Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
lượt xem 4
download
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai Nguyễn Văn Tuấn Thế là chỉ trong vòng 6 tháng các địa phương phía Bắc đã và đang kinh qua 3 lần bộc phát bệnh tả. Có thể qui mô bệnh chưa đến nỗi phải dùng thuật ngữ “dịch tả”, nhưng chúng ta cần định danh bệnh cho đúng với thực tế. Sự phát sinh và tái phát sinh của bệnh tả làm chúng ta phải suy nghĩ đến các biện pháp lâu dài để phòng chống bệnh, và nhất là không để các địa phương phía Bắc nước ta thành...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
- Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai Nguyễn Văn Tuấn Thế là chỉ trong vòng 6 tháng các địa phương phía Bắc đã và đang kinh qua 3 lần bộc phát bệnh tả. Có thể qui mô bệnh ch ưa đến nỗi phải dùng thuật ngữ “dịch tả”, nhưng chúng ta cần định danh bệnh cho đúng với thực tế. Sự phát sinh và tái phát sinh của bệnh tả làm chúng ta phải suy nghĩ đến các biện pháp lâu dài để phòng chống bệnh, và nhất là không để các địa phương phía Bắc nước ta thành một Bangladesh thứ hai. Bài viết này đề nghị một số biện pháp thực tế để phòng chống bệnh tả. Các bác sĩ đang khẩn trương cấp cứu người bệnh tại BV Truyền nhiễm và Nhiệt đới Quốc gia (Ảnh VietNamNet) Định danh bệnh
- Chỉ trong vòng trên dưới 6 tháng qua bệnh tả bộc phát 3 lần tại một số các địa phương phía Bắc nước ta. Tháng 10 năm ngoái bệnh tả xảy ra và gây ra nhiều chú ý của giới truyền thông và công chúng. Đến cuối năm các giới chức y tế tuyên bố rằng bệnh đã được khống chế, nhưng đến đầu năm 2008, bệnh tả lại bộc phát lần thứ hai! Và, mới đây nhất một “làn sóng” bệnh tả lại bộc phát với hàng trăm bệnh nhân đã nhập viện. Điều này cũng phù hợp với những dự đoán của các chuyên gia rằng bệnh tả sẽ tái phát khi thời tiết bắt đầu ấm lên như hiện nay. Tuy nhiên điều đáng chú ý lần này là số ca bị nhiễm vi khuẩn tả (V. cholera) cao hơn hai lần trước. Cần nhắc lại rằng năm ngoái tỉ lệ bệnh nhân nhiễm vi khuẩn tả chỉ khoảng 13% (tính trên ~1800 bệnh nhân). Theo thống kê chưa đầy đủ, lần này có đến 70-80% bệnh nhân có kết quả xét nghiệm dương tính nhiễm vi khuẩn tả. Mặc dù các quan chức y tế vẫn sử dụng cụm từ "tiêu chảy cấp nguy hiểm”, nhưng theo tôi, với một tỉ lệ nhiễm khuẩn tả cao nh ư ghi nhận hiện nay, chúng ta nên định danh bệnh cho đúng với thực tế khoa học: “bệnh tả”. Chúng ta cần định danh bệnh cho đúng để phòng ngừa. Không có gì phải mặc cảm về sự hiện diện của bệnh. Bệnh tả, lị và thương hàn không phải những bệnh gì mới ở nước ta. Theo y văn quốc tế (do người Pháp ghi lại), năm 1850, một trận dịch tả xảy ra ở miền Trung và Nam nước ta làm cho hơn 2 triệu người mắc bệnh. Năm 1885, một trận dịch lớn khác bộc phát làm cho nhiều lính Pháp mắc bệnh; và trong số lính mắc bệnh tỉ lệ tử vong lên đến 50%! Toàn quyền Paul Doumer cũng từng bị chết vì tiêu chảy, có nghi ngờ là bệnh tả. Từ năm 1910 đến 1930, trung bình mỗi năm có khoảng 5000 đến 30.000 trường hợp dịch tả được ghi nhận. Năm 1961, một nạn dịch tả lớn bộc phát ở Nam Dương, và vi khuẩn V. cholerae O1 lan truyền sang đến miền Nam nước ta làm cho 20.009 người mắc bệnh và 821 người chết. Từ năm 1979 đến 1996, trung bình mỗi năm có khoảng 3000 tr ường hợp dịch tả được báo cáo (xem Bảng 1). Phần lớn những trường hợp này xảy ra ở miền Trung và Nam, đặc biệt là
- các tỉnh phía nam Trung phần như Phan Rang, Phan Thiết, Nha Trang, v.v… Các yếu tố nguy cơ được ghi nhận qua các tr ường hợp này liên quan đến nguồn nước: lượng mưa nhiều, nước uống thiếu vệ sinh hay bị nhiễm trùng, và thiếu cầu tiêu, cầu tiểu. Bảng 1. Số trường hợp dịch tả ở Việt Nam từ 1979 đến 1996 phân chia theo vùng Năm Số trường hợp mắc bệnh theo vùng Tỉ lệ tử Bắc Trung Nam Cao vong Nguyên (%) 1979 0 0 2017 0 9,6 1980 1685 0 6501 0 5,2 1981 442 1613 708 0 3,2 1982 0 126 1686 0 3,1 1983 78 3571 3750 0 2,0 1984 0 114 149 0 1,1 1985 381 3271 702 0 1,8 1986 1622 3147 832 0 1,2 1987 1018 218 833 0 1,1 1988 1389 916 224 12 1,6 1989 1 0 129 0 0,0 1990 0 798 1161 0 0,8 1991 3 142 0 0 2,1 1992 12 1849 649 0 0,5 1993 0 2684 776 0 0,3
- 1994 216 1822 626 1459 1,4 1995 814 3494 1327 453 0,7 1996 149 324 149 8 0,2 Nguồn: Daksgaard A, et al. J Clin Microbiol 1999;37(3):734-741. Yếu tố nguy cơ Vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để phòng bệnh ở qui mô cộng đồng. Quan sát phản ứng và phương cách đối phó của giới y tế trung ương cho thấy xu hướng “nước đến chân mới nhảy”. Thật ra, phần lớn các biện pháp ứng phó của Bộ Y tế vẫn chỉ giới hạn trong việc tuyên truyền, giáo dục, và kiểm tra vệ sinh. Nhưng sự hữu hiệu của các biện pháp này còn tùy thuộc vào kiến thức và nhận thức của người dân, mà trong thực tế phải nói là chưa được cao. Chúng ta biết rằng bệnh tả xảy ra là do bệnh nhân nhiễm vi khuẩn tả (V. cholerae). Vi khuẩn này có mặt trong nước và một số thực phẩm. Do đó, muốn phòng bệnh có hiệu quả thì chúng ta phải biết qua các yếu tố nguy cơ của bệnh. Rất tiếc thời gian qua, vì chúng ta thiếu những nghiên cứu dịch tễ học có hệ thống nên vẫn chưa biết rõ yếu tố nguy cơ bệnh tả ở Việt Nam. Điểm qua y văn và kinh nghiệm từ nước ngoài cung cấp cho chúng ta vài thông tin có ích. Trong thời gian 2001 đến 2004, bệnh dịch tả bộc phát ở tỉnh Sistan-va- Baluchestan, và các nhà nghiên c ứu Iran đã làm một việc có ý nghĩa: họ tiến hành nghiên cứu dịch tễ học để hệ thống hóa đặc điểm vùng bị nhiễm vi khuẩn và nhận dạng các yếu tố nguy cơ. Kết quả phân tích trên cho thấy các yếu tố nguy cơ nguy hiểm nhất là không làm vệ sinh tay sau khi đi tiêu/tiểu và trước khi ăn uống. Uống nước sông hay nước giếng cũng là một yếu tố quan trọng. Ngoài ra, kết quả của họ còn cho thấy đàn ông có nguy cơ mắc bệnh cao hơn phụ nữ đến 3,7 lần.
- Bảng 2. Yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh tả qua kết quả nghiên cứu ở Iran Yếu tố nguy cơ Tỉ số nguy cơ Uống nước và bia từ các hàng quán bên lề 10,2 đường Không rửa tay sau khi đi tiêu hay đi tiểu 22,1 Không rửa tay trước khi ăn uống 3,6 Ăn thức ăn còn dư lại từ hôm trước 4,0 Uống nước giếng / sông 2,8 Chú thích diễn dịch: Tỉ số nguy cơ liên quan đến một yếu tố nguy cơ có thể diễn dịch qua một ví dụ nh ư sau: những người đi tiêu/tiểu mà không rửa tay có nguy cơ mắc bệnh dịch tả, tính trung bình, cao hơn 22,1 lần so với những người có rửa tay sau khi đi tiêu hay đi tiểu. Nguồn: Izadi S, et al. Cholera outbreak in southeast of iran: routes of transmission in the situation of good primary health care services and poor individual hygienic practices. Jpn J In fect Dis. 2006 Jun;59(3):174-8. Năm 1997, bệnh dịch tả bộc phát ở vài vùng ở Tanzania. Các nhà nghiên cứu tận dụng “cơ hội” này để tiến hành một nghiên cứu dịch tễ học và kết quả cung cấp cho chúng ta một số yếu tố nguy cơ có vẻ “gần” với những đặc điểm sinh sống ở nước ta (xem Bảng 3). Kết quả trên một lần nữa cho thấy các yếu tố như nguồn nước uống, nhà xí, tắm sông (và ngạc nhiên thay, ăn cá khô) là những yếu tố rất quan trọng có liên quan đến bệnh dịch tả.
- Bảng 3. Yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh tả qua kết quả nghiên cứu ở Tanzania Yếu tố nguy cơ Tỉ số nguy cơ Dự đám tang gần đây 2,7 Nhà có vách làm bằng bùn 1,7 Trần nhà không có tole hay ngói 2,0 Không có cầu tiêu / nhà xí trong 11,4 nhà Uống nước không đun sôi 1,9 Tắm sông 11,4 Ăn cá khô 13,0 Ăn tôm và tôm khô 3,1 Ăn rau cải sống (không nấu chín) 1,3 Nguồn: Acosta CJ, et al. Cholera outbreak in southern Tanzania: risk factors and patterns of transmission. Emerg Infect Dis. 2001;7(3 Suppl):583-7. Chiến lược phòng ngừa Chúng ta cần một chiến lược lâu dài phòng chống bệnh hơn là ứng phó tạm thời. Từ các yếu tố nguy cơ trên và xem qua các kinh nghiệm phòng chống bệnh từ các nước khác chúng ta có thể điểm qua một số biện pháp hữu hiệu nh ư sau: Thứ nhất là vệ sinh và an toàn thực phẩm. Như trình bày trong hai bảng phân tích các yếu tố nguy cơ trên, bệnh tả và tiêu chảy có liên quan chặt chẽ với nguồn thực phẩm và vệ sinh. Mà, vệ sinh thực phẩm là một vấn đề lớn ở nước ta.
- Người nước ngoài mới đến nước ta lần đầu rất ngạc nhiên khi thấy vệ sinh thực phẩm ở nước ta quá lỏng lẻo. Hàng quán vỉa hè bày bán đủ thứ thức ăn mặc cho phơi nhiễm bởi bụi bậm và khói xe. Người dân xì xụp ăn uống, và khi xong thì vô tư vứt rác ra lề đường, và người “chủ quán” cũng vô tư vứt thức ăn thừa ra lề đường. Nước rửa chén đĩa được “tái sinh” không biết bao nhiêu lần. Đó là những cảnh cực kì hiếm thấy ở các nước mà dịch tả không còn là vấn đề y tế nữa. Do đó, biện pháp hàng đầu và số 1 trong việc phòng chống bệnh tả (và nhiều bệnh truyền nhiễm khác) phải là kiểm tra vệ sinh và an toàn thực phẩm. Thật ra, chúng ta có những qui định về vệ sinh thực phẩm, nhưng ít khi nào được áp dụng một cách nghiêm chỉnh. Đã đến lúc kĩ nghệ thực phẩm, kể cả giới buôn bán vỉa hè và các nhà hàng, có hệ thống tự kiểm tra vệ sinh thực phẩm. Tuy nhiên, một trong những khó khăn hiện nay trong việc kiểm tra vệ sinh an to àn thực phẩm là sự chồng chéo về chức năng giữa các cơ quan. Thật là ngạc nhiên khi công an, hải quan, quản lí thị trường, y tế, v.v… đều có chức năn g kiểm tra vệ sinh thực phẩm. Do đó, khi bệnh tả xảy ra, các giới chức y tế chỉ giới hạn trong tuyên truyền mà không có hành động thực tế để phòng chống bệnh về lâu về dài, bởi vì có quá nhiều cơ quan dính dáng mà ch ẳng cơ quan nào chịu trách nhiệm! Và khi kiểm tra ra tay thì sự cố lại xảy ra vì phương pháp làm việc không minh bạch dẫn đến phản đối của nhà hàng. Thật ra, ngay cả chức năng phát ngôn viên mà trong Bộ Y tế người vẫn có sự đùn đẩy cho nhau! Thứ hai là làm sạch nguồn nước. Theo một nghiên cứu gần đây có hơn 80% nông dân phía Bắc không có nguồn nước sạch. Nghiên cứu từ Iran và Tanzania (những nơi từng kinh qua nạn dịch tả gần đây) cho thấy người người tắm sông nước bẩn và uống nước bị nhiễm trùng có nguy cơ mắc bệnh tả cao gấp 10 lần những người không tắm sông và sử dụng nước không bị nhiễm trùng. Dựa vào kết quả này, có thể nói rằng nếu can thiệp làm sạch nguồn nước uống và nước cho sinh hoạt hàng ngày sẽ ngăn ngừa được ít nhất là 90% bệnh tả. Làm sạch nguồn
- nước ở đây bao gồm việc đun sôi trước khi uống và tẩy trùng bằng chlorine hay các hóa chất khử trùng. Đối với các nông dân không có nước máy, nên khuyến khích sử dụng chlorine để làm sạch nước. Kinh nghiệm ở các nước vùng châu Mĩ Latin trong thập niên 1980 và 1990 cho thấy chỉ đơn giản triển khai phong trào sử dụng chlorine làm sạch nước trong từng hộ có thể giảm sự phát sinh của bệnh tả đến 80%. Chi phí sử dụng chlorine theo tính toán của các chuy ên gia y tế Mĩ chỉ tốn khoảng 2 USD mỗi hộ hàng năm. Do đó, làm sạch nguồn nước uống và sinh hoạt có thể đem lại hiệu quả y tế và kinh tế rất cao. Thứ ba là vấn đề vệ sinh cá nhân. Ăn uống hay đi vệ sinh không rửa tay là một yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh tả, vì tỉ số nguy cơ lên đến 22! Thật vậy, phần lớn các yếu tố nguy cơ của bệnh tả thường liên quan đến tình trạng kinh tế và thậm chí văn hóa sinh hoạt của người dân. Phải thú nhận một thực tế là rất nhiều người chưa có thói quen rửa tay trước bữa ăn hay sau khi đi tiêu / tiểu, và cũng chưa xem nhà xí là một phương tiện phòng chống bệnh tật. Rất nhiều nhà hàng, nhà ở được xây dựng mới toanh và hoành tráng, nhưng cầu xí thì rất ư là tồi tệ. Ở vùng quê, nhiều nhà không có cầu tiêu, và nhiều người vẫn còn đi tiêu ở trên sông, ruộng, ao, hồ, và gây ô nhiễm nguồn nước. Do đó, có lẽ chúng ta không ngạc nhiên khi thấy E. coli tìm thấy trong rau cải và nước. Chúng ta cần phát động một phong trào xây dựng nhà xí ở thôn quê và xây dựng nhiều nhà xí công cộng ở thành phố. Phải khuyến khích, nếu cần dùng ngân sách y tế hỗ trợ cho người dân nghèo, để mỗi nhà đều có một nhà xí tốt. Chúng ta đã có nhà khoa học nghiên cứu về mô hình nhà vệ sinh thích hợp cho nông thôn. Có lẽ Nh à nước cần xem mô hình của tác giả Lê Anh Tuấn trình bày để tiến tới một chiến dịch xây nhà vệ sinh cho dân. Nhưng nhà vệ sinh đóng vai trò cực kì quan trọng trong việc phòng chống bệnh. Hơn một thế kỉ trước đây, nhà vệ sinh giúp thực hiện một cuộc cách mạng về y tế công cộng ở New York, London và Paris. Ngày nay, các quan chức y tế Liên hiệp
- quốc mới nhận thức rằng cầu xí là một phương tiện phòng chống bệnh rất quan trọng ở các nước đang phát triển. Thứ tư là vắcxin. Hiện nay, chúng ta có thể sản xuất vắcxin với hiệu quả khá cao để phòng ngừa bệnh tả. Theo kết quả thử nghiệm tại Huế trên gần 52.000 người được công bố trên Tập san Lancet năm 1997, hai liều lượng vắcxin WB cho uống cách nhau từ 10-14 ngày, hiệu quả là 66% (ở trẻ em hiệu quả là 68%) sau 6-8 tháng theo dõi. Ngoài ra, nghiên c ứu hiệu quả của vắcxin ở Nam Dương trong đợt sóng thần Tsunami vào năm 2005 cho thấy hiệu quả của vắc-xin WC/rBS và CVD103 Hg-R lên đến 90% trong vòng 6 tháng. Một số nghiên cứu gần đây ở Bangladesh và Peru cho thấy vắc-xin WC/rBS có hiệu quả chống dịch tả lên đến 85-90% trong vòng 6 tháng cho tất cả đối tượng bất kể độ tuổi nào. Nói tóm lại, bằng chứng nghiên cứu khoa học trong 10 năm qua cho thấy hiệu quả trung bình của vắcxin phòng chống bệnh tả dao động trong khoảng 66% đến 90%. Theo tôi đó là một hiệu quả rất đáng khích lệ. Thật vậy, một nghiên cứu mới công bố vào tháng 11 năm ngoái cho thấy rằng chỉ cần 50-70% dân số trong những vùng bị dịch tả (hay có nguy cơ cao, như các tỉnh phía Bắc hiện nay) uống vắcxin 2 lần một năm, và với hiệu quả như vừa mô tả, số ca bệnh tả có thể giảm đến 90%. Do đó, các bằng chứng khoa học trên chỉ ra rằng cần phải có một chiến dịch cho uống vắcxin 2 lần / năm để phòng ngừa sự bộc phát của bệnh tả trong tương lai. Đừng để Việt Nam thành Bangladesh! Bệnh tả cho đến nay vẫn là một vấn đề y tế công cộng có qui mô toàn cầu, và cũng là cũng một chỉ tiêu để đo lường sự phát triển xã hội. Hàng năm, có khoảng 5-7 triệu người trên thế giới mắc bệnh tả, và số tử vong vì bệnh này khoảng 100.000 người. Chỉ riêng năm 2005, Tổ chức y tế thế giới (WHO) ghi nhận gần 132.000 trường hợp bệnh dịch tả và 2272 trường hợp tử vong (tỉ lệ tử vong 1,72%) trên thế giới; trong đó, 98% trường hợp xảy ra ở Phi châu.
- Nói đến bệnh tả người ta nghĩ ngay đến Bangladesh (150 triệu dân), nơi mà bệnh tả bộc phát liên tục từ năm này sang năm khác, do nguồn nước ở đây bị ô nhiễm nặng nề và do vệ sinh thực phẩm vẫn còn chưa đảm bảo. Bất cứ du khách nào từ phương Tây đi du lịch ở Bangladesh đều được cảnh báo về tình trạng nguồn nước, về nguy cơ mắc bệnh tả và bệnh tiêu chảy. Trong bối cảnh bệnh tả “đến hẹn lại lên” như hiện nay, tôi nghĩ nước ta có nguy cơ thành một Bangladesh thứ hai, nếu chúng ta không quyết liệt trong chiến dịch phòng chống bệnh tả như vệ sinh thực phẩm, làm sạch nguồn nước, và nhà vệ sinh. Có lẽ trong chúng ta không ai muốn thấy một viễn cảnh nh ư thế vì nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến ngành du lịch và uy tín nước ta trên trường quốc tế. Đây là thời điểm lí tưởng để Bộ Y tế cần phát động một chiến dịch làm sạch nguồn nước và xây nhà vệ sinh trên toàn quốc để một mặt nâng cao nhận thức của cộng đồng về bệnh dịch tả và mặt khác cải thiện tình trạng vệ sinh ở nước. Đây là một sự đầu tư y tế công cộng mà chúng ta chắc chắn sẽ đem lại lợi ích lâu dài cho xã hội và kinh tế.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Thực tập chữa bệnh bằng một huyệt - Khí công Y đạo Việt Nam
15 p | 197 | 61
-
Y học cổ truyền Việt Nam - Sách linh khu part 1
24 p | 114 | 27
-
Y học cổ truyền Việt Nam - Sách linh khu part 8
24 p | 76 | 20
-
Y học cổ truyền Việt Nam - Sách linh khu part 6
24 p | 85 | 18
-
Khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới về phòng ngừa bệnh tả tại Việt Nam
2 p | 154 | 11
-
CÁC BỆNH NHIỄM TRÙNG LIÊN QUAN ĐẾN GAN - Thói quen của người Việt Nam
9 p | 149 | 7
-
Y học cổ truyền kinh điển - sách Tố Vấn: Thiên 60: CỐT KHÔNG LUẬN
6 p | 62 | 6
-
Nghiên cứu lâm sàng: Nghiên cứu mô hình bệnh tật ở bệnh nhân điều trị nội trú tại Viện tim mạch Việt Nam trong thời gian 2003-2007
8 p | 93 | 5
-
Đặc điểm lâm sàng của người lao động mắc bệnh bụi phổi silic tại 5 tỉnh của Việt Nam năm 2019-2020
5 p | 7 | 3
-
Tạp chí Tim mạch học Việt Nam: Số 97/2021
124 p | 14 | 3
-
Nguyên nhân tử vong theo nhóm tuổi tại tỉnh Điện Biên năm 2017
9 p | 27 | 3
-
Phát hiện sớm để điều trị bệnh Parkinson ở nước ta
3 p | 31 | 3
-
Xác định tiêu chuẩn chẩn đoán các bệnh cảnh Y học cổ truyền của vô sinh nữ nguyên phát
11 p | 53 | 3
-
Đánh giá kết quả hóa trị phác đồ có pemetrexed trong ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn IIIB-IV tại Bệnh viện Bạch Mai
5 p | 19 | 2
-
Vai trò của điểm Boey trong tiên lượng tử vong và biến chứng sau điều trị phẫu thuật thủng ổ loét dạ dày tá tràng
5 p | 7 | 2
-
Mô hình chấn thương dựa vào số liệu bệnh viện tại 6 tỉnh của Việt Nam
5 p | 45 | 1
-
Đột quỵ trên bệnh nhân rung nhĩ và tình hình dự phòng đột quỵ ở bệnh nhân rung nhĩ tại các khu vực trên thế giới
5 p | 76 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn