intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo nghiên cứu khoa học: Trầm cảm ở HS THPT, thực trạng và giải pháp

Chia sẻ: Nguyen Thi Dau | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:79

313
lượt xem
44
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của dự án: Tìm ra các giải pháp thiết thực, có tính khả thi nhằm giúp các bạn học sinh THPT giảm bớt những căng thẳng khi bị mọi người trong xã hội, bản thân mình tự áp đặt cho mình. Từ đó giúp các bạn sống đúng với độ tuổi và kiểm soát hành vi của mình, sống hết mình với tuổi trẻ, với đam mê.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo nghiên cứu khoa học: Trầm cảm ở HS THPT, thực trạng và giải pháp

  1. BÁO CÁO NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐỀ TÀI TRẦM CẢM Ở HS THPT: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Lĩnh vực:  Khoa học xã hội hành vi NHÓM THỰC HIỆN 1. Nhóm trưởng: Phùng Thị Xuân 2. Thành viên: Vũ Huyền Trang Giáo viên hướng dẫn:  Nguyễn Thị Đậu 1
  2. HẢI DƯƠNG ­2018 MỤC  LỤC LỜI CẢM ƠN TÓM TẮT NỘI DUNG DỰ ÁN  ………………………………………………….7 Phần   I:   Tổng   quan   vấn   đề  ……………………………………………………….8 1.1. Lí do chọn đề tài ………………………………………………………………8 1.2. Câu hỏi nghiên cứu …………………………………………………………..10 1.3. Cơ  sở  thực hiện đề  tài………………………………………………………… 10 1.3.1. Cơ sở khoa học………………………………………………….…………..10 1.3.2.  Cơ  sở  thực  tiễn……………………………………………………...……… 14 1.4. Mục tiêu nghiên cứu…………………………………………………………..17 1.5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn…………………………………………...…… 18 1.6.   Giới   hạn   phạm   vi   nghiên   cứu………... ……………………………………….18 1.7.   Phương   pháp   nghiên   cứu……………………………...……………………… 18 1.8.   Tính   sáng   tạo   của   đề   tài   …………………………………... ………………….19 2
  3. Phần   II:   Kết   quả   và   thảo  luận…………………………………………………..20 2.1.   Tỉ   lệ   học   sinh   mắc   trầm   cảm………………………... ………………………..20 2.2.   Mô   tả   về   trầm   cảm………………………………... …………………………..22 2.2.1.   Diễn   biến   một   ngày   của   trầm   cảm   đối   với   học   sinh   trung   học   phổ  thông….22 2.2.2. Trầm cảm gây ra sự  đau khổ  cả  về  tinh thần lẫn thể  xác.…….. ………  …..23 2.2.3. Trầm cảm khiến mọi thứ trở lên khó khăn và tồi tệ hơn.…………………..  23 2.2.4.   Làm   thay   đổi   quan   điểm   và   suy   nghĩ   của   chính   mình……………….. ……..24 2.2.5.   Không   còn   hứng   thú   với   sở   thích   của   mình   …………………………. …….25 2.2.6. Những yếu tố  cảm xúc cứ  dồn nén tác động làm cho người bệnh trở  nên  vô   cảm……………………………………………………………………………. …..25 2.2.7.   Sự   tự   ti,   bi   quan,   thất   bại   trong   suy   nghĩ   và   hành   động   ………... …………..25 2.2.8.   Sự   khác   nhau   giữa   trầm   cảm   và   buồn   bã.……………………  ……………..26 2.2.9.   Sự   khác   nhau   giữa   trầm   cảm   và   tự  kỉ……………………………………….26 3
  4. 2.2.10. Sự khác biệt giới tính khi mắc bệnh ……………………………..………27 2.2.11. Biểu hiện nhận biết chung của trầm cảm  ở  học sinh THPT ……….. ……..29 2.3.   Nguyên   nhân   dẫn   tới   căn   bệnh   trầm   cảm………………………………. …….31 2.3.1. Bệnh lí…………………………………………..…………………………..31 2.3.2. Áp lực từ phía bên ngoài      ………………………………….……………34 2.3.3. Áp   lực   do   chính   bản   thân   tạo   nên……………………………………. …….42 2.4. Hậu   quả   của   căn   bệnh   trầm   cảm………………………………………. ….45 2.4.1. Các bệnh liên quan tim mạch và não bộ………………………………..…46 2.4.2. Giảm   sức   mạnh   của   hệ   miễn  dịch………………………………………….47 2.4.3. Mất   đi   cảm   giác   ngon   miệng   và   mất  ngủ………………………………….48 2.4.4. Nhức   đầu và  đau lưng……………………………………………………… 48 2.4.5. Biến   động   trong   áp   lực  máu………………………………………………..48 2.4.6. Mệt mỏi và kiệt sức……………………………………………………….48 2.4.7. Tự tử………………………………………………………………….…….48 4
  5. 2.5.   Giải   pháp   giúp   học   sinh   THPT   vượt   qua   căn   bệnh   trầm   cảm………………..49 2.5.1.   Giải   pháp   thứ   nhất:   Loại   trừ   các   tác   động   tiêu  cực………………………..50 2.5.2.   Giải   pháp   thứ   hai:   Tăng   cường   các   hoạt   động   tích  cực…………………….57 2.5.3. Giải pháp thứ ba: Bản thân tự điều chỉnh cảm xúc………………………… 59 Phần   III:   Kết   luận   và   khuyến   nghị.................. ………………………………..64 3.1. Kết luận……………………………………………………………..............64 3.2. Khuyến nghị…………………………………………………………………64 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT Từ viết tắt Từ đầy đủ THPT Trung học phổ thông DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 2.1. Biểu đồ tỉ lệ học sinh THPT mắc bệnh trầm cảm 5
  6. Hình 2.2. Kết quả khảo sát về biểu hiện rối loạn cảm xúc của các bạn học sinh. Hình 2.3.  Biểu hiện của trầm cảm nhẹ Hình 2.4. Gen gây ra bệnh trầm cảm  Hình 2.5. Bố mẹ ơi đừng bắt con học Hình 2.6. Bạo lực gia đình Hình 2.7. Áp lực học tập, thành tích Hình 2.8. Nỗi ám ảnh từ các môn học  Hình 2.9. Bị bạn bè bắt nạt Hình 2.10. Tự tạo áp lực cho chính mình Hình 2.11. Hậu quả của trầm cảm Hình 2.12. Trầm cảm sát thủ giấu mặt trong xã hội hiện đại Hình 2.13. Làm bạn với con Hình 2.14. Kế hoạch GDTT đạo đức Hồ Chí Minh cho HS của THPT Nhị Chiểu Hình 2.15. Các hoạt động ngoại khóa của trường THPT Nhị Chiểu. Hình 2.16. Thanh niên TN THPT Nhị Chiểu tiếp sức mùa thi và giới thiệu sách Hình 2.17. HĐ tuyên truyền phổ  biến kiến thức về trầm cảm của học sinh lớp   11A. Hình 2.18. Ngày hội thể thao. 6
  7. LỜI CẢM ƠN 7
  8. Nghiên cứu khoa học là một sân chơi vô cùng bổ ích cho học sinh trung học.  Đây là nơi tìm ra những bạn trẻ  tài năng và sáng tạo, giúp các bạn học sinh có  thể thể hiện năng lực của bản thân. Chúng em vô cùng cảm ơn Sở  giáo dục và  đào tạo Hải Dương đã tổ chức cuộc thi này để chúng em có thể  được tham gia,  thể hiện tư duy của bản thân. Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu, chúng em   đã nhận được sự giúp đỡ của các cơ quan, đơn vị sau: ­ Trường THPT Nhị Chiểu – huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương ­ Trường THPT Kinh Môn II ­ huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương ­ Trường THPT Trần Quang Khải ­ huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương ­ Trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Kinh Môn, Hải Dương ­ Trường THPT Đông Triều, Quảng Ninh. Nhóm tác giả chúng em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu các nhà trường,  các thầy cô giáo và các bạn học sinh đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện cho  chúng em thực hiện đề tài này.  8
  9. TÓM TẮT NỘI DUNG DỰ ÁN “Trầm cảm  ở học sinh THPT – Thực trạng và Giải pháp” là một đề  tài thuộc lĩnh vực xã hội và hành vi. Ý tưởng đề tài xuất phát từ một thực trạng   đang rất “nóng” hiện nay, khi mà cứ  vài tháng, thậm chí vài tuần chúng ta lại  nghe được những thông tin đau lòng từ các phương tiện truyền thông về  những  vụ  tự tử, mà đối tượng lại là các bạn học sinh THPT. Tại sao lại có tình trạng   như  vậy? Sau một thời gian tìm hiểu về  vấn đề, chúng tôi đã tìm ra được một  trong những nguyên nhân dẫn đến tự tử đó chính là bệnh Trầm Cảm. Vậy chúng  ta cần làm gì giúp cho các bạn học sinh THPT vượt qua trầm cảm để những vụ  việc đáng tiếc trên không tiếp tục gia tăng trong xã hội hiện đại? Từ cơ sở khoa  học, cơ  sở  thực tiễn và các phương pháp nghiên cứu, đề  tài hướng tới tìm ra   thực trạng và giải pháp giúp các bạn học sinh THPT giảm áp lực và suy nghĩ tích   cực. Kết quả, đề tài đã chỉ ra tỉ lệ học sinh mắc trầm cảm, tác hại của trầm cảm  và phân tích được nguyên nhân trong đó đặc biệt chú ý đến nguyên nhân do chính  các bạn học sinh tự tạo áp lực cho mình. Qua đó đã đề  xuất được ba nhóm giải   pháp khả  thi có khả  năng  ứng dụng trong thực tiễn. Đề  tài thể  hiện niềm đam   mê nghiên cứu khoa học kĩ thuật và ý thức trách nhiệm trước một căn bệnh đang  làm  ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống của các bạn trẻ  đặc biệt là các bạn  học sinh THPT ­ những mầm xanh tương lai của đất nước.  9
  10. PHẦN I TỔNG QUAN VẤN ĐỀ 1.1. Lý do chọn đề tài   Tôi là ai? Mục đích sống của tôi là gì? đây có lẽ là một câu hỏi gây hoang  mang cho rất nhiều bạn học sinh trung học hiện nay. Có những ngày, tôi lang   thang trong mớ  cảm xúc hỗn độn, đi tìm cái gọi là đam mê mà hàng ngàn hàng  vạn bạn trẻ đang tìm kiếm để  rồi tôi thấy mình nhỏ bé và bất tài. Tôi mệt mỏi  với đống bài tập nhàm chán. Tôi hoang mang với kì thi THPT Quốc gia sắp diễn   ra. Tôi bất lực với mọi thứ, và đã có lúc tôi ước giá như mình chưa từng tồn tại.   Tôi không hiểu cảm giác đó là gì? Tôi bị  kéo theo những suy nghĩ đó một cách  ngu ngốc trong một khoảng thời gian khá lâu. Cho đến một ngày, tôi đọc một bài  báo nói về  căn bệnh trầm cảm. Lúc đó, khái niệm về  trầm cảm của tôi rất mơ  hồ và sự tò mò đã thôi thúc tôi tìm hiểu về đề tài này.  Có lẽ  rằng trong tất cả chúng ta đều có lúc cảm thấy buồn bã, u tối nhưng  để  vượt qua cảm giác đó không phải là ai cũng có thể  làm được. Yếu đuối  ư?  Không hề. Trầm cảm giống như  một sợi dây mà ta càng giãy thì càng bị  siết   chặt, càng cố  thoát khỏi thì càng đau đớn. Trước khi qua đời, nam ca sĩ   Hàn   Quốc Jonghuyn đã viết một tâm thư gửi chị gái, trong đó có đoạn: Bên trong tôi  mọi thứ đã vỡ vụn. Căn bệnh trầm cảm gặm nhấm tôi một cách chậm rãi, cuối   cùng cũng đã nuốt chửng tôi. Và tôi không thể  nào đánh bại được nó.  Có thể  10
  11. thấy rằng, không phải là họ  không muốn thoát ra mà là không thể thoát ra được  cái hố sâu vô hình ấy. Một số  người cho rằng: trầm cảm là một căn bệnh của người lớn. Nhưng  hiện nay, rất nhiều nghiên cứu cho rằng trầm cảm diễn ra  ở cả trẻ em và đặc   biệt là học sinh trung học. Theo các chuyên gia y tế  và giáo dục,  ở  độ  tuổi học  sinh, do những thay đổi về  hormone tăng trưởng trong giai đoạn dậy thì khiến   khả năng kiềm chế tâm lý rất kém. Và đối với các bạn học sinh do phải chịu áp  lực từ nhiều phía, nhiều sự thay đổi của đời sống nên gây ra rất nhiều biến đổi  về mặt tâm, sinh lí. Đó là một loạt các trạng thái khác nhau như lo âu, chán nản,   buồn bã, mệt mỏi, vô vọng, cô đơn… Không giống như tự sát, trầm cảm diễn ra   không ngừng với cường độ thấp. Tự tử là dấu chấm hết cho cuộc đời: chúng ta  biết đến và nhìn thấy ngay lập tức. Ngày nay trầm cảm là một trong những rối loạn tâm thần phổ  biến và gia   tăng thành xu hướng  ở  nhiều quốc gia trên thế  giới, đặc biệt là các nước đang  phát triển. Trầm cảm là một vấn đề lớn cần được quan tâm đặc biệt là công tác  chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Trầm cảm chính là tiếng kêu khóc trong sự  im   lặng. Họ giằng xé, cào cấu bản thân một cách bất lực. Có người cho rằng, trầm  cảm cũng giống như bị bóng đè. Mặc dù lí trí kêu gọi mình phải tỉnh táo nhưng  cơ thể lại không thể cử động, không thể chống đỡ được, cảm thấy mình như bị  giam cầm trong cái xác của chính mình. Những người bị trầm cảm sẽ không yêu  cầu mọi người một cách trực tiếp nhưng lại là người cần sự giúp đỡ nhất. Như vậy, trầm cảm âm thầm bào mòn con người, âm thầm cướp đi bạn bè,   người thân và ảnh hưởng sâu sắc đến chất lượng cuộc sống như vui chơi và học   tập của các bạn học sinh trung học. Tuy nhiên, khi rơi vào tình trạng cô lập, ít ai   cảm nhận được dấu hiệu của chúng. Thật khó để  biết cách đối phó với trầm  11
  12. cảm, đặc biệt là khi nó kéo dài suốt một khoảng thời gian. Nên không phải ai   cũng có sự nhận thức đúng đắn về  vấn đề  này. Sự  hiểu biết không đầy đủ  về  trầm cảm cũng có nguy cơ tăng mạnh đối với những cá nhân có dấu hiệu hoặc   nguy cơ  mắc trầm cảm từ  trước đó. Học sinh có dấu hiệu trầm cảm nhưng   không có hiểu biết về cách tự mình giải quyết hay cố tình lảng tránh đều có thể  dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Vì vậy, chúng tôi quyết định nghiên cứu   đề tài này nhằm đưa ra một số giải pháp giúp học sinh trung học phổ thông thoát  khỏi cái bóng của trầm cảm. Các bạn là những người đặc biệt hơn người khác.   Chúng tôi sẽ giúp bạn nhận ra được bạn đặc biệt ở chỗ nào và từ đó đưa bạn ra  khỏi bóng tối mà bạn nghĩ là sẽ không bao giờ thoát khỏi được. 1.2. Câu hỏi nghiên cứu Học sinh trung học phổ thông cần làm gì để thoát khỏi bệnh trầm cảm? Làm  thế nào để có cảm hứng sống: sống hết mình với nhiệt huyết tuổi trẻ, với hoài   bão và đam mê? Từ  câu hỏi nghiên cứu chúng tôi đưa ra Slogan: “CHÁY HẾT   MÌNH” và nghiên cứu đề tài trên các khía cạnh:  ­ Thực trạng vấn đề: Tỉ lệ học sinh THPT mắc bệnh trầm cảm ­ Nguyên nhân ­ Hậu quả ­ Giải pháp 1.3. Cơ sở thực hiện đề tài 1.3.1. Cơ sở khoa học Để  có được một nền y học phát triển như  hiện nay, chúng ta không thể  không kể đến Hypocrate ­ người đặt nền móng cho nền y học hiện đại. Thuyết  12
  13. thể dịch ­ một nghiên cứu vĩ đại của ông lần đầu tiên trong lịch sử đã cất tiếng   gọi tên thuật ngữ  Trầm Cảm. Như vậy có thể nói con người đã biết đến trầm   cảm từ  hàng nghìn năm trước.  Ở  thời Ai Cập cổ  đại, đức vua Saul đã có các  biểu hiện của trầm cảm như trong sách kinh Cựu Ước đã viết. Nhưng trong thời   kì này mọi người tin rằng bệnh này do sự trừng phạt của Chúa trời nên các linh  mục   là   những   vị   thuốc   trị   liệu   chính.   Đến  năm   120   ­180   sau   Công   Nguyên,  Aretaeus đưa ra khái niệm về  trầm cảm nội sinh và trầm cảm ngoại sinh. Vào   thế  kỷ  thứ  19, trầm cảm được xem là một sự  yếu đuối về  cá tính do sự  di  truyền học. Trong những thập niên 50­60, trầm cảm được chia làm 2 loại, nội   tại và thần kinh. Khi trầm cảm bắt nguồn từ bên trong cơ thể, có thể  do nguồn  gốc từ gen hoặc vô căn thì được gọi là loại nội tại. Còn trầm cảm do thần kinh   là do các yếu tố   ảnh hưởng từ  thúc đẩy trực tiếp từ  môi trường như  do bị   ức  chế tinh thần nặng.  Sang đến thập niên 70­80 các nhà nghiên cứu chuyển tập trung từ  nguyên  nhân sang ảnh hưởng của rối loạn trầm cảm đến người bệnh. Điều đó có nghĩa  là những nghiên cứu về  nguyên nhân và  ảnh hưởng của trầm cảm của những   nhà chuyên môn là tương đối chính xác. Trên thực tế thì ngay từ hàng nghìn năm  trước con người và các nhà khoa học phần xác định được hướng đi và nhận định   được tác hại vô cùng khủng khiếp của trầm cảm. Nhận ra được vấn đề  cấp  bách này đến năm 1992, trầm cảm được các chuyên gia nghiên cứu hoàn thiện  về khái niệm của căn bệnh và phân loại trong Bảng phân loại bệnh Quốc tế lần   thứ  10 của WHO. Mới nhất là trong hướng dẫn chẩn đoán và thống kê các rối  loạn tâm thần lần thứ 5 đã chỉ  rõ trầm cảm được phân vào nhóm rối loạn cảm   xúc. Rối loạn cảm xúc được chia làm hai loại thường gặp là hưng cảm (rối loạn   lưỡng cực) và trầm cảm có nghĩa là vui cực độ  và buồn cực độ. Qua hàng loạt  các nghiên cứu từ hàng nghìn thế kỉ trước tuy vẫn có nhiều ý kiến tranh cãi khác  13
  14. nhau về  mặt y khoa nhưng hầu hết các nhà khoa học vẫn nhất trí đồng ý rằng:   Rối loạn trầm cảm là một hội chứng phản ánh tâm trạng buồn bã hoặc một nỗi   khổ quá mức bình thường.  Theo tổ  chức y tế  thế giới WHO thì trầm cảm được biết đến là một chứng  rối loạn sắc khí trong tâm thần học. Do hoạt động của bộ  não rối loạn nên tạo   nên bất thường trong hành vi và suy nghĩ. Cũng có thể hiểu theo một khái niệm  tương tự thì trầm cảm là một biểu hiện của trạng thái  ức chế  trong tất cả  các  hoạt động của tâm thần và cả thể chất. Đó chính là một trạng thái bị đè nén, kìm   hãm do sự  tiềm tàng phẫn uất  ở  trong lòng rất lâu không được giải phóng của   tất các hoạt động tâm thần và thể chất. Gây ra những cảm giác buồn phiền, căng   thẳng và mất hứng kéo dài dai dẳng. Do sự  kìm nén  ấy nên những người mắc   bệnh luôn luôn cảm thấy buồn rầu và mệt mỏi, cáu gắt vô cớ, luôn có những suy  nghĩ tiêu cực về  cuộc sống, chán ghét mọi thứ. Tình trạng này không gây  ảnh  hưởng nhỏ đến cuộc sống mà còn khiến cho cuộc sống của người bệnh trở nên  vô nghĩa chỉ  muốn thoát khỏi đi tìm cái chết để  cứu bản thân mình.  Cuộc sống  của họ chỉ mang một màu trầm buồn, những cảm xúc tiêu cực mà trầm cảm gây  ra như  đám dây leo, bám rễ  thật sâu vào tâm hồn đang dần héo úa và hút cạn   nguồn sinh lực cuối cùng họ. Nỗi buồn, sự  thất vọng và chán nản cứ  bám lấy,  bủa vây họ mỗi ngày, mỗi giờ. Xã hội ngày càng phát triển khiến cho những vấn đề  bệnh lí còn nguy hiểm   hơn cả. Suốt một năm 2017 dư luận xã hội đã dấy lên một hồi chuông báo động   nguy cấp về  tình trạng trầm cảm gia tăng và có xu hướng trẻ  hóa. Dựa vào   những nguyên nhân, hình thức và nguyên lí gây bệnh thì theo tổ  chức y tế  thế  giới trầm cảm chia làm nhiều loại khác nhau: trầm cảm nặng, trầm cảm nhẹ,   trầm cảm xuất hiện từng giai đoạn, trầm cảm tái diễn, trầm cảm nặng và tái   14
  15. diễn, trầm cảm mức độ  nhẹ  liên tục, trầm cảm di chứng của rối loạn khí sắc   trầm cảm, rối loạn phân liệt cảm xúc. Trầm cảm nặng được phân chia thành 2 loại đó là không loan thân v ̣ ̀ ơi biêu ́ ̉   ̣ hiên bu ồn thảm,  ủ  rũ, bi quan, chán nản và loan thân v ̣ ̀ ới những biểu hiện như  hoang tưởng, ao giac,  ̉ ̉ ́ ư: tự tử, giêt ng ́ ao thanh xui khiên nh ́ ươi, không ăn, bo nha ̀ ̉ ̀  ̉ ̀ ̀ ̉ và nhay lâu la nguy hiêm nhât. ́ Khác với trầm cảm nặng,  trầm  cảm nhẹ  xuất hiện đơn độc về  mức độ,  không gây nên sự đau buồn và trở ngại đối với hoạt động hàng ngày, thường kéo  dài ít nhất 2 tuần, không có hiện tượng hoang tưởng, ảo giác. Trầm cảm xuất hiện từng giai đoạn: tái diễn nhiều đợt và có thể xen kẽ với  giai đoạn hưng cảm. Giữa các giai đoạn trầm cảm và hưng cảm là thời kỳ  khí  sắc bình ổn hoàn toàn. Loại trầm cảm này còn được gọi là bệnh loạn thần hưng   trầm cảm. Tỉ  lệ mắc bệnh  ở nam nữ gần như nhau, sau tuổi trung niên thì giai  đoạn trầm cảm thường xuất hiện nhiều hơn giai đoạn hưng cảm và kéo dài hơn. Trầm cảm tái diễn  biểu hiện giống như  loại trầm cảm nặng và trầm cảm  nhẹ đã nêu trên nhưng không xuất hiện đơn độc mà tái diễn nhiều đợt trong đời  người. Giai đoạn trầm cảm kéo dài từ  3 ­ 12 tháng, trung bình 6 tháng. Bệnh   thường khởi phát chậm, thường gặp  ở độ tuổi từ 50. Phần lớn bệnh được phục  hồi hoàn toàn và tỉ lệ mắc bệnh trầm cảm loại này ở nữ ghi nhận gấp đôi nam. Trầm cảm nặng và tái diễn gần giống như  các bệnh trước kia gọi là trầm  cảm, trầm uất, loạn thần hưng trầm cảm, trầm cảm sinh th ể, tr ầm c ảm n ội   sinh. Trong đời, con người ít nhất thường có hai giai đoạn trầm cảm nặng hay   nhẹ  tái diễn, mỗi giai đoạn thường kéo dài trên 2 tuần, giữa hai giai đoạn trầm  cảm phải có một thời kỳ lành bệnh ít nhất 6 tháng. Trầm cảm mức độ nhẹ  liên tục biểu hiện, đơn độc nhưng kéo dài, có khi gần  hết tuổi thanh niên, gây nên sự đau buồn và trở ngại cho sinh hoạt lao động, làm   15
  16. việc và học tập của người bệnh. Bệnh có thể  nặng lên và tiến triển như  rối  loạn trầm cảm tái diễn hay xen kẽ  với các giai đoạn hưng cảm. Nếu các giai   đoạn trầm cảm và hưng cảm xen kẽ  nhau được gọi là khí sắc tuần hoàn; nếu   mức độ khí sắc trầm, nhẹ, kéo dài thì gọi là loạn khí sắc. Trầm cảm di chứng của các rối loạn khí sắc trầm cảm: biểu hiện đơn độc  hoặc tái diễn nhưng mức độ  nhẹ, không kéo dài gồm các trạng thái hỗn hợp  trầm cảm và hưng cảm, trầm cảm  ẩn, rối loạn xúc cảm khác không liên quan  đến nghiện rượu, nghiện ma túy, rối loạn nội tiết hay rối loạn tâm thần thực   tổn. Phân liệt cảm xúc: biểu hiện các triệu chứng phân liệt và triệu chứng cảm   xúc xuất hiện đồng thời, nổi bật như nhau. Lưu ý thể  trầm cảm xuất hiện sau   cơn loạn thần cấp tính của bệnh tâm thần phân liệt không xếp vào loại trầm  cảm này. Các triệu chứng trầm cảm biểu hiện như   đã nêu  ở  trên. Các triệu   chứng phân liệt  ở  bệnh nhân biểu hiện ý nghĩ vang lên thành tiếng nói  ở  trong  đầu, bị  những lực lượng xa lạ  nào đó điều khiển, mưu hại; nghe thấy những  tiếng nói gièm pha, buộc tội mà thực tế  không có... Phần lớn bệnh nhân được  phục hồi hoàn toàn sau điều trị, một số  ít trường hợp tiến triển thành thiếu sót  phân liệt như thờ ơ với ngoại cảnh, có hành vi kỳ dị... Trầm cảm có thể kéo dài hoặc tái phát nhiều lần, làm suy giảm đáng kể khả  năng làm việc, khả năng tương tác đương đầu với cuộc sống. Trường hợp nặng  nhất  có thể dẫn tới tự tử.  Ở mức độ  nhẹ, bệnh có thể  chữa trị  bằng nhiều cơ  chế điều trị về tâm lí, dinh dưỡng …mà không cần dùng thuốc. Với mức độ vừa  và nặng thì có người bệnh có thể kết hợp nhiều phương pháp vào cùng trị  liệu   như kết hợp điều trị tâm lí khoa học và điều trị bằng thuốc. Như vậy căn bệnh trầm cảm trên thực tế có nhiều loại khác nhau nên rất khó  để  người bệnh có thể  phát hiện và nhận thức được các triệu chứng mình mắc   16
  17. phải có liên quan gì đến trầm cảm không. Dù cho mắc bệnh trầm cảm ở mức độ  nào đi chăng nữa thì trong cơn bộc phát sẽ  dẫn tới các hệ  lụy vô cùng tàn khốc  và tồi tệ có thể là tự tử hay sát hại người khác. Theo như công bố của Mỹ thì cứ  40 giây trôi qua lại một sinh mạng kết thúc do chính suy nghĩ và hành vi của  mình dồn nén. Trầm cảm nó đáng sợ hơn ta tưởng. Theo như phát biểu của bác   sĩ Tô Thanh Phương (Phó giám đốc Bệnh viện Tâm thần Trung  ương I)  thì  “  Không có gì đau đớn bằng căn bệnh trầm cảm. Người bị  bệnh trầm cảm chỉ   muốn tìm đến cái chết. Thậm chí đau đớn như bệnh ung thư con người còn chịu   đựng được chứ trầm cảm thì khó ai chịu đựng được nó” 1.3.2. Cơ sở thực tiễn Theo thông báo của tổ  chức Y tế thế giới WHO thì tính đến năm 2020 trầm   cảm là căn bệnh đứng thứ hai trong số những căn bệnh phổ biến của thế giới và   sẽ là gánh nặng bệnh tật hàng đầu vào năm 2030. Hiện nay trung bình hàng năm  thế  giới có khoảng trên 200 triệu người bị  mắc bệnh trầm cảm, nghĩa là mỗi  quốc gia có từ  3­5% dân số  mắc phải,  ở  Việt Nam con số  này là 2,8%. Trầm  cảm là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tự sát 45% ­ 70% người tự  sát do mắc bệnh trầm cảm và 15% người tử  vong khi thực hiện hành vi tự  sát   đó. Theo số liệu thống kê ở Nhật Bản vào năm 2014 trung bình một ngày ở Nhật  có 70 người tự  sát trong đó 1/3 trong số  đó bị  trầm cảm.  Ở  Việt Nam khoảng   4000 người tự  sát mỗi năm do mắc bệnh trầm cảm. Trầm cảm có thể  gặp  ở  nhiều dân tộc, nhiều nơi tùy thuộc vào nhiều yếu tố như độ  tuổi, nghề  nghiệp,  giới tính, trình độ, tính cách, môi trường xã hội xung quanh…. Tỉ lệ trầm cảm  ở  trẻ  em là từ  0,45% ­ 2,5%, tỉ lệ này còn rõ ràng hơn khi với trẻ  vị thành niên là  0,4% ­ 8,3% trong đó có từ 15% ­ 20% là bị trầm cảm nặng.  Ở độ  tuổi vị  thành  niên đặc biệt là các bạn đang học THPT thì đây chính là thời cơ  thuận lợi cho   bệnh phát triển. Do  ở  trong độ  tuổi này có nhiều biến đổi về  thể  chất và tinh   17
  18. thần, nên có nhiều biểu hiện lệch lạc trong hành vi và cách suy nghĩ mà chiếm  đa số là suy nghĩ tiêu cực – trầm cảm. Nếu không phát hiện sớm và kịp thời chữa  trị thì sẽ làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng học tập, đến sức khỏe, giao tiếp và  sự phát triển của về thể chất tinh thần, tính cách của người mắc bệnh. Ở  Nhật Bản, Kashani và Sherman (1998) nghiên cứu và nhận thấy tần suất   mắc trầm cảm từ 1­2%  ở trẻ tiền dậy thì, từ  2­5% ở trẻ vị thành niên (Fleming  và Offort, 1990).  Ở Đức, Essau và cộng sự nghiên cứu 1035 học sinh từ độ  tuổi   từ  12­17 thì 17,9% bị  trầm cảm. Còn  ở  Mĩ, đối với Jackson và Lurie (2006) thì  theo nghiên cứu  ở  tuổi vị  thành niên có 20­25% bạn mắc ít nhất một giai đoạn  của trầm cảm. Một số nghiên cứu khác còn cho thấy tần xuất mắc trầm cảm  ở  bạn gái từ  13­17 tuổi cao hơn các bạn nam. Nhưng khi các bạn nam mắc phải   trầm cảm thì có nguy cơ tự sát cao hơn các bạn nữ. Nguyên nhân ban đầu được  các nhà tâm lí học cho rằng các bạn nam không dám chia sẻ, tâm sự, thể hiện nỗi   buồn, sự mệt mỏi chán nản của mình với ai khác do định kiến “phái mạnh” thì  phải mạnh mẽ luôn kiểm soát được cảm xúc của mình nên đã khiến cho các bạn  nam giấu mình đi và để cho trầm cảm gặm nhấm suy nghĩ của mình. Tại Việt Nam, theo tiến sĩ bác sĩ Hoàng Cẩm Tú đã tiến hành nghiên cứu về  chứng rối loạn hành vi, cảm xúc của trẻ em và trẻ vị thành niên ở một số tỉnh ở  Hà Nội cho thấy 2,2% trẻ em và trẻ  vị  thành niên từ 4­18 tuổi mắc chứng lo âu   và trầm cảm. Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Bá Đạt nghiên cứu về rối loạn trầm cảm   và một số hành vi tâm lí xã hội liên quan đến học sinh trung học phổ thông ở khu  vực Hà Nội cho biết là 18,8% là biểu hiện rối loạn trầm cảm, 9,9% khẳng định  là bị trầm cảm. Kết quả nghiên cứu của BV tâm thần ban ngày (Hà Nội) với trên  1.200 học sinh ở Hà Nội (bậc tiểu học và THCS), có gần 19,4% học sinh có vấn   đề sức khỏe tâm thần chung, trong số các ca tự sát có 10% ở lứa tuổi từ 10 đến   17. 18
  19. Theo cách nhìn tổng quan qua các thí nghiệm khảo sát thực tế   ở  một số  địa  bàn như  trên cho thấy: các nhà khoa học, bác sĩ tiến sĩ khoa tâm lí đã đưa ra   những đánh giá về tỉ lệ mắc bệnh trầm cảm nhưng chưa đưa ra được con số cụ  thể chính xác về số  ca mắc trầm cảm  ở tuổi vị thành niên. Vì điều kiện về  địa  điểm, công cụ và tiêu chí đánh giá khai thác thực tế  khác nhau nên giữa các con   số  có xuất hiện sự chênh lệch. Nhưng đó chính là cơ sở  nền tảng để  xây dựng  nên những tiêu chí đánh giá cụ thể và chính xác hơn. Qua hàng loạt những con số  chắc hẳn đã gợi ra cho mỗi người những suy   nghĩ và phần nào nhận thức được sự  nguy hại của căn bệnh ghê gớm này. Tuy   nhiên thực tế hiện nay có thể trả lời rằng hiểu biết của mọi người trong xã hội,  của nhà trường và các bậc phụ  huynh nhất là  ở  nông thôn còn hạn chế. Thậm  chí mọi người còn tỏ ra rất thờ ơ coi thường căn bệnh, cho rằng đây là một bệnh  không vấn đề gì, cỏn con có thể chữa triệt để bằng thuốc nên không cần lo lắng  hay biết về  chứng rối loạn trầm cảm. Có thể  nói đây là một vấn đề  vô cùng   nguy hiểm đến chính bản thân người mắc bệnh và cả  chính những người xung   quanh khi mọi người “quá hạn hẹp” về kiến thức trầm cảm. Ví dụ như ở thành   phố  Hồ  Chí Minh có một gia đình khi con bị trầm cảm giai đoạn cuối dẫn đến  có hành vi tự tử mới phát hiện và đưa con đi chữa trị. Theo lời kể của người mẹ  thì gia đình làm kinh doanh buôn bán nên đa số không có thời gian dành cho con   và cũng không có mấy khi tìm hiểu hay để  tâm đọc báo về  trầm cảm. Nên khi  con nói thường xuyên đau đầu, mệt mỏi, mất ngủ… cũng không để tâm lắm, coi   đó là một chuyện bình thường. Những câu chuyện bi thương do trầm cảm gây ra  như  giết hại những người thân trong gia đình hoặc phá hại của cải… không  phảo là hiếm trong xã hội hiện nay. Bao nhiêu câu chuyện do bế tắc trong cuộc   sống khiến bản thân người mắc bệnh đi tìm con đường kết thúc đời mình để  buông xuôi giải tỏa mọi thứ bởi không phả ai cũng có thể tự mình vượt qua. 19
  20. Thực tế  đó đã thôi thúc chúng tôi tiến hành điều tra, khảo sát và trực tiếp   phỏng vấn các bạn học sinh THPT nhất là trong khu vực tỉnh Hải Dương để tìm  hiểu học sinh THPT có bị  trầm cảm hay không? (Dựa trên phân loại các biểu   hiện trầm cảm của tổ  chức y thế  giới). Mắc bệnh  ở mức độ  nào?... Để  từ  đó   đưa ra những cảnh báo sớm và cung cấp những kiến thức cơ bản về trầm cảm   để  giúp cho mọi người trong xã hội hiểu biết hơn về  căn bệnh trầm cảm, đặc  biệt các bạn học sinh THPT tự mình điều chỉnh cảm xúc để  vượt qua căn bệnh  trầm cảm bởi các nhà khoa học đã khẳng định trầm cảm có thể  chữa khỏi nếu   được phát hiện sớm.  1.4. Mục tiêu nghiên cứu Xuất  phát từ chính bản thân: Chính mình cũng cảm thấy chông chênh, bất an,  cảm thấy bất lực khi bước vào tuổi mới lớn, phải chọn lựa lối đi cho riêng  mình. Bản thân cũng chưa kiểm soát được cảm xúc, hành vi của mình. Đôi khi  chính mình đang tự gây nên áp lực cho mình. Xuất phát từ thực tế: Nhìn lại bản thân và nhìn ra cuộc sống, thấy rất nhiều   bạn trẻ  hiện nay sống còn chưa thoáng. Đôi lúc còn suy nghĩ tiêu cực, luôn cho  rằng sống là một việc rất khó khăn. Những áp lực được gọi là “áp lực tự áp đặt”   của các bạn học sinh là một điều khiến chúng tôi suy ngẫm. Mục đích nghiên cứu của dự án: Tìm ra các giải pháp thiết thực, có tính khả  thi nhằm giúp các bạn học sinh THPT giảm bớt những căng thẳng khi bị  mọi   người trong xã hội, bản thân mình tự áp đặt cho mình. Từ đó giúp các bạn sống   đúng với độ tuổi và kiểm soát hành vi của mình, sống hết mình với tuổi trẻ, với   đam mê. Đặc biệt là các bạn học sinh bị  trầm cảm nhẹ  có thể  điều chỉnh cảm  xúc để  không bị  trầm cảm tái phát. Các bạn bị  trầm cảm nặng cải thiện được   tình trạng của mình để không dẫn đến hậu quả đáng tiếc. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2