intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Biến đổi khí hậu và những thích ứng để phát triển bền vững nông nghiệp ở Việt Nam

Chia sẻ: Liễu Yêu Yêu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

20
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Biến đổi khí hậu và những thích ứng để phát triển bền vững nông nghiệp ở Việt Nam" phân tích sản xuất nông nghiệp Việt Nam có mối quan hệ qua lại mật thiết và hết sức phức tạp với các yếu tố khí hậu và thời tiết. Những hậu quả của biến đổi khí hậu đòi hỏi phải thích nghi và ứng phó để phát triển bền vững nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Biến đổi khí hậu và những thích ứng để phát triển bền vững nông nghiệp ở Việt Nam

  1. QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ NHỮNG THÍCH ỨNG ĐỂ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM Lê Thị Lý* Tóm tắt: Biến đổi khí hậu đã và đang gây ra nhiều tác động tiêu cực đến hệ sinh thái cũng như đời sống của con người trên toàn thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Sản xuất nông nghiệp Việt Nam có mối quan hệ qua lại mật thiết và hết sức phức tạp với các yếu tố khí hậu và thời tiết. Những hậu quả của biến đổi khí hậu đòi hỏi phải thích nghi và ứng phó để phát triển bền vững nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Từ khóa: Biến đổi khí hậu; Bền vững; Nông nghiệp. 1. Vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu và ảnh hưởng đối với Việt Nam Biến đổi khí hậu (viết tắt là BĐKH): Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO) định nghĩa khí hậu là "Tổng hợp các điều kiện thời tiết ở một khu vực nhất định đặc trưng bởi các thống kê dài hạn các biến số của trạng thái khí quyển ở khu vực đó". Biến đổi khí hậu theo UNFCCC (Công ước khung về BĐKH) là sự thay đổi của khí hậu do sự đóng góp trực tiếp hoặc gián tiếp từ các hoạt động của con người làm thay đổi các thành phần của khí quyển, bổ sung thêm cho những biến động khí hậu tự nhiên được quan trắc trong một thời gian khá dài. Như vậy, BĐKH là sự khác biệt giữa các giá trị trung bình dài hạn của một tham số hay thống kê khí hậu, trong đó trung bình được thực hiện trong một khoảng thời gian xác định, thường là vài thập kỷ, thậm chí hàng thế kỷ. Sự biến động của khí hậu dài hạn sẽ dẫn tới BĐKH. Theo NASA Climate, hợp những dấu hiệu rõ ràng của sự thay đổi khí hậu nhanh chóng toàn cầu là [1]. Nhiệt độ toàn cầu tăng lên.Từ cuối thế kỷ 19, nhiệt độ bề mặt trung bình của hành tinh đã tăng khoảng 1,18 độ C, chủ yếu do lượng khí thải carbon dioxide tăng lên trong bầu khí quyển và các hoạt động khác của con người trên thế giới. Trong 40 năm qua, sự nóng lên đã xảy ra, nhất là 7 năm gần đây. * Thạc sĩ, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội. 126
  2. RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT Đại dương ấm lên. Trái đất dự trữ 90% năng lượng thừa trong đại dương. Đại dương đã hấp thụ phần lớn lượng nhiệt gia tăng, với 100 mét trên cùng của đại dương đã ấm lên hơn 0,33 độ C kể từ năm 1969. Băng tan. Khối lượng các tảng băng ở Greenland và Nam Cực đã giảm. Dữ liệu từ Trung tâm Thí nghiệm Phục hồi Trọng lực và Khí hậu của NASA có tới 279 tỷ tấn băng tan mỗi năm ở Greenland từ năm 1993 đến năm 2019, trong khi có 148 tỷ tấn băng mỗi năm ở Nam Cực. Băng ở biển Bắc cực đang suy giảm. Cả phạm vi và độ dày của băng. Các sông băng đang biến mất hầu như ở khắp mọi nơi trên thế giới - bao gồm cả ở dãy Alpơ, Himalayas, Andes, Rockies, Alaska và châu Phi. Diện tích bị tuyết bao phủ giảm. Các vệ tinh quan sát cho thấy lượng tuyết phủ trong mùa xuân ở Bắc bán cầu đã giảm trong 5 thập kỷ qua và tuyết tan sớm hơn. Mùa đông ít tuyết ở khu vực núi cao trượt tuyết thuộc dãy Alpơ. Mực nước biển tăng lên. Mực nước biển toàn cầu đã tăng khoảng 20cm trong thế kỷ XX. Tuy nhiên, tỷ lệ tăng trong hai thập kỷ qua cao gần gấp đôi so với thế kỷ trước và vẫn đang tăng nhẹ hàng năm. Thời tiết cực đoan. Các hiện tượng thời tiết trở nên bất thường và khó dự báo hơn. Hoa Kỳ là quốc gia có nhiều sự kiện nhiệt độ cao kỷ lục, số lượng các sự kiện thiên tai gây mưa dữ dội ngày càng tăng. Biển bị acid hóa. Độ axit của nước bề mặt đại dương đã tăng khoảng 30% từ khi bắt đầu cuộc Cách mạng Công nghiệp. Do con người thải ra nhiều khí cacbonic hơn vào khí quyển và do đó bị hấp thụ nhiều hơn vào đại dương. Đại dương đã hấp thụ từ 20% đến 30% tổng lượng khí thải carbon dioxide do con người tạo ra trong những thập kỷ gần đây (7,2 đến 10,8 tỷ tấn mỗi năm) Vấn đề BĐKH toàn cầu được hầu hết các quốc gia trên thế giới quan tâm đặc biệt. Công ước Khung của Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu năm 1992 (United Nations Framework Convention on Climate Change, UNFCCC hoặc FCCC) là một hiệp ước quốc tế về môi trường được đàm phán tại Hội nghị Liên Hợp quốc về Môi trường và Phát triển (UNCED), gọi là Hội nghị Thượng đỉnh Trái Đất diễn ra tại Rio de Janeiro từ ngày 3 đến 14 tháng 6 năm 1992. Mục tiêu của hội nghị là "ổn định các nồng độ khí nhà kính trong khí quyển ở mức có thể ngăn ngừa được sự can thiệp nguy hiểm của con người đối với hệ thống khí hậu". Hội nghị về Biến đổi khí hậu của Liên Hợp quốc ở Warsaw, các nước hướng đến một thoả thuận khí hậu chung vào năm 2015 và bao gồm các thoả thuận mới đáng kể, sẽ cắt giảm phát thải từ mất rừng. Hội nghị Thượng đỉnh chống biến đổi khí hậu (COP) lần thứ 20, đại diện 192 quốc gia thông qua lời kêu gọi hành động vì khí hậu Lima. Liên Hợp quốc đã đạt một thỏa thuận chống biến đổi khí hậu tại Hội nghị ở Lima (Peru). Theo đó, chính quyền các nước phải nộp bản cam kết hạn chế khí thải nhà kính lên Liên Hợp quốc trước ngày 31-3-2015 để tạo nền tảng cho một kế hoạch chống 127
  3. QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG biến đổi khí hậu toàn cầu. Đạt thỏa thuận khung tại hội nghị về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc lần thứ 20 (COP 20) ở Lima, Peru, các nhà đàm phán từ hơn 190 nước đã thông qua thỏa thuận khung, cam kết cắt giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Thỏa thuận này lần đầu yêu cầu tất cả các nước, bao gồm các nước đang phát triển và các nước phát triển, hành động nhằm ngăn chặn tình trạng biến đổi khí hậu. Theo thỏa thuận, các nước phải thông qua chương trình quốc gia cắt giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính trước hạn cuối ngày 31/5/2015. Thỏa thuận nói rõ các nước phát triển phải hỗ trợ tài chính cho các nước đang phát triển trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu. Cần thay đổi vấn đề xu hướng Trái đất ấm lên trước khi nhiệt độ toàn cầu tăng thêm 2 độ C, thế giới cần cắt giảm lượng khí thải từ 40-70% từ nay tới năm 2050 và lượng khí thải cần trở về số O vào cuối thế kỷ này. Mục tiêu đầy tham vọng này đòi hỏi các nước phải chung tay thực hiện sự thay đổi bền vững, lâu dài và mang tính toàn cầu. Ủy ban Liên Chính phủ về biến đổi khí hậu của Liên Hợp quốc (IPCC) xác định đến năm 2050, thế giới phải giảm 40-70% lượng khí thải so với mức của năm 2010 và về 0% hoặc thấp hơn vào năm 2100. Chỉ khi đó, cộng đồng thế giới mới có thể đạt mục tiêu duy trì nhiệt độ Trái đất tăng không quá 2 độ C. Hội nghị chống biến đổi khí hậu - Paris 2015/ COP21: mục tiêu, tuy tham vọng nhưng cần thiết, để giới hạn biến đổi khí hậu dưới 2°C. Trên tổng số 170 quốc gia được khảo sát, có 16 quốc gia lọt vào nhóm “cực kỳ rủi ro”, dẫn đầu là các nước thuộc vùng Nam Á bao gồm: Bangladesh, Ấn Độ, Madagascar, Nepal, Mozambic, Philippines, Haiti, Afghanistan, Zimbabwe, Myanmar, Ethiopia, Campuchia, Việt Nam, Thái Lan, Malawi và Pakistan. Trong khi đó, 11 nước được cho là ít bị ảnh hưởng nhất lại nằm ở vùng Bắc Âu, gồm Na Uy, Phần Lan, Iceland, Ireland, Thụy Điển, và Đan Mạch. Các nước Nga, Mỹ, Đức, Pháp và Anh thuộc nhóm “rủi ro trung bình”; còn Trung Quốc, Brazil và Nhật Bản nằm trong nhóm “rủi ro cao”. Việt Nam là nước dễ bị tổn thương trước những tác động của BĐKH. Báo cáo Việt Nam năm 2035 đã chỉ rõ “Sức ép môi trường cũng đe dọa tăng trưởng bền vững trong dài hạn của Việt Nam. Tăng trưởng trong 25 năm qua phần nào có được với cái giá phải trả về trường khá lớn… Trong tương lai, Việt Nam cũng là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất bởi biến đổi khí hậu, trong đó dân cư và hoạt động kinh tế tập trung tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long phải chịu rủi ro cao nhất. Rủi ro còn tăng lên do mức tiêu thụ năng lượng gia tăng và dựa nhiều vào nhiệt điện than. Những năm gần đây, mức tăng phát thải khí nhà kính của Việt Nam vào loại cao trên thế giới”[2] Hiện tượng thời tiết cực đoạn giai đoạn 1997-2016, Việt Nam đứng thứ 5 về Chỉ số rủi ro khí hậu toàn cầu năm 2018 và thứ 8 về Chỉ số rủi ro khí hậu dài hạn (CRI). Ngày càng gia tăng về tần 128
  4. RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT suất và thường khó dự đoán về các hiện tượng thời tiết cực đoan như: “mưa lớn kỷ lục”, “nắng nóng kỷ lục”, “kỷ lục về lũ lụt”. Theo Trung tâm Chính sách và Kỹ thuật phòng chống thiên tai, nước ta xuất hiện nhiều hơn các cơn bão và áp thấp nhiệt đới những năm gần đây, nhất là miền Bắc và Bắc Trung Bộ. Trung tâm Dự báo khí tượng thuỷ văn quốc gia cho biết: Nhiệt độ trung bình của các năm tăng cao hơn từ 0,5 -1,0°C trong 30 năm trở lại đây. Những biến đổi nguồn nước (lượng mưa, mực nước sông) trong năm 2018 tăng đáng kể so với mức trung bình của năm 2017. Năm 2018 kỉ lục về nhiệt độ cao nhất, có lúc đạt tới 42°C trong vòng 46 năm qua tại Hà Nội. Nguyên nhân của BĐKH ở Việt Nam Biến đổi khí hậu ở Việt Nam xuất phát từ nguyên nhân toàn cầu như: thay đổi quỹ đạo Trái đất, thay đổi dòng hải lưu đại dương, thay đổi địa chất, các hoạt động phun trào núi lửa, sự thay đổi phát xạ của Mặt trời. Nguyên nhân riêng ở nước ta, còn do: Kỹ thuật canh tác trong nông lâm ngư nghiệp một số nơi còn rất lạc hậu/ Kỹ thuật chăn nuôi còn nhiều hạn chế, nhất là những vùng chăn thả, chạy đồng/ Phân thải chăn nuôi xả trực tiếp ra môi trường/ Tình trạng chặt, phá, đốt rừng làm nương rẫy chưa có biện pháp ngăn chặn hiệu quả/ Hành động thủ công đốt rơm rạ sau mỗi mùa vụ ở ruộng đồng còn phổ biến ở nhiều nơi/ Việc sử dụng các nguyên liệu thô sơ như: củi, rơm, than tổ ong để đun nấu ở các vùng quê nghèo còn diễn ra khá phổ biến…./ Khói thải từ phương tiện giao thông, sản xuất nông nghiệp rất lớn/ Chất thải từ nhà máy, xí nghiệp chưa qua xử lý ô nhiễm, kiểm soát ô nhiễm trước khi xả thải/ Thời tiết nóng nực nên việc dùng quá mức sử dụng các thiết bị làm lạnh tăng cao…. 2. Tác động của BĐKH đến nông nghiệp Việt Nam BĐKH đã làm thay đổi các điều kiện khí hậu, sinh thái nông nghiệp nước ta. Khi nhiệt độ tăng sẽ ảnh hưởng đến khả năng phát sinh, phát triển của cây trồng, vật nuôi làm cho thay đổi về năng suất và sản lượng. Khi nhiệt độ tăng làm cho suy giảm tài nguyên nước, nhiều vùng không có nước và không thể tiếp tục canh tác làm cho diện tích canh tác bị suy giảm. Khí hậu cực đoan: Khô hạn và lũ lụt đồng ruộng. Rét đậm, rét hại làm chết cây, con thiệt hại lớn về vật chất. Các hiện tượng thời tiết cực đoan, không theo quy luật như bão sớm, muộn, mưa không đúng mùa sẽ gây khó khăn cho bố trí cơ cấu mùa vụ và gây thiệt hại... Các điều kiện khí hậu ảnh hưởng trực tiếp đến: Chế độ và điều kiện thuỷ văn; điều kiện hình thành và chất lượng đất nông nghiệp; Các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thuỷ sản; Các quá trình thu hoạch, vận chuyển, tích trữ và thị trường nông sản; Gây khó khăn cho công tác thủy lợi, tiêu và thoát nước…. Cuối năm 2011, đợt rét hại 36 ngày làm 33.000 con trâu bò bị chết,34.000 ha lúa đã trồng và hàng vạn ha mạ bị chết, nhiều trang trại nuôi thủy sản ở miền Bắc và Bắc Trung Bộ bị mất thiệt hại tới hàng ngàn tỷ đồng. Động thực vật hoang dã bị chết do cháy rừng. Theo Cục Khí tượng thủy văn và biến đổi khí hậu - Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt Nam hạn hán xuất hiện với mức độ khốc liệt ngày càng nhiều và kéo dài. 129
  5. QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG Đợt hạn hán năm 2015, 2016 đã gây thiệt hại nặng nề cho nền nông nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên. Kịch bản BĐKH, nếu nước biển dâng 1 m và không có các giải pháp ứng phó, thì sẽ có tới 38,9% diện tích đất tự nhiên và 32,16% diện tích đất nông nghiệp bị ngập trong nước biển tại 10 tỉnh ngập nặng nhất vùng Đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh. Nước biển dâng làm cho Việt Nam có nguy cơ mất đi khoảng 2 triệu ha đất trồng lúa trong tổng số khoảng 4 triệu ha hiện nay. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long có nguy cơ mất đi 7,6 triệu tấn lúa/năm, tương đương với 40,52% tổng sản lượng lúa của cả vùng. Số ngày nắng nóng do biến đổi khí hậu cũng tăng lên đáng kể, kéo dài nhiều ngày. Theo dự báo đến cuối thế kỷ này số ngày nắng nóng có thể tăng từ 10 đến 20 ngày. Ngược lại, những đợt lạnh cực đoan với nhiệt độ giảm sâu kèm theo mưa tuyết, băng giá lại có xu hướng gia tăng ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Sự thay đổi về nhiệt độ, lượng mưa và tác động của các hiện tượng cực đoan khí hậu như rét đậm, rét hại, nắng nóng, hạn hán, xâm nhập mặn, vv. Khiến năng suất của một số loại cây trồng như đậu tương, lúa, ngô... cũng được dự báo là có khả năng suy giảm từ 3,51 đến 18,71% vào năm 2030. Năm 2020, theo Thống kê của của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai, Việt Nam đã xảy ra khó lường của thiên tai với 13 cơn bão trên Biển Đông; 264 trận dông, lốc, mưa lớn trên 49 tỉnh, thành phố; 120 trận lũ, lũ quét, sạt lở đất; đặc biệt là đợt mưa lũ lớn lịch sử từ ngày 06 đến 22/10/2020 tại khu vực Trung Bộ; 86 trận động đất; hạn hán, xâm nhập mặn nghiêm trọng, sạt lở bờ sông, bờ biển, sụt lún đê biển tại Đồng bằng sông Cửu Long… Năm 2020, là năm có nhiều yếu tố bất thường. Hình thái thời tiết chịu ảnh hưởng của hiện tượng El Nino vào đầu năm, cuối năm lại là hiện tượng La Nina gây những tác động rất lớn. Hệ quả là nắng nóng gay gắt ngay từ đầu năm, còn bão và mưa lớn dồn dập vào cuối năm. Từ tháng 10 năm 2020, miền Trung xuất hiện những cơn mưa to bất thường, lượng mưa vượt mức trung bình từ 100 - 200%, thậm chí có nơi vượt tới 300 - 400%. Những ngày đầu năm 2021, miền Bắc chịu đợt rét tương đương với trận rét kỷ lục vào tháng 01/2016. Hiện tượng băng giá, mưa tuyết liên tục xuất hiện tại nhiều vùng núi cao. Việt Nam đã thiệt hại 196.887 ha lúa và hoa màu; 4,11 triệu con gia cầm chết, cuốn trôi do thiên tai khốc liệt, cực đoan, bất thường tính đến đầu tháng 12/2020 [3] Thay đổi về các điều kiện khí hậu sẽ làm suy giảm đa dạng sinh học, làm mất cân bằng sinh thái, đặc biệt là thiên địch và ảnh hưởng đến sinh trưởng phát triển cây trồng và phát sinh dịch bệnh.BĐKH làm tăng phát triển các loài ngoại lai xâm hại. Do nhiệt độ và lượng mưa biến đổi, gây suy giảm các loài bản địa, làm tăng sinh sản các loài ngoại lai thích ứng cao như ốc bươu vàng, cây mai dương… đe dọa đến an ninh nông nghiệp nghiêm trọng. Xuất hiện nhiều sâu hại tác động đến chăn nuôi, sâu bệnh hại mùa màng và gia súc như: Cúm gia cầm Lợn tai xanh, dịch tả lợn châu Phi ở Việt Nam… BĐKH đã ảnh hưởng đến nguồn nước tưới tiêu trong nông nghiệp: khan hiếm, nhiễm phèn, nhiễm mặn, nguồn nước ngầm suy giảm… 130
  6. RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT 3. Thích nghi và ứng phó với biến đổi khí hậu để phát triển bền vững nông nghiệp ở Việt Nam Ứng phó với biến đổi khí hậu là yêu cầu bắt buộc và thiết yếu đối với tất cả các nước phát triển và đang phát triển. Lựa chọn việc ứng phó với BĐKH hay đẩy mạnh tăng trưởng và phát triển bền vững. Nếu bỏ một trong hai yếu tố đều sẽ không đạt được cả hai. Vì vậy, xử lý tốt vấn đề ứng phó với BĐKH cho mỗi nước sẽ hỗ trợ tăng trưởng bền vững và phát triển bền vững. Khoản 3, Điều 4 Công ước chỉ rõ: Chúng ta cần tận dụng mọi cơ hội "cung cấp các nguồn tài chính mới và bổ sung, kể cả cho việc chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển, để đáp ứng toàn bộ các chi phí gia tăng trong việc thực hiện nghĩa vụ ứng phó với BĐKH". Việt Nam ứng phó với BĐKH bao gồm: Thích ứng và Giảm nhẹ, là hai mặt của một nhiệm vụ chung có quan hệ chặt chẽ và bổ trợ cho nhau. Nếu làm tốt công tác giảm nhẹ đặc biệt là nếu các nước công nghiệp giảm sử dụng nhiên liệu hoá thạch có thể hạn chế được sự nóng lên của trái đất, khí hậu sẽ bớt khắc nghiệt và tình trạng tổn thương của các khu vực sẽ được giảm nhẹ. Điều này đồng nghĩa với công tác thích ứng dễ dàng hơn và chi phí của thích ứng có thể giảm xuống. Sự thích ứng với biến đổi khí hậu là một quá trình, qua đó con người làm giảm những tác động bất lợi của khí hậu về sức khoẻ và đời sống, và sử dụng những cơ hội thuận lợi mà môi trường khí hậu mang lại. Sự thích ứng có thể là tự phát hay được lập kế hoạch, và có thể được thực hiện với những biến đổi trong nhiều điều kiện khác nhau. Báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Trung ương Đảng đã xác định rõ thực tế nước ta là:“Ý thức chấp hành pháp luật về quản lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu còn thấp. Vai trò, trách nhiệm các cấp, các ngành, cộng đồng và doanh nghiệp chưa được phát huy đầy đủ. Vẫn để xảy ra một số sự cố môi trường gây hậu quả nghiêm trọng. Các chế tài để ngăn ngừa, xử lý các hành vi vi phạm chưa đủ sức răn đe và thiếu hiệu quả. Quản lý nhà nước về tài nguyên, môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu trên một số mặt còn lỏng lẻo. Chất lượng công tác quy hoạch, đánh giá, định giá tài nguyên còn hạn chế. Xu hướng chạy theo lợi nhuận và lợi ích trước mắt trong khai thác tài nguyên chậm được khắc phục. Chậm chuyển đổi cơ cấu sử dụng năng lượng theo hướng tiết kiệm, tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo, năng lượng mới. Chất lượng môi trường một số nơi tiếp tục xuống cấp; thích ứng với biến đổi khí hậu còn bị động, lúng túng. Các hệ sinh thái tự nhiên, đa dạng sinh học tiếp tục suy giảm. Ngành công nghiệp và dịch vụ môi trường, tái chế chất thải, xử lý rác chậm phát triển, còn lạc hậu. Tình trạng nhập khẩu công nghệ lạc hậu, máy móc, thiết bị, nguyên, nhiên, vật liệu không đạt chuẩn về môi trường chậm được khắc phục”. [4] BĐKH làm cho Việt Nam gặp những thách thức trong chính sách đầu tư, phát triển kinh tế, xã hội với yêu cầu "phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững" trong bối cảnh phải ứng phó với những tác động tiêu cực, những hậu quả trước mắt về ô nhiễm môi trường, thiên tai và các hiện tượng khí hậu cực đoan gia tăng và những hiểm họa lâu dài có thể xảy ra do BĐKH và nước biển dâng. Sản xuất nông nghiệp Việt Nam có mối quan hệ qua lại mật thiết và hết sức phức tạp với các yếu tố khí hậu và thời tiết, thể hiện qua: năng suất, chất lượng nông sản. Thực tiễn nước ta cho 131
  7. QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG thấy rất cần thiết phải sử dụng các biện pháp kỹ thuật một cách hợp lý để giảm các ảnh hưởng bất lợi và tận dụng tối đa các điều kiện thuận lợi của khí hậu, thời tiết đối với nông nghiệp. Thách thức đối với chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Đây là lĩnh vực nhạy cảm và dễ bị tổn hại nhất do tác động của BĐKH bao gồm những đối tượng nghèo khổ nhất, ít có cơ hội lựa chọn trong việc ứng phó với BĐKH. Làm thế nào vừa phải phát triển bền vững, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu, cung cấp nguyên vật liệu và nhân lực cho phát triển công nghiệp, nhưng đồng thời phải thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn với yêu cầu hạn chế phát thải khí mêtan, góp phần giảm nhẹ BĐKH. Vì vậy, Đảng ta đã xã định nhiệm vụ cấp bách là: “Xây dựng hệ thống và cơ chế giám sát tài nguyên, môi trường và biến đổi khí hậu; dự báo, cảnh báo thiên tai, ô nhiễm và thảm hoạ môi trường, dịch bệnh... Huy động, ưu tiên các nguồn lực, thực hiện đồng bộ các giải pháp công trình và phi công trình để bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu…”.[4] 4. Đề xuất một số biện pháp nhằm thích ứng với BĐKH để phát triển bền vững nông nghiệp ở Việt Nam BĐKH đã tác động rất lớn đến các lĩnh vực: Nông nghiệp và an ninh lương thực; Lâm nghiệp; Thủy sản; Thủy lợi; Diêm nghiệp; Hạ tầng nông thôn ở Việt Nam. Để phát triển bền vững nông nghiệp, cần thích ứng bằng các biện pháp sau: Một là, bảo vệ rừng, tích cực trồng cây xanh làm tăng bể hấp thụ CO2. Trồng rừng ngập mặn bảo vệ đê và chắn sóng, chắn bão. Hai là, tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực để duy trì năng suất cây trồng như: nước; dinh dưỡng; thâm canh; điều chỉnh lịch thời vụ; sản xuất giống cây trồng mới. Có thể thay thế những cây chịu lũ hay là chuyển sang các giống chịu được độ ẩm thấp hơn ở vùng hạn hán. Thay các loại cây trồng dài hạn bằng các loại cây trồng ngắn hạn để tránh bão lũ, sử dụng nhóm cây có khả năng chịu phèn, chịu mặn tốt. Thay đổi giống lúa theo hướng tăng tỉ lệ giống ngắn ngày và thay đổi thời vụ. Đối với thủy sản, phát triển giống tôm, cá,… có chất lượng cao cung ứng kịp thời trong diễn biến phức tạp của thời tiết đồng thời bố trí lại quy hoạch các vùng nuôi trồng thủy sản bị ảnh hưởng nặng bởi BĐKH. Tăng cường các biện pháp phòng chữa cháy; kiểm soát các đợt bùng phát sâu bệnh; lai tạo các giống mới chống chịu mặn, hạn và lụt; quy hoạch vùng sản xuất nhiên liệu sinh học, hình thành các bảo tàng thiên nhiên và lưu giữ gen các giống cây trồng bản địa. Các giống cây trồng, vật nuôi bản địa thường có khả năng chống chịu tốt, ít bị dịch bệnh hơn so với các giống mới và không yêu cầu đầu tư thâm canh cao phù hợp với nhiều người kể cả người nghèo. Sự đa dạng về hệ thống cây trồng, vật nuôi góp phần cải thiện và duy trì các dịch vụ hệ sinh thái, tăng cường khả năng thích ứng với BĐKH. Nông nghiệp sinh thái sẽ bảo đảm sự bền vững về môi trường, công bằng về kinh tế và công bằng về xã hội theo mục tiêu phát triển bền vững của Chương trình nghị sự 2030. Phát triển nông lâm nghiệp ở tỉnh Bắc Kạn, tỉnh Sơn La đã thực hiện với chiến lược chuyển đổi những vùng canh tác ngô trên đất dốc sang trồng cây ăn quả. Viện Khoa học Nông 132
  8. RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT nghiệp Việt Nam đang hỗ trợ tỉnh thực hiện các mô hình nông lâm kết hợp, canh tác nhiều tầng trên đất dốc nhằm tăng lớp phủ thực vật, chống xói mòn. Tại Tây Nguyên, những vườn độc canh cà phê đang dần được thay thế bởi mô hình xen canh với cây che bóng như sầu riêng, tiêu, bời lời, mắc ca… Ở vùng đồng bằng, tỉnh Thái Bình và một số nơi ở Đồng bằng sông Cửu Long bắt đầu thâm canh lúa cải tiến (SRI) hay thâm canh lúa bền vững (SRP) ở quy mô nhỏ. Nghiên cứu bố trí lại hệ thống trồng trọt theo hướng đa dạng hóa cây trồng, kỹ thuật canh tác, gắn thâm canh tăng năng suất với bảo vệ tài nguyên môi trường và kiểm soát rủi ro do tác động tiêu cực của BĐKH. Tiếp tục triển khai nhân rộng các mô hình, biện pháp canh tác tiên tiến như thực hành nông nghiệp tốt (VietGAP), quản lý cây trồng tổng hợp (ICM), kỹ thuật canh tác 3 giảm 3 tăng, kỹ thuật canh tác 1 phải 5 giảm, quản lý dịch bệnh tổng hợp (IPM), hệ thống canh tác lúa cải tiến (SRI), che phủ bằng thảm thực vật. Ba là, chấp nhận những tổn thất là giải pháp “không làm gì cả” ngoại trừ chịu đựng hay chấp nhận tổn thất. “Chia sẻ tổn thất” là làm giảm sự nguy hiểm. Đối với hiểm hoạ môi trường như lũ lụt hay hạn hán, phương pháp thích ứng là kiểm soát lũ lụt (đắp đập, đào mương, đắp đê…). Bốn là, ngăn chặn các tác động: Trong trồng trọt, thay đổi trong việc quản lý mùa vụ, gia tăng tưới tiêu, chăm bón thêm, kiểm soát côn trùng và sâu bọ gây hại. Trong chăn nuôi, quản lý các phụ phẩm nông nghiệp, ngăn chặn phân thải xả trực tiếp ra môi trường làm tăng khí metan gây hiệu ứng nhà kính là hiểm họa cho môi trường bằng cách xây hầm ủ bioga, hoặc chế tạo động cơ chạy bằng khí bioga… Năm là, chuyển đổi mô hình trồng trọt, chăn nuôi và phương thức canh tác mới. Trong phát triển kinh tế ở khu vực nông thôn, cần tiếp cận mô hình sản xuất mới nhất là mô hình giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế chất thải (3R), mô hình kinh tế tuần hoàn, kết hợp lợi ích kinh tế và xử lý ô nhiễm. Phát triển và chuyển giao các giống cây trồng mới (lúa, ngô, lạc, đậu tương, rau màu, cà phê, chè) có năng suất, chất lượng cao thích nghi điều kiện canh tác (chịu mặn, chịu hạn, chịu phèn), chế độ canh tác (ngập lụt, hạn hán) phục vụ sản xuất hàng hóa theo mô hình canh tác nông nghiệp thông minh với khí hậu (CSA). Ở Việt Nam, diện tích đất hoang hóa chưa được khai phá, hoặc canh tác theo phương pháp truyền thống không hiệu quả ở vùng trung du, miền núi phía Bắc, vùng Tây Nguyên, ven biển miền Trung có thể được cải tạo để chuyển sang nông nghiệp sinh thái. Với nhiều vùng núi tự nhiên, chủ yếu canh tác quảng canh và chưa bị ô nhiễm phù hợp cho việc phát triển chăn nuôi và trồng trọt các sản phẩm hữu cơ cũng là những lợi thế rất lớn. Thích nghi với BĐKH theo vùng đối với vùng núi và Trung du Bắc Bộ ở Việt Nam thì khả năng phát triển cây thuốc và cây á nhiệt đới sẽ giảm đi và phải dịch chuyển lên các đai cao hơn hiện nay chúng đang sống. Ngược lại, số lượng cây nhiệt đới sẽ hình thành và phát triển. Ở đồng bằng sông Hồng, các cây rau màu vụ đông có nguồn gốc ôn đới và á đới sẽ được thay thế bởi một loạt các cây trồng nhiệt đới điển hình khác. Vùng Tây Nguyên, sản xuất cà phê, cao su, ca cao... và các cây công nghiệp nhiệt đới điển hình khác sẽ không bị giới hạn do nhiệt độ thấp. Vùng đồng bằng sông Mê Kông, ứng phó với tình trạng tần suất xuất hiện hạn hán, xâm nhập mặn sẽ tăng ảnh hưởng xấu cho sản xuất nông nghiệp của vùng, nên việc chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp như kết hợp nuôi 133
  9. QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG trồng thủy sản với trồng lúa là biện pháp thích ứng hiệu quả với điều kiện nước mặn, nước lợ hiện nay. Kết hợp với các dải cây trồng chắn gió như phi lao, keo hoặc trồng cây ăn quả vào các đường bao để ngăn chặn sự di chuyển của cát và giữ ẩm độ cho đất ở các bãi cát, cồn cát và đất cát ven biển Nam Trung Bộ. Sáu là, tăng cường nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ mới và phương pháp mới về thích ứng. Đi đôi với giáo dục, thông tin và khuyến khích thay đổi hành vi như: hạn chế sử dụng các nguyên liệu hóa thạch, khai thác các nguồn năng lượng sạch, sử dụng tiết kiệm điện, tích cực sử dụng phương tiện giao thông công cộng, hạn chế sử dụng túi lilon, thực hiện những hành động trực tiếp tham gia bảo vệ môi trường...). Ngoài ra, cần lồng ghép BĐKH vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, địa phương là giải pháp quan trọng và có tính chiến lược gồm 4 bước chính: nhận dạng, sàng lọc, tích hợp và lồng ghép. Sự đồng thuận nhằm hướng tới mục tiêu bền vững về môi trường và phát triển nông nghiệp đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cơ quan quản lý về bảo vệ môi trường và cơ quan phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Việc quan trọng là phân tích tìm ra hạn chế chính sách, hay điểm nghẽn của cơ chế, chính sách để tháo gỡ, đồng thời chú trọng phát huy vai trò của các cơ quan quản lý, chủ doanh nghiệp và cộng đồng dân cư trong việc thích nghi ứng phó với BĐKH và phát triển kinh tế nông thôn. Tăng cường hợp tác quốc tế, mở rộng khả năng nghiên cứu, ứng dụng các kinh nghiệm, kiến thức, công nghệ mới về BĐKH. Ứng phó với (BĐKH) để phát triển nông nghiệp là nhiệm vụ của toàn xã hội, các cấp, các ngành, các tổ chức và cộng đồng dân cư. Thực hiện đồng bộ các giải pháp thích ứng với BĐKH phải đúc rút kinh nghiệm từ sản xuất nông - lâm nghiệp, thực tế sinh hoạt, quản lý tài nguyên và quản lý cộng đồng để phát triển sinh kế bền vững. Tài liệu tham khảo 1. Http://phongchongthientai.mard.gov.vn/Page cac-dau-hieu-ro-rang-cua-bien-doi-khi- hau.aspx đăng ngày 01/02/2021. 2. Báo cáo Việt Nam năm 2035. 3. Http://www.kttvqg.gov.vn/public/index.php/cong-tac-pctt-tkcn-130/chu-dong-doi-pho-voi- thien-tai-ngay-cang-cuc-doan-di-thuong-8777.html đăng ngày 13/01/2021 4. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XIII (năm 2021). 134
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2