intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo " Quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng khi tham gia quan hệ kinh doanh bảo hiểm "

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

103
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong thực tiễn đời sống, các quan hệ pháp luật trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm có thể phát sinh giữa một bên là doanh nghiệp bảo hiểm với bên kia là tổ chức, cá nhân, hộ gia đình (với tư cách là bên mua bảo hiểm, bên được bảo hiểm hoặc bên thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm). Đối với trường hợp bên tham gia quan hệ bảo hiểm là cá nhân hay hộ gia đình thì vấn đề sẽ trở nên phức tạp hơn, bởi lẽ khi đó sẽ phát sinh các quyền và nghĩa vụ liên...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo " Quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng khi tham gia quan hệ kinh doanh bảo hiểm "

  1. nghiªn cøu - trao ®æi TS. NguyÔn V¨n TuyÕn * rong thực tiễn đời sống, các quan hệ phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm có liên quan T pháp luật trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm có thể phát sinh giữa một bên là đến tài sản của vợ chồng - với tư cách là một bên của quan hệ kinh doanh bảo hiểm. doanh nghiệp bảo hiểm với bên kia là tổ 1. Quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chức, cá nhân, hộ gia đình (với tư cách là chồng khi tham gia quan hệ kinh doanh bên mua bảo hiểm, bên được bảo hiểm hoặc bảo hiểm với tư cách là bên mua bảo hiểm bên thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm). Đối với Trong quan hệ kinh doanh bảo hiểm, bên trường hợp bên tham gia quan hệ bảo hiểm mua bảo hiểm là tổ chức, cá nhân giao kết là cá nhân hay hộ gia đình thì vấn đề sẽ trở hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp bảo nên phức tạp hơn, bởi lẽ khi đó sẽ phát sinh hiểm và đóng phí bảo hiểm.(1) Tuỳ thuộc vào các quyền và nghĩa vụ liên đới giữa cá nhân mỗi loại hình bảo hiểm và từng quan hệ bảo là vợ (hoặc chồng) trực tiếp tham gia quan hiểm cụ thể mà bên mua bảo hiểm có thể hệ bảo hiểm với cá nhân khác là chồng (hoặc đồng thời là người được bảo hiểm hoặc vợ) của người đó đối với doanh nghiệp bảo người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm. Trong hiểm. Tương tự, vấn đề này cũng sẽ đặt ra trường hợp bên mua bảo hiểm cho tài sản, nếu bên tham gia quan hệ bảo hiểm là hộ gia tính mạng, sức khoẻ, tuổi thọ hay trách đình, trong đó cả vợ và chồng đều đóng vai nhiệm dân sự của chính mình thì khi đó họ trò là thành viên của hộ gia đình và có những vừa là bên mua bảo hiểm đồng thời là bên quyền, nghĩa vụ liên quan đến quan hệ bảo được bảo hiểm. Còn trong trường hợp bên hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm. mua bảo hiểm được chỉ định là người thụ Nhận thức rõ đây là vấn đề phức tạp và hưởng quyền lợi bảo hiểm thì khi đó họ vừa cần có sự nghiên cứu nghiêm túc, Tác giả là người mua bảo hiểm đồng thời là người bài viết này xin tham góp một số ý kiến thụ hưởng bảo hiểm. nhằm làm rõ hơn bản chất mối quan hệ tài Thực tiễn pháp lí cho thấy khi tham gia sản giữa vợ và chồng khi tham gia quan hệ quan hệ kinh doanh bảo hiểm vợ hoặc chồng kinh doanh bảo hiểm. Trên cơ sở đó, giúp có thể tham gia hợp đồng bảo hiểm với một các bên tham gia quan hệ kinh doanh bảo trong hai tư cách khác nhau: Tư cách cá nhân hiểm có cách hành xử phù hợp với pháp luật hoặc tư cách là đại diện cho hộ gia đình. trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm, cũng như giải quyết các tranh chấp * Trường Đại học Luật Hà Nội 57 T¹p chÝ luËt häc sè 8/2011
  2. nghiªn cøu - trao ®æi - Trường hợp thứ nhất: Nếu một bên (vợ bên vợ và chồng đều phải liên đới trách hoặc chồng) tham gia hợp đồng bảo hiểm nhiệm bằng cách dùng tài sản riêng của mỗi với tư cách cá nhân thì khi đó họ phải dùng người để thực hiện nghĩa vụ chung đối với tài sản riêng của mỗi người để tự thực hiện bên bảo hiểm – bao gồm nghĩa vụ đóng phí hợp đồng với bên bảo hiểm. Nếu người này bảo hiểm và các khoản phí dịch vụ khác phát (vợ hoặc chồng) có ý định sử dụng tài sản sinh từ hợp đồng bảo hiểm (nếu có). chung để thực hiện hợp đồng bảo hiểm thì về Đương nhiên, khi cả vợ và chồng cùng nguyên tắc, việc sử dụng và định đoạt tài sản tham gia vào một hợp đồng bảo hiểm (do chung của vợ chồng cần phải có sự thoả thuận một trong hai người là đại diện kí kết) với tư hoặc uỷ quyền bằng văn bản của người còn cách là bên mua bảo hiểm thì khi đó họ sẽ có lại, với tư cách là người đồng sở hữu. Trên vị trí pháp lí ngang nhau trong việc thực hiện thực tế, khi bên mua bảo hiểm là vợ hoặc các quyền và nghĩa vụ đối với bên bảo hiểm, chồng có sử dụng tài sản chung để thực hiện theo quy định tại Điều 18 Luật kinh doanh hợp đồng bảo hiểm thì bên bảo hiểm hầu như bảo hiểm.(2) không quan tâm đến nguồn gốc của tài sản là 2. Quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chung hay riêng và đã có sự thoả thuận của chồng khi tham gia quan hệ kinh doanh người đồng sở hữu tài sản hay chưa. Có thể bảo hiểm với tư cách là người được bảo hiểm Trong quan hệ kinh doanh bảo hiểm, nói, đây là sự bất cẩn rất tai hại của bên bảo người được bảo hiểm là là tổ chức, cá nhân có hiểm, vì nó có thể là nguyên nhân dẫn đến tài sản, trách nhiệm dân sự, tính mạng được tranh chấp về quyền tài sản, nếu người còn lại bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm.(3) Theo (vợ hoặc chồng) không đồng ý cho người kia quy định của pháp luật, người được bảo hiểm sử dụng và định đoạt tài sản chung để thực có thể đồng thời là người thụ hưởng quyền lợi hiện hợp đồng bảo hiểm. bảo hiểm, tuỳ thuộc vào từng loại hình bảo - Trường hợp thứ hai: Nếu một bên (vợ hiểm và từng quan hệ bảo hiểm cụ thể. Ví dụ: hoặc chồng) tham gia hợp đồng bảo hiểm với A mua bảo hiểm cho tài sản của mình và chỉ tư cách là người đại diện cho quyền sở hữu định trong hợp đồng bảo hiểm rằng chính chung của vợ chồng thì khi đó, chủ thể thực mình sẽ là người thụ hưởng số tiền bồi thường sự của hợp đồng bảo hiểm không phải là cá bảo hiểm, nếu xảy ra sự kiện bảo hiểm. Trong nhân người đứng tên kí hợp đồng (vợ hoặc trường hợp này, A vừa là người mua bảo chồng) mà chính là hộ gia đình với ít nhất hai hiểm đồng thời cũng chính là người được chỉ thành viên là vợ và chồng. Khi đó, cả vợ và định thụ hưởng số tiền bảo hiểm do bên bảo chồng đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau hiểm chi trả khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. trong việc sử dụng, định đoạt tài sản chung để Trong thực tiễn pháp lí, có nhiều ví dụ thực hiện hợp đồng bảo hiểm với bên bảo cho thấy rằng vợ chồng có thể đóng vai trò hiểm. Trong trường hợp khối tài sản chung là người được bảo hiểm, nếu đối tượng được của vợ chồng không đủ để thực hiện nghĩa vụ bảo hiểm là tài sản chung hoặc trách nhiệm đối với bên bảo hiểm thì về nguyên tắc, mỗi dân sự chung của vợ chồng. T¹p chÝ luËt häc sè 8/2011 58
  3. nghiªn cøu - trao ®æi - Nếu đối tượng được bảo hiểm trong 3. Quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ hợp đồng bảo hiểm là tài sản chung của vợ chồng khi tham gia quan hệ kinh doanh chồng thì về nguyên tắc, cả vợ và chồng đều bảo hiểm với tư cách là người thụ hưởng có quyền được hưởng lợi ngang nhau từ việc quyền lợi bảo hiểm kí kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm, bất Trong quan hệ kinh doanh bảo hiểm, luận người mua bảo hiểm cho tài sản chung người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm được của họ là ai.(4) Mặt khác, cả vợ và chồng đều hiểu là tổ chức, cá nhân được nhận tiền bảo có vị trí ngang nhau trong việc thực hiện các hiểm do bên bảo hiểm chi trả, theo chỉ định nghĩa vụ pháp lí do pháp luật quy định, gắn của bên mua bảo hiểm hoặc theo quy định với hợp đồng bảo hiểm tài sản.(5) của pháp luật. Đối với hợp đồng bảo hiểm tài - Nếu đối tượng được bảo hiểm là trách sản và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân nhiệm dân sự chung của vợ chồng thì ngoài sự, người thụ hưởng bảo hiểm thông thường quyền được hưởng lợi chung từ việc thực chính là người được bảo hiểm. Còn đối với hiện hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự, hầu hết các hợp đồng bảo hiểm con người cả vợ và chồng đều có vị trí ngang nhau mà đặc biệt là hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm và trong việc thực hiện một số nghĩa vụ pháp lí người được bảo hiểm có thể là hai chủ thể theo quy định của pháp luật, chẳng hạn khác nhau. Ví dụ: A mua bảo hiểm thân thể nghĩa vụ trả tiền bồi thường đối với người hoặc bảo hiểm nhân thọ cho mình nhưng khi thứ ba bị thiệt hại nếu hợp đồng bảo hiểm A chết trong thời gian hợp đồng có hiệu lực trách nhiệm dân sự quy định rằng bên bảo thì quyền lợi bảo hiểm sẽ được bên bảo hiểm hiểm chỉ trả tiền bồi thường trực tiếp cho chi trả cho người được A chỉ định trước người được bảo hiểm, chứ không trả cho trong hợp đồng bảo hiểm hoặc trả cho người người thứ ba bị thiệt hại.(6) Trong trường hợp thừa kế hợp pháp của A. đó, khoản tiền bồi thường thiệt hại do bên Thực tiễn hoạt động kinh doanh bảo bảo hiểm chi trả được xem là thu nhập chung hiểm cho thấy một số trường hợp người thụ của vợ chồng và được nhập vào khối tài sản hưởng quyền lợi bảo hiểm là vợ hoặc chồng chung của vợ chồng. Khối tài sản chung này, hoặc cả hai vợ chồng. Trong hai trường hợp về nguyên tắc sẽ được vợ và chồng thoả này, có sự khác nhau về quyền và các nghĩa thuận để thực hiện mọi nghĩa vụ chung của vụ tài sản của vợ chồng đối với khoản tiền hai người, trong đó có nghĩa vụ đối với bảo hiểm do bên bảo hiểm thanh toán cho người thứ ba bị thiệt hại. Nếu khối tài sản người thụ hưởng. chung không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung - Đối với trường hợp người thụ hưởng của vợ chồng thì mỗi bên vợ và chồng (với quyền lợi bảo hiểm chỉ là cá nhân bên vợ hoặc tư cách là những thành viên của hộ gia đình) bên chồng thì việc xác định khoản tiền bảo sẽ phải liên đới chịu trách nhiệm thực hiện hiểm là tài sản chung hay tài sản riêng, có sự các nghĩa vụ chung đó bằng tài sản riêng của quy định khác nhau mang tính nguyên tắc giữa mỗi người.(7) pháp luật dân sự và pháp luật hôn nhân gia đình. 59 T¹p chÝ luËt häc sè 8/2011
  4. nghiªn cøu - trao ®æi Xét dưới góc độ pháp luật dân sự, khi cá Tuy nhiên, do người thụ hưởng vốn dĩ nhân bên vợ hoặc bên chồng đóng vai trò là không phải là một bên chủ thể của hợp đồng người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm thì về bảo hiểm và hơn nữa, việc chỉ định ai là nguyên tắc, khoản tiền bảo hiểm mà người đó người thụ hưởng bảo hiểm cũng hoàn toàn nhận được từ công ti bảo hiểm sẽ được coi là do bên mua bảo hiểm quyết định và được ghi thu nhập riêng và là tài sản riêng của cá nhân trong hợp đồng bảo hiểm nên về nguyên tắc, người đó, chứ không phải là tài sản chung của việc yêu cầu bên bảo hiểm trả tiền bảo hiểm vợ chồng, trừ trường hợp người đó đồng ý cho người thụ hưởng, chỉ có thể được thực nhập vào khối tài sản chung. Quy định này hiện theo ý chí của bên mua bảo hiểm. Thông dựa trên lí thuyết tôn trọng tối đa quyền tự thường, việc thực hiện quyền yêu cầu đối với định đoạt của cá nhân trong giao dịch dân sự. bên bảo hiểm sẽ do bên mua bảo hiểm thực Xét dưới góc độ của luật hôn nhân và gia hiện hoặc bên mua bảo hiểm chuyển giao đình, với nền tảng cơ bản là chế độ cộng đồng quyền yêu cầu này cho người thụ hưởng trực tài sản thì mọi tài sản do vợ, chồng tạo ra hay tiếp thực hiện. Trong trường hợp đó, vợ hoặc có được trong thời kì hôn nhân, bất kể do chồng có thể đại diện cho nhau trong việc công sức của ai, đều được coi là tài sản chung thực hiện quyền yêu cầu bên bảo hiểm chi trả của vợ chồng. Nếu theo nguyên tắc này thì tiền bảo hiểm, khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, khối tài sản chung của vợ chồng cũng sẽ bao theo ý chí của bên mua bảo hiểm.(9) gồm cả các khoản tiền bảo hiểm mà vợ, 4. Những khó khăn, vướng mắc trong chồng nhận được trong thời kì hôn nhân. Khi việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tài sản của đó, họ có quyền ngang nhau trong việc chiếm vợ chồng khi tham gia quan hệ kinh doanh hữu, sử dụng, định đoạt đối với khoản tiền bảo hiểm và hướng giải quyết, khắc phục này, với tư cách là tài sản chung của vợ Kinh doanh bảo hiểm là lĩnh vực kinh chồng.(8) Quy định này dựa trên lí thuyết doanh đặc thù, có sự tham gia của nhiều loại truyền thống về chế độ hôn sản của hệ thống chủ thể khác nhau và đều gắn với những pháp luật thành văn và sự kế thừa các quy tắc quyền, nghĩa vụ tài sản của các chủ thể đó. tập quán truyền thống của các nước phương Vì vậy, nếu không xác định rõ mỗi loại chủ Đông, đó là chế độ cộng đồng tài sản. - Đối với trường hợp người thụ hưởng thể có những quyền và nghĩa vụ tài sản gì bảo hiểm được xác định là vợ chồng thì khi tham gia quan hệ kinh doanh bảo hiểm khoản tiền bảo hiểm đương nhiên được coi và các quyền, nghĩa vụ tài sản đó liên quan là tài sản chung của vợ chồng, kể từ thời đến khối tài sản nào thì việc thực hiện chúng điểm nhận được số tiền bảo hiểm do bên bảo sẽ gặp rất nhiều khó khăn. hiểm chi trả. Do khoản tiền bảo hiểm là một Thực tế cho thấy rằng có khá nhiều khó phần trong khối tài sản chung nên cả vợ và khăn, vướng mắc và rắc rối xảy ra trong chồng đều có quyền, nghĩa vụ ngang nhau việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tài sản của trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối vợ chồng khi tham gia quan hệ kinh doanh với tài sản đó. bảo hiểm. Ở mức độ khái quát, có thể hình T¹p chÝ luËt häc sè 8/2011 60
  5. nghiªn cøu - trao ®æi dung những khó khăn, vướng mắc và rắc rối Để khắc phục các khó khăn và vướng này được thể hiện trên những khía cạnh chủ mắc về vấn đề này, theo ý kiến chúng tôi, yếu sau đây: pháp luật cần có những quy định cụ thể, rõ Thứ nhất, những hạn chế, bất cập của các ràng và hợp lí về các tiêu chí cũng như cơ quy định hiện hành về tiêu chí cũng như cơ chế xác định tài sản chung và tài sản riêng chế xác định tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng. Cụ thể là: của vợ chồng đã cản trở quá trình tham gia Về tiêu chí, có thể dựa vào một trong hai quan hệ kinh doanh bảo hiểm của vợ chồng. tiêu chí sau đây để xác định tài sản chung và Mặt khác, những quy định này đôi khi cũng tài sản riêng của vợ, chồng: tạo ra các khó khăn và vướng mắc trong quá - Nguồn gốc hình thành tài sản: Nếu tài trình giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa sản do cả hai bên cùng tạo ra hoặc được vợ và chồng với các chủ thể khác tham gia hưởng chung trước khi kết hôn, không được quan hệ kinh doanh bảo hiểm. các bên phân chia thành tài sản riêng của Ví dụ điển hình cho nhận định này là mỗi người cho đến thời điểm kết hôn thì đó trường hợp vợ hoặc chồng đứng tên là bên là tài sản chung của vợ chồng. Ngoài ra, các mua bảo hiểm nhưng khoản thu nhập được tài sản được các bên tạo ra hoặc được cho bên vợ hoặc bên chồng sử dụng để thực hiện chung trong thời kì hôn nhân cũng đương nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm cho bên bảo nhiên được coi là tài sản chung của vợ hiểm lại không thể xác định được là tài sản chồng. Còn nếu tài sản do một bên tạo ra chung của vợ chồng hay là tài sản riêng của hoặc được hưởng riêng ngoài thời kì hôn bên vợ hoặc bên chồng. Vì lẽ đó, khi được nhân thì đó là tài sản riêng của người đó. nhận khoản tiền bồi thường bảo hiểm, giữa - Ý chí của các bên vợ và bên chồng: vợ và chồng có thể xảy ra tranh chấp về Nếu một bên vợ hoặc chồng đồng ý nhập tài quyền sở hữu tài sản, bao gồm quyền sở hữu sản riêng của mỗi người vào khối tài sản về khoản thu nhập dùng để đóng phí, cũng chung thì đó là tài sản chung của vợ chồng. như khoản thu nhập về tiền bồi thường bảo Nếu cả hai vợ chồng thoả thuận tách một tài hiểm do bên bảo hiểm chi trả khi xảy ra sự sản nào đó từ khối tài sản chung thành tài kiện bảo hiểm. Hoặc trong trường hợp bên sản riêng của một bên thì đó là tài sản riêng vợ hay bên chồng được hưởng thừa kế riêng của người đó. về tài sản (trong đó có khoản tiền bảo hiểm) Về cơ chế, việc xác định tài sản chung và nhưng giữa các bên vợ và chồng lại không có thoả thuận nào về việc nhập vào khối tài tài sản riêng của vợ chồng có thể được tiến sản chung của vợ chồng hoặc tách riêng tài hành theo một trong các cách sau đây: sản thừa kế với khối tài sản chung thì việc - Tiến hành kê khai tài sản chung của vợ xác định khoản tiền bảo hiểm là tài sản riêng chồng và tài sản riêng của mỗi người khi của bên vợ hay bên chồng hay thuộc khối tài xác lập quan hệ hôn nhân, có sự xác nhận sản chung là điều rất khó khăn, rắc rối và có của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bản thể dễ dàng dẫn đến tranh chấp. kê khai tài sản này có thể được các bên bổ 61 T¹p chÝ luËt häc sè 8/2011
  6. nghiªn cøu - trao ®æi sung, sửa đổi trong thời gian tồn tại quan hệ pháp luật, dẫn đến những khó khăn, vướng hôn nhân, tuỳ thuộc vào tình hình biến động mắc cho các bên có liên quan trong quá trình thực tế của khối tài sản. áp dụng và thực thi pháp luật, trong đó có - Tiến hành đăng kí quyền sở hữu tài sản việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tài sản tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đối với của vợ chồng khi tham gia quan hệ kinh những tài sản thuộc diện phải đăng kí quyền doanh bảo hiểm. sở hữu theo quy định của pháp luật. Theo ý kiến của chúng tôi, để khắc phục - Lập văn bản thoả thuận về việc nhập những khó khăn, vướng mắc về vấn đề này, tài sản riêng của vợ hoặc chồng vào khối tài pháp luật cần quy định rõ với những dấu sản chung hoặc tách một phần tài sản chung hiệu nào thì việc bên vợ hoặc bên chồng kí của vợ chồng thành tài sản riêng của bên vợ kết hợp đồng bảo hiểm được coi là với tư hoặc bên chồng. cách cá nhân, còn với những dấu hiệu nào thì Thứ hai, những quy định rất mơ hồ của việc kí kết hợp đồng bảo hiểm của bên vợ pháp luật về tư cách chủ thể của vợ chồng khi hoặc bên chồng được xem là với tư cách đại tham gia quan hệ kinh doanh bảo hiểm cũng diện cho hộ gia đình (bao gồm ít nhất hai là khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thành viên là vợ và chồng). Xét từ góc độ thi quyền, nghĩa vụ tài sản của chủ thể này. khoa học luật dân sự, chúng tôi cho rằng để Thực tế cho thấy khi tham gia vào quan thực hiện mục tiêu này, pháp luật cần lưu ý hệ kinh doanh bảo hiểm, thông thường chỉ đến một số dấu hiệu sau đây: bên vợ hoặc bên chồng đứng tên kí kết hợp Một là về khía cạnh ý chí, nếu một bên đồng bảo hiểm nhưng sau đó các quyền và vợ hoặc chồng tham gia kí kết hợp đồng bảo nghĩa vụ tài sản phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm với công ti bảo hiểm mà không hề có hiểm lại có thể liên quan đến khối tài sản sự trao đổi, bàn bạc với người phối ngẫu chung của cả hai vợ chồng. Vậy, trong hoặc với các thành viên còn lại của hộ gia trường hợp này thì bên vợ hoặc bên chồng đình (cha, mẹ, con đã thành niên) thì khi đó, đứng tên kí kết hợp đồng bảo hiểm với tư việc tham gia hợp đồng bảo hiểm cần được cách cá nhân hay với tư cách là người đại xem là ý chí cá nhân của riêng người đó và diện cho hộ gia đình? Điều này đôi khi chính do vậy, hợp đồng bảo hiểm chỉ có giá trị các bên tham gia vào quan hệ hợp đồng bảo ràng buộc với cá nhân người đó chứ không hiểm cũng không xác định rõ. Còn đối với có giá trị ràng buộc đối với những người còn những người nghiên cứu pháp luật và áp lại của hộ gia đình. Ngược lại, nếu một bên dụng pháp luật như các luật gia, luật sư hay vợ hoặc chồng tham gia kí kết hợp đồng bảo thẩm phán thì trên thực tế cũng khó có thể hiểm với công ti bảo hiểm trên cơ sở có sự tìm được câu trả lời thoả đáng nếu căn cứ trao đổi, bàn bạc và thoả thuận với tất cả các vào các quy định hiện hành của pháp luật, thành viên có đủ năng lực hành vi dân sự của đặc biệt là pháp luật dân sự. Rõ ràng, đây hộ gia đình thì khi đó, cần phải được xem họ cũng là khiếm khuyết rất đáng lưu ý của là người đại diện hợp pháp cho hộ gia đình T¹p chÝ luËt häc sè 8/2011 62
  7. nghiªn cøu - trao ®æi để kí kết hợp đồng bảo hiểm. Trong trường chính xác chủ thể tham gia hợp đồng bảo hợp như vậy, hợp đồng bảo hiểm sẽ có giá trị hiểm là bên vợ, bên chồng hay cả hai vợ ràng buộc đối với hộ gia đình và mọi thành chồng với tư cách là hộ gia đình. Từ đó mới viên trong hộ gia đình đều có quyền, nghĩa có thể xác định chính xác các quyền, nghĩa vụ liên đới với nhau trong việc thực hiện hợp vụ tài sản của vợ chồng cũng như cách thức đồng bảo hiểm. thực hiện các quyền, nghĩa vụ tài sản đó. Hai là về khía cạnh tài sản, nếu một bên Thứ ba, những quy định khác biệt giữa vợ hoặc chồng tham gia kí kết hợp đồng bảo pháp luật dân sự và pháp luật hôn nhân và hiểm và sau đó người này sử dụng khối tài gia đình về quyền sở hữu đối với các tài sản sản chung của vợ chồng để thực hiện hợp hình thành trong thời kì hôn nhân do công đồng bảo hiểm, trên cơ sở có sự đồng thuận sức của một bên tạo ra hoặc do một bên của người còn lại thì khi đó có thể xem như được hưởng thừa kế, đôi khi cũng gây ra họ đã kí kết hợp đồng bảo hiểm với tư cách những tranh luận và gây khó khăn, vướng là đại diện cho hộ gia đình. Ngược lại, nếu mắc trong quá trình thực thi quyền, nghĩa vụ một bên vợ hoặc chồng tự ý sử dụng khối tài tài sản của vợ chồng khi tham gia quan hệ sản chung để thực hiện hợp đồng bảo hiểm kinh doanh bảo hiểm. do mình đứng tên kí kết nhưng có bằng Ví dụ, khi bên vợ hoặc bên chồng kí kết chứng về việc người còn lại (chồng hoặc vợ) hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp bảo không đồng ý với cách hành xử như vậy thì hiểm, sau đó người này được bên bảo hiểm khi đó có thể xem như người đứng tên kí kết chi trả khoản tiền bồi thường bảo hiểm khi hợp đồng bảo hiểm là với tư cách cá nhân. xảy ra sự kiện bảo hiểm. Vậy, có thể coi Tuy nhiên, cũng cần lưu ý đến trường hợp khoản tiền bảo hiểm này là tài sản chung đặc thù là nếu người còn lại (chồng hoặc vợ) của hai vợ chồng hay chỉ là tài sản riêng của không có khả năng nhận thức và điều khiển bên vợ hoặc bên chồng đã kí kết hợp đồng hành vi của mình nên không thể bày tỏ ý chí bảo hiểm? Như đã phân tích ở phần trên, về việc không đồng ý cho người đứng tên kí nếu xét từ góc độ của pháp luật dân sự thì kết (vợ hoặc chồng) sử dụng tài sản chung khoản tiền bảo hiểm sẽ được coi là tài sản vào việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm thì riêng của bên vợ hoặc bên chồng - vốn dĩ là khi đó, mặc nhiên người đứng tên kí kết hợp người được chỉ định thụ hưởng số tiền bảo đồng bảo hiểm được xem là với tư cách đại hiểm, theo hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, diện cho hộ gia đình, chứ không phải với tư nếu xét từ góc độ của pháp luật hôn nhân và cách cá nhân, vì khi đó họ được xem như đã gia đình thì mọi tài sản được tạo ra trong hành xử với tư cách là người giám hộ cho thời kì hôn nhân, bất luận do công sức của người không có năng lực hành vi trong các ai, đều được coi là tài sản chung của hai vợ giao dịch dân sự. chồng. Sự quy định khác biệt này có thể là Nếu pháp luật quy định cụ thể như vậy, căn nguyên dẫn đến tranh chấp giữa vợ và chúng tôi cho rằng sẽ đảm bảo xác định chồng về quyền sở hữu tài sản, nếu giữa họ 63 T¹p chÝ luËt häc sè 8/2011
  8. nghiªn cøu - trao ®æi đã xảy ra chuyện “cơm chẳng lành, canh không ngọt”. Đành rằng về nguyên tắc thì bảo hiểm ở đây không phải là quyền năng pháp lí của chủ thể tham gia hợp đồng, bởi lẽ người được bảo hiểm luật dân sự là luật chung, còn luật hôn nhân không phải là một chủ thể của hợp đồng bảo hiểm mà và gia đình là luật chuyên ngành nên sẽ chỉ là người thứ ba có quyền lợi liên quan. Điều này chiếu theo nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật cũng cho thấy rằng người được bảo hiểm không thể chuyên ngành khi giải quyết các vấn đề viện dẫn trực tiếp các điều khoản của hợp đồng bảo pháp lí nhưng việc quy định khác nhau như hiểm để yêu cầu bên bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ bồi thường cho mình khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. vậy giữa hai lĩnh vực pháp luật này rõ ràng (5). Theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm, có thể gây ra những khó khăn và vướng người được bảo hiểm có một số nghĩa vụ như: Nghĩa mắc trong quá trình thực thi quyền, nghĩa vụ chuyển cho doanh nghiệp bảo hiểm quyền yêu cầu vụ tài sản của vợ chồng khi tham gia quan bồi hoàn đối với người thứ ba gây thiệt hại, sau khi hệ kinh doanh bảo hiểm. người được bảo hiểm đã nhận tiền bồi thường tổn thất từ doanh nghiệp bảo hiểm (Điều 49); nghĩa vụ thực Để khắc phục và giải quyết những khó hiện các quy định về phòng cháy, chữa cháy, an toàn khăn, vướng mắc về vấn đề này, chúng tôi lao động, vệ sinh lao động và những quy định khác cho rằng pháp luật dân sự nói chung và pháp của pháp luật có liên quan nhằm bảo đảm an toàn cho Luật hôn nhân và gia đình nói riêng cần có đối tượng bảo hiểm (khoản 1 Điều 50); người được những quy định rõ ràng hơn nhằm tạo ra sự bảo hiểm không được từ bỏ tài sản bảo hiểm khi xảy ra tổn thất cho tài sản, trừ trường pháp luật có quy thống nhất trong nhận thức lí luận về quyền định hoặc các bên có thoả thuận khác (Điều 51). sở hữu đối với tài sản hình thành trong thời (6). Theo quy định tại Điều 57 Luật kinh doanh bảo kì hôn nhân, do công sức của một bên tạo ra hiểm, người được bảo hiểm có thể yêu cầu bên bảo hoặc do một bên được hưởng thừa kế. Thậm hiểm trực tiếp trả tiền bồi thường thiệt hại cho mình, chí, nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật chuyên hoặc trả cho người thứ ba bị thiệt hại và thoả thuận đó phải được ghi vào hợp đồng bảo hiểm. Ngoài nghĩa ngành cũng cần phải được minh định trong vụ này, đôi khi người được bảo hiểm còn phải thực luật để giúp cho các cơ quan nhà nước, các hiện nghĩa vụ đóng tiền bảo lãnh hoặc kí quỹ để đảm luật sư và thẩm phán cũng như mọi tổ chức, bảo tài sản không bị lưu giữ hoặc để tránh việc khởi cá nhân có căn cứ pháp lí dẫn chiếu trong kiện tại tòa án. Trong trường hợp này, nếu người bảo quá trình áp dụng pháp luật./. hiểm yêu cầu thì bên bảo hiểm sẽ thực hiện việc bảo lãnh hoặc kí quỹ thay cho người được bảo hiểm, trong phạm vi số tiền bảo hiểm (khoản 4 Điều 55 Luật kinh (1).Xem them: Khoản 6 Điều 3 Luật kinh doanh bảo doanh bảo hiểm). hiểm năm 2000 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều (7). Về vấn đề này, có thể tham chiếu khoản 2 Điều bởi Luật số 61/2010/QH12 ngày 24/11/2010). (2). Có thể tham chiếu thêm các quyền và nghĩa vụ 110 Bộ luật dân sự năm 2005 về trách nhiệm dân sự này tại Điều 18 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 của hộ gia đình. (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Luật số (8).Xem them: Khoản 1 Điều 27 Luật hôn nhân và gia 61/2010/QH12 ngày 24/11/2010). đình năm 2000. (3).Xem thêm: Khoản 7 Điều 3 Luật kinh doanh bảo (9). Cần lưu ý rằng khi vợ hoặc chồng thực hiện hiểm năm 2000 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều quyền năng này, có nghĩa là họ thực hiện với tư cách bởi Luật số 61/2010/QH12 ngày 24/11/2010). người được chuyển quyền yêu cầu từ phía người mua (4). Cần lưu ý rằng quyền hưởng lợi của người được bảo hiểm. T¹p chÝ luËt häc sè 8/2011 64
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
22=>1