lực lạm  phát mới do tính chất “quá nóng” của tăng trưởng kinh tế gây ra. Thứ tư, cần tính đến tác động kinh tế­xã hội và môi trường tổng  hợp của các dự  án FDI, nhất là các dự  án dùng nhiều đất nông   nghiệp,   tạo   áp   lực   thất   nghiệp   và   là   nguồn   phát   thải,   gây   ô  nhiễm môi trường lớn trong tương lai. Đặc biệt, các dự  án xây  dựng sân golf  ở  đồng bằng, vùng đất màu mỡ  và những dự  án   “bán bờ biển” cho các nhà kinh doanh du lịch nước ngoài rất dễ  làm tổn thương đến lợi ích lâu dài của các thế hệ tương lai. Thứ  năm,  các nước nhận đầu tư  có thể  phải tiếp nhận những   công nghệ  và kĩ thuật lạc hậu, từ  đó có thể  gây ra rất nhiều  những thiệt hại cho nước sở tại về môi trường, chất lượng sản   phẩm, chi phí sản xuất, khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên  thị  trường. Các chủ  đầu tư  nước ngoài thường tính giá cao hơn  hoặc tối thiểu bằng với mặt bằng giá quốc tế  cho các nhân tố  đầu vào như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu,… từ  đó gây ra  những thua thiệt cho nước nhận đầu tư. Nước nhận đầu tư phải  áp dụng một số ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài như giảm   thuế, miễn thuế,… từ  đó có thể  tạo ra những bất lợi cho các  doanh nghiệp, nhà đầu tư trong nước trong quá trình cạnh tranh.  Đôi khi các sản phẩm, hàng hóa được sản xuất và bán ra không  thích hợp đối với các nước kém phát triển. II. Liên hệ Việt Nam
  11. 11 1. Thực trạng Hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều   thành tựu kinh tế, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Để  có được thành tựu đó, đầu tư  trực tiếp nước ngoài (FDI) đóng một vai trò hết  sức quan trọng. Việt Nam đã ban hành Luật Đầu tư  nước ngoài (1987) với nhiều chính  sách  ưu đãi, mang tính hấp dẫn và thông thoáng hơn so với Luật Đầu tư  nước  ngoài của các nước trong khu vực tại thời điểm đó. Tuy nhiên, do kiến thức và  kinh nghiệm về  FDI còn hạn chế  nên nhiều quy định của Luật chưa phù hợp  với thông lệ  quốc tế  và thực tiễn của Việt Nam. Trong khi đó, do nhiều quốc   gia nhận thức được tầm quan trọng của FDI nên đã đưa ra nhiều chiến lược  cạnh tranh gay gắt nhằm thu hút FDI. Do đó, để  thu hút ngày càng nhiều nhà  đầu tư  nước ngoài, Việt Nam đã phải liên tục điều chỉnh, bổ  sung luật pháp,  chính sách FDI. Luật Đầu tư  nước ngoài đã qua năm lần sửa đổi và trở  thành  Luật Đầu tư chung năm 2005. Việc liên tục sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài đã tác động mạnh mẽ đến  cộng đồng đầu tư quốc tế. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài hoan nghênh sự thông  thoáng trong các quy định của Luật qua mỗi lần sửa đổi, coi Việt Nam là điểm   đến lý tưởng. Song không ít nhà đầu tư  nước ngoài còn băn khoăn, lo ngại, thậm chí  phản  ứng trước tính không  ổn định và thiếu thực tiễn của các chính sách FDI.   Năm 2005, trước những hạn chế, thiếu tính hấp dẫn của chính sách FDI, Việt  Nam đã điều chỉnh Luật Đầu tư  nước ngoài thành Luật Đầu tư  chung. Các nội   dung chính sách FDI của lần điều chỉnh này đã tiến gần với thông lệ quốc tế và   đáp ứng được căn bản yêu cầu của WTO. Tuy nhiên, nhiều quy định cụ thể của  Luật (2005) còn chưa được rõ ràng, chưa đồng bộ  và nhất quán với các chính  sách hiện hành có liên quan đến đầu tư nước ngoài, do đó khiến các nhà đầu tư  nước ngoài lo ngại và các bộ, ngành, địa phương lúng túng trong thực hiện. Mặt   khác, mục tiêu của việc hoạch định và điều chỉnh chính sách FDI không chỉ  nhằm thu hút nhiều đầu tư  nước ngoài (tăng về  “lượng”), mà còn phải giải  quyết được các vấn đề  về  “chất” của FDI và sự  phát triển bền vững của nền   kinh tế. Thực tế, các chính sách FDI của Việt Nam còn thiên về  lượng hơn là 
  12. 12 chất, hầu như chưa chú trọng nhiều đến sự phát triển bền vững. Điều này được   thể hiện khá rõ ở việc giá trị gia tăng trong các sản phẩm của FDI ở Việt Nam   còn thấp, ít sự liên kết (tác động lan tỏa) giữa khu vực có vốn FDI với các doanh   nghiệp nội địa, phần lớn công nghệ  được chuyển giao  ở  trình độ  trung bình so   với thế giới và còn ít công nghệ sạch – thân thiện với môi trường. Điều chỉnh chính sách FDI là công việc thường xuyên của các cơ  quan  hoạch định chính sách. Mỗi lần điều chỉnh, Luật đã có nhiều quy định thay đổi,   trong đó có những thay đổi đảm bảo nguyên tắc “không hồi tố,” nhưng cũng có  những thay đổi hoặc bổ sung làm giảm tính nhất quán của các chính sách. Mặt khác, qua thực tiễn cho thấy, quy trình điều chỉnh chính sách FDI của  Việt Nam còn thiếu sự  hợp tác chặt chẽ  của các nhà đầu tư  nước ngoài và sự  phối hợp ít kịp thời giữa các bộ, ngành trong việc đưa ra những kế  hoạch hành  động cụ thể. Vì vậy nhiều chính sách FDI chưa được các nhà đầu tư nước ngoài  ủng hộ, nhiều thông tin, phân tích của các cơ quan hoạch định chính sách đưa ra  không chính xác và thiếu thực tiễn, các biện pháp thực hiện chính sách còn  chung chung, thiếu sự chi tiết hóa. Theo thống kê của Cục Đầu tư  Nước ngoài (Bộ  Kế  hoạch và Đầu tư),   trong 10 tháng đầu năm 2014, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào  Việt Nam 13,7 tỷ USD, bằng 71,2% so với cùng kỳ 2013. Như vậy, tỷ lệ đầu tư  nước ngoài vào Việt Nam đang có chiều hướng giảm nhẹ so với thời điểm Việt  Nam đạt kỷ  lục về  thu hút đầu tư  nước ngoài (vượt mốc 20 tỷ  USD). Nguyên  nhân chủ  yếu là do chiến lược quy hoạch, kế  hoạch thu hút, sử  dụng FDI của   Việt Nam còn cứng nhắc, chưa khoa học và hợp lý cho từng thời kỳ. Hiện Việt   Nam chỉ mới thiên về kêu gọi vốn đầu tư, chưa có chiến lược chăm sóc các nhà   đầu tư sau khi được cấp phép đầu tư; Cơ cấu sử dụng nguồn lực FDI của Việt   Nam cũng chưa thực sự hợp lý, chỉ tập trung chủ yếu ở hai lĩnh vực công nghiệp  và dịch vụ; loại hình doanh nghiệp FDI mà Việt Nam thu hút đầu tư  lại chỉ  là  doanh nghiệp nhỏ và vừa, ít doanh nghiệp có quy mô lớn. Tóm lại, chính sách FDI và hệ thống các ưu đãi khuyến khích đầu tư của  Việt Nam còn nhiều điểm yếu cần khắc phục. Cụ thể như:
  13. 13 Thứ  nhất, Việt Nam chưa có chiến lược dài hạn về  thu hút FDI. Trong  vòng 2 thập kỷ qua mức độ thu hút FDI của Việt Nam khá ấn tượng, góp phần  thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, các mục tiêu khác của việc thu hút FDI  vẫn chưa đạt được như như mục tiêu về tạo công ăn việc làm hay như mục tiêu   thu hút các doanh nghiệp FDI có công nghệ  cao nhằm tạo ra các giá trị  gia tăng   nội địa cao và kỳ  vọng chuyển giao công nghệ  trong ngành sản xuất cũng như  nông – lâm – thủy hải sản đã không thành hiện thực khi phần lớn các công ty đa   quốc gia vào Việt Nam chỉ đầu tư vào các dây chuyền sản xuất đơn giản, công  nghệ thấp, ít giá trị gia tăng. Thứ hai, chính sách thu hút FDI hiện tại tương đối phức tạp và mơ hồ. Có  quá nhiều các dạng  ưu đãi đầu tư  được quy định tại nhiều văn bản pháp luật  khác nhau. Điều này gây khó khăn cho các cơ quan quản lý trong việc thực hiện.  Các quy chế  về   ưu đãi đầu tư  còn thiếu, tạo kẽ  hở  cho các nhà đầu tư  không   trung thực trục lợi. Chưa kể, các ưu đãi đầu tư đa phần là ưu đãi về thuế, trong  khi các biện pháp khuyến khích đầu tư khác như đào tạo lao động, liên kết công  nghiệp, chuỗi cung ứng… lại thiếu vắng. Thứ  ba, hệ  thống phân cấp quản lý về  cấp giấy phép và  ưu đãi đầu tư  hoạt động chưa thật sự  hiệu quả. Mục tiêu cơ  bản của việc phân cấp là rút  ngắn thơi gian cấp giấy phép đầu tư  và tạo sự  khác biệt lành mạnh trong việc  xúc tiến và thu hút đầu tư giữa các lĩnh vực và địa phương.  Thứ tư, chính sách và thể chế  hiện hành lại không có những nhân tố thúc  đẩy liên kết và chuyển giao công nghệ  giữa doanh nghiệp trong nước và nước  ngoài. Khảo sát cho thấy, có tới 80% doanh nghiệp FDI sử  dụng công nghệ  trung bình, chỉ 5% sử dụng công nghệ cao, 15% sử dụng công nghệ lạc hậu, gây  ô nhiễm môi trường. Hơn nữa sau khi Luật Đầu tư chính thức có hiệu lực, cho  phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài, hiện có tới 80% các doanh nghiệp  đầu tư  vào Việt Nam là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài – đây là hình thức   khép kín, không có chuyển giao công nghệ ra ngoài. Thứ  năm, giám sát hậu đầu tư  là nhân tố  quan trọng trong việc thu hút  thêm dự án mới và phát huy tối đa tác động tích cực của FDI đến nền kinh tế.   Tuy  nhiên,   hoạt   động  giám   sát   này   ở   Việt  Nam   còn   chưa   thực   sự   bài   bản.  Nguyên nhân là do các chế  tài về  vai trò, vị  trí của lực lượng thực hiện nhiệm   vụ  này còn thiếu; pháp luật, quy định còn nhiều kẽ  hở, chưa chặt chẽ, thiếu   đồng bộ.
  14. 14 Trong vòng 2 thập kỷ  qua mức  độ  thu hút FDI của Việt Nam khá  ấn   tượng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, các mục tiêu khác của   việc thu hút FDI vẫn chưa đạt được như như mục tiêu về tạo công ăn việc làm   hay như mục tiêu thu hút các doanh nghiệp FDI có công nghệ cao nhằm tạo ra   các giá trị gia tăng nội địa cao. 2. Lợi ích Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài hiện đang trở thành một bộ phận chủ  yếu của quan hệ kinh tế thế giới. Nó là nhân tố quan trọng hàng đầu của nhiều   nước nhằm hỗ trợ và phát huy lợi thế của mỗi quốc gia phát triển và là đòi hỏi   khách quan của quá trình phát triển kinh tế xã hội ở mỗi nước. Việt nam hiện là  nước đang phát triển vì vậy đầu tư nước ngoài là một trong những nhân tố chủ  yếu cho sự tăng trưởng kinh tế, là một trong những chỉ số căn bản đánh giá khả  năng phát triển. Đầu tư  trực tiếp nước ngoài đã góp phần chuyển dịch cơ  cấu  của nền kinh tế  Việt Nam từ tập trung sang nền kinh tế thị trường, đồng thời   nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp. Tốc độ  tăng trưởng của khu vực kinh   tế  có vốn đầu tư  nước ngoài tăng bền vững  ở  tất cả  các địa phương trong cả  nước, góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ  tiên tiến vào Việt Nam trong   một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viễn thông, khí hóa dầu, tin   học,   ô   tô,… Vì vậy, chúng ta có thể khẳng định: đầu tư nước ngoài đem lại nhiều lợi ích cho  thúc đẩy phát triển kinh tế ở Việt nam: a. Đem lại nguồn vốn để phát triển kinh tế Việt nam là một trong những nước đang phát triển vì vậy chúng ta rất cần  nguồn vốn đầu tư  để  phát triển kinh tế, xây dựng đất nước. Nhưng hiện nay  đất nước rất thiếu vốn, đầu tư  trong nước không đủ  nên ta phải đi huy động  nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. Nhờ đó mà giúp nước ta có nguồn vốn để sản  xuất kinh doanh, phát triển kinh tế, tận dụng và khai thác hiệu quả  các nguồn  lực của đất nước như: tài nguyên thiên nhiên, khí hậu,..   Nhằm mục tiêu xây  dựng Việt Nam trở thành một nước công nghiệp về  cơ  bản, và phát triển kinh  tế Việt Nam theo cơ chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, nguồn  
  15. 15 vốn đầu tư  nước ngoài (FDI) chính là nguồn vốn quan trọng hỗ  trợ  cho phát   triển kinh tế tại Việt Nam. Nhìn chung, đóng góp của FDI qua các giai đoạn đều   chiếm khoảng 16% tổng vốn đầu tư xã hội trong giai đoạn giai đoạn 2001­2006,  thì giai đoạn 2007­2014, với sự  gia tăng đáng kể  về  vốn giải ngân, khu vực  ĐTNN có sự cải thiện về đóng góp. Cụ thể từ năm 2007 cho đến 2012, vốn FDI   luôn chiếm tỷ trọng từ 21­30% trong tổng vốn đầu tư phát triển xã hội b. Có thể tiếp nhận khoa học công nghệ tiên tiến thế giới Với mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng  XHCN, khoảng cách phát triển khoa học công nghệ  giữa các nước phát triển,  nhất là Việt Nam với các nước công nghiệp phát triển còn lớn. Việc các nước  đang phát triển tự nghiên cứu để  phát triển khoa học kỹ thuật cho kịp với trình  độ  của các nước phát triển là việc khó khăn và tốn kém. Đây là cơ  hội cho các   nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam để  có thể  tiếp thu được kỹ  thuật­   công nghệ  thuận lợi nhất, tạo điều kiện thuận lợi để  rút ngắn con đường phát  triển của mình. Ví dụ như  nhờ sự chuyển biến tích cực theo hướng gia tăng tỷ  trọng đầu tư  vào lĩnh vực công nghệ  cao, lọc dầu và công nghệ  thông tin (IT),  nước ta đã đón nhận sự có mặt của các tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng thế giới:  Intel, Panasonic, Canon, Robotech.v.v.  Hầu hết các dự  án đầu tư  này sử  dụng   thiết bị  hiện đại xấp xỉ  100% và tự  động hoá đạt 100% cho sản lượng, năng  suất, chất lượng cao. c. Tạo công ăn việc làm cho người lao động, nhất là các vùng kinh tế  còn kém phát triển Ở  Việt nam bình quân trong thời kì 2005­2010 khu vực có vốn đầu tư  nước ngoài đã tạo việc làm thêm cho khoảng 16 vạn việc làm mỗi năm. Ngoài ta   khu vực kinh tế có vốn đầu tư  nước ngoài đã tạo ra khoảng vài triệu lao động  gián tiếp trong 6 năm qua. Điều này thể hiện rõ nhất ở các khu công nghiệp, khu   kinh tế. d. Giúp tạo nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước Đối với nhiều nước đang phát triển, hoặc đối với nhiều địa phương, thuế  do các xí nghiệp có vốn đầu tư  nước ngoài nộp là nguồn thu ngân sách quan  
  16. 16 trọng. FDI cũng đã giúp Việt nam có một bước tiến lớn hơn vào các thị trường   quốc tế, cải thiện tiềm năng xuất khẩu của Việt nam. FDI chiếm một tỷ  lệ  đáng kể trong các ngành công nghiệp chủ đạo của Việt nam, cụ thể là 42% công   nghiệp giầy da, 25% trong ngành may mặc và 84% trong điện tử, máy tính và các  linh kiện. e. Học   tập   được   kinh   nghiệp   quản   lý,   lãnh   đạo   điều   hành   doanh  nghiệp của nước ngoài Nhiều công ty chuyên nghiệp của các nước tiên tiến hơn đầu tư vào Việt  Nam, họ  xây dựng đội ngũ nhân viên và tiến hành quản lý nhân viên như  môi  trường quốc tế  chuyên nghiệp, khi làm việc trong môi trường chuyên nghiệp  hơn, nguồn nhân lực ở Việt Nam sẽ học hỏi được những kinh nghiệm quý báu.  Từ  đó góp phần nâng cao năng lực quản lý, điều hành của các nhà lãnh đạo   trong nước. f. Tạo điều kiện cho việc giao lưu kinh tế, tăng khả  năng cạnh tranh  của doanh nghiệp trong nước Do có sự cạnh tranh cao, buộc các doanh nghiệp trong nước phải đổi mới   phương pháp, cách thức, đồng thời tích cực học hỏi để  đổi mới khoa học công  nghệ  để  cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp có vốn  đầu tư  nước ngoài. Nhờ  đó thúc đẩy phát triển kinh tế  nước ta và sự  trưởng  thành rõ rệt của các doạnh nghiệp trong nước. g. Tạo đà phát triển cho kinh tế trong nước Việc Việt nam đã công nhận một cách chính thức và rộng rãi rằng FDI  đang ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự  phát triển của Việt nam trên   nhiều phương diện: vốn, công nghệ, nâng cao khả năng thanh toán quốc tế, phát   triển xuất khẩu, tham gia vào các thị trường quốc tế,… FDI đã hỗ trợ Việt nam   một cách tích cực trong việc mở  rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để  Việt nam  gia nhập ASEAN, ký kết thoả  thuận khung với EU, bình thường hoá và thoả  thuận thương mại song phương với Mỹ.Trong những năm gần đây, vốn đầu tư  trực tiếp nước ngoài vào Việt nam đã tăng lên đáng kể. 3. Bất lợi
  17. 17 a. Nước tiếp nhận đầu tư ­ FDI phụ  thuộc vào nền kinh tế  thế  giới: bên cạnh lúc ta đang   cần   vốn   thì   sau   một   cơn   khủng   hoảng   thì   FDI   có   xu   hướng  giảm, đòng thời quy mô bình thường của một dự  án cũng giảm  hơn so với thời gian trước.Lấy ví dụ  năm 2008 FDI vào Việt  Nam là 64 tỷ USD nhưng đến năm 2009 là 21.48 tỷ USD. ­ Tỉ  lệ  vốn còn thất: tỷ  lệ  góp vốn vào liên doanh của Việt Nam   còn quá thấp, lại thường bằng vốn đất đai, nhà xưởng hay lao  động điều này dẫn đến sự  thiệt thòi cho bên Việt Nam trong   việc ra quyết định cũng như hưởng quyền lợi. ­  Chưa thu hút được đối tác: phần lớn lượng vốn FDI đến từ châu  Á đặc biệt là Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia, Nhật, Singapore và  một số  nước khác như: Hoa Kỳ, Liên Bang Nga, Pháp, Canada,  Pháp. Năm 2009 vừa qua Hoa Kỳ đứng thứ  đầu trong bảng xếp   hạng các nước đầu tư  trực tiếp vào Việt Nam. Các nước như  Anh, Pháp, Canada, Đức… vẫn giữ  những vị  trí rất khiêm tốn.   Trong số 10 nước đứng đầu trong đầu tư trực tiếp vào Việt Nam  thì có 5 nước thuộc Châu Á còn lại là các Châu lục còn lại (tính  đến ngày 15/12/2009). ­ Hiệu quả đầu tư chưa cao và không đồng đều: một số dự án đã  đi vào hoạt động 3 ­ 4 năm nhưng vẫn bị thua lỗ. Nguyên nhân lỗ  vốn có nhiều, song yếu tố  đáng cảnh báo là chi phí vật chất và  khấu hao tài sản cố  định quá lớn do định giá máy móc, thiết bị  nước ngoài đưa vào liên doanh quá cao. Ngây lãng phí tài sản của  doanh nghiệp và nó cũng làm ảnh hưởng tớ sự phát triển của đất  nước. ­ Cơ  cấu đầu tư  theo ngành chưa thật hợp lý: Trong ngành công  nghiệp, công nghiệp nặng chiếm tỷ  trọng lớn đặc biệt là công  nghiệp chế biến và chế tạo. Không tạo được sự phát triển đồng  đều giữa các ngành các lĩnh vực làm cho có thể nền kinh tế phát 
  18. 18 triển không cân đối và vững trắc đòng thời tạo phân biệt các   vùng miền càng trở nên rõ nét. ­ Tạo ra sự  cạnh tranh gay gắt: bên cạnh mặt tích cực sự  cạnh  tranh đó cũng xuất hiện nhiều yếu tố  tiêu cực  ảnh hưởng đến   tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp trong nước. Các doanh  nghiệp Việt Nam quá yếu kém về mọi mặt nếu so với các công  ty liên doanh, hay 100% vốn nước ngoài về  vốn, công nghệ  và  đặc biệt là cách quản lý, thiếu hẳn sự năng động và nhạy bén để  thích nghi được với cơ chế  thị  trường. Rõ nhất là sản xuất bia,   bột giặt, dệt, da, lắp ráp điện tử, chế biến nông sản, xi măng. ­ Các dự  án và vấn đề  quy hoạch: mô hình khu công nghiệp, khu   chế xuất tuy có nhiều ưu điểm, nhưng mô hình này ở Việt Nam   cũng   xuất   hiện   những   yếu   tố   hạn   chế.   Trước   hết   đó   là   xu  hướng phát triển tràn lan không theo quy hoạch, chạy theo số  lượng mà chưa tính đến hiệu quả.  Ở  các khu công nghiệp, khu   chế xuất tổng diện tích là 9000 ha, nhưng mới lấp đầy 23% diện  tích còn 77% còn lại vẫn còn chờ  các chủ  đầu tư. Nước ta còn  nghèo, nhưng Nhà nước đã dành hàng trăm triệu USD để  xây  dựng kết cấu hạ  tầng của các khu công nghiệp để  mời gọi các   nhà đầu tư  trong và ngoài nước, nhưng diện tích cho thuê được   quá ít so với dự kiến. Không tận dụng được nguồn lực săn có. b. Nước đi đầu tư ­ Hầu hết các dự  án mới: hoạt động đầu tư  trực tiếp ra nước   ngoài chưa thu được kết quả kinh doanh cao. Hầu hết các dự án  đầu tư  ra nước ngoài của Việt Nam đều là những dự  án mới  được thực hiện, chưa bước vào giai đoạn sản xuất kinh doanh  nên kết quả kinh doanh hầu như chưa có, hoặc nếu có cũng đang  còn  ở  trong giai đoạn đầu nên gặp rất nhiều khó khăn về  thị  trường và công suất khai thác dự án chưa cao nên đang còn trong   tình trạng thua lỗ.
  19. 19 ­ Tỷ  lệ  vốn đầu tư  thực hiện trên tổng số  vốn đăng ký rất thấp:   theo bộ kế hoạch và đầu tư, tính đến hết tháng 8 năm 2006 tỷ lệ  vốn đầu tư  thực hiện trên tổng số  vốn đăng ký vẫn chưa đạt  được 10% trong khi đó các dự án đầu tư trực tiếp từ nước ngoài  vào Việt Nam đạt tỷ lệ 55%. ­ Số lượng dự án và quy mô đầu tư còn ít: điều này sẽ  gây nhiều  khó khăn cho các doanh nghệp Việt Nam trước sức ép của các   đối thủ cạnh tranh có tiềm lực tài chính mạnh trên thị trường thế  giới. ­ Lĩnh vực đầu tư  tập trung chủ  yếu vào một số  ngành: lĩnh vực  đầu tư  ra nước ngoài của Việt Nam vẫn còn hạn hẹp, mới chỉ  tập trung vào một số ngành công nghiệp, xây dựng, thăm dò, khai  thác dầu khí, sản xuất hàng gia dụng, nông nghiệp và một số  loại hình dịch vụ. ­ Đối tác đầu tư  quen thuộc: đối tác mà Việt Nam thực hiện đầu  tư còn chưa rộng rãi, mới chỉ tập trung ở một số nước như Mỹ,  Nga, Anh, Nhật, Singapo, Lào, Campuchia… Hoạt động đầu tư  sang các nước phát triển khác còn hết sức khiêm tốn so với việc  các nước đó đầu tư  trực tiếp sang Việt Nam. Ngoài ra còn một  số  khó khăn như  hình thức đầu tư  chủ  yếu vẫn là 100% vốn  Việt Nam ở nước ngoài và các dự án liên doanh chiếm một tỷ lệ  khiêm tốn hơn. Công tác thẩm định, cấp giấy phép đầu tư  trực  tiếp ra nước ngoài còn chậm, chưa rõ ràng. 4. Nguyên nhân Hình thức đầu tư trực tiếp ở nước ngoài còn tồn tại nhiều bất cập và hạn  chế, vì thế  chúng  ta cần biết rõ nguyên nhân gây nên tình trạng đó để  có thể  đưa ra những  biện pháp khắc phục thiết thực và hiệu quả. Như đã phân tích ở  trên, có thể thấy những nguyên nhân chính gây ra những bất cập như: Cơ  cấu vốn đầu tư  theo lĩnh vực và theo địa bàn chưa đáp ứng   yêu cầu của phát triển kinh tế; hiệu quả tổng thể về mặt kinh tế ­ xã 
  20. 20 hội do hoạt động đầu tư  trực tiếp nước ngoài chưa cao nhà đầu tư  nước ngoài đầu tư  vào Việt Nam vẫn còn ít; trình độ  lao động trong  các doanh nghiệp nước ngoài còn chưa cao. Nguyên nhân của tình  trạng trên do khung pháp lí về  đầu tư  còn nhiều phiền hà; thủ  tục  rườm rà; việc sử  dụng vốn đầu tư  nước ngoài đối với các nội dung  phát triển kinh tế còn nhiều hạn chế Chi phí dành cho đào tạo lao động cũng trở  thành một nguyên  nhân gây khó khăn cho các chủ  đầu tư   ở  nước ngoài vào Việt Nam.  Với dây chuyền sản xuất hay công cụ khai thác, dịch vụ sử dụng công   nghệ  cao đòi hỏi lao động cũng phải có trình độ  tương  ứng mà thực   trạng lao động ở nước ta còn rất nhiều thiếu sót, quá trình đào tạo sẽ  mất thời gian dài và chi phí là không hề  nhỏ   để  thuê các chuyên gia,   xây dựng trường lớp dậy nghề...v.v Về phương thức chuyển giao công nghệ: được thực hiện thông  qua cá hình thức liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn  đầu tư  nước   ngoài, hợp tác kinh doanh. Tuy vậy, hình thức chuyển giao này vẫn  gặp nhiều khó khăn. Về lao động, nhà đầu tư nước ngoài với mục tiêu lợi nhuận cao  nên chưa thực hiện đúng các quy định của Luật lao động (cách hành  xử  với người  lao  động, giờ  làm, lương...) gây ra những cuộc  đình  công, phản  ứng trong dư  luận thực tế  đã xảy ra  ở  các doanh nghiệp   đầu tư của Đài Loan, Trung Quốc Cơ cấu đầu tư chưa hợp lí dẫn đến sự méo trong nền kinh tế Về hệ thống xử lí rác thải của cá nhà máy xí nghiệp: các doanh  nghiệp vẫn chưa chú trọng vào đầu tư  các thiết bị  xử  lí rác thải dẫn  đến việc ô nhiễm môi trường nghiêm trọng gây nhiều tác hại cho   những hộ  dân cư  xung quanh, gây nên làn sóng phản đối mạnh mẽ.   Hơn thế nữa, Việt Nam đang dần trở thành bãi rác công nghệ do nước   ngoài thải ra với thiết bị  máy móc cũ kĩ lạc hậu gây ô nhiễm không  khí, nguồn nước,...
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2