intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Giống và một số kỹ thuật lâm sinh trong trồng rừng Keo gỗ xẻ "

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

59
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nhu cần gỗ công nghiệp ở Việt Nam tới năm 2010 được dự đoán là 9,35 triệu m3. Nhưng hiện nay rừng tự nhiên đã bị hạn chế khai thác, do đó nguồn gỗ này sẽ bị hạn và chỉ cung cấp được dưới 300.000 m3/năm (MARD, 1999). Sự thiếu hụt này sẽ được mong chờ vào nguồn gỗ rừng trồng và nhập khẩu từ nước ngoài. Để đáp ứng được nhu cầu gỗ công nghiệp và tăng độ che phủ rừng lên 43%, các chương trình trồng rừng đã lên kế hoạch phải xây dựng 5 triệu ha...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Giống và một số kỹ thuật lâm sinh trong trồng rừng Keo gỗ xẻ "

  1. Giống và một số kỹ thuật lâm sinh trong trồng rừng Keo gỗ xẻ Phí Hồng Hải1, Chris Harwood2, Chris Beadle2, Vũ Đình Hưởng3, và Đặng Thịnh Triều4 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Nhu cần gỗ công nghiệp ở Việt Nam tới năm 2010 được dự đoán là 9,35 triệu m3. Nhưng hiện nay rừng tự nhiên đã bị hạn chế khai thác, do đó nguồn gỗ này sẽ bị hạn và chỉ cung cấp được dưới 300.000 m3/năm (MARD, 1999). Sự thiếu hụt này sẽ được mong chờ vào nguồn gỗ rừng trồng và nhập khẩu từ nước ngoài. Để đáp ứng được nhu cầu gỗ công nghiệp và tăng độ che phủ rừng lên 43%, các chương trình trồng rừng đã lên kế hoạch phải xây dựng 5 triệu ha rừng tới năm 2010. Đồng thời năng suất rừng trồng cũng phải tăng lên thông qua cải thiện giống và quản lý lâm sinh cho những diện tích rừng trồng mới này. Các loài Keo đã được du nhập vào nước ta từ giữa thập kỷ trước (Nguyễn Hoàng Nhĩa, 2003). Hiện nay, tổng diện tích các rừng trồng Keo đã lên tới 400.000 ha, bao gồm cả 150.000 ha Keo lai (Hà Huy Thịnh, 2005). Sinh trưởng của rừng trồng các loài Keo là yếu tố quyết định tới cải thiện kinh tế đất nước, sự phát triển của các nông thôn, và tạo ra các sản phẩm gỗ giấy và gỗ xẻ. Dự án VIE 032/05, được tài trợ bởi Chương trình hợp tác nông nghiệp và phát triển nông thôn (CARD), đã tiến hành nhiều nghiên cứu, tăng cường năng lực và chuyển giao các chương trình đào tạo nhằm tăng lợi nhuận của các chủ hộ nhỏ trồng rừng Keo và đáp ứng nhu cầu gỗ công nghiệp cho đất nước. Dự án đã có phương pháp tiếp cận đa dạng, kết hợp giữa nghiên cứu cải thiện giống, quản lý lập địa, quản lý lâm phần và đánh giá kinh tế. Trong hoạt động của dự án, báo cáo đánh giá về cải thiện giống cho các loài Keo đã được thực hiện nhằm rà soát lại các giống Keo hiện có có thể đáp ứng trồng rừng gỗ xẻ, và đề xuất các giống phù hợp nhất cho trồng rừng gỗ xẻ. Các kỹ thuật nhân giống vô tính cho các giống được đề xuất cũng được đánh giá. Một số khảo nghiệm đánh giá các biện pháp kỹ thuật lâm sinh được xây dựng. Quan trọng nhất đó là khảo nghiệm tỉa thưa và khảo nghiệm kỹ thuật lâm sinh bền vững tại miền Trung nước ta. Hai khảo nghiệm này được thiết kế có hệ thống nhằm đánh giá các hiệu quả của các biện pháp kỹ thuật lâm sinh về chất lượng gỗ xẻ, năng suất và mức độ bền vững của rừng trồng. Bài báo này sẽ chỉ trình bày một số kết quả chính của dự án từ báo cáo tổng quan về cải thiện giống, khảo nghiệm tỉa thưa và khảo nghiệm lâm sinh bền vững. II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Vật liệu và địa điểm nghiên cứu 1 Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng – Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam (FSIV) 2 CSIRO – Hệ sinh thái bền vững 3 Phân viện nghiên cứu lâm nghiệp Nam bộ (FSIV) 4 Phòng kỹ thuật lâm sinh (FSIV) 1
  2. Trong đánh giá tổng quan cải thiện giống Keo, rất nhiều thông tin đã có thể được tìm thấy và đề cập tới sinh trưởng của loài và xuất xứ, phương pháp nhân giống và sự phát triển các giống Keo lai ở nước ta. Nếu các thông tin được phát hành thì ưu tiện sử dụng. Nếu các thông tin không đầy đủ thì đánh giá qua các ấn phẩm của các nước khác. Đánh giá phân tích tổng hợp kết hợp thảo khảo ý kiến chuyên gia được áp dụng trong Báo cáo tổng quan cải thiện giống Keo. Một rừng trồng hỗn hợp các dòng Keo lai (BV10, BV16 và BV32) 2,5 tuổi tại Đồng Hới – Quảng Bình đã được lựa chọn cho khảo nghiệm tỉa thưa. Mô hình rừng trồng này được xây dựng vào tháng 12 năm 2003. Các cây trồng mô hình này được đánh giá có sinh trưởng tốt và hình dáng thân đẹp. Mô hình có mật độ phù hợp và khỏe mạnh, chiều cao trung bình của rừng đạt từ 6-8m, và ảnh hưởng phát triển của tán cây là rất nhỏ. Năng suất được dự đoán trên 20m3/ha/năm. Chính vì các lý do trên mô hình rừng trồng này phù hợp với các tiêu chí cho quản lý lâm phần phục vụ gỗ xẻ. Một lập địa khác tại Trạm thực nghiệm Đông Hà – Quảng Trị (FSIV) và hỗn hợp các dòng Keo lai (BV10, BV16, BV 32, BV71, BV73 and BV75) đã được lựa chọn cho thí nghiệm trồng rừng Keo lai luân kỳ 2 (được gọi là khảo nghiệm lâm sinh). Khai thác Keo lai tại luân kỳ 1 và để lại cành nhỏ và lá. Lập địa này có các tiêu chuẩn phù hợp với nghiên cứu lâm sinh bền vững, đặc biệt nó được quản lý tốt bởi FSIV, có thể sử dụng lâu dài. Lập địa khá đồng đều và được rào cẩn thận để tránh các tác động của gia súc chăn thả. Sáu dòng được chọn là các dòng tốt nhất của Keo lai và đã được Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn công nhận là các giống quốc gia và giống tiến bộ kỹ thuật 2.2 Công thức và Thiết kế thí nghiệm 2.2.1 Khảo nghiệm tỉa thưa Bốn công thức tỉa thưa, bảo gồm cả đối chứng (không tỉa) đã được sử dụng trong nghiên cứu (Bảng 1). Thiết kế co bản của khảo nghiệm là thiết kế khối ngẫu nhiên đầy đủ, có 4 lần lặp lại. Tất cả các cây trong các công thức thí nghiệm được tỉa cành tới 2,3 m tính từ mặt đất. Tỉa cành được tiến hành cẩn thận sao cho các cành được cắt sát với gốc của cành và không gây hại cho gốc cành. Bảng 1. Các công thức tỉa thưa và kích thước ô tại Khảo nghiệm tỉa thưa ở Đồng Hới Công thức (Số cây/ha) Ô chính (Cây/ô) Ô lõi (Cây/ô) 1000 (không tỉa, đối chứng) 63 35 600 38 21 450 28 16 300 19 11 Diện tích ô (ha) 0.063 0.035 Kích thước (m × m) 28 × 22.5 20 × 17.5 2.2.2 Khảo nghiệm lâm sinh bền vững Khảo nghiệm cũng được thiết kế theo khối ngầu nhiên đầy đủ (5 công thức và 4 lặp). Kích thước ô thí nghiệm là 21,5 x 20 m (6 hàng x 10 cây/hàng). Các ô thí nghiệm được tách rời nhau bằng 3 hàng cây ở cả chiều rộng và chiều dài của khu thí nghiệm. Các hàng bao của các ô được trồng ở giữa các gốc cây đã chặt. Thông tin chi tiết về các công thức thí nghiệm được trình bày tại Bảng 2. 2
  3. 2.3 Thu thập số liệu và phân tích thống kê Đường kính gỗ (D0), đường kình ngang ngực (Dbh) và chiều cao (Ht) của tất cả các cây trong mỗi ô thí nghiệm được thu thập. Tất cả các phân tích thống kê được xử lý trên phần mền GENSTAT 8.0. Bảng 2. Các công thức thí nghiệm trong Khảo nghiệm lâm sinh bền vững tại Đông Hà Ký hiệu Công thức dinh dưỡng (g/cây) Quản lý thực bì T1 Đối chứng – không bón phân Phun thuốc diệt cỏ (Roundup) trước khi trồng và T2 P 10 g lân trong phân supe phốt phát phun 2 lần/năm để tránh sự 1 canh tranh của cỏ dại, với tỷ T3 P 20 g lân trong phân supe phốt phát 2 lệ 4 lít/ha T4 P (=P + 10 g Kali K trong sulphate ka li) 3 2 T5 Đối chứng – không bón phân Không phun thuốc diệt cỏ. Làm cỏ bẳng thủ công 2 lần/năm III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1 Loài và xuất xứ phù hợp cho trồng rừng gỗ xẻ Nhìn chung, trong các khảo nghiệm các loài Keo nhiệt đới, Keo lá liềm, Keo tai tượng và Keo lá tràm thể hiện sinh trưởng tốt nhất (Lê Đình Khả, 2003). Loài Keo A. aulacocarpa và A. cincinnata là những loài sinh trưởng chậm hơn và không có triển vọng trong trồng rừng ở Việt Nam (Lê Đình Khả, 2003). Trên cơ sở các kết quả khảo nghiệm loài và xuất xứ được xây dựng ở nước ta, trong năm 2000, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã công nhận các xuất xứ sau đây là những giống tiến bộ kỹ thuật phục vụ trồng rừng đại trà (theo quyết định số 4260/ KHCN- NNTT) Keo lá tràm: Coen River (Qld), Morehead River (Qld) and Mibini (PNG). Keo lá liềm: Mata province (PNG), Deri-Deri (PNG) and Dimisisi (PNG). Keo tai tượng: Iron Range (Qld), Cardwell (Qld) and Pongaki (PNG). Các kết quả khảo nghiệm từ các nước nhiệt đới khác cũng cho kết quả xếp hạng tương tự về sinh trưởng của các xuất xứ của 3 loài Keo trên, với một ngoại trừ là xuất xứ Cardwell của Keo tai tượng. Các khảo nghiệm loài và xuất xứ của Keo tai tượng ở rất nhiều nước như Úc, Trung quốc, Indonesia và Malaysia (Harwood and Williams 1992), và Philippine (Arnold and Cuevas 2003) khẳng định: khi so sánh với hầu hết các xuất xứ từ PNG và xuất xứ từ vùng Far North Queensland (chẳng hạn như Claudie River/Iron Range, Olive River and Pascoe River) thì xuất xứ Cardwell không phải là xuất xứ sinh trưởng nhanh của loài này. Chúng tôi khuyến cáo xuất xứ Cardwell không nên sử dụng nữa. Cần chú ý rằng có nhiều xuất xứ khác (Rocky Creek, W Normanby, Chilli beach, Claudie River,...) của 3 loài Keo trên chưa tham gia vào các khảo nghiệm xuất xứ tại Việt Nam nhưng cũng có sinh trưởng tương đương với các xuất xứ đã được Bộ công nhận. Một vài xuất xứ này đã được trồng trong các vườn giống và rừng giống do FSIV xây dựng tại Việt Nam. 3
  4. 3.2 Cải thiện giống các loài Keo tại Việt Nam Cùng với khảo nghiệm các loài và xuất xứ Keo, Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam, dưới sự cộng tác với một số tổ chức nghiên cứu khác và hỗ trợ của CSIRO – Khoa lâm nghiệp và sản phẩm rừng, đã và đang thực hiện một chương trình cải thiện giống nhằm chọn tạo các vật liệu giống Keo có năng suất và chất lương cao. Từ những năm 1996 tới 2002, trong khuôn khổ của một số dự án hợp tác quốc tế, nhiều rừng giống và vườn giống của các loài Keo lá tràm và Keo tai tương đã được xây dựng tại Hà Tây, Quảng Bình, Bình Thuận, Bình Dương và Bình Phước. Trong giai đoạn gần đây dự án giống thuộc chương trình giống cây trồng và vật nuôi của Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng đã xây dựng trên 60 ha các vườn giống thế hệ 1,5 và 2 cho Keo lá tràm, Keo tai tượng, và Keo lá liềm tại nhiều tỉnh thành trong cả nước. Đến nay, Bộ đã công nhận 10 vườn giống quốc gia cung cấp hạt lâu dài cho sản xuất và nghiên cứu. 3.2.1 Khảo nghiệm dòng vô tính và vườn giống thế hệ 1,5 cho Keo lá tràm và Keo tai tượng Các cây dự tuyển Keo lá tràm thể hiện sinh trưởng nhanh và chất lượng thân cây đẹp đã được chọn lọc từ rừng trồng và các khu khảo nghiệm xuất xứ. Chúng được nhân giống từ chồi gốc và được khảo nghiệm so sánh với xuất xứ Coen River và các lô hạt sản xuất thu từ Đồng Nai. Ở tuổi 5, các dòng tốt đã có thể tích trung bình biến động từ 49.4-55.5 dm3/cây tại Hà Tây. Những dòng này hầu như không có sâu bệnh hại. Dòng 84, 25, 85, 83, 28 và 81 đạt tăng trưởng bình quân năm (MAI) từ 10,5 – 13,1 m3/ha/năm tại Hà Tây và Quang Trị (Lê Đình Khả, 2006). Các dòng AA1, AA9, và AA15 đạth tăng trưởng MAI từ 25-33.6 m3/ha/năm tại Đồng Nai và Bình Phước (Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2007. Trong khi đó đối chứng (xuất xứ Coen River và giống sản xuất) có năng suất thấp nhất, tương ứng là 7,2 và 5,7 m3/ha/năm. 150 cá thể tốt nhất của 50 gia đình tốt nhất trong các khảo nghiệm hậu thế của Keo lá tràm và Keo tai tượng xây dựng tại Bình Dương vào năm 1999, đã được chọn lọc và xây dựng các khảo nghiệm dòng vô tính tại 3 miền Bắc, Trung và Nam vào những năm 2001 và 2002. Đối với Keo lá tràm, tăng trưởng bình quân của một số dòng tốt sau 4,5 tuổi đã đạt được từ 15-30 m3/ha/năm tại Quảng Bình và Bình Dương (Phí Hồng Hải, 2009). Năm 2009, 11 dòng ưu trội (Clt7, Clt18, Clt19, Clt26, Clt43, Clt57, Clt64, Clt98, Clt133, Clt1F, và Clt171) trong các khảo nghiệm này đã được Bộ công nhận là giống quốc gia và giống tiến bộ kỹ thuật. Ở nước ta, phát triển rừng trồng dòng vô tínhcho Keo tai tượng không phải là hướng tốt nên các dòng tốt nhất trong các khảo nghiệm dòng vô tính chỉ được chọn lọc để trồng vườn giống thế hệ 1,5. 3.2.2 Phát triển các dòng Keo lai Tới năm 2004, trên 130.000 ha rừng trồng các dòng Keo lai (A. mangium x A. auriculiformis) đã được xây dựng ở Việt Nam (van Bueren 2005). Các dòng Keo lai tốt nhất thể hiện tính ưu trội về sinh trưởng hơn rất nhiều 2 loài bố và mẹ trong tất cả các khảo nghiệm tại vùng thấp Bắc, Trung và Nam (Lê Đình Khả, 2001). Trong hầu hết các lập địa phù hợp tại miền Nam và miền Trung và thâm canh cao, các dòng Keo lai có thể đạt được tăng trưởng MAI từ 35-40 m3/ha/nă sau luân kỳ kinh doanh 5-7 năm (Lê Đình Khả, 2001). Thậm chí, trên lập địa nghèo dinh dưỡng và tầng đất nông tại Ba Vì – Hà Tây, năng suất của Keo lai cũng đạt được 15 m3/ha/nă, trong khi Keo tai tượng chỉ đạt 9 m3/ha/nă (Đoàn Ngọc Dao, 2003). Các dòng Keo lai còn có mức độ đồng đều về sinh trưởng rất cao. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã công nhận một số dòng tốt để phục vụ sản xuất. Dựa trên các kết quả khảo nghiệm, 17 dòng Keo lai có năng suất cao và chất lượng thân cây đẹp, 4
  5. chẳng hạn như BV10, BV16, BV29, BV32, BV33, BV71, BV73, BV75, M8, MA1, AM3, AM2, AH1, AH7, TB1, TB7, và TB11, đã được lựa chọn và khảo nghiệm trên diện rộng ở nhiều vùng sinh thái trong cả nước từ năm 2006. Các dòng Keo lai mới cũng đang được chọn tạo tiếp để bổ sung vào tập đoàn giống. Nhiều dòng Keo lai cũng được tạo ra từ việc lai giống khống chế. Việc chọn tạo mới các dòng Keo lai là hết sức cần thiết để đa dạng hóa tập đoàn giống và hạn chế sâu bệnh. 3.2.3 Cải thiện giống Keo lá tràm cho gỗ xẻ Cải thiện giống Keo lá tràm đã được tiến hành nghiên cứu trong nhiều khảo nghiệm tại 4 tỉnh của của nước. Kết quả cho thấy khả năng cải thiện sinh trưởng, chất lượng thân cây, tỷ trọng gỗ, co rút của gỗ, và tính chất cơ lý gỗ trong Keo lá tràm là hoàn có thể thực hiện được (Phí Hồng Hải, 2009b). Tuy nhiên, gỗ Keo lá tràm có tỷ trọng và các tính chất cơ lý cao và phù hợp với gỗ xẻ. Nhưng gỗ rừng trồng keo lá tràm lại có độ co rút cao nên cần tập chung nghiên cứu cải thiện tính chất này. Mặt khác, tương tác di truyền – hoàn cảnh cần được chú ý, đặc biệt sinh trưởng và chất lượng thân cây, do đó cần chọn lọc các dòng khác nhau cho các vùng sinh thái khác nhau. Tăng thu di truyền về sinh trưởng, chất lượng thân cây và các tính chất gỗ đều đạt từ 5-15% thông qua chọn lọc dòng. Tương quan giữa sinh trưởng và tính chất gỗ là tương quan thuận và chặt, do đó tăng thu di truyền của một số tính trạng độc lập có thể bị giảm đi khi cải thiện đa tính trạng được tiến hành. Dựa trên các kết quả nghiên cứu cải thiện giống Keo lá tràm, các dòng Clt7, Clt12, Clt18 và Clt25 là những dòng tốt nhất để phát triển rừng trồng gỗ xẻ của Keo lá tràm. 3.3 Tác động của tỉa thưa tới phát triển đường kính Khảo nghiệm tác động tỉa thưa xây dựng từ tháng 6 năm 2006 tại Đồng Hới –Quảng Bình, đã khẳng định sinh trưởng đường kính của Keo lai trong khảo nghiệm có ảnh hưởng lớn bởi mật độ trồng rừng. Các cây Keo lai trong khảo nghiệm này ban đầu được trồng ở mật độ 1000 cây/ha (4 x 2,5 m). Các ô tỉa thưa được thiết lập tại thời điểm 2,5 tuổi với mật độ được giảm xuống từ 600 cây/ha tới thấp hơn. Biểu đồ 1 chỉ ra rằng sau 2 năm tỉa thưa, các cây trong ô tỉa đat đường kính ngang ngực trung bình trên 16cm, trong khi các cây trong ô đối chứng (không tỉa) có đường kính chỉ 14,5 cm. Các xưởng xẻ nhỏ ở nước ta, nơi cung cấp gỗ cho nhà máy sản xuất đồ gỗ gia dụng, có thể chập nhận mua các khúc gỗ có đường kính đầu nhỏ từ 15 cm. Như vậy, tác động của tỉa thưa đã tạo ra tỷ lệ gỗ có đường kính phù hợp với gỗ xẻ cao hơn nhiều so với không tiến hành tỉa thưa. 5
  6. Hầu hết các rừng trồng Keo tại Việt nam được trồng với mật độ ban đầu từ 1100 tới 1600 cây/ha (tức là trồng với khoảng cách 3 x 3m, 3 x 2,5 m và 3 x 2 m). Mật độ càng dày thì canh tranh giữa các cây trong rừng càng mạnh. Chính vì vậy tỉa thưa sớm sẽ rất quan trong nhằm thúc đẩy tăng trưởng đường kính của các cây giữ lại. Trên lập địa tốt, nếu rừng trồng sử dụng giống tốt và quản lý lập địa phù hợp, bao gồm cả làm cỏ và bón phân, thì sản phẩm tỉa thưa xuống mật độ 600 cây/ha tại tuổi 2,5-3 có thể tận dụng làm gỗ giấy và các cây còn lại có thể cung cấp gỗ xẻ sau luân kỳ ngắn 5-6 năm. 3.4 Tác động của tỉa cành tới khuyết tật gỗ Để nghiên cứu tác động của tỉa cành tới khuyết tật gỗ, 15 cây được tỉa cành trong các ô thí nghiệm của khảo nghiệm tỉa thưa và 15 cây không được tỉa cành ở rừng cạnh khu khảo nghiệm tỉa thưa đã được chặt hạ. Các cây được chọn phải có kích thước phù hợp với gỗ xẻ (đường kính cả vỏ trên 20 cm). Các khúc gỗ sau khi chặt hạ được xẻ bằng cưa vòng đứng. Kết quả cho thấy các ván từ các cây được tỉa cành và cây không được tỉa cành có tỷ lệ khuyết tật gỗ khác biệt rõ ràng ở phần phía ngoài của ván (Bảng 3). Bảng 3. Số khuyết tật ở phần phía ngoài và trong ván của các được tỉa cành và không tỉa cành Khuyết tật trên ván Khuyết tật trên ván Dbh STT Công thức Dbh STT Công thức thí (cm) Phần phía Phần phía Phần phía Phần phía cây thí nghiệm (cm) cây nghiệm ngoài ván trong ván ngoài ván trong ván 1 Tỉa cành 21.0 0.6 4.8 1 Không tỉa cành 19.3 1.0 6.8 2 Tỉa cành 18.3 0.8 4.8 2 Không tỉa cành 21.8 0.0 2.8 3 Tỉa cành 19.0 0.0 3.8 3 Không tỉa cành 25.0 1.5 4.0 4 Tỉa cành 19.1 0.3 5.3 4 Không tỉa cành 20.8 0.4 5.8 5 Tỉa cành 20.5 0.0 4.6 5 Không tỉa cành 21.4 1.4 5.5 6 Tỉa cành 18.6 1.0 5.0 6 Không tỉa cành 19.9 2.2 5.2 7 Tỉa cành 17.6 0.3 3.3 7 Không tỉa cành 21.1 1.6 4.4 8 Tỉa cành 20.6 0.6 6.6 9 Không tỉa cành 21.5 1.6 5.4 6
  7. 9 Tỉa cành 21.1 1.6 5.4 10 Không tỉa cành 22.0 1.6 6.2 11 Tỉa cành 19.3 0.0 5.6 11 Không tỉa cành 22.4 0.4 4.3 12 Tỉa cành 19.1 0.6 3.6 12 Không tỉa cành 21.9 1.2 6.4 13 Tỉa cành 18.8 0.4 3.8 13 Không tỉa cành 21.7 1.2 5.0 14 Tỉa cành 20.5 0.3 6.8 14 Không tỉa cành 19.2 1.6 4.8 15 Tỉa cành 19.4 0.0 5.8 15 Không tỉa cành 20.8 1.6 4.0 Giá trị TB 19.5 0.5 4.9 Giá trị TB 21.3 1.2 5.0 Mức độ sai khác P
  8. Number of outerwood defects per board 3 No. of defects/board 2 2 pruned unpruned 1 1 0 16 20 24 log dbh (cm) Khuyết tật tại phần phía trong ván nhìn chung chỉ ảnh hưởng không lớn. Bởi vì các khuyết tật này được tạo ra chỉ từ các cành nhỏ bắt đầu khô và/hoặc đã chết ở thời điểm tỉa cành. Các khuyết tật này có thể bị loại bỏ trong quá trình chế biến gỗ. Nếu các cây được tỉa cành ở 2 tuổi, thay vì 2,5 tuổi, khi đường kính ngang ngực khoảng 7 cm và các cành dưới tán vẫn còn sống và khỏe mạnh, thì hầu hết các khuyết tật đã bị loại bỏ. Do đó, ván xẻ không khuyết tật sẽ có giá trị cao hơn. Tuy nhiên, sự kết hợp tốt giữa tỉa cành sớm để loại bỏ khuyết tật và sự rủi ro hạn chế tốc độ sinh trưởng do tác động của tỉa cành cần được chú ý. Nếu cây có đường kính ngang ngực 7 cm và chiều cao là 7m thì tỉa cành chỉ cần tới độ cao 2,4 m tính từ gốc, có nghĩa là tỉa cành làm giảm đi 1/3 tán cây (giả định không có hiện tượng tự tỉa tán). Các thí nghiệm đang được tiến hành trong dự án ACIAR Project FST 2006/87 sẽ cung cấp đầy đủ hơn thời điểm tỉa cành thích hợp. Cuối cùng, một số khuyến cáo trong các nghiên cứu tiếp theo cần chú ý là: (1) số lượng cây được tỉa cành và không tỉa cành có đường kính phù hợp với gỗ xẻ. Trong bài báo này, các câu không tỉa cành có đường kính trung bình là 21,3 cm và các cây tỉa cành có đường kính là 19,5 cm (Bảng 3). Rất may mắn là mối quan hệ giữa đường kính và khuyết tật gỗ ở phần phía ngoài ván là không rõ ràng (Biểu đồ 2); (2) Khuyến cáo việc đánh giá tỷ lệ khuyết tật gỗ nên được đánh giá bởi các công nhân trong xưởng xẻ, người có nhiều kinh nghiệm hơn các cán bộ nghiên cứu; (3) Khi chụp ảnh các khuyết tật gỗ, ván xẻ có chất lượng cao nên được sắp xếp về phía phải của góc ảnh nhằm hệ thống hóa các khuyết tật và đánh giá tốt hơn. Sử dụng bút đánh dấu rõ ràng hơn. 3.5 Kết quả bước đầu của khảo nghiệm lâm sinh bền vững Mục tiêu chính của khảo nghiệm này là đánh giá tác động của phân lân tới sinh trưởng của cây, quyết định tỷ lệ bón thích hợp và so sánh các biện pháp làm cỏ tiên tiến với biện pháp làm cỏ truyền thống. Nghiên cứu này ứng dụng các kết quả đạt được từ các nghiên cứu trước đây tại miền Nam. Các ứng dụng này có ý nghĩa quan trọng trong quản lý lập địa (đất và lượng rơi rụng) giữa các luân kỳ kinh doanh nhằm đảm bảo tính bền vững của rừng trồng (Hưởng et. al, 2004). Lá và các cành nhỏ sau khai thác lâm phần trước được giữ lại trên lập địa. Hạn chế tác động tới 8
  9. đất thấp nhất. Lá và cành nhỏ sẽ tạo ra một lớp mỏng bảo vệ tầng đất bề mặt. Biện pháp quản lý này trái ngược với các biện pháp truyền thống đang được áp dụng (đốt thực bì và cày toàn diện). Biện pháp quản lý lập địa truyền thống sẽ làm mất đi các chất hữu cơ, dinh dưỡng và tăng xói mòn đất, từ đó làm giảm năng suất rừng và ô nhiễm nguồn nước. Khảo nghiệm lâm sinh bền vững tại Trạm thực nghiệm Đông Hà – Quảng Trị đã được xây dựng thành công, với tỷ lệ sống trên 85% trong tất cả các ô thí nghiệm tại 16 tháng tuổi. Đo đếm sinh trưởng được thực hiện tại 10 tháng và 16 tháng tuổi cho thấy tác dụng rõ nết của phân lân tới sinh trưởng của cây (Bảng 4). Khác biệt thống kê giữa các công thức thí nghiệm là rõ ràng (P
  10. lai. Thực sự có sự khác biệt trong chất lượng gỗ của Keo tai tượng được trồng tại miền Bắc và miền Nam, nhưng chưa được nghiên cứu. Tỉa thưa và tỉa cành là các biện pháp lâm sinh quan trọng trong kinh doanh rừng trồng gỗ xẻ để tạo ra gỗ không khuyết tật. Bón lót 20g lâm/cây là đủ để tạo ra sự khác biệt về sinh trưởng chiều cao tại giai đoạn đầu tại Quang Trị và thực sự đảm bảo tính bền vững trong toàn luân kỳ. Các loài Keo có khả năng cố định đạm, quá trình ảnh hưởng lớn bởi phân lân. Trong tương lai, chúng ta phải trả lời được sinh trưởng ban đầu của cây có liên quan tới năng suất rừng trồng trong cả luân kỳ và cải thiện được dinh dưỡng đất? V. TÀI LIỆU THAM KHẢO Arnold, R. J.; Cuevas, E. (2003). Genetic variation in early growth, stem straightness and survival in Acacia crassicarpa, A. mangium and Eucalyptus urophylla in Bukidnon province, Philippines. Journal of Tropical Forest Science 15 (2): 332-351 Đoàn Ngọc Dao, 2003. Tiếp tục so sánh sinh trưởng và khả năng cải tạo đất của Keo lai với hai loài bố mẹ sau 5 tuổi. Luận văn thạc sĩ. Trường đại học lâm nghiệp. 69 trang Hà Huy Thịnh, 2005. Nghiên cứu chọn, tạo giống có năng suất và chất lượng cao cho một số loài cây trồng rừng chủ lực. Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam. 161 trang Harwood, C.E. and Williams, E.R. (1992). A review of provenance variation in the growth of Acacia mangium. pp. 22-30 in Carron, L.T. and Aken, K. eds. Breeding Technologies for Tropical Acacias. ACIAR Proceedings No. 37. Australian Centre for International Agricultural Research, Canberra. Lê Đình Khả, 2003. Chọn tạo giống và nhân giống cho một số loài cây trồng rừng chủ yếu ở Việt Nam. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. 171 trang Lê Đình Khả, 2006. Báo cáo công nhận giống một số dòng Keo lá tràm. Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, Hà Nội. 17 trang Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2003. Phát triển các loài Keo Acacia ở Việt Nam. Nhà xuất bản Nông nghiệp, hà Nội. 121 trang Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2007. Báo cáo công nhận một số dòng Keo lá tràm. Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, Hà Nội. 20 trang Phí Hồng Hải, Hà Huy Thịnh và Đỗ Hữu Sơn, 2009. Triển vọng phát triển của một số dòng Keo lá tràm trong trồng rừng gỗ xẻ. Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn ( số 12): 173-179. Phi Hong Hai, 2009b. Genetic improvement of plantation-grown Acacia auriculiformis for sawn timber production. Doctoral thesis No.2009:56. Swedish University of Agricultural Science. Van Bueren, M. (2005) Acacia Hybrids in Vietnam. ACIAR Impact Assessment Report. http://www.aciar.gov.au/web.nsf/doc/ACIA-65P4LP 10
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2