BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Kim Thoa

BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG

SÁNG TẠO CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI

TRONG HOẠT ĐỘNG VẼ THEO Ý THÍCH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Kim Thoa

BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG

SÁNG TẠO CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI

TRONG HOẠT ĐỘNG VẼ THEO Ý THÍCH

Chuyên ngành : Giáo dục học (Giáo dục Mầm non)

Mã số

: 8140114

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. LÊ THỊ MINH HÀ

Thành phố Hồ Chí Minh – 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của riêng tôi. Các số liệu, kết

quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng công bố trong bất kì công trình

nào khác.

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến:

Ban giám hiệu trường Đại học Sư phạm TP.HCM đặc biệt là những thầy cô

khoa Giáo dục mầm non và những thầy cô đã tận tình giảng dạy cho tôi trong suốt

thời gian học tập tại trường.

Tôi cũng xin gửi lời tri ân chân thành và sâu sắc nhất đến PGS.TS. Lê Thị Minh

Hà, người Cô kính mến đã hết lòng quan tâm, hỗ trợ, hướng dẫn nghiên cứu và động

viên để tôi hoàn thành luận văn..

Tôi xin cảm ơn Quý Thầy Cô Phòng Sau đại học đã hỗ trợ và tạo điều kiện để

tôi có thể tham gia học tập và thực hiện luận văn.

Đồng thời tôi cũng xin cảm ơn Ban giám hiệu, giáo viên trường Mầm non Sen

Hồng, Mầm non Hoa Dừa, Mầm non Rạng Đông, Mầm non Trúc Giang, Mầm non

Hướng Dương đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong công tác nghiên cứu.

Tôi cũng xin chân thành cảm ơn đến gia đình, quý đồng nghiệp và bạn bè đã

động viên, khích lệ và chia sẻ kiến thức trong suốt quá trình nghiên cứu.

Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm luận văn

đã cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 11 năm 2018

Tác giả

Nguyễn Thị Kim Thoa

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

Danh mục các bảng

Danh mục các biểu đồ

MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KHẢ

NĂNG SÁNG TẠO CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI

TRONG HOẠT ĐỘNG VẼ THEO Ý THÍCH .................................. 5

1.1. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................... 5

1.1.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu trên thế giới ................................................... 5

1.1.2. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu ở Việt Nam .................................................... 8

1.2. Lý luận về sáng tạo và phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo

5 - 6 tuổi ............................................................................................................. 10

1.2.1. Sáng tạo ....................................................................................................... 10

1.2.2. Khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong hoạt động vẽ ............. 14

1.3. Lý luận hoạt động vẽ theo ý thích ....................................................................... 21

1.3.1. Khái niệm hoạt động vẽ theo ý thích .......................................................... 21

1.3.2. Đặc điểm hoạt động vẽ theo ý thích của trẻ mẫu giáo ................................ 22

1.3.3. Một số tiêu chí đánh giá khả năng sáng tạo cho trẻ MG 5-6 tuổi trong

tranh vẽ theo ý thích. ................................................................................... 29

1.4. Biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong

hoạt động vẽ theo ý thích. .................................................................................... 32

1.4.1. Khái niệm biện pháp và biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ

mẫu giáo trong hoạt động vẽ theo ý thích. .................................................. 32

1.4.2. Biện pháp tổ chức hoạt động vẽ theo ý thích cho trẻ mẫu giáo

5 – 6 tuổi ...................................................................................................... 33

Tiểu kết chương 1 ..................................................................................................... 36

Chương 2. THỰC TRẠNG BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG

SÁNG TẠO CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI TRONG

HOẠT ĐỘNG VẼ THEO Ý THÍCH ................................................ 37

2.1. Tổ chức nghiên cứu thực trạng ............................................................................ 37

2.1.1. Mục đích ....................................................................................................... 37

2.1.2. Đối tượng ..................................................................................................... 37

2.1.3. Nội dung ....................................................................................................... 38

2.1.4. Phương pháp ................................................................................................ 38

2.1.5. Thời gian: Tháng 2 – 3/2018 ........................................................................ 39

2.2. Phân tích kết quả điều tra bằng phiếu .................................................................. 39

2.2.1. Thực trạng nhận thức của giáo viên về việc phát triển khả năng sáng

tạo cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích ................. 39

2.2.2. Thực trạng tổ chức hoạt động vẽ theo ý thích nhằm phát triển khả năng

sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở trường mầm non. ............................ 50

2.2.3. Thực trạng biểu hiện khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi

trong tranh vẽ theo ý thích. ......................................................................... 52

Tiểu kết chương 2 ..................................................................................................... 58

Chương 3. ĐỀ XUẤT VÀ THỬ NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT

TRIỂN KHẢ NĂNG SÁNG TẠO CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6

TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG VẼ THEO Ý THÍCH ...................... 59

3.1. Một số biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi

trong hoạt động vẽ theo ý thích .................................................................................. 59

3.1.1. Cơ sở đề xuất biện pháp .............................................................................. 59

3.1.2. Nguyên tắc vận dụng các biện pháp ............................................................ 59

3.1.3. Đề xuất một số biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu

giáo 5- 6 tuổi trong HĐVTYT .................................................................... 60

3.2. Thử nghiệm một số biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu

giáo 5- 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích ............................................................ 66

3.2.1. Khái quát về tổ chức thử nghiệm ................................................................. 66

3.2.2. Kết quả nghiên cứu thử nghiệm ................................................................... 75

Tiểu kết chương 3 ..................................................................................................... 98

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................................. 99

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 102

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

: Mẫu giáo MG

: Mầm non MN

Giáo viên : GV

HĐVTYT Hoạt động vẽ theo ý thích :

VTYT Vẽ theo ý thích :

: Đối chứng ĐC

: Thử nghiệm TN

: Số lượng SL

: Tỷ lệ %

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Nhận thức của GV về phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo

5 - 6 tuổi trong HĐVTYT ......................................................................... 39

Bảng 2.2. Nhận thức của GV về biểu hiện sáng tạo trong tranh vẽ của trẻ .............. 40

Bảng 2.3. Tần suất tổ chức HĐVTYT ....................................................................... 40

Bảng 2.4. Giáo viên đánh giá mức độ biểu hiện khả năng sáng tạo của trẻ mẫu

giáo 5 - 6 tuổi trong HĐVTYT ................................................................. 41

Bảng 2.5. Giáo viên đánh giá mức độ quan trọng của các yếu tố trong quá

trình tổ chức HĐVTYT ............................................................................. 43

Bảng 2.6. Giáo viên sử dụng biện pháp phát triển khả năng sáng tạo trong

HĐVTYT .................................................................................................. 44

Bảng 2.7. Nguyên nhân ảnh hưởng đến khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo

5-6 tuổi trong HĐVTYT ........................................................................... 47

Bảng 2.8. Giáo viên kiến nghị nhằm phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu

giáo 5 - 6 tuổi trong HĐVTYT ................................................................. 49

Bảng 2.9. Kết quả mức độ sáng tạo tranh vẽ của trẻ ở các trường mầm non ............ 53

Bảng 3.1. Khả năng sáng tạo qua tranh vẽ “Vẽ quà tặng Ba Mẹ” ............................ 75

Bảng 3.2. Kết quả khả năng sáng tạo qua tranh Vẽ tự do (Chủ điểm: Thực vật) ..... 77

Bảng 3.3. Kết quả khả năng sáng tạo qua tranh Vẽ tự do (Chủ điểm: Phương

tiện giao thông) ......................................................................................... 82

Bảng 3.4. Kết quả khả năng sáng tạo qua tranh Vẽ tự do (Chủ điểm: Động vật) ........ 87

Bảng 3.5. Kết quả khả năng sáng tạo qua tranh “Vẽ theo truyện bé yêu thích” ....... 92

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1. Điểm trung bình các tiêu chí nhóm ĐC và TN trước TN ..................... 76

Biểu đồ 3.2. Điểm trung bình các tiêu chí nhóm ĐC và TN trong tranh Vẽ tự

do (Chủ điểm: Thực vật) ....................................................................... 81

Biểu đồ 3.3. Điểm trung bình các tiêu chí nhóm ĐC và TN trong tranh Vẽ tự

do (Chủ điểm: Phương tiện giao thông) ............................................... 87

Biểu đồ 3.4. Điểm trung bình các tiêu chí nhóm ĐC và TN trong tranh Vẽ tự

do (Chủ điểm: Động vật) ...................................................................... 91

Biểu đồ 3.5. Điểm trung bình các tiêu chí nhóm ĐC và TN trong tranh “Vẽ

theo truyện mà bé thích” ....................................................................... 96

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là

nền tảng cho các bậc học tiếp theo và còn là thời kỳ vàng để phát triển nhân cách cho

trẻ. Sự hình thành và phát triển các đặc điểm tâm lý nói chung và khả năng sáng tạo

nói riêng ở lứa tuổi mẫu giáo là cơ sở, nền móng cho sự phát triển tâm lý cũng như

khả năng sáng tạo sau này của trẻ. Hoạt động tạo hình là nhu cầu không thể thiếu,

được xem là hoạt động thú vị với mọi trẻ và cũng là một trong những nội dung giáo

dục giúp cho trẻ phát triển thẩm mĩ và hoàn thiện nhân cách.

Các nghiên cứu về vai trò của hoạt động tạo hình đối với sự phát triển nhận

thức của trẻ cho thấy hoạt động tạo hình tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển khả

năng sáng tạo của trẻ em.

Hoạt động tạo hình bao gồm nhiều hoạt động: vẽ, nặn, thủ công và lắp ghép

xây dựng. Trong đó, hoạt động vẽ mang tính tạo hình đặc trưng, xuất hiện sớm nhất.

Có thể nói, vẽ chính là một trò chơi, thú tiêu khiển của trẻ thơ. Đặc biệt là trẻ thích tự

mình làm ra sản phẩm, mặc dù sản phẩm của trẻ còn rất đơn sơ nhưng nó chứa đựng

tính hồn nhiên của trẻ, làm trẻ thích thú ngắm nhìn, khác nào một họa sĩ vừa hoàn

thành một tuyệt tác. Trẻ lứa tuổi mầm non, đặc biệt trẻ 5 – 6 tuổi rất thích vẽ, trẻ vẽ

say mê, vẽ không biết mệt. Trong hoạt động vẽ, nhất là vẽ theo ý thích (VTYT), trẻ

dùng ngôn từ là những nét vẽ, màu sắc, biểu tượng để nói lên xúc cảm của mình về

thế giới xung quanh theo cách sáng tạo riêng của trẻ. Quá trình sáng tạo này không

phải ngẫu nhiên tập trung vào môn vẽ mà chính hoạt động vẽ có thể biểu thị dễ dàng

hơn hết những điều tràn ngập trong tâm hồn trẻ. Với trẻ, vẽ theo ý thích đã đánh thức

trí tưởng tượng để từ đó trí tưởng tượng trở thành nhiên liệu thắp sáng năng lực sáng

tạo đang tiểm ẩn trong con người trẻ. Những suy nghĩ, ước mơ thầm kín, ngộ nghĩnh

của trẻ được bộ lộ qua bức tranh vẽ với những đường nét và màu sắc hấp dẫn, phong

phú. Từ tranh vẽ của trẻ ta có thể hiểu trẻ và có hướng giáo dục phù hợp, đồng thời

phát huy được năng lực sáng tạo của trẻ.

Tuy nhiên, qua khảo sát các trường mầm non trong Thành phố Bến Tre hiện

nay, việc tổ chức hoạt động vẽ nói chung và hoạt động vẽ theo ý thích (HĐVTYT)

2

của trẻ nói riêng chưa thực sự kích thích được khả năng sáng tạo của trẻ. Việc giáo

viên hoàn toàn chỉ đạo trẻ như: áp đặt sẵn các hoạt động vẽ trên bàn, dạy trẻ cách sử

dụng và sau đó đứng cạnh bàn theo dõi để đảm bảo trẻ làm theo chỉ dẫn của giáo

viên đã khiến HĐVTYT trở nên ít sáng tạo. Bên cạnh đó, hoạt động này tổ chức với

nội dung chưa phong phú, chất lượng các giờ học vẽ theo ý thích chưa cao, bởi các

giờ học vẽ mang tính khuôn mẫu, thiếu đi sự mềm mại. Hay khi đưa ra nhiều nguyên

vật liệu mở về hoạt động vẽ vào lớp học giúp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ

nhưng trẻ chưa được tự do thoải mái sử dụng theo ý thích của mình, chưa được tự do

thỏa sức sáng tạo. Vì thế, trẻ thực hiện quá trình tạo hình một cách thụ động thiếu

nguồn cảm hứng. Tình trạng này sẽ làm cản trở sự phát triển nhận thức thẩm mỹ và

làm mai một khả năng sáng tạo của trẻ.

Xuất phát từ tình hình thực tế đó, chúng tôi đã lựa chọn đề tài "Biện pháp

phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý

thích".

2. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu một số biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6

tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích nhằm phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ trong

hoạt động này.

3. Giới hạn đề tài

3.1. Giới hạn về nội dung nghiên cứu

- Biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong hoạt

động vẽ theo ý thích.

- Khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích.

3.2. Giới hạn về mẫu nghiên cứu

- Khảo sát thực trạng biện pháp giáo viên sử dụng nhằm phát triển khả năng

sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích.

- Khảo sát thực trạng khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt

động vẽ theo ý thích ở 5 trường mầm non tại Thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.

- Thử nghiệm sư phạm được tổ chức tại 2 lớp mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở Trường

Mầm non Rạng Đông, Thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.

3

4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

4.1. Khách thể nghiên cứu

Quá trình phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt

động vẽ theo ý thích.

4.2. Đối tượng nghiên cứu

Một số biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong

hoạt động vẽ theo ý thích.

5. Giả thuyết nghiên cứu

Nếu đề xuất được một số biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo

5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích thì sẽ giúp trẻ phát triển khả năng sáng tạo.

6. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Hệ thống cơ sở lý luận có liên quan đến đề tài bao gồm: sáng tạo, khả năng

sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi và khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi

trong hoạt động vẽ theo ý thích; hoạt động vẽ của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi và hoạt

động vẽ qua thể loại vẽ theo ý thích của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi; biện pháp phát triển

khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích.

- Thực trạng biện pháp giáo viên sử dụng nhằm phát triển khả năng sáng tạo

cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích và thực trạng khả năng

sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích.

- Đề xuất và thử nghiệm một số biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ

mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích.

7. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng và phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau:

7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận

Phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa tài liệu nhằm xác lập cơ sở lý luận về biện

pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo

ý thích.

7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

4

Sử dụng phiếu điều tra bằng bảng hỏi 50 giáo viên dạy lớp mẫu giáo 5 – 6 tuổi

của 5 trường mầm non trên địa bàn Thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre. Cụ thể:

- Tìm hiểu các biện pháp giáo viên sử dụng nhằm phát triển khả năng sáng tạo

của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động vẽ theo ý thích.

- Tìm hiểu thực trạng khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt

động vẽ theo ý thích.

7.2.2. Phương pháp quan sát

- Quan sát những biện pháp giáo viên sử dụng nhằm phát triển khả năng sáng

tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích.

- Quan sát biểu hiện khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt

động vẽ theo ý thích.

7.2.3. Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động vẽ theo ý thích

Nghiên cứu tranh vẽ của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích

để đánh giá khả năng sáng tạo ở trẻ.

7.2.4. Phương pháp thử nghiệm

- Thử nghiệm sư phạm được sử dụng để kiểm chứng tính khả thi của giả thuyết

khoa học của đề tài.

- Thử nghiệm sư phạm được tổ chức tại 2 lớp mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở Trường

mầm non Rạng Đông, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre: một lớp đối chứng và một

lớp thử nghiệm để tiến hành phương pháp này.

7.3. Phương pháp toán thống kê

Phương pháp thống kê toán học (phần mềm SPSS) được sử dụng để thu thập,

xử lý, phân tích số liệu thu thập được trong quá trình nghiên cứu.

8. Những đóng góp mới của đề tài

- Hệ thống hóa cơ sở lý luận, thực tiễn và biện pháp phát triển khả năng sáng

tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý ở một số trường mầm non

trên địa bàn Thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.

- Đề xuất một số biện pháp nhằm hỗ trợ giáo viên phát triển khả năng sáng tạo

cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý ở một số trường mầm non trên

địa bàn Thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.

5

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN

KHẢ NĂNG SÁNG TẠO CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI

TRONG HOẠT ĐỘNG VẼ THEO Ý THÍCH

1.1. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu trên thế giới

1.1.1.1. Những công trình nghiên cứu về sáng tạo

Khi nói đến sáng tạo người ta thường đề cập đến những thiên tài trong các lĩnh

vực khoa học, nghệ thuật như: Leonarda Vinci, Albert Einstein, Tonxtoi … những danh

nhân này sáng tạo ra những vấn đề khoa học lớn, những tác phẩm vĩ đại. Các nhà khoa

học trước đây khi nghiên cứu vấn đề sáng tạo tập trung mô tả, giải thích sơ bộ dựa trên

cơ sở các hồi ký, tiểu sử, các tác phẩm văn học mang tính tự thuật của các doanh nhân

nhưng chưa đi sâu vào bản chất, quy luật của hoạt động sáng tạo.

Giữa thế kỷ XIX, với những nghiên cứu đầu tiên và có ý nghĩa lớn về sáng tạo,

các nhà xã hội học đã khẳng định rằng, bản chất của tính tích cực sáng tạo là hoạt

động tưởng tượng, nhờ hoạt động tưởng tượng mà kích thích khả năng sáng tạo.

Quan điểm này gần với quan điểm của các nhà tâm lý học ngày nay.

Sang thế kỷ XX đây là thời điểm có tính chất bước ngoặt trong lịch sử phát

triển nhân loại, cùng với sự phát triển vượt bậc trong các lĩnh vực khoa học, nhiều

ngành khoa học ra đời, nhiều thành tựu khoa học được công bố và lĩnh vực sáng tạo

cũng bắt đầu được quan tâm nghiên cứu như là một hiện tượng phổ biến trong xã hội.

Như một tất yếu, quốc gia nào có nền khoa học kỹ thuật phát triển cao thì càng tập

trung nghiên cứu nhiều lĩnh vực sáng tạo.

Khi nói đến lĩnh vực sáng tạo thì phải kể đến các nghiên cứu của nước Mỹ -

một ra và bồi dưỡng những nhân cách sáng tạo là vấn đề có ý nghĩa quốc gia, bởi vì

“hoạt động sáng tạo có ảnh hưởng to lớn không chỉ đến sự tiến bộ khoa học, mà còn

đến toàn bộ xã hội nói chung, và dân tộc nào biết nhận ra được những nhân cách

sáng tạo một cách tốt nhất, biết phát triển họ và biết tạo ra một cách tốt nhất cho họ

những điều kiện thuận lợi nhất, thì dân tộc đó sẽ có những ưu thế lớn lao” (Trần

Trọng Thủy, 2000).

6

Vào đầu năm 1920 công trình nghiên cứu về sáng tạo của Lewis Terman trên

những học sinh giỏi có chỉ số IQ từ 140 trở lên đã được các nhà khoa học đánh giá

cao. Sau đó, ông còn nghiên cứu tiếp tục nhiều công trình khác cũng về lĩnh vực sáng

tạo, rút ra nhiều kết luận về các vấn đề chung của sáng tạo như: môi trường sáng tạo,

sản phẩm sáng tạo, vấn đề nhân cách sáng tạo.

Và quyển sách đầu tiên về vấn đề sáng tạo xuất hiện vào năm 1943 ở Mỹ của

tác giả A.Osborn. Ông đã cho ra đời 4 quyển sách về lĩnh vực này và được tái bản

nhiều lần. Theo kinh nghiệm từ bản thân, ông nhận thấy rằng sự thành công của ông

trong lĩnh vực kinh doanh là nhờ vào sự phát minh ra phương pháp “Tập kích não” –

phương pháp này dựa trên cơ sở của hoạt động sáng tạo.

Tuy nhiên, vấn đề sáng tạo chỉ được nghiên cứu một cách có hệ thống khi

J.P.Guilford, nhà tâm lý học Mỹ. Trong bài phát biểu tại buổi lể nhận chức Chủ tịch

hội tâm lý học Mỹ, đã nhấn mạnh đến ý nghĩa của hoạt động sáng tạo và đồng thời

khuyến khích cổ vũ các nhà tâm lý học tham gia nghiên cứu vấn đề này. Từ đó vấn

đề sáng tạo được đầu tư và cũng đạt được nhiều thành tựu đáng kể.

Nhiều công trình nghiên cứu trong thời gian này đã được xuất bản nội dung đề

cập đến những vấn đề cơ bản của hoạt động sáng tạo, các thuộc tính của nhân cách

sáng tạo, bản chất, quy luật của hoạt động sáng tạo, các giai đoạn của quá trình sáng

tạo … Ngoài ra còn có nhiều tác giả khác ở Mỹ cũng nghiên cứu về vấn đề sáng tạo

như: Barron, Blom, Helmoholtz, Wallass …

Vượt ra khỏi nước Mỹ, các nhà khoa học Liên Xô (cũ) cũng có nhiều công trình

nghiên cứu về sáng tạo, đóng góp cho xã hội, nổi bật như: V.N.Puskin, P.A.Rudich,

L.X.Vygotski … Họ cũng đã tổ chức hội nghị, hội thảo về sáng tạo vào những năm

1960 – 1980 tại Matxcova, Praha, Budapest …

Từ những năm 60 – 70 của thập kỷ XX trở đi, không chỉ ở Mỹ, Liên xô mà cả ở

Tây Âu, đặc biệt là Đức, do nhận ra ý nghĩa phát triển kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật,

cũng như ý nghĩa phát triển cá nhân của sáng tạo mà vấn đề tính sáng tạo dưới góc nhìn

mới của tâm lý học, giáo dục học và xã hội học đã được quan tâm nghiên cứu.

7

1.1.1.2. Những công trình nghiên cứu về hoạt động vẽ của trẻ em

Việc nghiên cứu về hoạt động tạo hình của trẻ em mà đặc biệt là hoạt động vẽ

có lịch sử khá phức tạp. Lúc đầu, sự lý giải về bản chất của hoạt động này mang tính

kinh nghiệm chủ nghĩa. Sau đó các cách giải thích đều mang ảnh hưởng của các

trường phái Tâm lý học như: “Tâm lý học Ưu sinh”, “Tâm lý học cấu trúc”, “Tâm lý

học duy vật biện chứng” với câu hỏi được các nhà tâm lý học giải đáp là “Trẻ em vẽ

gì?” (Lê Thanh Thủy, 1998).

Các nhà Tâm lý học theo trường phái Ưu sinh đã xem xét bản chất của hoạt

động vẽ của trẻ từ góc độ sinh học. Đại diện nổi tiếng của trường phái này là

G.Kerschensteiner khi trả lời câu hỏi “Trẻ vẽ gì” đã khẳng định rằng “Trẻ vẽ những

gì nó biết”. Một đại diện khác là V.Stern lại chỉ rõ hơn “Trẻ vẽ những gì nó nghĩ, nó

biết chứ không phải là cái nó nhìn thấy”. Sự phát triển hoạt động tạo hình theo quan

điểm này chính là những tiềm năng mang tính bẩm sinh mà đứa trẻ có được từ khi

sinh ra (Lê Thanh Thủy, 1998).

Các nhà Tâm lý học cấu trúc cũng nghiên cứu hoạt động vẽ của trẻ em và cho

rằng “Trẻ em vẽ những gì chúng nhìn thấy”. Điều này cho thấy Tâm lý học cấu trúc

đã khẳng định vai trò quan trọng của tri giác thị giác và kinh nghiệm trong quá trình

trẻ vẽ. Tuy nhiên, theo trường phái này “nhìn” và nhìn nhiều thì chưa đủ, cần phải

biết nhìn: “nhìn” trong hoạt động tạo hình là khả năng quan sát có phân tích, tổng

hợp và nhận biết cấu trúc của đối tượng quan sát như một tổng thể trọn vẹn. Quan

điểm này là một đóng góp rất lớn cho công tác giáo dục nghệ thuật. Họ khẳng định

vai trò của tri giác trọn vẹn trong việc hình thành các tác phẩm nghệ thuật. Hạn chế

của họ là quá thiên về “quy luật bừng sáng” và đánh giá quá cao về nó nhằm giải

thích các hiện tượng sáng tạo trong hoạt động vẽ như là kết quả của sự “lóe lên” của

“cấu trúc sinh học” mang tính tiền định nên đánh giá thấp vai trò của ý thức trong

hoạt động sáng tạo nghệ thuật (Lê Thanh Thủy, 1998).

Tranh vẽ của trẻ là sự quan tâm đặc biệt của các nhà Phân tâm học khi lý giải

về bản chất của tranh vẽ, họ khẳng định “Đứa trẻ vẽ những gì chúng cảm thấy”. Cái

“Cảm thấy” ở đây chính là các năng lượng sinh học bản năng. Với quan điểm này,

các nhà phân tâm học đã sinh vật hóa tâm lý con người, làm cho con người mất đi

8

tính chủ thể, tính tích cực hoạt động và sự sáng tạo trong hoạt động vẽ (Lê Thanh

Thủy, 1998).

Nhìn chung, khi xem xét các quan điểm của những trường phái Tâm lý học

trên có thể nhận thấy chỉ mới dừng lại ở sự phát triển tự phát của trẻ trong hoạt động

tạo hình mà không thừa nhận rằng hoạt động tạo hình của trẻ là kết quả hoạt động

tích cực của chủ thể trên cơ sở lĩnh hội và vận dụng sáng tạo các kinh nghiệm xã hội,

kinh nghiệm hoạt động thực tiễn.

Từ những năm 40 - 50 của thế kỷ XX, dưới ánh sáng của các công trình nghiên

cứu của nhà Tâm lý học Xô viết lỗi lạc L.X.Vưgotski thì sự nhìn nhận về sự phát

triển hoạt động tạo hình nói chung và sự sáng tạo nói riêng ở trẻ đã có sự thay đổi.

Khi tìm hiểu xem “trẻ em vẽ gì” các nhà tâm lý học duy vật biện chứng đã nhận thấy

tranh vẽ của trẻ em thể hiện các kinh nghiệm sau:

- Trước hết và nhiều nhất là các kinh nghiệm tri giác bằng thị giác về sự vật,

hiện tượng, sự kiện trong thế giới xung quanh.

- Tiếp đó là các kinh nghiệm về sự vật xung quanh mà trẻ có được khi tiếp xúc,

tiếp nhận bằng các cơ quan cảm giác khác như xúc giác, cảm giác vận động, thính

giác, thị giác, khứu giác.

- Các khuôn mẫu đồ họa mang tính sơ đồ mà trẻ tiếp thu được từ người lớn

trong quá trình giao tiếp.

Sự thể hiện những kinh nghiệm trên có liên quan rất chặt chẽ với các đặc điểm

đặc trưng của khả năng tri giác, tư duy, tưởng tượng, xúc cảm, tình cảm và thái độ rất

riêng của từng đứa trẻ đối với thế giới xung quanh (Hồ hoàng Yến, 2011).

Tóm lại, các nhà Tâm lý học duy vật biện chứng đã khẳng định rằng, hoạt động

tạo hình của trẻ em nói chung và hoạt động vẽ nói riêng là một hoạt động có nguồn

gốc xã hội, mang bản chất xã hội rõ rệt.

1.1.2. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu ở Việt Nam

Ở Việt Nam, nhiều hoạt động thể hiện sự chăm lo, bồi dưỡng, khuyến khích khả

năng sáng tạo được tổ chức hàng năm như: Hội thi sáng chế kỹ thuật, tổ chức hỗ trợ

sáng tạo khoa học và công nghệ Việt Nam thuộc Viện Khoa học Việt Nam và Trung

9

tâm sáng chế khoa học kỹ thuật thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và

nhiều hội thi tài năng được tổ chức trong các trường học.

Đến năm 1990, Viện Khoa học giáo dục thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ

quan khoa học đầu tiên ở Việt Nam tiến hành nghiên cứu về “khả năng sáng tạo” của

học sinh. Các công trình này nghiên cứu bản chất, cấu trúc tâm lý của sự sáng tạo,

phương pháp chẩn đoán, đánh giá khả năng sáng tạo của người Việt Nam.

Bên cạnh đó, cũng có nhiều công trình nghiên cứu về hoạt động sáng tạo cũng

như đề xuất các biện pháp nhằm phát triển khả năng sáng tạo của trẻ như:

 Lê Thanh Thủy nghiên cứu “Ảnh hưởng của tri giác tới tưởng tượng sáng

tạo trong hoạt động vẽ của trẻ 5 – 6 tuổi”.

 Phạm Thu Hương nghiên cứu “Tiềm năng sáng tạo và biểu hiện của nó trong

vận động theo nhạc của trẻ Mẫu giáo 5 – 6 tuổi”.

 Lại Thị Kim Cúc nghiên cứu “Một số biện pháp phát huy khả năng sáng tạo

của trẻ 5 – 6 tuổi trong hoạt động ca hát ở trường mầm non”.

 Luận văn Thạc sĩ của Ngô Thị Tuyết Mai nghiên cứu “Biện pháp phát huy

khả năng sáng tạo cho trẻ 5 – 6 tuổi trong trò chơi đóng kịch”.

 Nguyễn Thị Ngọc Nuôi nghiên cứu “Một số biện pháp phát triển khả năng

tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động kể chuyện”.

 Phạm Thị Nguyên Chi nghiên cứu “Biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ

mẫu giáo 5 – 6 tuổi tại góc tạo hình”.

 Nguyễn Thị Huệ nghiên cứu “Một số biện pháp tổ chức hoạt động tạo hình

nhằm phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi”.

 Nguyễn Huỳnh Ngọc Thủy nghiên cứu “Biện pháp phát huy khả năng sáng

tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ”.

Những nghiên cứu trên đã hệ thống hóa những vấn đề cơ bản của sáng tạo như:

khái niệm, bản chất, đặc điểm của sáng tạo, vai trò của sáng tạo đối với sự phát triển

của trẻ trong các hoạt động khác nhau. Và đưa ra một số biện pháp để phát huy tính

sáng tạo của trẻ trong các hoạt động này.

10

Việc phát triển khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo thông qua hoạt động tạo

hình nói chung và phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt

động vẽ theo ý thích nói riêng là vấn đề hết sức cần thiết và mang ý nghĩa thực tiễn

cao. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu biện pháp phát triển khả năng sáng tạo

trong hoạt động vẽ chỉ nghiên cứu hoạt động vẽ theo mẫu, hoạt động vẽ theo đề tài,

rất ít công trình nghiên cứu về hoạt động VTYT. Chúng tôi nhận thấy biện pháp phát

triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích là

rất cần thiết. Vì vậy, chúng tôi hi vọng đề tài của mình sẽ góp phần phát triển khả

năng sáng tạo ở trẻ.

1.2. Lý luận về sáng tạo và phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo

5 - 6 tuổi

1.2.1. Sáng tạo

1.2.1.1. Khái niệm chung về sáng tạo

Cho đến nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về sáng tạo:

Theo S.Freud “Sáng tạo cũng giống như giấc mơ hiện hành, là sự tiếp tục và sự

thay thế trò chơi trẻ con cũ” (Vụ Giáo dục mầm non, 2005).

Cùng với quan điểm của S.Freud cho rằng sáng tạo như một trò chơi, Thiessy

Gaudin, tác giả cuốn: “Chuyện kể về thế kỷ 21”, đã viết rằng: “Trò chơi là sự thăm

dò những cái có thể và một sự học tập. Ai không chơi thì người đó thu hẹp trường tri

giác và sáng tạo của họ” (Đức Uy, 1998).

Đối với L.X.Vygotsky hoạt động sáng tạo được coi là hoạt động cao nhất của

con người. Theo ông “Bộ não không những là một cơ quan giữ lại và tái hiện kinh

nghiệm cũ của chúng ta, nó còn là cơ quan phối hợp, chỉnh lý một cách sáng tạo và

xây dựng nên những tình thế mới và hành vi mới bằng những yếu tố của kinh nghiệm

cũ đó” Hoạt động sáng tạo được ông nhìn nhận như sau: “Sự sáng tạo thật ra không

chỉ có ở nơi nó tạo ra những tác phẩm vĩ đại, mà ở khắp nơi nào con người tưởng

tượng, phối hợp, biến đổi và tạo ra cái gì mới, cho dù cái mới ấy nhỏ bé đến đâu đi

nữa so với những sáng tạo của các thiên tài…” (Nguyễn Thị Ngọc Kim, 2005).

Theo Chu Quang Tiềm, đại học Bắc Kinh, trong cuốn sách “Tâm lý học văn

nghệ”đã định nghĩa sáng tạo là: “Căn cứ vào những ý tưởng đã có sẵn làm tài liệu

11

rồi cắt xén gạt bỏ chọn lọc tổng hợp thành một hình tượng mới” (Nguyễn Thị Ngọc

Kim, 2005).

Theo từ điển triết học của NXB Tiến bộ Matxcơva: “Sáng tạo là quá trình hoạt

động của con người tạo ra những giá trị mới về vật chất, tinh thần. Các loại hình sáng

tạo được xác định bởi đặc trưng nghề nghiệp như khoa học, kỹ thuật, văn học nghệ

thuật…”. Có thể nói sáng tạo có mặt trong mọi lĩnh vực của thế giới vật chất và tinh

thần (Nguyễn Thị Ngọc Kim, 2005).

Từ điển Tiếng Việt của tác giả Như Ý: “Sáng tạo là tìm thấy và làm nên cái

mới” (Nguyễn Như Ý,1999).

Khi đề cập đến quá trình sáng tạo, Nguyễn Đức Uy cho rằng “Đó là sự đột khởi

thành hành động của một sản phẩm liên hệ mới mẻ nảy sinh từ sự độc đáo của một cá

nhân một đằng và những tư liệu biến cố, nhân sự hay những hoàn cảnh của đời người ấy,

đằng khác” (Nguyễn Ánh Tuyết, 2002).

Nguyễn Huy Tú định nghĩa:“Sáng tạo thể hiện khi con người đứng trước hoàn

cảnh có vấn đề. Quá trình này là tổ hợp các phẩm chất và năng lực mà nhờ đó con

người trên cơ sở kinh nghiệm của mình, và bằng tư duy độc lập tạo ra được ý tưởng

mới, độc đáo, hợp lý trên bình diện cá nhân hay xã hội. Ở đó người sáng tạo gạt bỏ

được các giải pháp truyền thống để đưa ra những giải pháp mới, độc đáo và thích

hợp cho vấn đề đặt ra” (Chu Quang Tiềm, 1999).

Đối với trẻ em, tính sáng tạo là năng lực diễn tả của bản thân theo cách của riêng

mình. Tiềm năng sáng tạo của trẻ em mầm non bao gồm cả trẻ khuyết tật được thể hiện

trong tất cả hoạt động của trẻ nhưng đặc biệt nổi trội là ở 4 hoạt động chính: âm nhạc, tạo

hình, ngôn ngữ và chơi tưởng tượng (Nguyễn Xuân Khoa, 2003).

Tóm lại, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những quan điểm khác nhau về sáng tạo

nhưng có điểm chung là sáng tạo là một quá trình tạo ra hay hướng đến cái mới. Trên

cơ sở phân tích một số quan niệm trên về sáng tạo của các nhà nghiên cứu, theo

chúng tôi sáng tạo có thể hiểu là: quá trình con người vận dụng những kinh nghiệm

của bản thân, độc lập đưa ra những ý tưởng mới lạ hoặc cải tạo và biến đổi những

sản phẩm có sẵn để tạo ra những sản phẩm mới nhằm phục vụ cho lợi ích chính

đáng của bản thân và xã hội.

12

1.2.1.2. Đặc điểm của sáng tạo

Đặc điểm của sáng tạo được bộc lộ ở 3 thuộc tính cơ bản đó là: tính mới mẻ,

tính độc lập và tính hiện thực (Nguyễn Huy Tú, 1998).

Thứ nhất, tính sáng tạo bộc lộ ở tính mới mẻ trong sản phẩm của tư duy hay

hành động, tính mới mẻ này có thể là đối với cá nhân hoặc đối với xã hội. Khi đề cập

đến sự sáng tạo của người trưởng thành, của nhà khoa học, nhà phát minh sáng chế,

sáng tác… là nói đến tính mới mẻ trên bình diện xã hội.

Ở lứa tuổi học sinh, trong quá trình sáng tạo, cái mới được phát hiện không

nhất thiết phải có ý nghĩa toàn xã hội mà chỉ là đối với bản thân mình. Tuy nhiên,

bản thân quá trình sáng tạo đó có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với xã hội. Tâm lý

học đã xác định được tính tương tự giữa quá trình sáng tạo của học sinh và quá trình

sáng tạo của các nhà khoa học, sáng chế sáng tác. Sự khác nhau ở đây chỉ là vấn đề

cần giải quyết ở trình độ tự lập trong diễn tiến các giai đoạn của quá trình sáng tạo.

Còn cơ chế dẫn đến cái mới về nguyên tắc không có sự khác biệt nào giữa sáng tạo

của học sinh và người lớn.

Thứ hai, tính sáng tạo thể hiện ở tính độc lập trong tư duy và hành động. Tư

duy độc lập làm tiền đề để nảy sinh những ý tưởng mới, giải pháp và phương pháp

mới. Ở cả trẻ em và người lớn muốn phát triển tính độc lập tư duy, cần đặt cho họ

trước những vấn đề buộc họ đi đến đích bằng con đường giải quyết vấn đề đó. Khi đi

vào giải quyết vấn đề, nếu chúng ta thử nghiệm độc lập để tìm ra giải pháp và càng

khác lạ với thông thường thì càng được đánh giá là có tính sáng tạo.

Người sáng tạo có khuynh hướng tránh lặp lại cách giải quyết cũ, họ hoài nghi,

muốn từ bỏ cái truyển thống, có khi từ bỏ cả mục đích truyền thống. Họ thường đưa ra

các ý tưởng mới, cách thực hiện mới để thực hiện ý tưởng độc đáo, mới lạ của mình.

Thứ ba là tính hiện thực, nó được thể hiện trong giá trị sản phẩm mới. Quá

trình sáng tạo ra sản phẩm mới luôn có mối liên quan đến hiện thực. Sáng tạo không

phải là sự đoạn tuyệt của hiện thực mà là sự phản ánh hiện thực tối đa nhưng trong

tình huống mới, chất lượng mới và mục đích mới.

Người ta thường quan niệm rằng: sáng tạo bao giờ cũng xuất phát từ nhu cầu

của hiện thực khách quan nhằm vươn tới việc tạo ra cái mới, độc đáo, tốt hơn, có lợi

13

hơn cho sự phát triển của xã hội. Điều này có vẻ trái ngược khi người ta nghiên cứu

các sản phẩm sáng tạo của trẻ: không độc đáo hơn, không đẹp hơn, không có lợi hơn

cho xã hội nhưng ở đây chúng ta đã tập cho trẻ học cách sáng tạo, để thể hiện nhu cầu

tự nhiên, vốn có của trẻ không bị phụ thuộc vào một công thức, một giải pháp, một

đường mòn có sẵn. Chúng ta giúp trẻ trở thành người sáng tạo. Như vậy, việc giúp cho

trẻ trở thành người sáng tạo là việc có ý nghĩa xã hội to lớn mà ngay chính đứa trẻ

cũng chưa ý thức được, mà trẻ chỉ thấy sự thoải mái được thực hiện những điều

chúng tưởng tượng ra.

Tóm lại, xét trên bình diện toàn xã hội thì hoạt động chơi và học tập là hoạt

động tái tạo, nhưng trên bình diện cá nhân thì hoạt động chơi và học tập là hoạt động

sáng tạo, sáng tạo cho bản thân mình. Vì vậy được gọi là sáng tạo đặc biệt. Do đó,

chúng ta phải động viên, chỉ dẫn và khuyến khích trẻ để trẻ tiếp tục sáng tạo và đó là

điều kiện rất tốt cho sự sáng tạo thực sự sau này của trẻ.

1.2.1.3. Các cấp độ của sáng tạo

Theo nhà tâm lý học người Mỹ C.W. Taylor sáng tạo có thể phân ra 5 cấp độ

khác nhau như sau:

Cấp độ 1: Sáng tạo biểu hiện là dạng cơ bản nhất của sáng tạo, không đòi hỏi

tính độc đáo hay kỹ năng quan trọng nào. Đặc trưng của cấp độ sáng tạo này là tính

bộc phát “hứng khởi” và sự tự do khoáng đạt.

Cấp độ 2: Sáng tạo chế tạo là bậc cao hơn sáng tạo biểu hiện. Nó đòi hỏi kỹ

năng nhất định (xử lý thông tin hoặc kỹ năng kỹ thuật…) để thể hiện rõ ràng, chính

xác các ý kiến của cá nhân. Ở cấp độ này tính tự do, hứng khởi bộc phát đã nhường

bước cho các quy tắc trong khi thể hiện cái tôi của người sáng tạo.

Cấp độ 3: Sáng tạo phát kiến có đặc trưng là sự phát hiện hoặc “tìm ra” do

“nhìn thấy” các quan hệ mới giữa các thông tin trước đây. Đây chưa phải là cấp bậc

sáng tạo cao nhất mà chỉ là chế biến các thông tin cũ và sắp xếp lại chúng để đi đến

các quan hệ mới và đó chính là sự xuất hiện sáng kiến hay phát kiến.

Cấp độ 4: Sáng tạo cải tiến (đổi mới, cải cách) là cấp bậc sáng tạo cao. Nó thể

hiện sự am hiểu sâu sắc các kiến thức khoa học hoặc nghệ thuật, kỹ thuật hay sản

xuất, tức đòi hỏi một trình độ trí tuệ nhất định. Từ đó xây dựng được các ý tưởng cải

14

tạo, cải cách có ý nghĩa xã hội và khoa học kỹ thuật. Lackben cho rằng dự án trong

đầu càng xa với ban đầu bao nhiêu thì sự sáng tạo càng lớn bấy nhiêu.

Cấp độ 5: Sáng tạo bậc cao, tột đỉnh của quá trình sáng tạo. Người ta đưa ra

những ý tưởng mới hoàn toàn, thậm chí nảy sinh những ngành nghề mới, trường phái

mới, chương trình mới… vượt qua trí tuệ đương thời. Đại diện cho những người đạt

cấp bậc này là Einstein trong vật lý học, Picasso trong hội họa, Chopin trong âm

nhạc, Darwin trong sinh vật học, K. Marx, Hồ Chí Minh trong xã hội và khoa học

chính trị (Lê Thanh Thủy, 2004)

Sáng tạo của trẻ em thường ở cấp bậc thấp nhất là sáng tạo biểu hiện, đây là

bậc quan trọng nhất của sáng tạo, vì không có nó thì chẳng có một chút sáng tạo nào

cao hơn. Đặc trưng của cấp độ một là tính bộc phát, hứng khởi và tự do khoáng đạt,

nếu như hai đặc tính này bị hạn chế, bị gò ép vào khuôn phép ngay từ lúc nẩy mầm

thì rất có hại cho sự sáng tạo.

Như vậy, nếu chúng ta làm hạn chế những biểu hiện sáng tạo của trẻ ngay từ

tuổi MN dần dần sẽ trở thành thói quen, ngấm dần vào trong tư duy của con người,

đi đến chỗ thụ động, máy móc.

1.2.2. Khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong hoạt động vẽ

1.2.2.1. Khái niệm khả năng sáng tạo

Khả năng là cái có thể xuất hiện trong điều kiện nhất định.

Khả năng sáng tạo là sự hội tụ của nhiều yếu tố như: khả năng nhận thức, tính

cách cá nhân, cảm xúc và những yếu tố từ môi trường.

Mọi trẻ em đều tiềm ẩn năng lực sáng tạo, nhưng sự sáng tạo của trẻ em không

giống sự sáng tạo của người lớn. Sự sáng tạo của người lớn là việc tạo ra cái mới, cái

độc đáo, gắn với tính chủ đích, có tính bền vững và thường là kết quả của quá trình

nỗ lực tìm tòi để phát minh, sáng kiến ra những sản phẩm hoàn toàn mới lạ và có ý

nghĩa nhất định trong đời sống xã hội. Nhưng ở một đứa trẻ thì khả năng sáng tạo lại

chính là khi trẻ bắt đầu tái tạo, bắt chước, mô phỏng một điều gì đó và thường không

có tính chủ đích. Sự sáng tạo của trẻ em phụ thuộc nhiều vào xúc cảm, tình huống và

thường kém bền vững.

15

Ở lứa tuổi mầm non, trong bất cứ hoạt động nào trẻ cũng tỏ ra ngạc nhiên, tò

mò và có khuynh hướng khám phá, thử nghiệm. Do vậy, nếu một đứa trẻ không có

khả năng sáng tạo thì không hẳn do trẻ vốn đã thiếu khả năng sáng tạo mà có thể xuất

phát từ gia đình, trường học và môi trường văn hóa mà trẻ tiếp nhận.

Khả năng sáng tạo được thể hiện rõ rệt ở trẻ 5 - 6 tuổi vì ở tuổi này trẻ đã bắt

đầu thích nghi với những điều xảy ra xung quanh thông qua việc học, chơi và biết

chủ động tham gia nhiều hoạt động khác nhau, từ đó trẻ tích lũy và biết cách phát

huy khả năng sáng tạo của mình.

1.2.2.2. Vai trò của sáng tạo đối với sự phát triển tâm lý cho trẻ mẫu giáo

Lứa tuổi MG là giai đoạn phát triển mạnh mẽ về thể chất và tâm lý, do đó mọi

tác động đến trẻ lúc này đều có những ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển nhân

cách của chính đứa trẻ sau này. Cho nên việc phát hiện và bồi dưỡng tính sáng tạo

cho trẻ cần phải được quan tâm thích đáng bởi vai trò quan trọng của nó đối với sự

phát triển toàn diện của trẻ. Mặc dù những nghiên cứu về khả năng sáng tạo của trẻ

còn ít, nhưng thông qua các nghiên cứu của một số nhà tâm lý, giáo dục học thì

chúng ta đã phần nào thấy được vai trò của tính sáng tạo đối với sự phát triển tâm lý

trẻ. Điều này thể hiện ở một số điểm: (Phạm Thị Nguyên Chi, 2013).

Một là, hoạt động sáng tạo là một hình thức giúp trẻ tự do thể hiện cái tôi của

mình. Đề cặp đến vấn đề này, X.L.Rubinstein cho rằng: “Mặc dù vốn kiến thức kinh

nghiệm của trẻ còn hạn chế, nhưng trẻ có nhiều cơ hội để bộc lộ sự sáng tạo mang

tính chủ quan của mình. Điều quan trọng là phải xem cái gì là cái mới chủ quan của

trẻ. Sứ mệnh của sự sáng tạo với vị trí là bậc thang cao nhất ở hoạt động của con

người, có liên quan không chỉ những giá trị khách quan và sự phát triển xã hội mà

còn có giá trị chủ quan đối với sự phong phú đa dạng trong cuộc sống cá nhân”

(Chu Quang Tiềm, 1999).

Như vậy, ý nghĩa sự sáng tạo của trẻ không chỉ được xem xét ở kết quả trong

sản phẩm sáng tạo mà còn được nhìn nhận trong bản thân quá trình sáng tạo. Điều

quan trọng không hẳn là ở cái mới mà trẻ tạo ra, mà là trẻ đang được sáng tạo, đang

được bộc lộ và rèn luyện trong hoạt động sáng tạo đó. Sáng tạo của trẻ như một trò

16

chơi nảy sinh từ một nhu cầu cấp bách tự nhiên. Trẻ tự mình khám phá, tìm tòi, nghĩ

ra một cái mới và thể hiện cái mới đó với niềm vui sướng vô biên.

Hai là, hoạt động sáng tạo giúp trẻ hình thành và phát triển những xúc cảm,

tình cảm thẩm mỹ ở trẻ. Khi trẻ sáng tạo, những xúc cảm ở trẻ lay động, qua đây trẻ

có thể nhìn thấy cái đẹp, yêu cái đẹp và cố gắng tạo ra cái đẹp trong khuôn khổ vốn

kinh nghiệm ít ỏi của mình. Cho dù những gì mà trẻ tạo ra không mang giá trị xã hội

lớn lao, không mang tính độc đáo hay mới đối với xã hội, nhưng khi được hoạt động,

được sáng tạo và trải nghiệm cảm xúc đã mang lại cho trẻ niềm vui thích vô biên và

cũng là món quà vô giá mà sáng tạo mang lại cho trẻ.

Ba là, hoạt động sáng tạo giúp phát triển ngôn ngữ và trí tuệ của trẻ. Với trẻ,

muốn cho trí tưởng tượng sáng tạo của trẻ phát triển phải cho nó được tham gia vào

các hoạt động, trong đó hoạt động vui chơi là hoạt động cơ bản. Thông qua hoạt

động vui chơi vá cả hoạt động tạo hình trẻ được tiếp xúc với thế giới xung quanh,

xác lập được quan hệ của mình với hoàn cảnh và với người khác. Trẻ được giao lưu,

trao đổi, trình bày ý kiến của mình và thỏa sức tưởng tượng.

Do vậy có thể nói, thông qua những ý tưởng và sáng tạo đã giúp cho các nét tâm lý

xã hội, những tri thức, kinh nghiệm và ngôn ngữ của trẻ có nhiều cơ hội phát triển.

1.2.2.3. Đặc điểm sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi

Sáng tạo của trẻ mầm non có những đặc điểm như sau: (Lê Thị Thanh Bình,

2006).

- Sáng tạo của trẻ bao giờ cũng xuất phát từ nhu cầu đã có trước, một nhu cầu

cấp bách tự nhiên và điều kiện tồn tại của trẻ. Trẻ không bao giờ sáng tạo cái gì mà

trẻ không biết, không hiểu và không có hứng thú.

- Trẻ có thể sáng tạo đột nhiên, có cách làm việc tự do, không cần ghi nhớ,

không cần sự bắt chước, bất kì chỗ nào thiếu trí nhớ, những kỉ niệm bị rạn nứt chỉ

còn lại những yếu tố rời rạc thì óc tưởng tượng sẽ móc ghép theo cách riêng, thế là

có sáng tạo.

- Sáng tác của trẻ ít khi nghiền ngẫm lâu về tác phẩm của mình, phần lớn trẻ

sáng tác liền một mạch. Trẻ giải quyết nhu cầu sáng tạo của mình nhanh chóng và

triệt để những tình cảm đang tràn ngập trong lòng trẻ.

17

- Trẻ không phải ngẫu nhiên tập trung vào việc sáng tạo, mà chính sáng tạo cho

phép đứa trẻ ở lứa tuổi này có thể dễ dàng thể hiện hơn hết những điều đang tràn

ngập tâm hồn trẻ.

- Trò chơi hay sáng tác của trẻ không phải là hồi ức đơn giản, mà là sự gia

công sáng tạo những ấn tượng đã tiếp nhận. Sự phối hợp những tiếp nhận ấy và từ đó

cấu tạo nên một thực tế mới, đáp ứng nhu cầu và hứng thú của bản thân. Vậy khả

năng biết xây dựng một hệ thống bằng các yếu tố, biết phối hợp cái cũ lại thành

những kết hợp mới chính là tạo nên cơ sở của sáng tạo.

- Sáng tạo của trẻ cũng như trò chơi, về căn bản còn chưa tách rời khỏi hứng

thú và đời sống cá nhân. Sáng tạo của trẻ biểu hiện một cách tự phát, độc lập với ý

muốn của người lớn.

- Trong mọi hoạt động của mình trẻ luôn có cảm giác thắc mắc, tò mò cao độ

và một sự nỗ lực tự phát nhằm khám phá, thử nghiệm và thao tác theo kiểu độc đáo

mang tính trò chơi. Đó là biểu hiện mang tính sáng tạo của trẻ.

- Sáng tạo của trẻ mang tính chất tổng hợp các lĩnh vực trí tuệ, tình cảm, ý chí

và đặc biệt là tưởng tượng sáng tạo được hưng phấn với một sức mạnh trực tiếp của

cuộc sống.

- Chúng ta biết rằng so với người lớn, tri thức và kinh nghiệm của trẻ còn ít ỏi,

trí tưởng tượng còn nghèo nàn, hứng thú đơn giản và sơ đẳng hơn nhưng do sự dễ

dãi, sự mộc mạc của trí tưởng tượng nên trẻ sống trong thế giới tưởng tượng nhiều

hơn, tin vào sản phẩm của trí tưởng tượng nhiều hơn, kiểm tra những sản phẩm ít

hơn do đó mà trẻ dễ có những biểu hiện sáng tạo hơn.

- Sản phẩm sáng tạo của trẻ có thể không hoàn hảo nhưng ưu thế là chúng nảy

sinh trong quá trình sáng tạo của trẻ.

- Ở đứa trẻ, toàn bộ con người nằm trong sự vận động thực tế trực tiếp. Nó

sáng tạo ra hành động thực tế. Nó quan tâm trước hết đến quá trình hành động chứ

không phải đến kết quả (Nguyễn Thị Thanh Hương, 2006).

Tóm lại: Giai đoạn đầu tiên của quá trình sáng tạo, ý tưởng xuất hiện chính

trong quá trình hoạt động của trẻ. Trẻ càng nhỏ thì càng nhanh chóng thực hiện ý

18

tưởng của mình. Trẻ càng có nhiều kinh nghiệm thì sự liên tưởng và ý tưởng tạo hình

càng phong phú.

1.2.2.4. Đặc điểm ngôn ngữ tạo hình trong tranh vẽ của trẻ mẫu giáo

Đặc điểm ngôn ngữ tạo hình trong tranh vẽ của trẻ được xem như là các

phương tiện truyền cảm mang tính tạo hình mà trẻ sử dụng để thể hiện những hiểu

biết, suy nghĩ, tình cảm của mình qua các hình ảnh, hình tượng (Lê Thanh Thủy,

2009).

a. Đường nét, hình dạng

Đường nét, hình dạng là những dấu hiệu đầu tiên của hình vẽ giúp trẻ nhận ra

và hiểu được mối liên hệ giữa sự vật thật và hình ảnh biểu đạt sự vật đó.

Lúc đầu, do khả năng thao tác để tạo ra các đường nét còn hạn chế nên hình

vẽ của trẻ còn mang tính sơ đồ, lắp ráp từ những hình học. Do sự phát triển nhanh về

thể lực, cơ bắp và khéo léo của vận động, trẻ mẫu giáo lớn đã có khả năng tạo nên

các đường nét với tính chất khác nhau khá phức tạp. Với trình độ phát triển của năng

lực nhận thức thẩm mỹ và kĩ năng vận động, trẻ ở tuổi này có thể cảm nhận được

tính nguyên thể của các hình ảnh đối tượng miêu tả và biết dùng đường nét liền

mạch, mềm mại, uyển chuyển để truyền đạt hình dáng trọn vẹn của mọi sự vật trong

cấu trúc hợp lý, đồng thời thể hiện tư thế vận động, hành động phù hợp với nội dung

sáng tạo. Đặc biệt trẻ 5 – 6 tuổi đã có vốn kinh nghiệm phong phú cho nên các biểu

tượng hình thành khá đầy đủ về hình dáng, cấu trúc và đặc điểm riêng biệt, khá linh

hoạt trong việc biến đổi, phối hợp tính chất của đường nét và hình để thể hiện vẻ độc

đáo, rất riêng của mỗi hình tượng sự vật cụ thể. Hình tượng của trẻ đến gần với hiện

thực, mất dần tính chủ quan.

b. Màu sắc

Trong tranh vẽ của trẻ em, hình vẽ là dấu hiệu hàng đầu để tạo nên hình ảnh

sự vật, nhưng màu sắc mới là yếu tố mang lại hiệu quả thẩm mỹ cho hình ảnh và gây

tác động thẩm mỹ nhất đến trẻ cũng như người xem tranh. Màu sắc chính là phương

tiện quan trọng thể hiện sự sáng tạo của trẻ trong hoạt động tạo hình.

Trẻ mẫu giáo bé thường sử dụng màu theo ý thích và theo cảm xúc, trẻ có khả

năng phân biệt và sử dụng được nhiều màu. Những màu có chung một gốc thường

19

được trẻ quy lại thành một màu đại diện. Sang tuổi mẫu giáo lớn, trẻ tiếp tục sử dụng

đồng thời cả hai cách vẽ màu: “màu bắt chước” và “màu không bắt chước”. Trẻ có thể

thuộc lòng các màu quy định theo chuẩn mẫu như đất thì màu nâu, bầu trời thì màu

xanh dương, cỏ thì màu xanh lá…, trẻ có thể sử dụng màu tự do nhưng tình trạng vẽ

màu kiểu tự do, ngẫu nhiên không liên hệ với nội dung ý đồ mô tả vẫn còn phổ biến.

Tuy nhiên, một số trẻ đã có vốn hiểu biết khá phong phú về màu sắc, đã có khả năng

độc lập quan sát để thấy được vẻ linh hoạt trong sự thay đổi màu sắc của các sự vật,

hiện tượng trong hiện thực và làm quen qua quá trình tri giác với một số cách phối hợp

màu sắc. Tính tích cực quan sát, nhận thức chính là điều kiện giúp trẻ biết sử dụng

màu sắc một cách sinh động để thể hiện một cách sáng tạo nội dung tranh vẽ, qua đó

mà biểu lộ suy nghĩ, tình cảm, ước mơ của mình. Vì thế, giáo viên cần kích thích hứng

thú về vẻ đẹp của sự vật hiện tượng thông qua màu sắc, điều đó sẽ làm cho màu sắc và

sự phối hợp màu trong bài vẽ của trẻ sẽ rất truyền cảm.

c. Bố cục

Ngoài đường nét, hình dạng, màu sắc, trẻ mẫu giáo còn sử dụng một phương

tiện truyền cảm khác đó là sự sắp xếp vị trí các hình ảnh trong không gian tranh vẽ

hay còn gọi là xây dựng bố cục. Bố cục là phương thức tổ chức nghệ thuật của một

tác phẩm nghệ thuật.

Ngoài khả năng tạo nhịp điệu, trẻ mẫu giáo lớn đã biết tạo nên bố cục tranh

với thế cân bằng qua cách sắp xếp đối xứng. Để tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa nội

dung với hình thức của tranh, nhiều trẻ biết dùng cách sắp xếp thể hiện sự vận động,

hành động và các mối quan hệ giữa các sự vật, nhân vật để tạo ra một không gian có

chiều sâu với nhiều tầng cảnh. Tính nhịp điệu trong bố cục tranh vẽ của trẻ 5 – 6 tuổi

thể hiện ở nhiều vẻ: bằng sự sắp xếp lặp đi, lặp lại của các hình ảnh cùng loại, bằng

sự sắp xếp đan xen các hình ảnh không cùng loại, bằng sự phân biệt, thể hiện quan hệ

chính - phụ.... Tuy nhiên, tranh vẽ thường mang tính liệt kê, trẻ trải đều các hình vẽ

trên mặt giấy, ít có trước, sau, xa, gần và ít tuân theo tỉ lệ trong thực tế.

Hiệu quả của việc sử dụng các phương tiện tạo hình trong tranh vẽ của trẻ

phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tri giác hình tượng, vào sự lựa chọn góc độ nhìn và

khả năng cảm nhận vẻ đẹp đa dạng, sinh động của thế giới xung quanh, đồng thời

20

phụ thuộc vào khả năng tưởng tượng sáng tạo, biến đổi hình tượng và vào mức độ

phong phú sâu sắc của các xúc cảm, tình cảm thẩm mỹ của trẻ.

1.2.2.5. Một số đặc điểm tâm lý có liên quan đến phát triển khả năng sáng tạo

cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi

a. Đặc điểm phát triển tư duy

Tư duy giúp trẻ hiểu rõ nhiệm vụ đặt ra, từ đó giúp trẻ tạo ra hình ảnh sáng

tạo, bay bổng, rực rỡ, giàu màu sắc cảm xúc. Vì thế nhà giáo dục cần:

Dạy cho trẻ các phương pháp và phương tiện cải biến, phát triển ở trẻ

những khả năng liên hợp các biểu tượng đã có.

Dạy trẻ diễn đạt các ý tưởng khác nhau và thực hiện các ý tưởng ấy trong

các dạng hoạt động có sản phẩm. Việc diễn đạt bằng lời một cách chi tiết và đầy đủ

các ý tưởng không chỉ về cái gì sẽ làm mà còn cả cách thức làm việc đó, làm cho quá

trình xây dựng hình ảnh mới thành quá trình có chủ định.

Sự hình thành tư duy phê phán cũng đóng góp cho sự phát triển khả năng

sáng tạo ở trẻ. Trẻ có thái độ phê phán với những hình ảnh sáng tạo của mình.

b. Đặc điểm phát triển tưởng tượng

Sự phát triển trí tưởng tượng của trẻ nhỏ thường gắn liền với khả năng hiểu và

sử dụng một loại ngôn ngữ giao tiếp đặc biệt, đó là ngôn ngữ hình ảnh trực quan.

Sự xuất hiện của tưởng tượng trong quá trình tạo hình, tính tích cực của tưởng

tượng thay đổi theo sự phát triển tâm lý chung, đặc biệt là theo sự phát triển của tri

giác bằng thị giác của trẻ em.

Ở tuổi mẫu giáo lớn (5-6 tuổi): với sự phát triển của quá trình nhận thức và vốn

kinh nghiệm của trẻ, ở lứa tuổi này tưởng tượng của trẻ bắt đầu mang tính độc lập, có

thể tách khỏi quá trình tạo hình, đi trước định hướng và điều khiển các hành động tạo

hình nhằm đạt kết quả đã tạo ra từ trước quá trình tạo hình. Trẻ có thể độc lập tìm

kiếm các nội dung hoạt động vẽ, định trước tên gọi các “tác phẩm” tương lai và dùng

trí tưởng tượng để xây dựng các hình tượng phù hợp với nội dung đã định. Trong

hoạt động vẽ, tưởng tượng của trẻ liên kết khá chặt chẽ, phối hợp nhịp nhàng với tri

giác, trí nhớ, tư duy đặc biệt là tư duy trực quan sơ đồ trong quá trình quan sát phân

tích các đối tượng miêu tả để hình thành các biểu tượng. Với sự hỗ trợ của xúc cảm,

21

tình cảm tưởng tượng của trẻ có thể giúp chúng biến đổi một cách dễ dáng các biểu

tượng, từ đó xây dựng dễ dàng các biểu tượng mới. Ở tuổi 5-6 tuổi mức độ phát triển

của năng lực tưởng tượng mang tính sáng tạo, điều này biểu hiện rõ ở khả năng xây

dựng và thực hiện dự định tạo hình. Để thực hiện nhiệm vụ tạo hình, trẻ đã biết độc

lập tìm kiếm, tích lũy thông tin, lựa chọn đề tài cụ thể, trên cơ sở đó mà xây dựng

nên hình ảnh đồ họa của kết quả tạo hình trong đầu (mô hình tâm lí) phù hợp với nội

dung đã lựa chọn. Sức hấp dẫn của các hình vẽ mà trẻ có thể tạo nên phụ thuộc phần

lớn vào mức độ đầy đủ, phong phú và rõ nét các thông tin hình ảnh trong trẻ vào khả

năng liên kết các ấn tượng, các kinh nghiệm cũ hoặc thay đổi bổ sung các hình ảnh

khái quát ban đầu, làm cho chúng ngày càng sinh động và mang màu sắc nghệ thuật

hơn (Lê Thanh Thủy, 2002).

1.3. Lý luận hoạt động vẽ theo ý thích

1.3.1. Khái niệm hoạt động vẽ theo ý thích

Vẽ theo ý thích là vẽ những gì trẻ thích, không theo một đề tài cho trước.

Trẻ được quyền lựa chọn nội dung đề tài mà trẻ thích. Vẽ theo ý thích nhằm rèn

luyện trí nhớ, trí tưởng tượng sáng tạo (Lương Thị Hồng Thúy, 2016).

Hoạt động vẽ theo ý thích là hoạt động nhằm rèn luyện, cũng cố những kỹ

năng mà trẻ đã học, trẻ phải nhớ lại hoặc tưởng tượng ra các hình tượng theo ý thích

(Ưng Thị Châu, Nguyễn Lăng Bình, Lê Đức Hiền, 1998).

Vẽ là một hoạt động tạo hình được nhiều trẻ yêu thích, trẻ có nhiều điều kiện

thể hiện những ấn tượng của mình về thế giới xung quanh ở mọi lúc, mọi nơi mà

không phải chờ đến khi có điều kiện mới thực hiện được. Cụ thể như khi đang chơi ở

sân, trẻ muốn thể hiện một ấn tượng nào đó, trẻ chỉ việc dùng viên phấn, cục gạch,

cái que để vẽ là trẻ có thể thực hiện được ý thích của mình.

Theo từ điển tiếng Việt thì: “Vẽ là dùng bút mà tả hình trạng các vật cho

được như thực bằng đường nét hoặc màu sắc” (Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa

Việt Nam, 1999).

Khi bàn về hoạt động vẽ của trẻ mầm non, tác giả Nguyễn Ánh Tuyết đã cho

rằng: “Vẽ là hoạt động mà ở đó tập hợp những cảm nhận mà trẻ có về cơ thể mình và

22

về thế giới xung quanh được phóng chiếu vào đường nét, hình dạng do nó tạo ra”

(Hồ hoàng Yến, 2011).

Theo tác giả Nguyễn Quốc Toản: “Hoạt động vẽ là hoạt động tạo ra sản

phẩm trên mặt phẳng bằng nhiều chất liệu khác nhau” (Nguyễn Quốc Toản, 2009).

Đối với trẻ mẫu giáo, ở hoạt động này trẻ phải quan sát đối tượng, nhận xét thông

qua ước lượng bằng mắt về hình dáng, tỉ lệ… và diễn tả lại trên nền giấy bằng cảm

nhận riêng của mình.

Khi nghiên cứu về hoạt động tạo hình, tác giả Lê Thanh Thủy cho rằng:

“Hoạt động vẽ là dùng đường nét, hình mảng, màu sắc tạo bố cục thể hiện trên mặt

phẳng hai chiều” (Lê Thanh Thủy, 2009).

Tóm lại, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những quan điểm khác nhau về hoạt

động vẽ nhưng đều có những điểm giống nhau đó là hoạt động tạo ra sản phẩm trên

mặt phẳng bằng đường nét và màu sắc. Đây cũng là nội dung mà chúng tôi chọn lọc

để nghiên cứu hoạt động vẽ theo ý thích.

1.3.2. Đặc điểm hoạt động vẽ theo ý thích của trẻ mẫu giáo

Hoạt động vẽ theo ý thích nhằm phát triển tính độc lập, chủ động trong công

việc và phát triển khả năng sáng tạo của trẻ, cũng cố những kỹ năng, kỷ xảo mà trẻ

đã học, đồng thời giúp cho người lớn đánh giá được sự tiếp thu những kỹ năng, kỷ

xảo tạo hình cũng như khả năng sáng tạo của trẻ, từ đó có định hướng tốt hơn trong

việc giáo dục trẻ em.

Trong quá trình vẽ theo ý thích, trẻ không được trang bị kiến thức mới mà chỉ

vận dụng những kiến thức đã học để miêu tả. Tùy theo ý thích của mình, trẻ được tự

do thoải mái lựa chọn nội dung để thể hiện. Nội dung vẽ theo ý thích rất đa dạng và

phong phú, trẻ có thể miêu tả một sự vật hiện tượng riêng biệt hay miêu tả một sự

kiện trong truyện cổ tích, trong môi trường xung quanh mà trẻ thấy, trẻ biết và ghi

nhớ thành biểu tượng, những hình ảnh quen thuộc đối với trẻ. Trong quá trình hoạt

động, trẻ đã vận dụng những tri thức, kỹ năng, kỷ xảo đã học để miêu tả chủ đề do tự

mình sáng tạo.

Giờ học tạo hình theo ý thích có những nội dung không phải do cô đề ra mà phụ

thuộc vào ý muốn của trẻ. Nhiệm vụ của giáo viên là làm sao nảy sinh ở trẻ những ý

23

tưởng, gợi ý để trẻ nhớ lại những biểu tượng mà trẻ đã cảm thụ từ trước, giúp trẻ thể

hiện nội dung trên giấy, những biểu tượng không thu hẹp trong một đề tài nào cả, mà

nó rất phong phú sinh động (Lê Hồng Vân, 2002).

Cách tiến hành giờ học vẽ theo ý thích gồm các bước sau:

Bước 1: Gây hứng thú và giao nhiệm vụ

- Giáo viên tạo cho trẻ tâm thế thoải mái, hứng thú và xác định được ý tưởng tạo

hình của mình bằng cách sử dụng các biện pháp như bài hát, thơ, câu đố, tình huống có

vấn … đề để trẻ cảm thấy cần thiết tạo ra sản phẩm cho các hoạt động của trẻ.

- Định hướng cho trẻ cách thức hiện:

Giáo viên có thể không cần cho trẻ quan sát mẫu hay tranh mẫu mà trong giờ

học cô gợi ý bằng nhiều hình thức khác nhau để làm sống lại những biểu tượng mà

trẻ đã thu được trước đó và khai thác kinh nghiệm, hiểu biết của trẻ, giúp trẻ tự tìm ra

cách thể hiện (trẻ có thể nêu lên ý kiến cá nhân, có thể thông qua các gợi ý, hướng

dẫn của giáo viên, có thể trao đổi theo những nhóm nhỏ có cùng lựa chọn).

Bước 2: Trẻ thực hiện

Giáo viên quan sát và giúp đỡ trẻ khi cần thiết. Giáo viên đến từng trẻ, hỏi xem

trẻ vẽ gì? Góp ý cho trẻ về cách sắp xếp các hình tượng hoặc bổ sung chi tiết vào chỗ

trống cho cân đối hoặc giúp trẻ sử dụng màu sắc cho phù hợp, nếu trẻ hỏi.

Bước 3: Trưng bày sản phẩm

Đánh giá thẩm mỹ của mỗi sản phẩm, trao đổi, chia sẻ và thưởng thức kết quả

hoạt động

Động viên, khuyến khích những trẻ có nhiều sáng tạo (Vụ Giáo dục mầm non, 2005).

Hoạt động vẽ theo ý thích được xem như là một thể loại tạo hình theo đề tài tự

chọn. Dưới hình thức hoạt động này, trẻ được chủ động, tích cực, tự do lựa chọn và

thể hiện nội dung miêu tả mà mình thích theo dự định của cá nhân. Để hạn chế

những khó khăn mà trẻ có thể gặp, giáo viên cần định hướng các đề tài tự chọn trong

phạm vi những kinh nghiệm, những xúc cảm, tình cảm mà trẻ được trải nghiệm (Lê

Thanh Thủy, 2009).

Tóm lại: trong phân chia các thể loại của hoạt động tạo hình có thể nói hoạt

động tạo hình theo ý thích là một thể loại tạo điều kiện cho trẻ được bộc lộ khả năng

24

sáng tạo nhiều nhất. Những giờ tạo hình này nếu được thực hiện đúng mức sẽ mang

đến cho trẻ nhiều niềm vui sướng và đạt được những kết quả “bất ngờ” về sự phát

triển khả năng sáng tạo ở trẻ.

1.3.2.1. Những biểu hiện sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong hoạt động

vẽ theo ý thích

Khả năng sáng tạo của trẻ được thể hiện rất phong phú và đa dạng dưới nhiều

hình thức khác nhau, riêng về hoạt động vẽ nói chung và hoạt động vẽ theo ý thích

nói riêng những biểu hiện sáng tạo của trẻ mẫu giáo được thể hiện cụ thể như sau:

- Trẻ luôn có những ý tưởng phong phú mới lạ.

- Trẻ cũng dễ dàng và nhanh chóng tạo ra bức tranh từ gợi ý của giáo viên.

- Trẻ sử dụng màu sắc táo bạo, khác thường, khả năng phối màu rất phong phú,

đa dạng.

- Bố cục tranh vẽ của trẻ hợp lý, hài hòa, sự lựa chọn, sắp xếp và liên kết giữa

các hình, hình với đề tài mang nét đặc sắc riêng của trẻ.

- Sử dụng nhiều nguyên vật liệu khác nhau để thể hiện ý tưởng.

- Biết giải thích ý nghĩa việc lựa chọn màu sắc hay đường nét thể hiện.

- Trẻ luôn luôn độc lập trong khi vẽ.

- Nêu lên được ý tưởng của sản phẩm.

- Trẻ đặt tên mới lạ cho sản phẩm.

Khả năng sáng tạo rất cần thiết cho trẻ trong việc học tập sau này. Nó không tự

xuất hiện, tự phát triển mà được hình thành thông qua việc nhà giáo dục, tổ chức và

hướng dẫn. Vì vậy, việc tổ chức các hoạt động mang tính sáng tạo ở lứa tuổi này là

nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của người lớn và giáo viên mầm non.

1.3.2.2. Ý nghĩa của hoạt động vẽ đối với sự phát triển của trẻ

Hoạt động tạo hình nói chung và hoạt động vẽ nói riêng là hoạt động sáng

tạo nghệ thuật, trong đó con người không chỉ nhận thức cái đẹp của thế giới xung

quanh mà còn cải tạo nó theo quy luật của cái đẹp. Bên cạnh đó, Hoạt động tạo hình

cũng là một phương tiện quan trọng giúp trẻ phát triển toàn diện (Lê Thị Thanh Bình,

2006)

25

a. Ý nghĩa của hoạt động vẽ đối với giáo dục trí tuệ, ngôn ngữ

Trong quá trình vẽ theo ý thích trẻ có nhiều cơ hội để tìm hiểu, khám phá các

sự vật hiện tượng trong môi trường xung quanh như đặc điểm đặc trưng, sự tương

quan giữa các đặc điểm đó, nhận biết hình dáng, màu sắc. Từ đó xây dựng các biểu

tượng sự vật hiện tượng, biết quan sát, phân tích, so sánh, đánh giá vật này với vật

khác. Ngoài ra, trẻ còn tìm hiểu bản chất của các vật liệu trong hoạt động vẽ và sự

liên quan giữa kết quả thu được và vật liệu tạo hình.

Hoạt động vẽ còn là môi trường thuận lợi hình thành ở trẻ các phẩm chất trí

tuệ như tính tự giác, tính ham hiểu biết, tính tích cực nhận thức và óc sáng tạo. Hoạt

động này còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ. Trong quá trình nhận biết các đối tượng,

so sánh và nhận xét sản phẩm tạo hình sẽ giúp trẻ phát triển vốn từ, lời nói hình

tượng - truyền cảm và ngôn ngữ mạch lạc hơn.

b. Ý nghĩa của hoạt động vẽ đối với giáo dục đạo đức

Thông qua các giờ VTYT, các đức tính tốt được hình thành như tính tích cực

chủ động thực hiện nhiệm vụ được giao, kiên nhẫn làm việc từ đầu đến cuối, biết

lắng nghe ý kiến của cô và các bạn.

Ngoài những biểu tượng, kinh nghiệm mà trẻ thu nhận được từ thế giới xung

quanh qua hoạt động vẽ, trẻ còn biểu lộ những tình cảm, xúc cảm thái độ đối với

những gì mà trẻ thể hiện. Tham gia vào hoạt động vẽ, trẻ có những điều kiện tiếp thu

chuẩn mực thẩm mỹ - đạo đức trong xã hội, trải nghiệm các xúc cảm tình cảm, học

hỏi các kĩ năng xã hội qua các hình vi văn hóa xã hội qua các hình tượng, các sự kiện

được miêu tả.

Hoạt động tạo hình là một phương tiện giao tiếp, trẻ luôn mong muốn được

người khác tiếp nhận và cảm nhận, hiểu được những điều mà trẻ muốn gửi gắm trong

sản phẩm. Đồng thời trẻ luôn chờ đợi ở người khác sự động viên, khuyến khích,

khen ngợi và rất thích thú khi nhận được sự đồng cảm từ người khác.

Hoạt động vẽ còn giúp trẻ phản ánh những sự vật hiện tượng có trong thiên

nhiên, những gì làm trẻ rung động, suy nghĩ và có những tình cảm yêu ghét đối với

chúng. Khi tham gia vào hoạt động vẽ, trẻ còn trải nghiệm những xúc cảm - tình cảm

khi có mong muốn sẽ tạo ra sản phẩm thật đẹp cho người khác. Chính những điều đó

26

là điều kiện để hình thành ở trẻ ý thức cộng đồng, luôn quan tâm, nghĩ đến người

khác trong giao tiếp xã hội.

c. Ý nghĩa của hoạt động vẽ đối với việc giáo dục thẩm mỹ

Hoạt động vẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển cảm

giác, tri giác thẩm mỹ. Ở trường mầm non, hoạt động tạo hình chiếm khá nhiều thời

lượng và được thực hiện thông qua các loại hình như vẽ, nặn, thủ công, lắp ghép- xây

dựng. Giáo viên tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc, nhận ra các đặc điểm thẩm mỹ độc

đáo, hấp dẫn của các đối tượng. Khi quan sát các sự vật, hiện tượng của cuộc sống

xung quanh, trẻ em thường hồi hộp xúc động. Sự tri giác một màu sắc rực rỡ hay một

phong cảnh tuyệt diệu làm trẻ xúc động, vui mừng. Những đặc điểm thẩm mỹ này là

những yếu tố kích thích sự xuất hiện những rung động, xúc cảm thẩm mỹ như cảm

xúc về màu sắc trong quá trình tri giác sự phối hợp màu sắc tuyệt đẹp: những ngôi

sao nổi bật trên nền trời tối, những đóa hoa cúc vàng trên thảm cỏ xanh …, hay sự

xuất hiện cảm xúc nhịp điệu khi thưởng thức một sự cân đối nhịp nhàng của vật thể:

sự sắp xếp các cành cây, sự nhấp nhô của ngọn sóng. Từ đó tạo cho trẻ có những xúc

cảm, tình cảm thẩm mỹ, giúp trẻ biết thưởng thức cái đẹp từ thiên nhiên. Dần dần trẻ

có được khả năng đưa ra những nhận xét đơn giản và có thẩm mỹ về những sự kiện

của cuộc sống, về con người, các tác phẩm nghệ thuật mà làm phát triển thị hiếu

thẩm mỹ. Trẻ mẫu giáo lớn có sự cảm nhận được cái đẹp tinh tế hơn mẫu giáo bé, trẻ

có thể cảm nhận cái đẹp sự hài hòa của màu sắc, đường nét, sự mềm mại của điệu

múa, nhịp điệu của bản nhạc. Trẻ mẫu giáo lớn đánh giá cái đẹp tương đối chính xác

hơn. Trẻ hiểu đối tượng được xem là đẹp phải có hình dáng cân đối, có sự tương

quan giữa các phần và phong phú về màu sắc.

Mỗi dạng hoạt động tạo hình ngoài những ảnh hưởng chung đối với phát

triển thẩm mỹ ở trẻ, nó còn có những ảnh hưởng đặc trưng riêng của từng loại. Vẽ có

ảnh hưởng đến phát triển cảm giác màu sắc, trẻ học cách nhận biết vẻ đẹp của sự kết

hợp nhiều màu sắc khác nhau.

Quá trình thể hiện các sản phẩm vẽ là điều kiện thuận lợi cho trẻ vận dụng

tích cực vốn biểu tượng hình tượng đã tích lũy để phối hợp, xây dựng hình tượng

mới làm cho các sản phẩm của trẻ ngày càng trở nên sinh động, hấp dẫn và mang

27

màu sắc nghệ thuật. Hoạt động vẽ không chỉ là cơ hội thuận lợi cho trẻ được tiếp xúc

với cái đẹp mà còn nảy sinh và nuôi dưỡng ở trẻ hứng thú với hoạt động nghệ thuật

và niềm say mê sáng tạo nghệ thuật. Chính hứng thú trong hoạt động vẽ đã giúp trẻ

khám phá cái đẹp, cái mới lạ trong thế giới xung quanh mặc dù trẻ có thể đã nhìn

nhưng không nhìn thấy, đã nghe nhưng không nghe thấy.

Trong quá trình hoạt động vẽ, năng khiếu sáng tạo nghệ thuật của trẻ được

phát triển, trẻ biết vận dụng những hiểu biết về cái đẹp vào cuộc sống hàng ngày như

ăn mặc sao cho đẹp, ở sao cho gọn gàng, ngăn nắp… từ đó có ý thức tôn trọng và

bảo vệ cái đẹp.

d. Ý nghĩa của hoạt động vẽ đối với việc giáo dục thể chất

Hoạt động vẽ có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển thể lực của trẻ. Những

giờ tham gia hoạt động vẽ, với bầu không khí tự do thoải mái sẽ mang đến cho trẻ

niềm vui thích. Chính sự phấn khởi này sẽ ảnh hưởng tốt đến hệ thần kinh, tác động

đến sự điều hòa hoạt động của các bộ phận trong cơ thể trẻ.

Các giờ học vẽ giúp cho bàn tay và các ngón tay của trẻ phát triển, tạo điều kiện

cho trẻ học viết ở trường phổ thông. Trong quá trình tạo hình các chuyển động của tay

và mắt được phát triển linh hoạt và phối hợp nhịp nhàng, giáo viên hướng dẫn cho trẻ có

tư thế ngồi đúng, tránh cho trẻ không bị vẹo cuộc sống, vai không bị lệch.

Hoạt động vẽ còn là biện pháp trị liệu tâm lý đối với trẻ khuyết tật, những

người có căn bệnh trầm uất, bệnh thần kinh. Sự tự do thoải mái trong quá trình thể

hiện, biểu lộ các xúc cảm, tình cảm sẽ giúp người bệnh điều hòa các quá trình ức chế

và hưng phấn, lấy lại thế cân bằng. Có thể xem hoạt động vẽ là “món ăn tinh thần”,

một loại “vitamin” đặc biệt cho sự phát triển tâm lý và sinh lý của trẻ em.

e. Ý nghĩa của hoạt động vẽ đối với việc giáo dục lao động

Hoạt động vẽ tạo ra sản phẩm. Quá trình này đã giúp trẻ “thiết kế”, “kiến

tạo”, “chế tạo” nên các sản phẩm, biểu hiện thành quả lao động của chính trẻ. Hoạt

động đã rèn luyện cho trẻ những kĩ năng lao động thực tiễn, thói quen làm việc lao

động tự giác. Đây là môi trường lý tưởng để hình thành ở trẻ ý thức lao động, lòng

yêu lao động, có thái độ biết bảo vệ, trân trọng những sản phẩm lao động cũng như

đối với người lao động.

28

Mặt khác khi chuẩn bị cho giờ học vẽ, cô hướng dẫn trẻ cùng tham gia kê bàn

ghế một cách cẩn thận, nhường nhịn, giúp đỡ nhau. Đối với lớp mẫu giáo nhỡ và

mẫu giáo lớn cô hướng dẫn các cháu trực nhật sắp xếp các vật liệu tạo hình sao cho

thuận lợi, gọn gàng và đẹp mắt, không vứt các vật liệu thừa xuống sàn nhà mà phải

để gọn vào một chỗ để sau giờ học sẽ bỏ vào sọt rác.

f. Ý nghĩa của hoạt động vẽ đối với việc chuẩn bị cho trẻ đến trường phổ thông

Hoạt động vẽ còn là môi trường phương tiện để hình thành cho trẻ những cơ

sở ban đầu của hoạt động học tập trong trường phổ thông.

Qua hoạt động vẽ, trẻ được bồi dưỡng khả năng độc lập tổ chức một quá trình

hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn để tạo nên các vật thể sản phẩm. Hoạt động

này hình thành ở trẻ khả năng đánh giá và tự đánh giá. Ngoài ra, nó còn góp phần

vào việc chuẩn bị cho trẻ một vốn kiến thức sơ đẳng về tự nhiên, xã hội, khoa học kỹ

thuật giúp trẻ nhanh chóng tiếp thu các kiến thức ở trường phổ thông. Sự hoạt động

khéo léo, linh hoạt trong vận động tay giúp trẻ sau này học viết ở trường phổ thông

sẽ đạt kết quả tốt hơn.

Hoạt động vẽ còn góp phần chuẩn bị tâm thế cho trẻ bước vào lớp phổ thông vì

hoạt động đó đã giúp giáo dục cho trẻ lòng ham muốn nhận thức, tiếp thu những điều

mới lạ, có thói quen học tập một cách có mục đích, có tổ chức, biết nghe lời chỉ bảo của

thầy cô. Hoạt động tạo hình là môi trường cho trẻ rèn luyện năng lực hành vi của mình

nhằm thực hiện nhiệm vụ đã đề ra, biết cách tự điều khiển hành vi và những ước muốn

của mình, biết từ chối những ước muốn để thực hiện những hoạt động cần thiết.

1.3.2.3. Nội dung hoạt động vẽ cho trẻ MG 5 - 6 tuổi trong Chương trình giáo

dục mầm non

Theo Chương trình giáo dục mầm non năm 2009 của Bộ Giáo dục và Đào tạo

(Chương trình GDMN có sửa đổi, bổ sung một số nội dung theo thông tư số

28/2016/TT-BGDĐT ngày 31/12/2016) đã đưa ra nội dung phát triển thẫm mỹ có nội

dung trẻ thể hiện các kỹ năng và sự sáng tạo khi tham gia các hoạt động tạo hình nói

chung và hoạt động vẽ nói riêng cụ thể như sau:

“...Lựa chọn, phối hợp các nguyên vật liệu tạo hình để tạo ra sản phẩm; phối

hợp các kỹ năng để tạo ra sản phẩm có màu sắc, hình dáng, đường nét và bố cục;

29

nhận xét sản phẩm tạo hình về màu sắc, hình dáng, đường nét và bố cục; tìm kiếm

lựa chọn các dụng cụ, nguyên vật liệu phù hợp để tạo ra sản phẩm theo ý thích...”

Trong nội dung kết quả mong đợi của chương trình Giáo dục mầm non có nêu

trong lĩnh vực phát triển thẩm mỹ về hoạt động vẽ như sau:

“...Phối hợp và lựa chọn các nguyên vật liệu tạo hình để tạo ra sản phẩm; phối

hợp các kỹ năng vẽ để tạo thành bức tranh có màu sắc hài hòa, bố cục cân đối; nhận

xét các sản phẩm tạo hình về màu sắc, hình dáng, bố cục...”

1.3.2.4. Các chỉ số đánh giá khả năng sáng tạo của trẻ MG 5 - 6 tuổi trong Bộ

chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi Việt Nam

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi (Bộ Giáo

dục và Đào tạo, 2009) với các chuẩn và chỉ số nhằm phát triển lĩnh vực thẫm mỹ:

“Bộ chuẩn nhằm hỗ trợ thực hiện chương trình giáo dục mầm non, nâng cao chất

lượng chăm sóc, giáo dục, chuẩn bị tâm thế cho trẻ em năm tuổi vào lớp 1". Trong

Giáo dục và Đào tạo, 2009).

đó, hoạt động tạo hình và khả năng sáng tạo của trẻ được nêu cụ thể như sau: (Bộ

Chuẩn 22: Trẻ thể hiện một số hiểu biết về tạo hình

Chỉ số 102. Biết sử dụng các vật liệu khác nhau để làm một sản phẩm đơn giản.

Chỉ số 103. Nói được ý tưởng thể hiện trong sản phẩm tạo hình của mình.

Chuẩn 28: Trẻ thể hiện khả năng sáng tạo

Chỉ số 118. Thực hiện một số công việc theo cách riêng của mình.

Chỉ số 119. Thể hiện ý tưởng của bản thân thông qua các hoạt động khác nhau.

1.3.3. Một số tiêu chí đánh giá khả năng sáng tạo cho trẻ MG 5-6 tuổi trong

tranh vẽ theo ý thích

Trên cơ sở nghiên cứu về hoạt động vẽ và khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo

5-6 tuổi, chúng tôi xác định biểu hiện sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong hoạt

động vẽ theo ý thích được thể hiện ở những tiêu chí sau:

+ Về nội dung:

- Tên tranh vẽ: trẻ đặt tên mới lạ cho sản phẩm

- Đặc điểm nội dung tranh vẽ: có sự thay đổi về nhân vật, sự vật hiện tượng,

tình tiết, bối cảnh và sự biểu hiện trạng thái cảm xúc của các hình ảnh trong tranh vẽ.

30

+ Về hình thức

- Bố cục: sử dụng luật phối cảnh để thể hiện chiều sâu trong không gian.

- Màu sắc: sử dụng màu sắc một cách có chủ ý, theo ý đồ miêu tả.

- Hình vẽ: giàu tính hình tượng, thể hiện ở nhiều dạng hoạt động.

Từ các tiêu chí này, chúng tôi đưa ra thang đánh giá mức độ sáng tạo của trẻ

trong tranh vẽ theo ý thích như sau:

Thấp Trung bình Các mặt Mức độ Cao (2 điểm) (0 điểm) (1 điểm)

Đặt tên tranh Đặt được tên Đặt được tên mới

Tên tranh vẽ vẽ giống cho sản phẩm lạ cho sản phẩm

mẫu, theo sự nhưng trùng với

gợi ý của GV bạn hoặc có sự

thay đổi tên tranh

vẽ nhưng không

hoàn toàn Nội dung

Đặc điểm Lặp lại gần Có sự thay đổi ít Có sự thay đôi

nội dung bức như nguyên về nhân vật, sự nhiều về nhân vật,

tranh vẹn các sự vật, hiện tượng, sự vật, hiện tượng,

vật hiện tình tiết, bối cảnh tình tiết, bối cảnh

tượng theo sự theo đề tài. được thể hiện một

gợi ý của Thể hiện rời rạc cách mới mẻ theo

viên mối liên hệ giữa suy nghĩ riêng của giáo

bắt các nhân vật trẻ. hoặc

chước theo trong tranh vẽ. Thể hiện mối liên

khuôn mẫu hệ giữa các nhân

đã học trước vật trong tranh vẽ.

đó

Không sử Có điểm nhấn Sử dụng luật phối

dụng luật thể hiện được ý cảnh thể hiện chiều

phối cảnh, tưởng sâu trong không

không có Chưa sử dụng gian như: sử dụng

31

điểm nhấn luật phối cảnh luật xa gần, mối

Bố cục trong tranh vẽ tương quan về kích

thước giữa các hình

vẽ trong tranh và

thể hiên được điểm

nhấn trong tranh

vẽ. Hình thức

Màu sắc Chưa biết sử Màu sắc tương Màu sắc phong

dụng màu sắc đối phù hợp với phú, phù hợp với

phù hợp nội dung, tuy nội dung, sử dụng

nhiên còn đơn màu một cách có

điệu, phần lớn tô chủ ý theo ý đồ

màu quen thuộc, miêu tả, biết phối

có thêm một số màu, có đậm, nhạt,

màu sắc mới mẻ gợi cảm, mới lạ.

thể hiện sự biến

đổi của sự vật,

hiện tượng

Thể Thể hiện Đường nét

hiện được đối được đặc điểm mềm mại, tư thế

Hình vẽ tượng tuy riêng của đối phù hợp với nội

nhiên còn sơ tượng dung, giàu tính

sài hình tượng. Đối

tượng trong tranh

được thể hiện dưới

nhiều dạng hoạt

động, tạo nên bức

tranh sinh động,

mới lạ.

Các mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ 5 – 6 tuổi qua hoạt động vẽ theo ý thích.

- Mức cao: trẻ đạt thang điểm từ 8 – 10 điểm.

32

- Mức trung bình: trẻ đạt thang điểm từ 5 – 7 điểm.

- Mức thấp: trẻ đạt thang điểm từ 0 – 4 điểm.

1.4. Biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong

hoạt động vẽ theo ý thích

1.4.1. Khái niệm biện pháp và biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho

trẻ mẫu giáo trong hoạt động vẽ theo ý thích

1.4.1.1. Khái niệm biện pháp

Theo từ điển tiếng Việt của tác giả Nguyễn Như Ý thì “Biện pháp là cách làm,

cách giải quyết một vấn đề cụ thể. (Nguyễn Như Ý, 2007).

Trong tiếng Anh, khi nói đến “biện pháp”, từ điển xem nó có ý nghĩa như một

kế hoạch hoặc một hành động để đạt được mục đích cụ thể đã đề ra (Phạm Thị

Nguyên Chi, 2013).

Theo từ điển bách khoa toàn thư Wiki trong tiếng Nga “Меры” hay “biện pháp”

được xem như một phương tiện để thực hiện một cái gì đó (Phạm Thị Nguyên Chi, 2013).

Theo từ điển Tiếng Việt tường giải và liên tưởng Tiếng Việt: “Biện pháp là

cách làm, cách hành động, đối phó để đi đến một mục đích nhất định” (Nguyễn Văn

Đạm, 1999).

Như vậy, ở đây chúng ta có thể hiểu: Biện pháp là cách làm, cách giải quyết

một vấn đề cụ thể hay hướng tới giải quyết nhiệm vụ từng phần, cụ thể nhằm đạt

được mục đích nhất định đã đề ra”. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, biện pháp

cũng có thể giải quyết được các nhiệm vụ khác nhau như một phương pháp.

Biện pháp giáo dục là một trong các thành tố của quá trình giáo dục, nó có

quan hệ mật thiết và có tính biện chứng với các thành tố khác của quá trình giáo dục,

đặc biệt là phương pháp giáo dục.

Theo giáo trình Giáo dục học mầm non của tác giả Nguyễn Thị Hòa thì: “Biện

pháp giáo dục được hiểu là cách làm cụ thể trong hoạt động hợp tác cùng nhau giữa

giáo viên với trẻ nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục đã đặt ra” (Nguyễn

Thị Hòa, 2011).

33

Từ những khái niệm trên có thể hiểu biện pháp là cách làm, cách giải quyết một

vấn đề cụ thể, hay hướng tới giải quyết nhiệm vụ, giải quyết từng phần cụ thể. Trong

một số trường hợp biện pháp có thể giải quyết được một số nhiệm vụ khác nhau.

1.4.1.2. Khái niệm biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo

trong hoạt động vẽ theo ý thích

Biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo trong hoạt động

vẽ theo ý thích là những cách thức tạo cho trẻ có những cơ hội để thử nghiệm

những ý tưởng mới, cách suy nghĩ mới và cách giải quyết vấn đề nảy sinh mới

trong hoạt động vẽ theo ý thích. Cung cấp cơ hội tuyệt vời để trẻ có thể tích cực

sáng tạo nhất và cho phép trẻ chứng minh sự sáng tạo trong bất kỳ sự tự thể

hiện nào của mình.

1.4.2. Biện pháp tổ chức hoạt động vẽ theo ý thích cho trẻ mẫu giáo

5 – 6 tuổi

Hoạt động tạo hình nói chung và hoạt động vẽ theo ý thích nói riêng là hoạt

động mà đa số trẻ đều rất thích. Tuy nhiên, muốn đạt được kết quả thì nhà sư phạm

phải biết lựa chọn các phương pháp, biện pháp thích hợp, phải biết tổ chức các hoạt

động cho trẻ đầy đủ để giúp trẻ nắm được những nội dung giáo dục nhất định, đồng

thời phát triển năng lực sáng tạo ở trẻ.

Căn cứ vào bản chất của hoạt động tạo hình, mục đích, nhiệm vụ giáo dục, đặc

điểm nhận thức, xúc cảm - tình cảm và khả năng hoạt động của trẻ 5 – 6 tuổi, theo

chương trình Giáo dục mầm non hiện nay, chúng ta phân loại các nhóm biện pháp tổ

chức hoạt động cho trẻ vẽ như sau: (Lê Thanh Thủy, 2003).

1.4.2.1. Nhóm các biện pháp thông tin tiếp nhận

Là nhóm có vai trò cung cấp cho trẻ những kiến thức sơ đẳng về từ nhiên, xã

hội ... về các phương thức hoạt động (các kỹ năng tạo hình), đồng thời hình thành ở

trẻ các xúc cảm, tình cảm thẫm mỹ.

Nhóm biện pháp này bao gồm các quá trình quan sát, nghiên cứu đối tượng

miêu tả như các sự vật, đồ chơi, mô hình, tranh ảnh và cung cấp thông tin cho trẻ về

các sự vật, hiện tượng xung quanh. Nhóm này bao gồm quá trình hướng dẫn cho trẻ

cá phương thức, kỹ năng tạo hình.

34

* Biện pháp quan sát

Nhằm giúp cho trẻ tái tạo các sự vật hiện tượng của thế giới xung quanh. Để đạt

được mục đích quan sát, giáo viên phải tổ chức tốt quá trình quan sát: phải giúp trẻ tích

cực vận dụng các khả năng tri giác, biết sử dụng các thao tác tư duy để hiểu rõ về đối

tượng, đồng thời khám phá ra những nét đặc trưng của nó. Phải biết lựa chọn đối tượng,

vị trí đặt mẫu, thời điểm, góc độ quan sát đồng thời phải biết kết hợp các câu hỏi để giúp

trẻ có những biểu tượng sâu sắc về đối tượng. Quá trình quan sát phải được tiến hành

một cách sinh động để gây hứng thú, hình thành các xúc cảm, tình cảm thẫm mỹ, giúp

trẻ hiểu và hình dung ra được quá trình miêu tả mà trẻ sẽ thực hiện.

* Biện pháp chỉ dẫn trực quan

Biện pháp này giúp trẻ lĩnh hội các phương thức tạo hình cơ bản. Trong quá

trình tổ chức chỉ dẫn cho trẻ, giáo viên giúp trẻ biết tích cực huy động vốn kinh

nghiệm của mình, đối chiếu, so sánh và tự xây dựng mối liên hệ giữa cái cũ và cái

mới biết nhằm hình thành, bồi dưỡng cho trẻ tính tích cực độc lập trong hoạt động.

* Biện pháp dùng lời

Đây là biện pháp đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên hiệu quả của

toàn bộ quá trình tạo hình. Giáo viên dùng lời để: miêu tả, kể, hướng dẫn, giải thích,

trao đổi với trẻ… Biện pháp dùng lời nói sẽ kích thích trẻ, giúp trẻ tích cực hoạt

động, tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ thể hiện một cách thành công. Trong quá trình

nhận xét sản phẩm, lời nói của giáo viên phải gây cho trẻ sự hứng thú, say mê, thấy

rõ sản phẩm của mình và rất thích hoạt động tạo hình. Bằng lời nói, giáo viên rèn

luyện cho trẻ khả năng nhận xét kết quả hoạt động để có hướng sửa chữa sai sót, giúp

trẻ thực hiện sản phẩm tốt. Lời giảng giải của cô phải hấp dẫn, sinh động, rõ ràng, dể

hiểu, cần tích cực sử dụng những ngôn ngữ văn học, những lời nói so sánh, hình

tượng hóa mang tính sáng tạo nghệ thuật. Đặc biệt câu hỏi phải ngắn gọn, dễ phù hợp

với khả năng nhận thức của trẻ.

1.4.2.2. Nhóm biện pháp thực hành - ôn luyện

Biện pháp này bao gồm các cách thức hướng dẫn các hoạt động, các bài tập

tạo hình, tổ chức cho trẻ vận dung tích cực những hiểu biết, những thông tin mới tiếp

thu được, tạo điều kiện cho trẻ được lặp lại, được rèn luyện các thao tác, các phương

35

thức hoạt động tạo hình để hình thành các kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, tạo ra

sản phẩm đẹp nhất. Các bài tập thực hành phải sắp xếp một cách có hệ thống, tránh

sự lặp đi lặp lại. Quá trình thực hành - ôn luyện phải mang tính tích cực, hạn chế sự

sao chép, sự rập khuôn theo mẫu. Giáo viên thường xuyên độn viên, khuyến khích

trẻ chủ động tiếp thu những kinh nghiệm mới và biết vận dụng những kinh nghiệm

của mình trong hoàn cảnh khác nhau một cách thích hợp.

1.4.2.3. Nhóm biện pháp tìm tòi - sáng tạo

Là nhóm biện pháp tổ chức hoạt động tìm kiếm, khám phá, bồi dưỡng cho trẻ

các kinh nghiệm hoạt động sáng tạo.

Nhóm này bao gồm các biện pháp mang tính gợi mở, các hoạt động, các bài

tập tạo hình theo điều kiện, các tình huống có vấn đề, các bài tập sáng tạo.

Biện pháp sáng tạo là phương pháp tổ chức hoạt động nhằm giúp trẻ không

chỉ tìm kiếm từng phần mà còn biết độc lập tổ chức một quá trình sáng tạo, giải

quyết các bài tập sáng tạo theo ý đồ riêng của trẻ. Nội dung các bài tập sáng tạo

thường là những đề tài tự chọn. Để hình thành được ý định tạo hình giáo viên phải

hướng dẫn, giúp đỡ trẻ, nhưng đồng thời trẻ cũng tích cực sử dụng vốn kinh nghiệm

đã có để giải quyết nhiệm vụ.

Có nhiều con đường để kích thích, khuyến khích trẻ sáng tạo trong hoạt

động: giúp trẻ tích lũy làm giàu vốn biểu tượng; có những cảm xúc tình cảm thẩm

mỹ về các sự vật, hiện tượng; phải tổ chức thực tiễn tạo ra sản phẩm mới; hướng dẫn,

dìu dắt trẻ tới hoạt động tìm kiếm, khám phá đưa vào sản phẩm những nét mới lạ,

những suy nghĩ “riêng của mình”; tạo mối liên hệ mật thiết giữa hoạt động tạo hình

với các hoạt động khác.

Trong quá trình miêu tả, giáo viên giúp trẻ hình thành ý định tạo hình càng rõ

nét bao nhiêu thì trong quá trình thể hiện trẻ càng tự tin, tự lập, và biết chủ động

trong hành động bấy nhiêu.

36

Tiểu kết chương 1

Trong mỗi trẻ đều tiềm ẩn khả năng sáng tạo và chúng ta hoàn toàn có thể phát

hiện, bồi dưỡng khả năng sáng tạo cho trẻ em thông qua các hoạt động phong phú và

phù hợp với từng lứa tuổi.

Vẽ là một trong những hoạt động tạo hình được dạy ở trường mầm non giúp trẻ

hình thành tình cảm và xúc cảm thẩm mĩ, góp phần vào việc phát triển toàn diện

nhân cách cho trẻ. Trong đó, hoạt động vẽ theo ý thích là hoạt động nhằm rèn luyện,

cũng cố những kỹ năng mà trẻ đã học, trẻ phải nhớ lại hoặc tưởng tượng ra các hình

tượng theo ý thích.

Đối với trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi, nếu được giáo dục và hướng dẫn kịp thời thì

khả năng sáng tạo trong hoạt động vẽ nói chung và hoạt động vẽ theo ý thích nói

riêng sẽ được hình thành và phát triển tốt. Đồng thời, đó còn là tiền đề cho các hoạt

động sáng tạo ở lứa tuổi kế tiếp, ngược lại nếu giáo viên làm hạn chế những biểu

hiện sáng tạo của trẻ, bắt trẻ thực hiện một cách rập khuôn, dần dần sẽ trở thành thói

quen, ngấm vào tư duy và biến trẻ trở thành một con người thụ động, máy móc.

Khả năng sáng tạo ở trẻ không tự nhiên xuất hiện, không tự phát triển mà phụ

thuộc rất nhiều vào sự tổ chức và hướng dẫn của GV. Chính vì vậy, để phát triển khả

năng sáng tạo cho trẻ trong hoạt động vẽ theo ý thích, giáo viên cần phải quan tâm

đến cách thức tổ chức hoạt động và các biện pháp giảng dạy của giáo viên. Vì biện

pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo trong hoạt động vẽ theo ý thích

là những cách thức tạo cho trẻ có những cơ hội để thử nghiệm những ý tưởng mới,

cách suy nghĩ mới và cách giải quyết vấn đề nảy sinh mới trong hoạt động vẽ theo ý

thích. Cung cấp cơ hội tuyệt vời để trẻ có thể tích cực sáng tạo nhất và cho phép trẻ

chứng minh sự sáng tạo trong bất kỳ sự tự thể hiện nào của mình.

37

Chương 2. THỰC TRẠNG BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN

KHẢ NĂNG SÁNG TẠO CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI

TRONG HOẠT ĐỘNG VẼ THEO Ý THÍCH

2.1. Tổ chức nghiên cứu thực trạng

2.1.1. Mục đích

- Tìm hiểu biện pháp giáo viên sử dụng nhằm phát triển khả năng sáng tạo cho

trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích ở một số trường mầm non

Thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.

- Tìm hiểu khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ

theo ý thích.

2.1.2. Đối tượng

- Khảo sát 50 giáo viên trực tiếp giảng dạy trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi tại 5 trường

mầm non Thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.

- Khảo sát 150 trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi tại 4 trường mầm non trong địa bàn

Thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.

Tên trường

Trường MN Trường MN Trường MN Trường MN

Sen Hồng Hoa Dừa Rạng Đông Trúc Giang

Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ

12 25 14 23 16 22 18 20

Tổng số: 150 trẻ

* Vài nét về cơ sở giáo dục:

Trường Mầm non Sen Hồng, Mầm non Hoa Dừa, Mầm non Rạng Đông và

Mầm non Trúc Giang đều trực thuộc quản lý của Phòng Giáo dục & Đào tạo TP. Bến

Tre, tỉnh Bến Tre. Trong đó trường mầm non Sen Hồng và trường mầm non Hoa

Dừa được công nhận là trường chuẩn quốc đã nhiều năm. Các trường này được thành

lập khá lâu, đội ngũ giáo viên đều đã qua đào tạo đạt chuẩn, giáo viên có rất nhiều

kinh nghiệm trong chăm sóc - giáo dục trẻ, tích cực tham gia các hoạt động và đã đạt

một số kết quả cao trong các cuộc thi “Giáo viên dạy giỏi cấp thành phố”, “Hội thi

38

đồ dùng đồ chơi”. Cơ sở vật chất các trường khá đầy đủ, các lớp học có đồ dùng

trang thiết bị hiện đại như máy chiếu, máy vi tính, hệ thống bếp đảm bảo vệ sinh an

toàn tuyệt đối. Đặc biệt, môi trường sư phạm lành mạnh giúp các bé phát triển về thể

chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên, số lượng trẻ trong từng lớp ở mỗi trường vẫn còn vượt

so với chuẩn quy định của ngành giáo dục mầm non.

2.1.3. Nội dung

- Nhận thức của giáo viên về khả năng sáng tạo của trẻ trong HĐVTYT.

- Khảo sát biện pháp giáo viên sử dụng nhằm phát triển khả năng sáng tạo cho

trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích.

- Khảo sát khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ

theo ý thích.

2.1.4. Phương pháp

2.1.4.1. Phương pháp điều tra

- Sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến trên 50 giáo viên đang dạy lớp mẫu giáo 5 – 6

tuổi ở 5 trường mầm non Thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.

- Phiếu khảo sát gồm 10 câu hỏi [Phụ lục 1] nhằm tìm hiểu:

+ Nhận thức của giáo viên về khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi

trong hoạt động vẽ theo ý thích.

+ Các biện pháp giáo viên sử dụng nhằm phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ

mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích.

+ Đánh giá thực trạng khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi, biểu hiện

khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong HĐVTYT.

2.1.4.2. Phương pháp dự giờ, quan sát

Chúng tôi tiến hành dự 15 tiết dạy hoạt động tạo hình theo ý thích của trẻ mẫu

giáo 5 – 6 tuổi tại 4 trường mầm non ở tỉnh Bến Tre. Trong quá trình dự giờ chúng tôi

ghi chép lại các hoạt động của giáo viên của trẻ, đặc biệt là quan sát những biểu hiện

của trẻ trong giờ học cũng như khi trẻ vẽ tranh nhằm tìm hiểu khả năng sáng tạo của

trẻ theo các tiêu chí đưa ra.

39

2.1.4.3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động

* Phân tích giáo án

Phân tích giáo án của giáo viên để tìm hiểu cách thực hiện HĐVTYT nhằm

giúp trẻ phát huy khả năng sáng tạo.

* Phân tích sản phẩm tạo hình

Phân tích một số sản phẩm tạo hình của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi qua giờ học để

đánh giá khả năng sáng tạo của trẻ trong HĐVTYT theo các tiêu chí đưa ra ở trang

(29).

2.1.5. Thời gian: Tháng 2 – 3/2018.

2.2. Phân tích kết quả điều tra bằng phiếu

Trong quá trình nghiên cứu thực trạng việc tổ chức HĐVTYT cho trẻ mẫu giáo

5 - 6 tuổi ở các trường mầm non trong TP. Bến Tre bằng phiếu thăm do ý kiến, sau

khi xử lý các số liệu chúng tôi thu được kết quả như sau:

2.2.1. Thực trạng nhận thức của giáo viên về việc phát triển khả năng sáng

tạo cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích

Bảng 2.1. Nhận thức của GV về phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 -

6 tuổi trong HĐVTYT

STT Mức độ Số phiếu Tỷ lệ (%)

1 Rất quan trọng 37 74

2 Quan trọng 13 26

3 Ít quan trọng 0 0

4 Không quan trọng 0 0

Qua bảng khảo sát cho thấy, đa số GV nhận thức được việc phát triển khả năng

sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong HĐVTYT ở các trường mầm non hiện nay

là hoạt động rất quan trọng đối với trẻ 74%. Từ thực tế dự giờ, quan sát trẻ trong các

giờ HĐVTYT tôi thấy rằng 90% các GV đã thực hiện các hoạt động VTYT theo

đúng chương trình qui định. Các GV có đầu tư khá chu đáo vào giáo án, đồ dùng và

lựa chọn những phương pháp giúp trẻ phát huy khả năng sáng tạo. Trẻ cũng tích cực

40

hứng thú khi tham gia vào hoạt động, trẻ rất mạnh dạn, tự tin trả lời câu hỏi của cô.

Tuy nhiên, khả năng tạo hình còn hạn chế.

Bảng 2.2. Nhận thức của GV về biểu hiện sáng tạo trong tranh vẽ của trẻ

STT Biểu hiện sáng tạo của trẻ trong tranh VTYT Số phiếu Tỷ lệ (%)

Vẽ theo những biểu tượng đã được học. 8 16 1

Vẽ theo sự hướng dẫn của giáo viên 0 0 2

Vẽ theo mẫu đã có sẵn 0 0 3

Vẽ theo sự bắt chước bạn 0 0 4

Vẽ theo ý nghĩ, sở thích riêng của trẻ. 42 84 5

Bảng 2.2 cho thấy 84% GV cho rằng sự sáng tạo của trẻ thể hiện khi trẻ vẽ theo

ý nghĩ, sở thích riêng của trẻ. Bên cạnh đó, cũng có một số ý kiến 16% GV cho rằng

sự sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi khi trẻ thể hiện những biểu tượng đã được

học. Không có ý kiến nào cho rằng trẻ sáng tạo khi thể hiện theo sự hướng dẫn của

GV, theo mẫu có sẵn và theo bắt chước bạn.

Qua đó cho thấy hầu hết GV đều nhận thức đúng về những biểu hiện sáng tạo

trong tranh vẽ khi trẻ VTYT và đó cũng chính là điều kiện thuận lợi để GV tạo nhiều

cơ hội cho trẻ được thể hiện theo cách riêng cũng như tạo mọi điều kiện để trẻ có thể

phát huy mọi khả năng sáng tạo trong các hoạt động tạo hình nói chung và trong

HĐVTYT nói riêng. Điều này trùng khớp với kết quả dự giờ, có một số đề tài khi

GV tổ chức hoạt động vẽ, trẻ nhanh nắm bắt yêu cầu, trẻ vẽ khá nhanh chóng và độc

lập trong khi vẽ không cần sự giúp đỡ của GV, mặc dù cô chỉ cho xem một vài tranh

và giới thiệu rất ngắn gọn nội dung tranh.

Bảng 2.3. Tần suất tổ chức HĐVTYT

TT Tần suất tổ chức HĐVTYT trong tháng Số phiếu Tỷ lệ (%)

1 lần 9 18 1

2 lần 21 42 2

3 lần 7 14 3

4 lần 8 16 4

5 Ý kiến khác: nhiều lần 5 10

41

Nhìn chung, 42% GV cho rằng HĐVTYT được tổ chức 2 lần trong tháng.

Ngoài ra, việc tổ chức hoạt động này có sự khác nhau ở các trường. Theo trường

Trúc Giang chỉ duy nhất 1 lần trong tháng 18%, trường Mẫu giáo Hướng Dương,

Rạng Đông, Hoa Dừa tổ chức khoảng 3 đến 4 lần trog tháng với tỷ lệ 14% đến16%.

Và cũng có một vài ý kiến khác cho rằng HĐVTYT được tổ chức rất nhiều lần (6 lần

trở lên) trong tháng “tùy theo chủ đề của tháng đó” 10% . Tất cả những ý kiến trên

đây đều có điểm chung chính là “tùy theo chủ đề” mà các GV sẽ tổ chức hoạt động

với tần suất nhiều hay ít. Các chủ đề ở trường mầm non dao động từ 2 đến 5 tuần và

trong các tuần GV sẽ sắp xếp, tổ chức nhiều hoạt động khác nhau. Tùy theo chủ đề

mà GV sẽ chọn dạng hoạt động tạo hình (tạo hình theo mẫu, theo đề tài hay ý thích)

để dạy trẻ và tần suất tổ chức HĐVTYT là một trong những cơ hội để trẻ thỏa sức

phát huy khả năng sáng tạo của mình.

Bảng 2.4. Giáo viên đánh giá mức độ biểu hiện khả năng sáng tạo của trẻ mẫu

giáo 5 - 6 tuổi trong HĐVTYT

Mức độ

Trung Biểu hiện Cao Thấp bình

SL % SL % SL %

Sự mới lạ của tên tranh vẽ 16 32 34 68 0 0

Thay đổi thành phần các hình ảnh trong 26 52 24 48 0 0 Nội tranh vẽ dung

Thay đổi hình dáng hình ảnh trong tranh 22 44 24 48 4 8 vẽ

Thay đổi sự liên kết giữa các yếu tố trong 10 20 37 74 3 6 Hình tranh vẽ

thức 11 22 35 70 4 8 Tranh vẽ hài hòa, cân đối

42

Bố Sử dụng luật phối cảnh thể hiện 7 14 43 86 0 0 cục chiều sâu trong tranh

Thể hiện màu sắc tự tạo 6 12 44 88 0 0 Màu Thể hiện màu sắc hài hòa, phù sắc 10 20 40 80 0 0 hợp nội dung

Đối tượng thể hiện dưới dạng 6 12 37 74 7 14 hoạt động Hình

vẽ Đối tượng thể hiện tư thế phù 6 12 44 88 0 0 hợp, giàu hình tượng

Có thể thấy, phần lớn GVMN đánh giá biểu hiện tưởng tượng sáng tạo của trẻ

thể hiện trong hoạt động vẽ ở mức độ trung bình là chủ yếu.

Về nội dung tranh vẽ: Theo tiêu chí tên tranh vẽ, có 32% giáo viên cho rằng độ

mới lạ trong tên tranh vẽ của trẻ đạt mức độ cao, nhưng có đến 68% giáo viên đánh

giá chỉ đạt ở mức trung bình. Tiêu chí đặc điểm nội dung tranh vẽ, biểu hiện sự thay

đổi thành phần các hình ảnh trong tranh vẽ có 52% giáo viên đánh giá biểu hiện này

ở mức độ cao, biểu hiện sự thay đổi đặc điểm hình dáng của các hình ảnh trong

tranh vẽ có 44 % giáo viên đánh giá ở mức độ cao. Còn biểu hiện sự thay đổi liên kết

giữa các yếu tố thì rất ít giáo viên đánh giá ở mức độ cao 20%, tỷ lệ còn lại ở mức độ

trung bình và thấp. Từ thực tế dự giờ ở các trường, cho thấy trẻ đa số trẻ đặt tên tranh

vẽ theo mẫu, theo sự gợi ý của cô hoặc đặt tên giống như bạn, rất ít có sự sáng tạo

khi đặt tên tranh vẽ. Các sản phẩm của trẻ thể hiện có sự thay đổi về mặt nội dung

nhưng không nhiều, các đối tượng trong tranh vẽ được thể hiện với kích thước ngang

nhau, chưa chú đến tỷ lệ của các sự vật. Tranh vẽ của trẻ có sự thay đổi trật tự vị trí

nhưng chưa tạo được sự liên kết giữa các đối tượng trong tranh.

Về hình thức tranh vẽ: Theo tiêu chí bố cục, có 86% GV đánh giá trẻ thể hiện

luật phối cảnh ở mức độ trung bình và thấp. Điều này được thể hiện một cách rõ ràng

qua tranh vẽ của trẻ mà khi dự giờ, hầu hết trẻ chỉ thể hiện quan hệ không gian trên –

dưới hoặc có một tầng cảnh, và sắp xếp theo lối liệt kê, nên tranh vẽ chưa có sự hài

43

hòa, cân đối. Về tiêu chí màu sắc có đến 88% các giáo viên cho rằng trẻ chưa biết

phối hợp các màu sắc để tạo ra màu mới, chủ yếu là dùng màu có sẵn. Khi sử dụng

màu sắc, trẻ thường chỉ chú ý đến độ tươi sáng, đặc điểm thường ngày của sự vật, thể

hiện sự yêu ghét đối tượng được yêu tô màu sáng, đối tượng ghét thì tô màu tối chứ

chưa hướng đến việc tạo ra màu sắc thể hiện sự biến đổi màu sắc của sự vật. Về tiêu

chí hình vẽ phần lớn trẻ chưa biết cách thể hiện đối tượng dưới dạng hoạt động, trẻ

chủ yếu thể hiện đối tượng ở một số dạng cơ bản như nắm tay, đưa tay ra hoặc đứng

yên, các dạng hoạt động chưa phong phú và mang tính hình tượng.

Bảng 2.5. Giáo viên đánh giá mức độ quan trọng của các yếu tố trong quá trình tổ

chức HĐVTYT

Mức độ

Không quan Các yếu tố Quan Trọng Ít quan trọng trọng

SL % SL % SL %

Tạo hứng thú cho trẻ 50 100 0 0 0 0

Quan sát mẫu 42 84 8 16 0 0

Gợi nhớ những hình ảnh mà trẻ đã 44 88 6 12 0 0 quan sát

Thể hiện ý tưởng và sáng tạo theo 43 86 7 14 0 0 cách riêng

Đánh giá sản phẩm tạo hình 29 58 18 36 3 6

100% giáo viên cho rằng việc tạo hứng thú cho trẻ là quan trọng. Liệu có sự

tương đồng số liệu này và thực tế ở các trường mầm non hiện nay không? Quá trình

quan sát thực tế cho thấy giáo viên không có nhiều thời gian để đầu tư, tìm tòi suy

nghĩ để gây hứng thú cho trẻ trong hoạt động vẽ nhất là VTYT. Sự hứng thú ở trẻ

trong hoạt động này là một trong những yếu tố trọng yếu để đưa trẻ đến với nghệ

thuật và sẽ là chất xúc tác tạo nên các tác phẩm nghệ thuật đẹp và đầy sáng tạo.

Chính vì vậy, khó duy trì được hứng thú cho trẻ trong suốt thời gian vẽ. Không khí

44

buổi học thường chỉ sinh động lúc đầu giờ, càng về sau các cháu càng tỏ ra mệt mỏi,

làm xong rồi đứng lên, không thích ngồi ngắm nghía và phát triển thêm ý tưởng.

84% GV đánh giá yếu tố cho trẻ quan sát mẫu là quan trọng, 88% GV cho rằng

yếu tố gợi nhớ hình ảnh đã quan sát cũng rất quan trọng. Một số rất ít cho rằng 2 tiêu

chí này ít quan trọng. Điều đó cho thấy, các GV rất quan tâm trong việc cung cấp

kiến thức, vốn biểu tượng cho trẻ vì nếu vốn sống trẻ ít trẻ sẽ rất khó khăn trong việc

thể hiện sản phẩm và tác phẩm của trẻ sẽ không sáng tạo. Thực tế dự giờ cho thấy, có

một số giờ dạy giáo viên đã tổ chức đúng trình tự như cho trẻ xem tranh ảnh, tranh

mẫu và khai thác hết nội dung tranh vẽ giúp trẻ nhanh chóng hoàn thành tác phẩm

86% GV đồng ý để trẻ tự do sáng tạo theo cách riêng quan trọng và rất ít 14%

GV cho rằng yếu tố cho trẻ được tự do thể hiện là ít quan trọng. Điều đó cho thấy

GV đã nhận thức được yếu tố then chốt để tạo ra môi trường sáng tạo chính là

khuyến khích trẻ tự do thể hiện ý tưởng và sáng tạo theo cách riêng của trẻ. Sự tự do

tâm lý sẽ tạo điều kiện quan trọng để trẻ suy nghĩ, nuôi dưỡng những ý tưởng sáng

tạo.

58% GV cho rằng đánh giá sản phẩm tạo hình là quan trọng, 36% ý kiến ít

quan trọng và 6% ý kiến không quan trọng. Từ kết quả, cho thấy việc tổ chức đánh

giá sản phẩm cho trẻ chưa được giáo viên quan tâm nhiều và đây sẽ là một nguyên

nhân đáng lưu ý. Giáo viên thường quan tâm sản phẩm vẽ của trẻ ở nhiều yếu tố như

tạo ra được hình dạng, tô đều, vẽ nhiều hình, hoặc vận dụng những kĩ năng miêu tả.

Bảng 2.6. Giáo viên sử dụng biện pháp phát triển khả năng sáng tạo trong

HĐVTYT

Mức độ

Thường sử Không sử Các biện pháp Ít sử dụng dụng dụng

SL % SL % SL %

Tổ chức cho trẻ tiếp xúc, quan sát 28 56 22 44 0 0 sự vật, hiện tượng trong MTXQ

Tổ chức cho trẻ xem tác phẩm nghệ 5 10 18 36 27 54

45

thuật ở triển lãm tranh

Tổ chức cho trẻ miêu tả nhận xét 45 90 5 10 0 0 sản phẩm của mình và của bạn.

Sử dụng câu hỏi gợi mở để trẻ suy 44 88 6 12 0 0 nghĩ và tưởng tượng

Hướng dẫn, luyện tập kỹ năng tạo 30 60 20 40 0 0 hình cho trẻ

Sử dụng hình thức vẽ ngoài giờ học

như: vẽ ngoài trời, vẽ ở hoạt động 31 62 14 28 5 10

góc, nhóm chơi tạo hình

Kết quả khảo sát biện pháp tổ chức cho trẻ tiếp xúc, quan sát sự vật, hiện tượng

trong MTXQ có 56% ý kiến nhận định rằng đây là biện pháp thường được sử dụng trong

quá trình tổ chức cho trẻ phát triển khả năng sáng tạo trong HĐVTYT và cũng có 44%

GV cho rằng họ ít sử dụng biện pháp này. Để phát huy khả năng tưởng tượng sáng tạo

trong hoạt động vẽ thì việc cung cấp vốn biểu tượng cho trẻ rất là quan trọng. Tuy nhiên,

với kết quả trên thì đây là biện pháp ít được các giáo viên quan tâm và sử dụng.

Sử dụng câu hỏi gợi mở để trẻ suy nghĩ và tưởng tượng cũng nhằm giúp trẻ

tăng khả năng sáng tạo. Với 88% thường sử dụng biện pháp này và cũng có 12% cho

rằng họ ít sử dụng để giúp trẻ phát triển khả năng sáng tạo. Từ đó cho thấy đây là

biện pháp rất tích cực và mang lại hiệu quả nếu chúng ta biết cách đặt câu hỏi gợi mở

đúng đề tài và đúng thời điểm.

60% GV hướng dẫn, luyện tập kỹ năng tạo hình cho trẻ là biện pháp nhằm

cung cấp và củng cố kỹ năng tạo hình cho trẻ. Và đây là biện pháp được sử dụng

thường xuyên trong hoạt động vẽ theo ý thích, 40% là tỉ lệ GV ít thường xuyên lựa

chọn biện pháp này. Đối với hoạt động tạo hình thì kỹ năng tạo hình là một trong

những yếu tố giúp trẻ có khả năng sáng tạo cho tranh vẽ của mình thế nhưng với tỉ lệ

như trên thì biện pháp này các GV vẫn chưa quan tâm nhiều nên ít sử dụng đến.

Sử dụng hình thức vẽ ngoài giờ học như: vẽ ngoài trời, vẽ ở hoạt động góc,

nhóm chơi tạo hình là biện pháp nhằm thay đổi môi trường vẽ để kích thích sự hứng

46

thú và khả năng sáng tạo cho trẻ trong HĐVTYT. Với 62% ý kiến cho rằng đây là

biện pháp được sử dụng thường xuyên trong quá trình phát huy sự sáng tạo của trẻ.

Có thể thấy các GV ở trường mầm non cũng chú trọng biện pháp này để giúp trẻ phát

huy khả năng sáng tạo. Tuy nhiên cũng có 28 % GV ít sử dụng biện pháp này. Với

trẻ được thoải mái, tự do sáng tạo trong một không gian mở trẻ sẽ vô cùng thích thú

nhưng có thể do điều kiện thực tế cũng như cách tổ chức của cô mà cơ hội trẻ được

tiếp xúc với môi thiên nhiên và trong hoạt động góc, hoạt động trong nhóm chơi để

phát triển sự sáng tạo trong hoạt động VTYT còn nhiều hạn chế. Có 10% GV được

hỏi đã không chọn biện pháp này để giúp trẻ sáng tạo trong HĐVTYT. Điều này

cũng đúng với thực tế ở một số trường mầm non trong TP Bến Tre vì nhiều nguyên

nhân khác nhau mà giáo viên rất ngại cho trẻ vẽ ở ngoài trời (không gian trường hẹp,

không có nhiều cây xanh, khó quản lý trẻ…), còn vẽ trong hoạt động góc thì số trẻ

tham gia tại góc này cũng không nhiều nên thiếu sự đồng loạt.

Một biện pháp có tác dụng rất lớn trong việc cung cấp vốn biểu tượng tạo hình

cho trẻ nhằm làm phong phú hơn nội dung tranh vẽ là tổ chức cho trẻ xem tác phẩm

nghệ thuật ở triển lãm tranh. Tuy nhiên, điểm hạn chế khi áp dụng biện pháp này là

địa điểm và thời gian diễn ra triển lãm không phải lúc nào cũng thuận lợi để tổ chức

cho trẻ đi xem trừ khi buổi triển lãm tranh được GV tổ chức ngay tại trường để trẻ

được quan sát và tìm hiểu. Vì thế nên có đến 54% không sử dụng biện pháp này giúp

trẻ phát huy khả năng sáng tạo trong HĐVTYT, có 36% ít sử dụng biện pháp này, 10

% thường sử dụng biện pháp tổ chức cho trẻ xem tác phẩm nghệ thuật ở triển lãm

tranh chủ yếu là các trường lớn và là trường điểm.

Trong hoạt động tạo hình biện pháp thường xuyên tổ chức cho trẻ là thường

xuyên tổ chức cho trẻ quan sát, miêu tả, nhận xét sản phẩm của mình và của bạn rất

thường được sử dụng để giúp trẻ phát huy khả năng sáng tạo trong HĐVTYT và đây

cũng là cơ hội để cho trẻ biết nhận ra cái đẹp và đánh giá cái đẹp, 90% GV cho rằng

đây là biện pháp dễ tiến hành trong quá trình tổ chức. Bên cạnh đó vẫn còn 10% ý

kiến cho rằng ít sử dụng biện pháp nêu trên.

Nhìn chung đa số GV ý thức được tầm quan trọng trong việc lựa chọn biện

pháp phù hợp để giúp trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi phát triển khả năng sáng tạo trong

47

HĐVTYT. Mỗi biện pháp nếu áp dụng thành công thì sẽ mang lại những hiệu quả

tích cực, tuy nhiên GV cần phải lựa chọn và kết hợp các biện pháp sao cho phù hợp

với đối tượng và đề tài vẽ cụ thể thì mới có được kết quả.

Bảng 2.7. Nguyên nhân ảnh hưởng đến khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5-6

tuổi trong HĐVTYT

Số Tỷ lệ STT Nguyên nhân phiếu (%)

Giáo viên sử dụng chưa thường xuyên các biện pháp phát triển 33 66 1 khả năng sáng tạo cho trẻ trong HĐVTYT

Giáo viên chưa thấy tầm quan trọng của việc phát triển khả năng 2 4 8 sáng tạo cho trẻ trong hoạt động vẽ theo ý thích

3 GV gò bó, áp đặt trẻ khi tổ chức hoạt động 27 54

GV không có nhiều thời gian để tổ chức thực hành, luyện tập 4 34 68 cho trẻ

5 Kỹ năng vẽ của trẻ hạn chế 22 44

6 Trẻ không đủ thời gian thực hiện sản phẩm 31 62

7 Số lượng trẻ quá đông 29 58

Bảng 2.7 cho thấy sự đồng tình nhiều nhất đều xuất phát nguyên nhân từ GV cụ

thể như sau: có 66 % giáo viên sử dụng chưa thường xuyên các biện pháp phát triển

khả năng sáng tạo cho trẻ trong HĐVTYT, 68% GV không có nhiều thời gian để tổ

chức thực hành, luyện tập, 54% GV gò bó, áp đặt trẻ khi tổ chức hoạt động. Bên cạnh

đó, có 8% GV chưa thấy tầm quan trọng của việc phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ

trong hoạt động vẽ theo ý thích là cần thiết. Hiện nay, chương trình giáo dục mầm

non với nguyên tắc lấy trẻ làm trung tâm phát huy tính tích cực, sáng tạo cho trẻ

trong tất cả hoạt động là mục tiêu mà các trường mầm non hướng đến. Nhưng từ kết

quả khảo sát trên và quá trình dự giờ ở các trường mầm non chúng tôi nhận thấy việc

không sử dụng thường xuyên các biện pháp là hạn chế rất lớn trong việc phát triển

khả năng sáng tạo cho trẻ: trẻ ít vốn biểu tượng, kỹ năng vẽ hạn chế nên tranh vẽ

48

nghèo nàn, thiếu ý tưởng và rập khuôn theo mẫu hoặc theo gợi ý của giáo viên. Ngoài

ra, GV còn gò bó áp đặt trong khi tổ chức hoạt động vẽ, chưa tạo được môi trường tự

do sáng tạo nên chưa phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo cho trẻ. Bên

cạnh đó, tần suất làm việc của các GV trong một ngày với quá nhiều hoạt động nên

việc rèn luyện các kỹ năng tạo hình, cho trẻ thực hành - luyện tập để tăng khả năng

sáng tạo cho trẻ cũng bị hạn chế.

Nguyên nhân cũng ảnh hưởng đến khả năng sáng tạo của trẻ trong HĐVTYT là

về phía trẻ. Có 62% nhất trí rằng trẻ không đủ thời gian thực hiện sản phẩm, đây là

mối quan tâm hàng đầu của GV trong việc phát huy khả năng sáng tạo cho trẻ. Với

thời lượng khác nhau ở từng nhóm tuổi dao động từ 30 - 45 phút cho hoạt động tạo

hình. Đây là hạn chế nhưng chính điều này cũng là một trong những yếu tố gây khó

khăn cho GV khi tổ chức. Do đó, chủ yếu trẻ chỉ kịp vẽ những gì cô đã hướng dẫn,

làm theo yêu cầu của cô. Tuy nhiên, yếu tố này GV hoàn toàn có điều chỉnh cách tổ

chức và GV có thể chủ động phân bố thời gian hợp lý để trẻ thực hiện nhiệm vụ.

Nhưng nếu trẻ kỹ năng vẽ hạn chế hoặc trẻ thật sự thích vẽ và có nhiều ý tưởng sáng

tạo trong hoạt động này thì thời gian chính là trở ngại lớn làm trẻ không được thoải

sức sáng tạo.

Ngoài ra, số lượng trẻ quá đông, kỹ năng vẽ hạn chế cũng gây ra nhiều khó

khăn cho khả năng sáng tạo của trẻ. Số lượng trẻ đông làm cô khó khăn trong việc

bao quát, tiếp xúc trực tiếp với từng trẻ để hướng dẫn trẻ yếu và động viên trẻ có

sáng tạo trong quá trình hoạt động. Ngoài ra, trẻ chưa hứng thú trong hoạt động vẽ

cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sáng tạo của chúng. Vậy nên, vấn đề cần đặt ra

là GV cần phải tạo điều kiện thực hành, luyện tập các kỹ năng cho trẻ mọi lúc mọi

nơi, luôn động viên khuyến khích và tạo không khí thoải mái để trẻ có thêm hứng thú

và tích cực hơn trong việc phát huy hết khả năng của mình trong lĩnh vực sáng tạo.

49

Bảng 2.8. Giáo viên kiến nghị nhằm phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu

giáo 5 - 6 tuổi trong HĐVTYT

Số Tỷ lệ STT Giáo viên đề xuất phiếu (%)

1 Mở thêm các lớp bồi dưỡng về tạo hình lứa tuổi mầm non 30 60

Trang bị thêm nhiều tài liệu hướng dẫn sáng tạo trong hoạt động 2 12 24 vẽ

Trang bị thêm nhiều nguyên vật liệu mở từ nhiều nguồn khác 3 31 62 nhau

4 Thay đổi nội dung chương trình giảng dạy 7 14

Kết hợp giữa gia đình và nhà trường để tạo ra môi trường vẽ cho 5 35 70 trẻ

39 78 6 Kéo dài thời gian cho trẻ tạo ra sản phẩm

42 84 7 Tăng cường tích lũy biểu tượng, kinh nghiệm cho trẻ

Trên đây là kết quả những kiến nghị, đề xuất của giáo viên để phát triển khả năng

sáng tạo cho trẻ trong HĐVTYT. Có 60% GV đều có nguyện vọng mở thêm các lớp

bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn đi sâu về tạo hình, 24 % GV cần trang bị thêm

nhiều tài liệu hướng dẫn sáng tạo trong hoạt động VTYT, 14 % GV đề xuất cần thay

đổi nội dung chương trình giảng dạy và mong muốn có sự kết hợp chặt chẽ hơn nữa

giữa gia đình và nhà trường để tạo ra môi trường hoạt động tốt nhất, khuyết khích

niềm vui sáng tạo nơi trẻ cũng chiếm tỉ lệ khá cao từ 70%. Hiện nay với sự chỉ đạo

của Bộ Giáo dục và đào tạo thì cả nước đang thực hiện Chương trình giáo dục mầm

non, chương trình mang tính chất khung, vậy nên giáo viên hoàn toàn có thể linh

hoạt chọn lựa nội dung giáo dục phù hợp với những yêu cầu đề ra trong chương

trình. Có thể là do nguyên nhân chủ quan từ cá nhân hay một vài yếu tố khách quan

khác nên có 7 ý kiến đồng tình nguyện vọng cần thay đổi nội dung chương trình

giảng dạy. Bên cạnh đó, có 62% ý kiến mong muốn trẻ được hỗ trợ bổ sung thêm

nhiều nguyên vật liệu mở từ nhiều nguồn khác nhau để trẻ có thêm nguyên liệu trang

trí tranh vẽ và cũng giúp trẻ hứng thú, say mê với hoạt động này. Tuy nhiên sự bổ

50

sung nguyên liệu cũng cần phải phù hợp với đề tài thì trẻ mới có thể sử dụng để sáng

tạo được. Nguyện vọng tiếp theo là cần thêm thời gian cho trẻ tạo ra sản phẩm, đây

là một nguyện vọng rất chính đáng của số đông GV 78 %, vì với thời gian quy định

trong chương trình GDMN thì trẻ khó có thể hoàn thành tác phẩm của mình nhưng

vẫn khắc phục được nếu GV biết linh hoạt trong quá trình tổ chức hoạt động, thời

lượng dành cho trẻ tạo ra sản phẩm là dài nhất có thể.

Và đề xuất được nhiều ý kiến nhất là 84% nhất trí cần tăng cường tích lũy biểu

tượng, kinh nghiệm từ nhiều nguồn khác nhau (dạo chơi, tham quan, xem máy tính,

hoạt động nhóm ...). Vì trẻ không thể nào sáng tạo được nếu vốn biểu tượng không

nhiều, cho nên GV cần giúp trẻ tích lũy vốn kiến thức ở mọi lúc, mọi nơi khi cần để

trẻ phát huy khả năng sáng tạo cao nhất.

2.2.2. Thực trạng tổ chức hoạt động vẽ theo ý thích nhằm phát triển khả

năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở trường mầm non

Chúng tôi tiến hành dự giờ 15 hoạt động vẽ theo ý thích của các lớp ở năm

trường khảo sát và nhận thấy như sau:

Hầu hết các GV đã thực hiện các hoạt động VTYT theo đúng chương trình qui

định. Các GV có đầu tư khá chu đáo vào giáo án, đồ dùng và lựa chọn những phương

pháp giúp trẻ phát huy khả năng sáng tạo. Vì vậy, trẻ cũng tích cực hứng thú khi

tham gia vào hoạt động, trẻ rất mạnh dạn, tự tin trả lời câu hỏi của cô. Tuy nhiên,

thực tế trái ngược hẳn với kết quả khi trẻ tạo ra sản phẩm, điều này cho thấy có sự

chuẩn bị trước nội dung giờ dạy cho trẻ. Bên cạnh đó, cũng có một số giáo án nội

dung hướng dẫn chưa khai thác hết vốn kinh nghiệm của trẻ nên dù trẻ tự tin trả lời

nhưng khả năng sáng tạo của trẻ qua những sản phẩm vẫn chưa đạt được mức độ cao.

Giáo viên đã tổ chức đúng trình tự như cho trẻ xem tranh ảnh, tranh mẫu với số

lượng nhiều tranh nhưng câu hỏi đàm thoại chưa sâu nên trẻ khá lúng túng khi thực

hiện tác phẩm. Với những đề tài quen thuộc như: vẽ rau, củ, quả bé thích hay vẽ tự

do.... trẻ nhanh nắm bắt đề tài, trẻ vẽ khá nhanh chóng và độc lập trong khi vẽ không

cần sự giúp đỡ của GV, mặc dù cô chỉ cho xem một vài tranh và giới thiệu rất ngắn

gọn nội dung tranh. Đối với các đề tài khó hơn như vẽ về phong cảnh quê em, vẽ

người thân trong gia đình, vẽ phương tiện giao thông … thì bố cục, hình ảnh tranh vẽ

51

rất lộn xộn và trong quá trình thực hiện sản phẩm trẻ không thể nhanh chóng tạo ra

sản phẩm, trẻ rất hay hỏi cô và cần sự giúp đỡ của GV. Mặt khác, có 2 tiết dạy khi

giới thiệu, ổn định lớp xong giáo viên đàm thoại một vài câu hỏi liên quan đến chủ

đề và sau đó giáo viên gợi ý rất nhiều và yêu cầu trẻ vẽ tự do theo ý thích mà chưa

giúp trẻ định hướng lại cần vẽ gì, phải vẽ như thế nào. Xuất phát từ lý do trên, nên

tranh vẽ của trẻ thường là sự lặp lại của những hình vẽ trước đó, chưa thể hiện được

sự sáng tạo và đôi lúc cũng không phù hợp với đề tài. Trong các tiết này giáo viên có

sử dụng lời để hướng dẫn nhưng chủ yếu cũng chỉ là mô tả tranh và giao nhiệm vụ

cho trẻ thực hiện đề tài. Cô ít đặt câu hỏi gợi mở ý tưởng, hay cho trẻ đối chiếu, so

sánh…tìm cách tạo mẫu hình, sắp xếp bố cục mới lạ để làm tranh đẹp hơn.

Có một vài sự khác biệt giữa các trường khi GV tiến hành tổ chức cho trẻ

HĐVTYT: có trường để rất nhiều tranh cho trẻ xem nhưng khai thác tranh khá sơ

xài; có trường để hai đến ba tranh và trò chuyện để trẻ tự tưởng tượng; một trường

khác thì lại hoàn toàn không trang bị tranh ảnh, cô hỏi trẻ thật nhiều câu hỏi xoay

quanh đề tài để giúp trẻ gợi nhớ và kích thích trí tưởng tượng của trẻ, sau đó cô giao

nhiệm vụ cho trẻ thực hiện. Đó là sự khác biệt rất lớn về cách sử dụng tranh ảnh và

tranh mẫu của giáo viên ở các trường. Tuy nhiên, điểm chung nhất của hầu hết giáo

viên ở các trường là sau khi đàm thoại về nội dung đề tài các GV đều có cách hỏi

giống nhau như một hình thức với một vài câu quen thuộc như: “Con thích vẽ gì?”,

“Con sẽ vẽ nó như thế nào”, “Con sẽ vẽ thêm gì cho tranh của con thêm sinh

động?”… và khi kết thúc nội dung trò chuyện là lời nhắc nhở trẻ về cách cầm bút, tư

thế ngồi cho đúng, cách tô màu và sắp xếp bố cục sao cho hợp lý. Đặc biệt, trong quá

trình trẻ tạo ra sản phẩm cô luôn gợi ý về nội dung hình vẽ, màu sắc tô và bố cục để

tranh được phù hợp với ý của cô, cô còn giúp trẻ thực hiện sản phẩm. Nhìn chung,

GV thường “không quan tâm” lắm đến ý tưởng cũng như cách tạo hình của trẻ trong

hoạt động này chỉ mong muốn là khi kết thúc thời gian quy định của hoạt động trẻ

hoàn thành xong sản phẩm là được. Vì vậy, đây chính là một trong những lý do làm

hạn chế khả năng sáng tạo của trẻ trong quá trình VTYT.

Một số giờ học, phần đánh giá sản phẩm của trẻ khá sinh động hơn khi GV cho

trẻ đặt tên sản phẩm của mình hoặc của bạn. Tuy nhiên, hầu như các tiết học GV cho

52

trẻ nhận xét sản phẩm với hình thức như nhau cùng dạng câu hỏi “Con thích nhất sản

phẩm nào?” “Vì sao con thích?” Và câu trả lời đều gần giống nhau “con thích sản

phẩm này vì sản phẩm đẹp hay con thích sản phẩm này vì bạn tô màu đẹp”... Giáo

viên chưa gợi ý cũng như chưa tập trung khai thác sâu về bố cục, hình dáng, ...Mặt

khác, trẻ còn chọn sản phẩm không đẹp hay đơn giản sản phẩm đó là của bạn mà trẻ

thích để nhận xét rằng bạn vẽ đẹp mà không nêu lên được những cái mới, cái đẹp

trong tác phẩm hay nêu lên cách nhận xét mới lạ, hấp dẫn. Điều đó cho thấy, GV

chưa chú ý nhiều đến việc cho trẻ phân tích sản phẩm vì thế đây cũng là nguyên nhân

làm trẻ giảm sự hứng thú ở hoạt động này và làm mai một khả năng sáng tạo của trẻ.

Tóm lại, tất cả các hoạt động mà chúng tôi được dự thì đa số giáo viên đều thực

hiện theo đúng qui trình của một giờ hoạt động vẽ theo ý thích nhưng vẫn chưa phát

huy hết khả năng sáng tạo của trẻ và thể hiện hết tính độc lập trong quá trình thực

hiện. Giờ học được tổ chức thường rập khuôn, máy móc, giáo viên chú trọng nhiều

đến kết quả phải đạt được nên sản phẩm của trẻ vẫn chưa thể hiện sự sáng tạo nhiều.

2.2.3. Thực trạng biểu hiện khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi

trong tranh vẽ theo ý thích

Đối với trẻ nhỏ, khi được cô cho vẽ là một sự thích thú, hứng khởi: trẻ hăng hái

xếp bàn ghế, phụ cô chuẩn bị đồ dùng để vẽ, nhắc nhỡ các bạn cùng thực hiện. Khi

tiết học tiến hành, trẻ chăm chú nghe cô hướng dẫn, trò chuyện và tham gia phát biểu

ý kiến. Nhìn chung, qua 15 tiết dự giờ chúng tôi nhận thấy trẻ rất tích cực tham gian

hoạt động vẽ cùng cô. Tuy nhiên, khi trẻ bắt đầu vẽ thì lại loay hoay chưa xác định rõ

ràng ý tưởng của mình nên: nội dung tranh còn nghèo nàn, hình vẽ đơn giản, bố cục

sắp xếp đôi khi còn lộn xộn, màu sắc có tươi sáng nhưng sự phối màu chưa có. Ở

một số tranh, trẻ cũng thể hiện được ý tưởng độc đáo, ngộ nghĩnh nhưng vì chưa biết

cách thể hiện nên vẫn chưa đẹp lắm.

Để đánh giá khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong HĐVTYT

thông qua sản phẩm tạo hình, chúng tôi đã tiến hành cho 150 trẻ vẽ theo ý thích ở 4

trường với các đề tài: “Vẽ phong cảnh quê em”; “Trường mầm non của bé”; “Vẽ

những người thân trong gia đình”; “Vẽ vườn rau nhà bé” và dựa trên những tiêu chí

đánh giá ở phần cơ sở lý luận trang (31) chúng tôi thu được kết quả như sau:

53

Bảng 2.9. Kết quả mức độ sáng tạo tranh vẽ của trẻ ở các trường mầm non

Trường Rạng

Trường Trúc

Trường Sen Hồng Trường Hoa Dừa

Đông

Giang

Tiêu chí

Cao

TB Thấp Cao TB Thấp Cao TB Thấp Cao TB Thấp

Tên tranh vẽ

13

24

0

11

26

0

10

25

3

7

30

1

Đặc điểm nội dung

16

21

0

13

24

0

8

30

0

6

32

0

Bố cục

6

31

0

7

30

0

1

37

0

2

36

0

Màu sắc

12

25

0

9

28

0

9

29

0

8

30

0

Hình vẽ

8

29

0

11

26

0

5

33

0

4

34

0

Tổng điểm

11

26

0

10

26

0

6

30

3

5

32

1

Kết quả bảng 2.9 cho thấy ở tổng điểm các tiêu chí cả 4 trường trẻ đều đạt mức

độ sáng tạo trung bình. Cụ thể như trường Sen Hồng, Hoa Dừa có 26 trẻ, Rạng Đông

có 30 trẻ, Trúc Giang 32 trẻ, như vậy số lượng trẻ đạt mức trung bình ở mỗi trường

đều chiếm trên 70%. Xét trên từng tiêu chí cho thấy, trường Sen Hồng, Hoa Dừa

không có trẻ nào đạt mức độ thấp ở tất cả các tiêu chí, riêng ở tiêu chí tên tranh vẽ

trường Rạng Đông có 3 trẻ, trường Trúc Giang có 1 trẻ đạt mức độ thấp. Ở cả 4

trường, số trẻ tưởng tượng sáng tạo ở mức độ cao ở các tiêu chí chiếm số ít chẳng

hạn như ở tiêu chí bố cục trường Sen Hồng có 6 trẻ, Hoa Dừa 7 trẻ, Rạng Đông có 1

trẻ và Trúc Giang có 2 trẻ.

Có thể phân tích trên từng tiêu chí như sau:

+ Tên tranh vẽ

Ở tiêu chí này, tưởng tượng sáng tạo của trẻ ở mức độ trung bình chiếm trên

64%, cao chiếm 35%, và mức độ thấp chiếm 2%. Điểm trung bình của tiêu chí trên

của tranh vẽ nghiêng về phía trung bình.

Phần lớn trẻ đều nêu được ý định tên gọi bức tranh mình sẽ vẽ khi giáo viên

đưa ra đề tài, bên cạnh đó còn có một số trẻ lúng túng và nêu tên tranh vẽ giống bạn.

Khi bắt đầu vẽ, số trẻ còn ngập ngừng, thiếu tự tin khi thể hiện ý tưởng, nhìn sang

bạn và hay bắt chước lẫn nhau chiếm khoảng 12%, số còn lại bắt đầu thể hiện ý

tưởng của mình khi thực hiện tranh vẽ.

54

Với đề tài: “Vẽ người thân trong gia đình”, “Vẽ phong cảnh quê em”, sau khi

đã hoàn tất xong tranh vẽ hầu hết trẻ đều đặt được tên cho tranh vẽ của mình. Khi gọi

tên tranh vẽ, chỉ có một số ít trẻ sử dụng lại tên như lúc ban đầu, phần lớn có sự thay

đổi tên tranh vẽ theo hai hướng: thứ nhất đặt tên một cách cụ thể hơn chẳng hạn như

trước khi bắt đầu vẽ đặt tên “ba mẹ của em” thì sau đó trẻ đặt tên “ba mẹ đi làm”

hay đề tài “Vẽ phong cảnh quê em” trẻ đặt tên “đường phố nhà em”, “Đồng lúa xanh

non” ....

Về độ mới lạ, có khoảng 2/3 trẻ lặp lại những nội dung tên đề tài mà giáo viên

đã giới thiệu và có khác đi đôi chút nên tên tranh vẽ cũng không có gì mới lạ, chỉ có

khoảng 1/3 trẻ khai thác một số khía cạnh khác so với những nội dung mà cô đã giới

thiệu nên đã có sự “đột phá” khi gọi tên cho tranh vẽ của mình. Ví dụ như với tên

tranh như “dòng sông tuổi thơ” trẻ vẽ về cảnh dòng sông với những chiếc thuyền

“mẹ trồng rau” trẻ mô tả những hình ảnh, hành động của mẹ khi chăm sóc vườn rau;

“cô lao công quét rác” tả cảnh cô lao công ở trường bé học, hay “em và chị nhảy

dây” trẻ vẽ hình ảnh bé và chị của bé khi ở nhà.

+ Đặc điểm nội dung tranh vẽ

Tiêu chí này có số trẻ mức độ tưởng tượng sáng tạo ở loại trung bình chiếm

57%, cao chiếm 43%, và không có trẻ nào đạt ở mức độ thấp.

Nhìn chung, phần lớn trẻ thể hiện nội dung phù hợp với đề tài nhưng chưa

phong phú. Với các đề tài hầu như trẻ đều vẽ nhiều hơn một chi tiết chính và trẻ

thường thêm vào những chi tiết phụ quen thuộc được cô giáo đã giới thiệu qua những

tiết học vẽ trước như mặt đất, ông mặt trời, mây, cây cối, hoa, nhà…, cũng có một số

chi tiết mới nhưng rất ít.

Trong quá trình vẽ, một số trẻ thay đổi ý định vẽ của mình, đang vẽ vật này lại

đổi sang vật khác cho thấy tưởng tượng không chủ định vẫn còn tồn tại ở một số trẻ

mẫu giáo 5 – 6 tuổi. Một số trẻ nhìn bạn để vẽ chưa tập trung suy nghĩ hình ảnh thể

hiện. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên có đặt câu hỏi giúp trẻ gợi nhớ và tưởng

tượng tuy nhiên số lượng câu hỏi chưa nhiều, chưa sâu. Thực tế qua dự giờ, với

những đề tài quen thuộc trẻ nhanh nắm bắt đề tài, trẻ vẽ khá nhanh chóng và độc lập

trong khi vẽ không cần sự giúp đỡ của GV, mặc dù cô chỉ cho xem một vài tranh và

55

giới thiệu rất ngắn gọn nội dung tranh. Đối với các đề tài khó hơn thì hình ảnh tranh

vẽ rất lộn xộn và trong quá trình vẽ trẻ không thể nhanh chóng tạo ra sản phẩm, trẻ

rất hay hỏi cô và cần sự giúp đỡ của GV. Mặt khác, có những tiết dạy khi giới thiệu,

ổn định lớp xong giáo viên đàm thoại một vài câu hỏi liên quan đến chủ đề và sau đó

giáo viên gợi ý rất nhiều và yêu cầu trẻ vẽ gì thì vẽ, theo ý thích của mình mà chưa

giúp trẻ định hướng lại cần vẽ gì, phải vẽ như thế nào. Xuất phát từ lý do trên, nên

tranh vẽ của trẻ thường là sự lặp lại của những hình vẽ trước đó, chưa thể hiện được

sự sáng tạo đôi lúc cũng không phù hợp với đề tài. Trong các tiết này giáo viên có sử

dụng lời để hướng dẫn nhưng chủ yếu cũng chỉ là mô tả tranh và giao nhiệm vụ cho

trẻ thực hiện đề tài. Cô ít đặt câu hỏi gợi mở ý tưởng, hay cho trẻ đối chiếu, so

sánh…tìm cách tạo mẫu hình, sắp xếp bố cục mới lạ để làm tranh đẹp hơn.

Đây là một hạn chế khá lớn, bởi vì chính hệ thống câu hỏi sẽ giúp trẻ nhớ lại,

khắc sâu thêm các biểu tượng, và phát huy khả năng sáng tạo, từ đó trẻ có thể thể

hiện một bức tranh với những ý tưởng bất ngờ, thú vị và độc đáo. Bên cạnh đó, vốn

biểu tượng của trẻ được cung cấp chưa phong phú, giáo viên chưa khai thác triệt để

vốn kinh nghiệm của trẻ và thường xuyên hướng trẻ vào hình ảnh mẫu. Mặt khác, kĩ

năng vẽ của trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ muốn vẽ nhưng lại không biết cách vẽ, vì thế

khi vẽ trẻ khó tạo ra các hình ảnh mới.

Các chi tiết được mô tả ở một số tranh vẽ vẫn còn là những hình ảnh mang tính

liệt kê, rời rạc. Sự liên kết giữa các đối tượng thường được trẻ thể hiện trong trạng

thái đứng yên, không thể hiện được sự chuyển động của các sự vật.

+ Bố cục tranh vẽ

Với tiêu chí này, tỉ lệ trẻ có mức độ tưởng tượng sáng tạo ở loại trung bình

chiếm 83,8%, cao chiếm 16.2%, và không có trẻ nào đạt ở mức độ thấp. Điểm trung

bình của tiêu chí bố cục đạt ở mức độ trung bình. Trong các tiêu chí, tiêu chí bố cục

có điểm trung bình cao nhất.

Khảo sát hình vẽ của trẻ trong tranh và cả qua quá trình dự giờ cho thấy phần

lớn trẻ tranh vẽ của trẻ chưa thể hiện luật phối cảnh, khoảng 2/3 trẻ chưa chú ý đến

sự thể hiện được luật cao - thấp ví dụ trẻ vẽ hình người cao bằng với cái cây cổ thụ,

cây hoa…, trẻ chưa thể hiện luật xa - gần vì thế hầu như tranh vẽ đều thể hiện một

56

tầng cảnh, vì thế tranh vẽ của trẻ ít có chiều sâu. Tuy nhiên, gần như hầu hết trẻ đều

thể hiện quan hệ không gian trên - dưới trẻ biết vẽ đám mây, ông mặt trời, chim...

phía trên; cây cối, con người… phía dưới. Nhưng hình ảnh trong tranh vẽ còn mang

tính liệt kê dàn ngang ra cả trang giấy, trẻ thường vẽ một đường thẳng ngang từ trái

sang phải và vẽ những gì trẻ biết lên tất cả đường thẳng đó, có một số tranh vẽ bố cục

còn rất lộn xộn. Trẻ thường bắt tay vào là vẽ những nhân vật chính sau đó vẽ thêm

những chi tiết khác như phong cảnh… và ít chú ý đến việc phân chia bố cục nên

tranh vẽ của trẻ thường bị lệch trong bố cục.

+ Màu sắc tranh vẽ

Ở tiêu chí này, tưởng tượng sáng tạo của trẻ ở mức độ trung bình chiếm 67.6%,

cao chiếm 32.4%, và không có trẻ nào đạt ở mức độ thấp.

Qua trao đổi với giáo viên, dự giờ và quan sát thực tế, chúng tôi nhận thấy giáo

viên chỉ sử dụng các vật liệu được nhà trường cấp đầu năm, và vật liệu dùng để vẽ,

để tô màu thì chưa phong phú. Ở trường Mầm non Rạng Đông và Trúc Giang, giáo

viên cho trẻ vẽ và tô màu bằng bút màu sáp, rất ít khi sử dụng màu nước và vẽ trên

giấy hầu như không sử dụng các nguyên vật liệu khác. Đối với trường Hoa Dừa, Sen

Hồng nguyên vật liệu vẽ ngoài bút màu sáp có thêm màu nước và một số vật liệu hỗ

trợ khác nhưng ít. Vì thế, khi hoạt động sẽ làm giảm hứng thú của trẻ khi vẽ và

không phát huy được khả năng sáng tạo cho trẻ. Mặt khác, giáo viên chưa quan tâm

đến tác dụng của nguyên vật liệu đối với việc tạo ra hứng thú, phát huy khả năng

tưởng tượng sáng tạo ở trẻ.

Trẻ được hoàn toàn tự do lựa chọn màu sắc để vẽ theo ý mình. Tuy nhiên, phần

lớn khi tô màu trẻ thường dùng màu sắc quen thuộc như cây cối tô màu xanh, mặt đất

tô màu nâu, ông mặt trời tô màu đỏ… một số ít trẻ thể hiện được sự biến đổi màu sắc

của sự vật hiện tượng theo thời gian. Màu sắc trẻ sử dụng thì tươi sáng nhưng chưa

có sự phối hợp màu, số trẻ thể hiện phối hợp màu sắc để bài vẽ đẹp là rất hiếm.

+ Hình vẽ

Với tiêu chí này, tỉ lệ trẻ có mức độ tưởng tượng sáng tạo ở loại trung bình

chiếm 70.3%, cao chiếm 29.7%, và không có trẻ nào đạt ở mức độ thấp. Điểm trung

bình của tiêu chí hình vẽ ở mức độ trung bình.

57

Phân tích các tranh vẽ cho thấy chất lượng hình ảnh tưởng tượng sáng tạo của

trẻ thông qua hoạt động vẽ còn một số hạn chế. Có những sự vật, hiện tượng trẻ sử

dụng lại những biểu tượng mà trẻ đã tri giác, ít có sự cải biến hình ảnh sự vật theo ý

tưởng của trẻ chẳng hạn hầu như tất cả trẻ vẽ ông mặt trời là một hình tròn ở ngoài

có các tia thể hiện sự chiếu sáng, hay hình ảnh cây cối có sự rập khuôn một kiểu

mẫu. Ngược lại có một số trẻ có những ý tưởng độc đáo, ngộ nghĩnh, sự mới lạ trong

việc thể hiện đối tượng ví dụ như khi vẽ cánh đồng lúa trẻ vẽ nhiều bông lúa trên

cánh đồng, tuy nhiên số lượng trẻ thể hiện những điều này rất ít. Ngoài ra ở một số

tranh, trẻ cũng gợi lên những hình ảnh mới nhưng chưa biết cách thể hiện. Với đề tài:

“Vẽ người thân trong gia đình” có trẻ vẽ bà ngồi và ông đứng, nhưng hình ảnh của

ông và bà được trẻ vẽ giống như một người nam và nữ trẻ tuổi vì thế nhìn vào tranh

ta chỉ phân biệt được nam – nữ chứ khó phân biệt được lứa tuổi. Đây cũng là một

hạn chế bình thường của lứa tuổi.

Phần lớn chưa thể hiện các tư thế vận động, mặc dù một số trẻ trong tên tranh

vẽ có sự thể hiện hành động. Bên cạnh đó cũng có một số trẻ thể hiện được tư thế

vận động quen thuộc, đơn giản như giơ tay, nắm tay, cây nghiên theo gió. Ngoài ra,

có trẻ thể hiện những hành động phức tạp như gặt lúa, ngồi… nhưng rất ít.

Tóm lại, với kết quả trên thì khả năng sáng tạo của trẻ ở các trường mầm non chỉ

đạt ở mức độ trung bình. Điều này phù hợp một cách ngẫu nhiên với sự đánh giá chất

lượng của từng trường. Sự nổi trội của trường Sen Hồng và Hoa Dừa trên tất cả các tiêu

chí so với hai trường còn lại. Điều này cũng dễ lý giải vì hai trường này đều được công

nhận đạt chuẩn quốc gia khá lâu và là trường điểm của TP Bến Tre, được đầu tư cơ sở

vật chất khá tốt, trang thiết bị dạy học hiện đại, đặc biệt là đội ngũ giáo viên phụ trách có

trình độ chuyên môn nghiệp vụ và thâm niên công tác lâu năm.

58

Tiểu kết chương 2

Qua nghiên cứu thực trạng có thể rút ra một số tiểu kết sau:

- Giáo viên đều nhận thấy việc phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ MG 5 – 6 tuổi

trong HĐVTYT là rất cần thiết đối với sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Giáo viên

cũng nắm được các biểu hiện sáng tạo của trẻ qua tranh vẽ cũng như sử dụng một số

biện pháp để phát huy khả năng sáng tạo cho trẻ. Tuy nhiên, trên giờ học HĐVTYT

chưa sinh động, giáo viên chưa chú ý và chưa tạo nhiều cơ hội sáng tạo cho trẻ nên vô

tình đã làm hạn chế khả năng sáng tạo của trẻ. Với những khó khăn và nguyện vọng

được đề xuất trong việc phát triển khả năng cho trẻ sáng tạo trong HĐVTYT, thì hầu hết

giáo viên đều mong muốn có thêm thời gian để trẻ được thoải mái tạo ra sản phẩm, có

thên nhiều nguồn tài liệu về phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ và cung cấp nhiều hơn

những nguyên vật liệu tạo hình để trẻ có điều kiện sáng tạo.

- Giáo viên có soạn đầy đủ giáo án, nội dung dạy đúng theo quy định, khi lên

tiết dạy, có đồ dùng, đồ chơi… Giáo viên cũng sử dụng những câu hỏi đàm thoại, hỏi

ý định của trẻ để giúp trẻ hiểu rõ về nội dung của đề tài. Tuy nhiên, trong giờ học

hoàn toàn làm theo yêu cầu của cô và không có sự khởi sướng từ trẻ, điều này vô tình

đã làm hạn chế khả năng sáng tạo của trẻ. Đôi khi GV còn áp đặt trẻ vẽ như: con hãy

vẽ thêm cây, ông mặt trời, hoa cho tranh con đẹp ... Khi nhận xét tranh cô cũng chỉ

tuyên dương trẻ có tranh đẹp, chưa quan tâm nhiều đến những tranh có yếu tố sáng

tạo và những tranh chưa đạt yêu cầu.

- Khả năng sáng tạo qua tranh vẽ của trẻ đạt ở mức độ trung bình, rất ít trẻ có

sáng tạo trong HĐVTYT. Nguyên nhân chủ yếu chính là cách tổ chức và hướng dẫn

HĐVTYT của cô chưa gợi cho trẻ biết cách thể hiện tranh vẽ sao cho sinh động và

sáng tạo, kỹ năng tạo hình của trẻ còn hạn chế. Giáo viên chỉ tập trung sử dụng các

phương pháp dạy học đặc trưng trong hoạt động tạo hình nói chung, ít mang đặc thù

của HĐVTYT, cũng như chưa có những biện pháp tích cực, thích hợp để tạo cơ hội

cho trẻ được sáng tạo trong quá trình tạo ra sản phẩm.

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu thực trạng, đề xuất biện pháp tác động phù hợp

khắc phục những hạn chế trên chính là những giải pháp tích cực nhằm nâng cao chất

lượng hoạt động vẽ nói chung ở các trường mầm non và cũng là giải pháp tích cực

nhằm phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong HĐVTYT.

59

Chương 3. ĐỀ XUẤT VÀ THỬ NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG SÁNG TẠO

CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI

TRONG HOẠT ĐỘNG VẼ THEO Ý THÍCH

3.1. Một số biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi

trong hoạt động vẽ theo ý thích

3.1.1. Cơ sở đề xuất biện pháp

- Cơ sở lý luận: Ở lứa tuổi mầm non, sáng tạo xuất hiện rất sớm và biểu hiện

nhiều nhất qua hoạt động tạo hình. Khả năng này càng phát triển mạnh mẽ hơn khi

trẻ bước sang tuổi mẫu giáo, nhất là trẻ ở 5 – 6 tuổi. Muốn phát triển sáng tạo đòi hỏi

trẻ phải có những điều kiện nhất định mà quan trọng nhất đó chính là giáo dục. Nếu

được giáo dục đúng đắn thì khả năng này sẽ phát triển ở trẻ tốt hơn và ngược lại khả

năng này sẽ bị hạn chế.

- Cơ sở thực tế: Từ nhận thức của giáo viên mầm non về khả năng sáng tạo của

trẻ trong HĐVTYT và kết quả khảo sát thực trạng việc dạy học trên ở một số trường

mầm non, chúng tôi đề xuất và thử nghiệm một số biện pháp nhằm hỗ trợ cho các

giáo viên mầm non cách thức tổ chức HĐVTYT để phát triển khả năng sáng tạo

trong hoạt động VTYT cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi.

3.1.2. Nguyên tắc vận dụng các biện pháp

+ Đảm bảo mục tiêu giáo dục mầm non đó là“Giúp trẻ phát triển về thể chất,

tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị

cho trẻ em vào lớp một”. Đồng thời phải phù hợp với nội dung chương trình chăm

sóc – giáo dục trẻ hiện nay.

+ Đảm bảo nguyên tắc “Lấy trẻ làm trung tâm”. Giáo viên tổ chức HĐVTYT

trong giờ học và mọi lúc mọi nơi phải linh hoạt, xuất phát từ nhu cầu, kinh nghiệm của

trẻ và phải phù hợp với đặc điểm từng cá nhân, nhằm giúp mỗi trẻ phát huy tối đa tiềm

năng sẳn có để cho trẻ phát triển khả năng sáng tạo. Mặt khác, GV cần phải phải dựa

trên nguyên tắc tôn trọng trẻ, kích thích trẻ tưởng tượng khi VTYT. Khuyến khích sự

60

tìm tòi khám phá ở trẻ, giúp trẻ tự tìm kiếm, thể hiện tình cảm, năng lực của mình một

cách tự do, sáng tạo chứ không phải đơn thuần là sự sao chép máy móc, bắt chước.

+ Đảm bảo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn về vấn đề nghiên cứu

Nội dung hoạt động tạo hình nói chung và HĐVTYT nói riêng phải gần gũi,

quen thuộc trong cuộc sống của trẻ, phù hợp với xúc cảm, tình cảm của trẻ. Ngoài

những nội dung mà trẻ được trải nghiệm GV cần tạo nhiều cơ hội cho trẻ biết về

những sự vật hiện tượng mà trẻ khó có điều kiện tiếp xúc thông qua các hình tượng

nghệ thuật và các phương tiện thông tin mang tính tạo hình khác để giúp trẻ tích lũy

vốn biểu tượng. Đây cũng là yếu tố giúp phát triển khả năng sáng tạo nơi trẻ.

+ Đảm bảo nguyên tắc tích hợp, linh hoạt, sáng tạo và có yêu cầu ngày càng

cao đòi hỏi trẻ phải nỗ lực cố gắng khi tham gia HĐVTYT.

Hoạt động tạo hình nói chung và HĐVTYT nói riêng là hoạt động giúp trẻ phát

triển tính sáng tạo. Khi GV tổ chức cho trẻ tạo hình, trẻ không chỉ được tạo ra sản

phẩm mà còn có thể học thông qua hoạt động này. Bên cạnh đó còn giúp trẻ cũng cố,

trải nghiệm những kiến thức mà trẻ đã học, vừa giúp trẻ thực hành, được sáng tạo

theo cách riêng của chúng.

HĐTH là hoạt động tích hợp của nhiều hoạt động giáo dục khác như: thể chất,

ngôn ngữ, tình cảm – xã hội, nhận thức và chuẩn bị cho trẻ vào trường phổ thông. Do

vậy, khi tổ chức giờ học VTYT cần lập kế hoạch, phối hợp nhiều biện pháp khác nhau

để gây hứng thú làm trẻ nhàm chán. Hoặc giáo viên có thể tạo ra sự thay đổi bằng cách

cho trẻ được tiếp xúc với nhiều NVL vẽ khác nhau như màu nước, màu bột, màu sáp,

màu từ rau - củ - quả … giúp trẻ được tự do tưởng tượng, sáng tạo và tạo ra sản phẩm

cho mình.

+ Đảm bảo tính khả thi, phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường, địa phương.

Tóm lại, các nguyên tắc trên là những cơ sở khoa học để giúp chúng tôi đề xuất

một số biện pháp nhằm phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong

HĐVTYT.

3.1.3. Đề xuất một số biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu

giáo 5- 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích

Biện pháp 1: Tổ chức cho trẻ tri giác học cụ trực quan

61

a . Mục đích

- Tăng vốn biểu tượng của trẻ về đối tượng sắp vẽ, kích thích các xúc cảm, tình

cảm với cái đẹp - cái xấu, cái thiện - cái ác, cái đúng - cái sai và giúp trẻ ghi nhớ,

hình thành biểu tượng.

- Phân tích, so sánh, tổng hợp tìm ra đặc điểm đặc trưng của từng đối tượng.

- Rèn luyện cho trẻ khả năng cảm thụ thẩm mỹ, biết rung động trước cái đẹp

của cuộc sống xung quanh.

- Hình thành tưởng tượng sáng tạo của trẻ.

b. Nội dung

- Sử dụng đa dạng và hiệu quả các học cụ trực quan như vật thật, hình minh họa

(tranh phiên bản các tác phẩm nghệ thuật hội họa, đồ họa; tranh minh họa của các

sách truyện kể của thiếu nhi; ảnh chụp các sản phẩm nghệ thuật, phong cảnh thiên

nhiên …

- Sử dụng hình vẽ mẫu của cô trên bảng, trên giấy, hình mẫu của trẻ, các tác

phẩm điêu khắc nhỏ, các đoạn video có liên quan, các mô hình.

- Hướng dẫn trẻ quan sát có định hướng và nhận ra những đặc tính riêng, những

biến đổi bên ngoài các biểu tượng như đường nét, hình dáng, màu sắc, sự chuyển

động và bố cục không gian.

- Tổ chức cho trẻ quan sát và nhắc lại với nội dung được nâng cao hơn. Dạy trẻ

tích cực tri giác so sánh, tổng hợp các chi tiết, chú ý sự khác nhau của vật này với vật

khác.

- Gợi cho trẻ hình thành ý tưởng và lập kế hoạch cho hoạt động vẽ ngay trong

hoặc sau khi quan sát, gợi ý cho trẻ suy nghĩ sẽ chọn vật liệu nào để vẽ và sẽ thể hiện

ra sao theo cách suy nghĩ riêng của trẻ.

c. Yêu cầu

- Học cụ trực quan phải đẹp, mang lại niềm vui, sự ngạc nhiên thán phục

cho trẻ.

- Học cụ trực quan nên để ở một vị trí tất cả trẻ đều nhìn thấy và dễ quan sát .

- Hướng dẫn trẻ tri giác có mục đích, có chọn lọc.

- Tạo điều kiện để trẻ vận dụng tất cả các giác quan vào quá trình tri giác.

62

- Xây dựng hệ thống câu hỏi, sử dụng ngôn ngữ biểu cảm trong quá trình

cho trẻ tri giác đối tượng

d. Cách tiến hành

* Quá trình tổ chức tri giác cho trẻ gồm 4 bước:

Bước 1: Cho trẻ tri giác một cách toàn diện (GV giới thiệu đối tượng nói chung).

Bước 2: Phân tích các đặc điểm của đối tượng (hình dáng, màu sắc, kích thước).

Bước 3: Xác định vị trí của vật trong không gian.

Bước 4: Tri giác lại toàn bộ sự vật.

Biện pháp 2: Giúp trẻ luyện tập kỹ năng vẽ theo ý thích

a. Mục đích

- Củng cố các kỹ năng vẽ cho trẻ như:

+ Củng cố kỹ năng sử dụng các đường nét vẽ: nét cong, nét thẳng đứng, nét

thẳng ngang, nét xiên, nét gấp khúc … kỹ năng vẽ các hình học (hình vuông, tròn,

tam giác, chữ nhật …) giúp trẻ thể hiện các đường nét một cách liền mạch, uyển

chuyển, mềm mại, để miêu tả tính trọn vẹn về hình dạng đối tượng.

+ Củng cố kỹ năng tạo bố cục, giúp trẻ sắp xếp các hình tượng trên trang giấy

sao cho các đồ vật, sự việc quan hệ liên kết với nhau tạo nên nội dung chủ đề, sự

thay đổi vị trí các bộ phận của đối tượng khi chúng chuyển động.

+ Củng cố kỹ năng tô màu, kỹ năng nhận biết các màu sắc cơ bản, linh hoạt

trong việc tạo ra các bước chuyển màu, phối màu để tạo nên hiệu quả thẩm mỹ khác

nhau và thể hiện suy nghĩ, tình cảm của mình (VD: màu xanh non của lá mạ, màu

xanh đậm của bụi cây, màu của bầu trời trong những thời điểm khác nhau …)

- Rèn luyện kỹ năng cầm bút, tư thế ngồi và rèn luyện khả năng khéo, linh hoạt

của đôi bàn tay.

- Giúp trẻ hứng thú, tích cực đối với hoạt động vẽ.

b. Nội dung

- Tổ chức một số bài tập vẽ nhằm củng cố kỹ năng vẽ đường nét, bố cục, màu

sắc cho trẻ theo một số chủ điểm: vườn cây của Ba, ước mơ của Hoa, nhà nhiếp ảnh

tài ba, mèo qua sông (Phụ lục 4).

63

- Tổ chức trò chơi giúp trẻ rèn luyện kỹ năng vẽ, tô màu, pha màu, tạo bố cục

như: xếp hình, sự biến đổi của màu sắc, ai khéo thế, thi ai vẽ nhanh - vẽ đẹp, ai

nhanh - ai khéo (Phụ lục 5).

c. Yêu cầu

- Các bài tập, trò chơi phải phù hợp với khả năng của trẻ.

- Sử dụng nguyên vật liệu, đồ dùng phải đa dạng, phong phú và an toàn.

- Trẻ phải thể hiện được đặc điểm cơ bản và nét đẹp riêng của đối tượng dựa

vào các đường nét đã học trước đó phù hợp với bài tập, trò chơi.

- Trẻ tạo được bố cục tranh vẽ hợp lý, thể hiện được sự chuyển động của đối

tượng.

- Trẻ biết sử dụng màu nước và pha màu từ ba màu gốc, tô màu đúng quy định

(tô từ trái sáng phải hoặc từ trên xuống dưới), tô màu mịn, không lem ra ngoài, tô kín

đối tượng.

- Thời gian thực hiện bài tập, trò chơi khoảng 35 - 40 phút.

- Chia nhóm nhỏ trong quá trình trẻ vẽ.

- Động viên, khuyến khích trẻ, giúp đỡ khi cần thiết, GV tổ chức thi đua ở các

nhóm để tăng sức hấp dẫn của bài tập, trò chơi.

- Không áp đặt mà để trẻ tự do sáng tạo theo suy nghĩ riêng của trẻ.

d. Cách thực hiện

Bước 1: Giáo viên nêu tên bài tập, tên trò chơi.

Bước 2: Trò chuyện với trẻ về nội dung bài tập; cách chơi trò chơi. Đàm thoại về

hình dáng, bố cục, màu sắc, sự chuyển động của đối tượng. Các kỹ năng vẽ và tô màu.

Ví dụ: bài tập Vườn của Ba GV đàm thoại:

- Vườn của Ba sẽ mọc những loại cây xanh, hoa, rau gì?

- Nó có đặc điểm như thế nào? Có màu gì?

- Con dùng kỹ năng gì để vẽ cây, hoa, lá?

- Khi có gió cây, hoa, lá sẽ như thế nào?

- Con còn vẽ gì nữa cho tranh con đẹp hơn? (Các chi tiết phụ)

- Con sẽ tô màu nào cho cây, hoa, lá?

* Hỏi trẻ cách cầm bút, tư thế ngồi trước khi vào bàn để vẽ

64

Ví dụ: Trò chơi Sự biến đổi màu sắc, GV đàm thoại:

- Các con có những màu nước nào? (xanh lam, đỏ, vàng)

- Màu xanh pha với màu đỏ; màu đỏ pha với màu vàng; Xanh pha với màu

vàng … sẽ ra màu gì?

- Với những màu sắc đó con sẽ vẽ gì?

- Con dùng kỹ năng gì để vẽ?

- Con sẽ vẽ thêm gì cho tranh của con?

- Con sẽ tô màu gì? Con tô như thế nào?

* Gợi ý trẻ sắp xếp bố cục trên - dưới, xa - gần và sự chuyển động của sự vật.

Bước 3: Trẻ thực hiện theo nhóm, cô quan sát giúp đỡ trẻ (chú ý về hình dạng,

bố cục, màu sắc), động viên, khích lệ. Đưa ra hình thức thi đua để kích thích hứng

thú trong quá trình hoạt động.

Bước 4: Nhận xét, tuyên dương, khen ngợi các sản phẩm.

Biện pháp 3: Tạo môi trường tốt cho trẻ trong hoạt động vẽ theo ý thích

a. Mục đích

- Tạo môi trường tâm lý thoải mái, chia sẻ và cởi mở: giúp trẻ có sự an toàn về

tâm lý, trẻ sẽ cảm thấy hứng thú, tích cực say mê như là đang chơi, sáng tạo

- Tổ chức môi trường vật chất đa dạng: trang bị dụng cụ, nguyên liệu phong

phú khi thực hiện HĐVTYT sẽ giúp trẻ có nhiều điều kiện thể hiện, góp phần nâng

cao hứng thú là tiền đề vững chắc giúp trẻ thỏa sức sáng tạo

b. Nội dung

- Giáo viên không la rầy, bắt buộc trẻ vẽ theo ý của giáo viên. Nên động viên,

khuyến khích trẻ thực hiện, tạo điều kiện cho trẻ vận dụng những hiểu biết để thể hiện ý

tưởng của mình, mỗi hướng dẫn của cô phải dựa trên ý tưởng và khả năng của từng trẻ.

- GV sưu tầm, tìm kiếm các nguyên vật liệu đa dạng, phong phú như: màu

nước, bút sáp, bút chì màu, bút lông, màu từ rau củ, phấn màu…và các nguyên vật

liệu hỗ trợ khác nhau.

- Giáo viên tạo một góc cho trẻ trưng bày các sản phẩm để giúp khơi dậy niềm

vui khi sáng tạo, khuyến khích trẻ thể hiện hơn nữa những ý tưởng của mình.

65

c. Yêu cầu

Môi trường tâm lý

- GV cần tạo tâm lý vui tươi, thoải mái cho trẻ khi tham gia hoạt động.

- GV quan tâm, động viên, khuyến khích trẻ vẽ.

- GV hướng dẫn trẻ hợp tác, hòa đồng, luôn chia sẽ và giúp đỡ lẫn nhau để hoàn

thành nhiệm vụ.

Môi trường vật chất

- Bố trí góc HĐTH trong lớp học sao cho hấp dẫn, nổi bật và thu hút sự chú ý

của trẻ.

- Cách sắp xếp, bài trí trong góc tạo hình sao cho trẻ dễ thấy, lấy dễ dàng để

thực hiện HĐVTYT và có thể tự trưng bày sản phẩm của mình

- Các nguyên vật liệu cần đảm bảo an toàn, rẻ tiền, dễ kiếm, dễ bảo quản, dễ

cầm và dễ sửa chữa.

- Mỗi nguyên vật liệu, dụng cụ cần để riêng, có ghi tên hoặc ký hiệu cho trẻ dễ

nhận biết, dễ lựa chọn khi sử dụng.

d. Cách thức tiến hành

Bước 1: Chọn đề tài phù hợp, trang bị đầy đủ dụng cụ, đồ dùng và phong phú

nguyên vật liệu để trẻ có điều kiện thể hiện ý tưởng một cách sáng tạo.

Bước 2: Giáo viên phải thử tạo hình bằng các NVL mà mình sẽ cung cấp và

phải đảm bảo không quá khó cho trẻ sử dụng.

Bước 3: Giáo viên sử dụng những tình huống bất ngờ, câu hỏi gợi mở, mô tả

những NVL một cách sinh động để thu hút sự chú ý tò mò khám phá, nhằm kích

thích trí tưởng tượng của trẻ.

Bước 4: Chia nhóm nhỏ cho trẻ thực hiện, động viên, khuyến khích trẻ tìm

kiếm, đưa ra ý tưởng mới lạ về những sản phẩm tạo hình. Mọi ý kiến, dự định trẻ đưa

ra đều được động viên, khen ngợi, khuyến khích thể hiện.

Bước 5: Nhận xét sản phẩm (các sản phẩm của trẻ thực hiện cũng phải được

công nhận và coi trọng, đặc biệt không được chê những sản phẩm chưa đẹp hoặc

chưa hoàn chỉnh).

66

3.2. Thử nghiệm một số biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu

giáo 5- 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích

3.2.1. Khái quát về tổ chức thử nghiệm

3.2.1.1. Mục đích thử nghiệm

Thử nghiệm nhằm để kiểm chứng hiệu quả thực tế một số biện pháp được đề

xuất nhằm phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi trong hoạt động vẽ

theo ý thích và kiểm định lại giả thuyết khoa học đã đưa ra.

3.2.1.2. Đối tượng thử nghiệm

Tiến hành thử nghiệm ở 2 lớp lá của trường Mầm non Rạng Đông

Lớp Lá 3: lớp đối chứng (ĐC)

Lớp Lá 4: lớp thực nghiệm (TN)

Số trẻ ở mỗi lớp là 30 cháu, được chọn ngẫu nhiên theo danh sách của giáo

viên trong lớp cung cấp.

3.2.1.3. Nội dung thử nghiệm

Thử nghiệm được tiến hành bằng cách vận dụng phối hợp đồng bộ các biện pháp:

Tổ chức cho trẻ tri giác học cụ trực quan.

Giúp trẻ luyện tập kỹ năng vẽ theo ý thích.

Tạo môi trường tốt cho trẻ trong hoạt động vẽ theo ý thích.

Áp dụng các biện pháp đã nêu ở nhóm thử nghiệm thông qua các đề tài vẽ

theo ý thích sau:

- Vẽ tự do (Chủ điểm: Thực vật).

- Vẽ tự do (Chủ điểm: Phương tiện giao thông).

- Vẽ tự do (Chủ điểm: Động vật).

- Vẽ theo truyện bé yêu thích.

Lớp đối chứng cũng vẽ các đề tài trên nhưng không thử nghiệm các biện pháp.

Trong mỗi buổi tổ chức hoạt động vẽ cho trẻ, chúng tôi tiến hành phối hợp một

cách linh hoạt các biện pháp đề xuất trong nghiên cứu này nhằm nâng cao khả năng

sáng tạo cho trẻ. Cụ thể:

67

HĐVTYT 1: Vẽ tự do (Chủ đề: Thực vật)

Biện pháp 1: Tổ chức cho trẻ tiếp xúc với các loại thực vật (loại rau, củ, quả,

hoa, cây xanh) đa dạng và phong phú

- GV cho trẻ xem vật thật, đồ dùng - đồ chơi (các loại hoa, rau, của, quả, cây

xanh được làm bằng must, nhựa), tranh, ảnh, mô hình, video về các loại thực vật

khác nhau … Các tranh, ảnh phải thể hiện một đối tượng hay nhiều đối tượng và có

sắp xếp bố cục khác nhau.

- GV đàm thoại giúp trẻ nhận ra những đặc điểm giống và khác nhau của đối

tượng với nhiều kiểu dáng, kích thước, màu sắc, bố cục, sự chuyển động. Kích thích

trẻ ngắm nhìn, thưởng thức, cảm nhận vẽ đẹp trong mỗi sự vật, tranh, ảnh và giúp trẻ

khắc sâu các biểu tượng. Cô nên gợi ý, hỏi trẻ xem “nếu con vẽ rau, củ, quả, hoa,

hoặc vườn hoa, vườn cây… con sẽ vẽ gì ? vẽ như thế nào?” giúp trẻ tưởng tượng,

sáng tạo đồng thời giúp trẻ nhớ lại các kỹ năng vẽ.

- Quá trình tri giác này được tiến hành qua các hoạt động khám phá khoa học,

âm nhạc, làm quen văn học hoặc vào một thời điểm khác ở những ngày trước đó.

Biện pháp 2: Giúp trẻ luyện tập kỹ năng vẽ theo ý thích qua bài tập, trò chơi, vẽ

tự do

- Giáo viên cho trẻ thực hiện bài tập vẽ nhằm cũng cố kỹ năng vẽ và phát triển

trí tưởng tượng cho trẻ: Vườn của Ba.

- GV cho trẻ chơi nhiều trò chơi nhằm cũng cố kỹ năng vẽ các đường nét, các

dạng hình học, màu sắc, bố cục cho trẻ như: xếp hình, sự biến đổi của màu sắc, ai

khéo thế, thi ai vẽ nhanh - vẽ đẹp, ai nhanh - ai khéo.

+ Chuẩn bị đồ dùng, nguyên vật liệu cho bài tập, trò chơi.

+ GV giới thiệu tên bài tập, trò chơi.

+ Đàm thoại với trẻ về bài tập, trò chơi

+ Cho trẻ thực hiện sản phẩm theo nhóm, đối với trò chơi GV phổ biến cách

chơi và cho trẻ thực hiện. GV quan sát, động viên, khuyến khích trẻ.

+ Cô nhận xét, tuyên dương kết quả của trẻ.

Biện pháp 3: Tạo môi trường an toàn về tâm lý và đa dạng về vật liệu

68

- GV trang trí lớp học sao cho ấn tượng, hấp dẫn trẻ như: nhiều các loại rau, củ,

quả, các loại hoa, cây xanh … bằng nhiều vật liệu khác nhau; tranh, mô hình vườn

cây, vườn hoa, vườn rau …GV cùng trẻ làm sách tranh để ở góc thư viện, một số đồ

dùng bằng nhựa, must trang trí góc xây dựng hoặc góc phân vai, tranh ảnh treo hoặc

dán lên tường, mô hình để xung quanh lớp học.

- GV tạo tình huống gây bất ngờ, hứng thú cho trẻ như: Các con có thấy lớp

chúng ta hôm nay đẹp không? Tại sao? Cho trẻ quan sát và giải thích. Sau đó cô gợi

mở, dẫn dắt cho trẻ tri giác các đồ dùng, đồ chơi, tranh, mô hình có trong lớp học,

đàm thoại về đặc điểm của các đối tượng. Sau đó dẫn dắt trẻ vào hoạt động vẽ.

- Để trẻ vẽ đẹp và phát huy tính sáng tạo GV chuẩn bị đa dạng vật liệu vẽ như

sáp màu, màu nước, bút lông, bút chì màu, bút kim tuyến nhiều màu sắc, bút dạ; các

nguyên vật liệu hỗ trợ: dây, bông gòn, kim sa để trẻ sáng tạo thêm cho mẫu hình. (Ví

dụ: Trẻ dùng dây để viền cho cây, cho quả, ao, hồ hay trẻ có thể lấy tăm bông nhúng

vào màu nước, kim sa làm quả cho cây hoặc làm bông hoa)

- Trẻ tự do chọn vật liệu mà trẻ thích và vào bàn hoạt động vẽ trong không gian

sạch sẽ, thoáng mát của lớp học. Cô xếp bàn thành 5 nhóm, mỗi nhóm 6 trẻ hoặc cho

trẻ ngồi dưới sàn nhà theo nhóm, mỗi trẻ đều có không gian hoạt động vẽ rất thoải

mái nhưng không tách rời bạn.

- Trong suốt quá trình trẻ vẽ, cô nên vui vẻ động viên, khuyến khích sự sáng tạo

của trẻ, gợi ý và hỗ trợ trẻ khi cần thiết nhất là những trẻ yếu. Trẻ được tự do trò

chuyện với nhau về đề tài đang thực hiện trong trật tự, đảm bảo không làm ảnh

hưởng đến các bạn xung quanh. Cho các nhóm thi đua nhau để gây thêm hứng thú,

tích cực ở trẻ.

- Kết thúc hoạt động cô cho trưng bày sản phẩm theo từng nhóm. GV cho các

nhóm nhận xét tranh lẫn nhau và cô dùng lời mô tả, dẫn dắt trẻ thưởng thức, ngắm

nhìn kết quả mà trẻ đạt được.

HĐVTYT 2: Vẽ tự do (Chủ điểm: Phương tiện giao thông)

Biện pháp 1: Tổ chức cho trẻ tiếp xúc với các phương tiện giao thông đa dạng

về chủng loại và hình thức nhằm làm giàu vốn biểu tượng.

69

- Giáo viên đưa trẻ đi quan sát mô hình các PTGT đường bộ, đường thủy,

đường hàng không có trong sân trường; cho trẻ xem các đoạn video về các phương

tiện đang hoạt động; mua các loại PT như: xe máy, xe ôtô, xe khách, tàu thủy, ca nô,

thuyền thúng, xuồng, máy bay, trực thăng bằng nhựa, gỗ, gáo dừa… trang trí trong

lớp học; cùng trẻ sưu tầm và cắt những tranh, ảnh chụp, lịch làm album hoặc sách

tranh để ở góc thư viện; treo một số tranh vẽ PTGT ở góc tạo hình, cho trẻ xem các

tác phẩm nghệ thuật. Giáo viên cùng trẻ trao đổi về đặc điểm của các phương tiện

(hình dáng, màu sắc, kích thước, bố cục, sự chuyển động) qua các hoạt động như

khám phá khoa học, âm nhạc, làm quen với tác phẩm văn học, những giờ hoạt động

tự do trong những ngày trước đó.

- Trong quá trình đàm thoại GV hỏi trẻ đã thấy những PTGT nào? Cho trẻ kể

lại các phương tiện trẻ biết? Yêu cầu trẻ tưởng tượng với những phương tiện đó trẻ

sẽ dùng kỹ năng nào để vẽ? GV động viên, khích lệ để trẻ phát huy trí tưởng tượng,

sáng tạo.

- Quá trình tri giác này được tiến hành qua các hoạt động khám phá khoa học,

âm nhạc, làm quen văn học hoặc vào một thời điểm khác ở những ngày trước đó.

Biện pháp 2: Giúp trẻ luyện tập kỹ năng vẽ theo ý thích qua bài tập, trò chơi

- Giáo viên cho trẻ thực hiện bài tập vẽ nhằm cũng cố kỹ năng vẽ và phát triển

trí tưởng tượng cho trẻ: Thỏ qua sông.

- GV cho trẻ chơi nhiều trò chơi nhằm cũng cố kỹ năng vẽ các đường nét, các

dạng hình học, màu sắc, bố cục cho trẻ như: xếp hình, sự biến đổi của màu sắc, ai

khéo thế, thi ai vẽ nhanh - vẽ đẹp, ai nhanh - ai khéo.

+ Chuẩn bị đồ dùng, nguyên vật liệu cho bài tập, trò chơi.

+ GV giới thiệu tên bài tập, trò chơi.

+ Đàm thoại với trẻ về bài tập, trò chơi.

+ Cho trẻ thực hiện sản phẩm theo nhóm, đối với trò chơi GV phổ biến cách

chơi và cho trẻ thực hiện. GV quan sát, động viên, khuyến khích trẻ.

+ Cô nhận xét, tuyên dương kết quả của trẻ.

Biện pháp 3: Tạo môi trường an toàn về tâm lý và đa dạng về vật liệu

70

- GV chuẩn bị đa dạng các nguyên vật liệu cho trẻ hoạt động như: màu nước,

bút lông, bút chì màu, bút kim tuyến nhiều màu sắc, bút dạ; giấy nhiều loại, nhiều

màu sắc cho trẻ vẽ; các nguyên vật liệu hỗ trợ: hồ dán, kéo, băng keo dán, bông gòn,

tăm tre, kim sa, lá cây, nút áo nhiều loại … để trẻ sáng tạo thêm cho mẫu hình. (vd:

trẻ đùng lá cây làm cánh bườm, kim sa để làm mắt của thuyền, nút áo làm bánh xe

hoặc cửa sổ).

- GV tạo tình huống hấp dẫn, lôi cuốn trẻ vào hoạt động như Bác nông dân vừa

mới thu hoạch rất nhiều rau, củ, trái cây nhưng Bác không có phương tiện vận

chuyển về. Nhà Bác ở rất xa khu vườn phải qua đoạn đường quanh co và qua rất

nhiều con sông. Các con giúp Bác nhé.

- Nhiệm vụ đặt ra là cô sử dụng câu hỏi để tìm hiểu các ý tưởng của trẻ, nêu

một vài đặc điểm về các phương tiện mà trẻ muốn thể hiện, cách trình bày, bối cảnh.

Giáo viên chấp nhận những câu trả lời của trẻ và đưa ra lời khen ngợi đối với những

ý tưởng mới lạ.

- Trẻ vào bàn thực hiện theo nhóm và có thể tự do lựa chọn vật liệu; quan sát,

trao đổi kinh nghiệm giải bày cảm xúc với bạn. Để tránh tình trạng mất trật tự, kéo

dài thời gian giáo viên đưa ra qui định cụ thể như chỉ được trao đổi, quan sát các bạn

cùng nhóm và đưa ra hình thức thi đua giữa các nhóm.

- Cô nên khích lệ, động viên, vui vẻ với trẻ, tạo cho trẻ tâm lý thoải mái trong

quá trình hoạt động.

- Sau khi trẻ hoàn thành sản phẩm, giáo viên cùng trẻ nhận xét. Giáo viên dùng

biện pháp mô tả, dẫn dắt để trẻ cảm nhận vẻ đẹp của tranh vẽ và nhận ra những thiếu

sót hoặc chưa đẹp, chưa hoàn chỉnh trong tranh vẽ của trẻ. Sau đó, cô cho trẻ mang

các phương tiện đến tặng cho Bác nông dân.

HĐVTYT 3: Vẽ tự do (Chủ điểm: Động vật)

Biện pháp 1: Tổ chức cho trẻ tiếp xúc với các loài động vật đa dạng phong phú

qua các học cụ trực quan.

- GV cho trẻ xem các loại động vật sống trong gia đình, trong rừng, dưới nước,

chim, côn trùng bằng nhiều nguyên vật liệu khác nhau, tranh, ảnh, mô hình, video về

các loại động vật … các đối tượng phải đa dạng về hình dạng, màu sắc, kích thước;

71

cho trẻ xem tranh, ảnh, mô hình, video về các động vật, nhiều nơi sống khác nhau

(VD: cho xem tranh, video về thỏ sống trong gia đình được nuôi trong chuồng, thỏ

sống trong rừng hoặc ở sở thú …).

- GV tạo tình huống, câu đố, câu hỏi đàm thoại để giúp trẻ nhận ra những đặc

điểm của đối tượng với nhiều kiểu dáng, kích thước, màu sắc, bố cục, sự chuyển

động khác nhau. Kích thích trẻ ngắm nhìn, thưởng thức, cảm nhận vẻ đẹp ở các con

vật, cảm nhận cái đẹp, thẩm mỹ qua tranh, ảnh và giúp trẻ khắc sâu các biểu tượng.

Cô nên gợi ý, hỏi trẻ xem “Con thích con vật nào nhất? Con có thích vẽ nó không?

Con sẽ vẽ như thế nào? Tô màu, bố cục tranh ra sao? …” để giúp trẻ tưởng tượng,

sáng tạo đồng thời giúp trẻ nhớ lại các kỹ năng vẽ.

- Quá trình tri giác này được tiến hành qua các hoạt động khám phá khoa học,

âm nhạc, làm quen văn học hoặc vào một thời điểm khác ở những ngày trước đó.

Biện pháp 2: Giúp trẻ luyện tập kỹ năng vẽ theo ý thích qua bài tập, trò chơi

- Giáo viên cho trẻ thực hiện bài tập vẽ nhằm cũng cố kỹ năng vẽ và phát

triển trí tưởng tượng cho trẻ: Nhà nhiếp ảnh tài ba.

- GV cho trẻ chơi nhiều trò chơi nhằm cũng cố kỹ năng vẽ các đường nét, các

dạng hình học, màu sắc, bố cục cho trẻ như: xếp hình, sự biến đổi của màu sắc, ai

khéo thế, thi ai vẽ nhanh - vẽ đẹp, ai nhanh - ai khéo.

+ Chuẩn bị đồ dùng, nguyên vật liệu cho bài tập, trò chơi.

+ GV giới thiệu tên bài tập, trò chơi.

+ Đàm thoại với trẻ về bài tập, trò chơi.

+ Cho trẻ thực hiện sản phẩm theo nhóm, đối với trò chơi GV phổ biến cách

chơi và cho trẻ thực hiện. GV quan sát, động viên, khuyến khích trẻ.

+ Cô nhận xét, tuyên dương kết quả của trẻ.

Biện pháp 3: Tạo môi trường an toàn về tâm lý và đa dạng về vật liệu

- GV trang trí xung quanh lớp học nhiều loài động vật bằng những vật liệu khác

nhau, GV cùng trẻ sưu tầm tranh, lịch về các động vật làm sách tranh để ở góc thư

viện, một số đồ dùng bằng nhựa, must, vật liệu phế thải đặt ở góc xây dựng, tranh

ảnh treo hoặc dán lên tường, mô hình để xung quanh lớp học. Các sắp xếp, bố trí này

72

giúp trẻ hứng thú khi bước vào lớp học, trẻ có thể cùng nhau trao đổi, trò chuyện về

các động vật này trong những giờ hoạt động tự do của lớp.

- Bên cạnh đó, GV cũng nên tạo tình huống gây bất ngờ, hứng thú cho trẻ với

những đối tượng mà trẻ ít quan tâm như: Đây là con gì hay trong bức tranh có con

vật gì? Con biết nó sống ở đâu không? Cho trẻ quan sát và giải thích.

- GV đặt nhiều câu hỏi kích thích sự sáng tạp ở trẻ như: hỏi trẻ con thích nhất

động vật nào? Con có muốn vẽ không? Con kể cho cô và các bạn nghe con sẽ vẽ như

thế nào? Con sẽ vẽ gì nữa trong bức tranh của con? … Sau đó dẫn dắt trẻ vào hoạt

động vẽ.

- Để trẻ vẽ đẹp và phát huy tính sáng tạo GV chuẩn bị đa dạng vật liệu vẽ như

sáp màu, màu nước, bút lông, bút chì màu, bút kim tuyến nhiều màu sắc, bút dạ; các

nguyên vật liệu hỗ trợ: dây, bông gòn, kim sa … để trẻ sáng tạo thêm cho mẫu hình.

- Trẻ tự do chọn vật liệu mà trẻ thích và vào bàn hoạt động vẽ trong không gian

sạch sẽ, thoáng mát của lớp học. GV kê bàn cho trẻ hoạt động, mỗi bàn 2 trẻ để giúp

trẻ vẽ rất thoải mái nhưng không tách rời bạn.

- Trong quá trình trẻ vẽ, cô nên vui vẽ động viên, khuyến khích sự sáng tạo của

trẻ, gợi ý và hỗ trợ trẻ khi cần thiết nhất là những trẻ yếu. Trẻ được tự do trò chuyện

với nhau về đề tài đang thực hiện trong trật tự, đảm bảo không làm ảnh hưởng đến

các bạn xung quanh.

- Kết thúc hoạt động cô cho trưng bày sản phẩm và nhận xét, cô dùng lời mô tả,

dẫn dắt trẻ thưởng thức, ngắm nhìn kết quả mà trẻ đạt được.

HĐVTYT 4: Vẽ theo truyện bé yêu thích

Biện pháp 1: Tổ chức cho trẻ tiếp xúc với học cụ trực quan đa dạng, phong phú

giúp trẻ mở rộng hiểu biết và khắc sâu các biểu tượng

- Giáo viên cho trẻ tiếp nhận nội dung truyện bằng nhiều hình thức khác nhau:

xem hình mẫu, tranh ảnh, giáo án điện tử, mô hình, rối các câu chuyện mà trẻ đã học

trước đó như: Cô bé quàng khăn đỏ, Tích chu, Ba cô gái, Sự tích cây vú sữa …

- Cô dẫn dắt trẻ vào hoạt động bằng các câu hỏi liên quan đến truyện: Các con

có biết quả vú sữa không? Quả như thế nào? Có vị gì? Con có biết truyện nào nói về

cây vú sữa không? hoặc cô cho trẻ xem chiếc khăn màu đỏ, đàm thoại với trẻ: Đây là

73

gì? Có màu gì? Con biết câu chuyện nào nói về chiếc khăn màu đỏ … Cô cho trẻ kể

lại một đoạn truyện mà trẻ thích hay cả câu chuyện nếu trẻ nhớ, sau đó dẫn dắt cho

trẻ xem rối, tranh, video mà cô chuẩn bị liên quan đến câu chuyện.

- Mỗi bức tranh hay đoạn video, rối … cô hỏi trẻ hoặc cô chỉ ra những điểm nút

của truyện như truyện Sự tích cây vú sữa: Cậu bé được mẹ nuông chiều nên ngày

càng ngỗ nghịch, bị mẹ mắng cậu bé bỏ nhà đi, khi cậu bị trẻ lớn bắt nạt, đói khát thì

mới nhớ về mẹ, Cậu về nhà, tìm mãi không thấy mẹ và cậu đã ngồi xuống dưới gốc

một thân cây to, được ăn quả ngọt (Cây vú sữa). Cô hỏi trẻ và nhắc lại kỹ năng vẽ

của một số mẫu hình (vóc dáng, khuôn mặt và hành động của người mẹ, người con,

cây vú sữa có gốc to, tán rộng, trái dạng tròn … sắp xếp bố cục của mỗi tranh hay

đoạn câu chuyện, màu sắc); Truyện Cô bé quàng khăn đỏ: Mẹ dặn cô bé quàng khăn

đỏ mang bánh sang biếu bà, nên đi đường thẳng không đi đường vòng, cô bé không

nghe lời mẹ đi đường vòng vì đường này có rất nhiều hoa thơm, bướm đẹp, cô bé

gặp sói …Cô nhắc kỹ năng vẽ hình mẫu hoặc hỏi trẻ kỹ năng vẽ (hoa, bướm, cây

xanh, vóc dáng, khuôn mặt, hành động của cô bé khi vui chơi trong rừng, khi gặp sói,

hình dạng của sói, bác thợ săn … cách sắp xếp bố cục, màu sắc trong tranh, video

…), Cô cho trẻ thấy sự đa dạng về hình dạng nhân vật, bố cục, màu sắc khác nhau

nhưng đều thể hiện chi tiết và hình ảnh nhân vật.

- Cho trẻ xem tranh ảnh, video, hình mẫu của các truyện được lặp đi lặp lại ở

các thời điểm hoạt động tự do trong ngày.

Biện pháp 2: Giúp trẻ luyện tập kỹ năng vẽ theo ý thích qua bài tập, trò chơi

- Giáo viên cho trẻ thực hiện bài tập vẽ nhằm cũng cố kỹ năng vẽ và phát triển

trí tưởng tượng cho trẻ: ước mơ của Hoa

- GV cho trẻ chơi nhiều trò chơi nhằm cũng cố kỹ năng vẽ các đường nét, các

dạng hình học, màu sắc, bố cục cho trẻ như: xếp hình, sự biến đổi của màu sắc, ai

khéo thế, thi ai vẽ nhanh - vẽ đẹp, ai nhanh - ai khéo.

+ Chuẩn bị đồ dùng, nguyên vật liệu cho bài tập, trò chơi.

+ GV giới thiệu tên bài tập, trò chơi.

+ Đàm thoại với trẻ về bài tập, trò chơi

+ Cho trẻ thực hiện sản phẩm theo nhóm, đối với trò chơi GV phổ biến cách

74

chơi và cho trẻ thực hiện. GV quan sát, động viên, khuyến khích trẻ.

+ Cô nhận xét, tuyên dương kết quả của trẻ.

Biện pháp 3: Tạo môi trường an toàn về tâm lý và đa dạng về vật liệu

- GV chuẩn bị nhiều sách tranh, tranh ảnh liên quan đến các câu chuyện để ở góc

học tập sách hoặc cô và trẻ cùng sưu tầm những hình ảnh liên quan đến câu chuyện cắt

ra và làm sách tranh, mỗi sách tranh là một câu chuyện với bố cục đơn giản.

- Trong hoạt động này cô chuẩn bị phong phú về nguyên vật liệu vẽ: màu sáp,

màu nước, màu bút lông, bút kim tuyến và có thêm nguyên liệu hỗ trợ là sỏi, đá nhỏ,

cát mịn, thóc, bông gòn, lá cây, một số quả nhỏ, tâm tre, kim sa … để trẻ sáng tạo

mẫu hình.

- GV tạo tình huống hấp dẫn, lôi cuốn trẻ vào hoạt động như hôm nay trường có

cuộc thi triễn lãm tranh, lớp chúng ta sẽ vẽ tranh về các truyện mà con đã học hoặc

nghe người lớn kể. Cô sẽ chọn ra những bức tranh đẹp nhất để dự thi.

- Nhiệm vụ đặt ra là cô sử dụng câu hỏi để tìm hiểu các ý tưởng của trẻ, một vài

đặc điểm về một cảnh, tình tiết mà trẻ muốn thể hiện, cách trình bày, bối cảnh.

- Nguyên liệu được bố trí theo nhóm, trẻ thích chọn nguyên liệu vẽ nào thì lại

chỗ đó lấy. Trẻ được tự do di chuyển trong quá trình tạo hình sao cho đảm bảo được

trật tự và giữ nguyên vẹn tranh vẽ.

- Trong hoạt động này cô luôn dùng lời để động viên trẻ, giúp trẻ tự tin hơn khi

vẽ, gợi ý cho trẻ yếu và khuyến khích trẻ có ý tưởng độc đáo.

- Sau khi trẻ hoàn thành sản phẩm, GV cùng trẻ xem, chọn và trò chuyện về

tranh vẽ. GV tìm những tranh đẹp, sáng tạo khác nhau theo diễn biến nội dung của

truyện để giới thiệu cùng trẻ và các sản phẩm đó cô đem đi dự thi.

3.2.1.4. Tổ chức thử nghiệm

Điều kiện thử nghiệm

- Thử nghiệm tiến hành trong điều kiện bình thường như trong các buổi lên lớp

của trẻ. Điều kiện chăm sóc, giáo dục trẻ ở nhóm thử nghiệm không khác gì so với

quy định chung của chương trình chăm sóc, giáo dục trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi.

- Trình độ giáo viên ở hai nhóm thử nghiệm và đối chứng đều tốt nghiệp Đại

học Sư phạm mầm non và có thâm niên công tác chăm sóc giáo dục trẻ 5 – 10 năm.

75

Giáo viên yêu nghề, yêu trẻ, có ý thức tự giác thực hiện yêu cầu chuyên môn.

Sự khác biệt giữa nhóm đối chứng và nhóm thử nghiệm

- Tại nhóm đối chứng (ĐC): Mọi nội dung, hình thức, phương pháp, biện pháp dạy

và học vẽ theo ý thích đều được thực hiện như quy định của chương trình hiện hành.

- Tại nhóm thử nghiệm (TN): Chúng tôi đưa ra các biện pháp để tham khảo ý

kiến của GVMN, thống nhất với GVMN cách thức tổ chức biện pháp theo mục

đích nghiên cứu.

3.2.2. Kết quả nghiên cứu thử nghiệm

3.2.2.1. Kết quả đo đầu vào trước khi tiến hành thử nghiệm

Chúng tôi dự giờ hoạt động học có chủ đích trong đó hoạt động vẽ là hoạt động

trọng tâm về vẽ theo ý thích: “Vẽ quà tặng Ba, Mẹ” ở lớp đối chứng và lớp thử nghiệm.

Qua việc phân tích sản phẩm tranh vẽ của trẻ chúng tôi thu được kết quả như sau:

Bảng 3.1. Khả năng sáng tạo qua tranh vẽ “Vẽ quà tặng Ba Mẹ”

Mức độ tưởng tượng sáng tạo

Tiêu chí

Nhóm

Cao

Trung bình Thấp

Kiểm nghiệm t (sig.<α=0.05 có sự khác biệt )

Điểm trung bình

SL %

SL % SL %

0

0

Đối chứng

12 40.0 18

60.0

1.40

Tên tranh vẽ

0.795

0

0

Thử nghiệm

11 36.7 19

63.3

1.37

0

0

Đối chứng

11 36.7 19

63.3

1.37

0.791

Đặc điểm nội dung

0

0

Thử nghiệm

10 33.3 20

66.7

1.33

0

0

Đối chứng

8

26.7 22

73.3

1.27

Bố cục

0.581

0

0

Thử nghiệm

10 33.3 20

66.7

1.33

0

0

Đối chứng

11 36.7 19

63.3

1.37

Màu sắc

0.791

0

0

Thử nghiệm

10 33.3 20

66.7

1.33

0

0

Đối chứng

30.0 21

70.0

9

1.30

Hình vẽ

0.380

0

0

Thử nghiệm

20.0 24

80.0

6

1.20

0

0

Đối chứng

16.7 25

83.3

5

6.70

Tổng điểm

0.571

0

0

Thử nghiệm

13.3 26

86.7

4

6.57

Bảng 3.1 cho thấy, khả năng sáng tạo đạt mức độ cao chiếm tỉ lệ thấp, phần lớn

ở mức độ trung bình. Về mặt nội dung: trẻ gọi được tên tranh vẽ, thể hiện được đề tài

tuy nhiên tranh mẫu và lời gợi ý cô giới thiệu, trao đổi với trẻ ở giờ học vẫn còn ảnh

76

hưởng đến trẻ. Có một vài trẻ ở nhóm đối chứng và nhóm thử nghiệm đã thể hiện

một cách độc lập suy nghĩ tình cảm riêng của mình như bé Ngân vẽ Ti vi tặng Ba, bé

Gia Bảo vẽ hộp phấn tặng mẹ, bé Mi vẽ vườn hoa. Khi được hỏi vì sao trẻ lại vẽ như

vậy thì bé Ngân trả lời: “Ti vi nhà con không hư rồi nên Ba không xem đá bóng

được”, bé Gia Bảo nói: “Mẹ con rất thích trang điểm” còn bé Mi nói “Mẹ con rất

thích hoa”. Về hình thức: bố cục tranh vẽ còn rời rạc, chưa nổi bật trọng tâm, màu

sắc chưa thể hiện được những ý tưởng mới lạ, hình vẽ còn đơn giản, chưa sinh động

và rất ít trẻ thể hiện sự chuyển động của các sự vật trong tranh.

Chúng tôi cùng với giáo viên đã chọn 2 nhóm khá tương đồng nhằm đảm bảo

kết quả ban đầu là không có sự khác biệt. Ở các tiêu chí sự chênh lệch giữa nhóm đối

chứng và nhóm thử nghiệm là không đáng kể. Để khẳng định sự tương đồng này,

chúng tôi đã sử dụng kiểm nghiệm t để kiểm định thì sig của các tiêu chí và tổng

điểm đều lớn hơn α = 0.05 rất nhiều, chỉ có hình vẽ nhỏ hơn α, cho thấy giữa nhóm

đối chứng và nhóm thử nghiệm không có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê. Bên

cạnh đó, việc chọn lựa không chỉ căn cứ trên kết quả mức độ khả năng sáng tạo thể

hiện trong tranh vẽ mà còn có sự đánh giá của các giáo viên giảng dạy lớp. Nhìn tổng

quan, nhóm TN khả năng sáng tạo của trẻ có phần thấp hơn so với nhóm ĐC. Đây

chính là cơ sở để tiến hành thử nghiệm nhằm phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ

trong hoạt động vẽ nói chung và HĐVTYT nói riêng.

Biểu đồ 3.1. Điểm trung bình các tiêu chí nhóm ĐC và TN trước TN

77

3.2.2.2. Kết quả nghiên cứu sau thử nghiệm

Trẻ lần lượt thực hiện 4 hoạt động vẽ theo ý thích: Vẽ tự do (Chủ điểm: thực

vật), Vẽ tự do (Chủ điểm: Phương tiện giao thông, Vẽ tự do (Chủ điểm: Động vật),

Vẽ theo truyện mà bé thích ở hai nhóm trong cùng một thời điểm nhất định, sau khi

hoàn thành các biện pháp nhằm nâng cao mức độ tưởng tượng sáng tạo lên nhóm

thực nghiệm. Việc phân tích kết quả thực nghiệm được tiến hành đối với từng giờ

dạy trên mỗi bài vẽ ở nhóm thử nghiệm và nhóm đối chứng. Chúng tôi theo dõi,

quan sát hoạt động của cô và trẻ trên mỗi giờ dạy cụ thể, đặc biệt là sử dụng các tiêu

chí đã nêu ở phần cơ sở lý luận (29) để đánh giá khả năng sáng tạo của trẻ trong hoạt

động VTYT.

* Với đề tài: Vẽ tự do (Chủ điểm: thực vật) chúng tôi thu được kết quả như sau:

Bảng 3.2. Kết quả khả năng sáng tạo qua tranh Vẽ tự do (Chủ điểm: Thực vật)

Mức độ khả năng sáng tạo

Điểm

Kiểm nghiệm

t (sig.<α=0.05

trung

Tiêu chí

Nhóm

Cao Trung bình Thấp

có sự khác biệt )

bình

SL % SL % SL %

1.30

Đối chứng

9 30.0 21 70.0 0

0

Tên tranh vẽ

0.019

1.60

Thử nghiệm

18 60.0 12 40.0 0

0

Đối chứng

1.30

9 30.0 21 70.0 0

0

Nội dung

0.038

Thử nghiệm

17 56.7 13 43.3 0

0

1.57

Đối chứng

8 26.7 22 73.3 0

0

1.27

Bố cục

0.018

Thử nghiệm

17 56.7 13 43.3 0

0

1.57

1.37

Đối chứng

11 36.7 19 63.3 0

0

Màu sắc

0.020

1.67

Thử nghiệm

20 66.7 10 33.3 0

0

Đối chứng

11 36.

1.37

19 63.3 0

0

Hình vẽ

0.039

Thử nghiệm

19 63.3 11 36.7 0

0

1.63

Đối chứng

7 23.3 23 76.7 0

0

6.60

Tổng điểm

0.000

21 70.0

9

8.03

Thử nghiệm

30.0 0

0

Bảng 3.2, các tiêu chí và tổng điểm chúng ta thấy nhóm đối chứng và nhóm thử

nghiệm không có trẻ nào tưởng tượng sáng tạo đạt mức độ thấp. Khả năng sáng tạo

của nhóm đối chứng ở mức trung bình (6.60 điểm), nhóm thử nghiệm sau khi áp

78

dụng các biện pháp khả năng sáng tạo đạt mức độ cao (8.03 điểm). Xét các tiêu chí ở

2 nhóm, thì tiêu chí màu sắc có điểm trung bình cao nhất nhóm, tiếp đến là tiêu chí

hình vẽ, tên tranh vẽ, nội dung và cuối cùng là tiêu chí bố cục. Điều này cho thấy, trẻ

ở cả hai nhóm có ưu thế thể hiện khả năng sáng tạo ở khía cạnh màu sắc và hình vẽ.

Tiêu chí của hai nhóm có sự khác biệt rõ nét, khả năng sáng tạo của nhóm thử

nghiệm cao hơn nhóm đối chứng cụ thể:

* Tên tranh vẽ

Điểm trung bình tiêu chí của nhóm thử nghiệm cao hơn nhóm đối chứng và

khác biệt này là có ý nghĩa (sig.=0.019, sig.=0.032 < α=0.05).

Quá trình phân tích tranh cũng như trao đổi với trẻ, chúng tôi thấy rằng trẻ đặt

tên cho tranh vẽ theo hướng tổng hợp nội dung bức tranh hoặc trẻ chọn hình ảnh

trọng tâm nổi bật trong tranh để đặt tên cho tranh vẽ của mình.

Ở nhóm đối chứng, trẻ đều đặt được tên cho tranh vẽ của mình, nhưng vẫn còn chịu

ảnh hưởng những tên gọi cô đã giới thiệu qua tranh mẫu, gợi ý trước đó. Nhiều trẻ tỏ

ra khá lúng túng khi đặt tên cho sản phẩm. Số trẻ đạt mức độ cao ở tiêu chí này là 9

trẻ với một số tên tranh như “hoa màu gà đủ sắc”, “hoa bi”,“cây xanh trên núi”,

“khu vườn rộng lớn”, …

Ở nhóm thử nghiệm, vốn biểu tượng của trẻ phong phú do được cung cấp trong

những ngày trước đó nên khi cô yêu cầu nêu ý tưởng nội dung bức tranh, và đặt tên trẻ

rất hứng thú, sáng tạo với những ý tưởng mới lạ. Mỗi tranh là một hình ảnh độc đáo với

những tên gọi riêng biệt mang những tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của trẻ như: “mẹ em

bán rau”, “xe ô tô chở hoa”, “Chợ quả quê em”, “vườn cà rốt của thỏ”,… Qua đánh

giá cho thấy nhóm thực nghiệm đạt mức độ cao ở tiêu chí tên tranh vẽ là 18 trẻ, với số

lượng này số trẻ đạt mức độ cao ở nhóm thực nghiệm gấp đôi nhóm đối chứng.

*Nội dung tranh vẽ

Ở tiêu chí đặc điểm nội dung tranh vẽ, nhóm đối chứng và nhóm thử nghiệm có

sự chênh lệch điểm trung bình khá cao, nhóm thực nghiệm cao hơn nhóm đối chứng.

Kiểm nghiệm t cho thấy sự khác biệt ở đây là có ý nghĩa về mặt thống kê (sig.=

0.038, sig.=0.038 < α=0.05).

79

Phân tích từng tranh vẽ, chúng tôi nhận thấy có sự nổi trội của nhóm thử

nghiệm so với nhóm đối chứng.

Nhóm đối chứng các loài hoa, cây xanh, củ, quả trẻ vẽ không phong phú bằng

nhóm thực nghiệm đa số trẻ vẽ những đối tượng gần gũi, quen thuộc mà cô đã giới

thiệu, ngoài hình ảnh chính trẻ vẽ thêm mặt đất, bầu trời … Bên cạnh đó vẫn có một

số trẻ độc lập trong cách thể hiện của mình, ví dụ như tranh vẽ “Hoa móng tay” trẻ

đã thể hiện hình ảnh bông hoa như ngón tay và lá có dạng dài. Tuy nhiên, số lượng

trẻ ở mức trung bình vẫn chiếm tỷ lệ cao 21/30 trẻ.

Nhóm thử nghiệm các loài hoa, cây xanh, rau, củ, quả được trẻ thể hiện phong

phú và đa dạng về chủng loại như hoa ly, hoa hướng dương, cây sake, cây dâu, củ

năng, quả măng cụt, quả dâu, … Ngoài ra, còn có một số hình ảnh trẻ kết hợp giữa

các loài hoa, các loại củ, cây xanh để tạo ra một loại mới, trẻ gọi là hoa, cây xanh, củ,

quả chứ chưa đặt tên cụ thể được. Các đối tượng trẻ vẽ nhiều trạng thái khác nhau

như: cây rụng lá chỉ còn cành, cây tán rộng, cây có nhiều hoa hoặc vẽ quả non, quả

sắp chín và quả chín … Trẻ chú ý đến nhiều chi tiết trên đói tượng như vẽ hoa thì có

đài hoa, nhụy hoa; cây thì có hoa, nụ, quả …Bên cạnh đó, các tranh vẽ thêm một số

chi tiết như với tranh vẽ “Công viên cây xanh” trẻ vẽ bướm, chuồn chuồn, ông mặt

trời, đám mây; với tranh vẽ “Hoa ngày tết” trẻ vẽ thêm bánh chưng, dưa hấu.

* Bố cục

Với tiêu chí này, điểm trung bình của nhóm thử nghiệm cao hơn nhóm đối

chứng và khác biệt này đã được kiểm nghiệm là có ý nghĩa về mặt thống kê (sig=

0.018, sig=0.018 < α=0.05).

Đây là tiêu chí mà các GV lớp cũng như chúng tôi dự đoán thì khả năng sáng

tạo ở trẻ đạt mức độ cao thấp nhất trong các tiêu chí và qua phân tích tranh vẽ kết

quả đúng như dự đoán.

Ở nhóm đối chứng, hầu hết các hình ảnh phân bố trên mặt giấy vẽ khá lộn xộn,

chỉ một số ít tranh thể hiện sự cân đối, thể hiện được ý tưởng, nổi bật trọng tâm. Tuy

nhiên, trẻ chưa thể hiện được luật phối cảnh xa gần nên chưa thể hiện được chiều sâu

của bức tranh. Một số trẻ lúng túng, khó khăn khi thể hiện đối tượng trong nội dung

vẽ nên khi vẽ thường bất chợt nghĩ ra và thêm vào một số chi tiết làm cho nhiều

80

tranh vẽ chưa cân đối, rời rạc ít có sự liên kết chặt chẽ tạo thành một tổng thể thể

hiện một ý tưởng trọn vẹn.

Ở nhóm thử nghiệm, đa số trẻ đều có dự định về nội dung sẽ vẽ nên bố cục khá

cân đối. Cũng có nhiều trẻ khi vẽ thêm vào một số chi tiết so với dự định nhưng vẫn

cân bằng trên – dưới, phải – trái trên giấy vẽ. Ngoài ra, nhiều tranh vẽ thể hiện được

luật xa - gần, ví dụ như tranh vẽ “Vườn cây” trẻ vẽ cây ở gần to ở xa nhỏ, hay trong

tranh vẽ “nhà ngoại” trẻ vẽ phía trước là vườn hoa, phía sau lưng là ngôi nhà. Nhiều

trẻ chú ý kích thước các hình ảnh cao - thấp, to - nhỏ. Một số chi tiết bị che khuất

cũng được trẻ quan tâm như tranh vẽ “Vườn rau nhà mèo” khi trẻ vẽ cà rốt trẻ không

vẽ hết củ mà vẽ có nữa thân trên và lá và trẻ giải thích là phần còn lại nằm ở dưới đất

nên không thấy. Với những tranh vẽ thể hiện luật phối cảnh đã giúp cho bức tranh có

nhiều tầng cảnh, sinh động.

* Màu sắc

Qua quá trình thử nghiệm, sự biểu hiện của tưởng tượng sáng tạo trong việc thể

hiện màu sắc tranh vẽ của nhóm thử nghiệm cao hơn trẻ đối chứng và cao nhất trong

các tiêu chí. Khác biệt này được kiểm nghiệm là có ý nghĩa về mặt thống kê (sig.=

0.020, sig.=0.020 < α=0.05).

Ở nhóm đối chứng, giấy vẽ hầu như là giấy A4 màu trắng và vật liệu tô màu chỉ

có bút màu sáp, rất ít trẻ sử dụng màu nước. Màu sắc của đối tượng chủ yếu là các

màu thường ngày ví dụ đất màu nâu, mây màu xanh, hoa màu đỏ, cây màu xanh lá và

màu tự do màu trẻ thích chưa gắn với ý tưởng miêu tả. Có khoảng 11 trẻ thể hiện

được ý đồ tô màu, màu sắc hài hòa gợi cảm, số lượng này chỉ bằng ½ so với nhóm

thực nghiệm.

Ở nhóm thử nghiệm, trẻ phấn khởi khi được lựa chọn màu sắc giấy vẽ và các

nguyên liệu để tô màu như bút màu sáp, bút lông, bút dạ quang, màu nước… Phần

lớn trẻ chú ý tô màu theo ý đồ miêu tả của mình chẳng hạn như “Lá cây màu vàng do

sắp rụng, bầu trời màu đen do sắp mưa” ... Trẻ pha màu thuần thục và dùng các màu

đã pha để tô màu sự vật hiện tượng phù hợp với hoàn cảnh. Có rất nhiều tranh vẽ

phối hợp rất nhiều loại màu khác nhau nhưng rất hài hòa, đẹp mắt.

81

* Hình vẽ

Ở tiêu chí hình vẽ, điểm trung bình của nhóm thử nghiệm cao hơn nhóm đối

chứng và khác biệt này đã được kiểm nghiệm là có ý nghĩa về mặt thống kê (sig.=

0.039, sig.= 0.039 < α=0.05).

Ở nhóm đối chứng, phần lớn khối lượng hình ảnh trong tranh vẽ còn nghèo nàn,

trẻ vẽ sự vật hiện tượng còn rập khuôn chẳng hạn như lá trẻ vẽ dạng dài, thân hoa là

nét thẳng, thân cây là hai nét thẳng song song, tán cây thì vẽ bằng nét cong hoặc

cong tròn … số lượng trẻ biết kết hợp các nguyên vật liệu hỗ trợ như giấy màu, bông

gòn, len …để hình ảnh sự vật thêm sinh động là rất ít.

Ở nhóm thử nghiệm, trẻ biết sử dụng các nguyên vật liệu hỗ trợ nên hình vẽ

khá phong phú, sáng tạo, số lượng hình ảnh trong tranh vẽ của nhóm thử nghiệm

nhiều hơn 3 – 4 hình so với nhóm đối chứng, bên cạnh những nét đặc trưng của sự

vật, trẻ còn thể hiện những đặc điểm theo suy nghĩ của riêng của trẻ như trong tranh

vẽ về ông mặt trời trẻ vẽ thêm mắt, mũi, miệng có một số tranh trẻ vẽ ông mặt trời

buồn do trời sắp mưa, hoặc ông mặt trời cười, trẻ vẽ thân cây có một lổ tròn trẻ nói

đó là nhà của chị ong … Ngoài ra, tranh vẽ có sự liên kết giữa các hình ảnh để tạo

thành một bức tranh mang một nội dung trọn vẹn. Các đối tượng trong tranh đều có

sự thể hiện các trạng thái hoặc hành động như ông mặt trời cười, ong đậu ở hoa để

hút mật, cây nghiêng vì gió rất to…, Có nhiều tranh vẽ thể hiện cùng một đối tượng

tuy nhiên các hình ảnh không trùng nhau ví dụ tranh cùng vẽ hoa mai nhưng có bé

chỉ tô màu vàng vẽ năm cánh hoa, bé khác tô nhiều màu vẽ nhiều cánh hoa.

Biểu đồ 3.2. Điểm trung bình các tiêu chí nhóm ĐC và TN

trong tranh Vẽ tự do (Chủ điểm: Thực vật)

82

Bảng 3.3. Kết quả khả năng sáng tạo qua tranh Vẽ tự do (Chủ điểm Phương

tiện giao thông)

Mức độ khả năng sáng tạo

Kiểm nghiệm

Điểm

t (sig.<α=0.05

Tiêu chí

Nhóm

Cao

Trung bình Thấp

trung bình

có sự khác biệt )

SL % SL % SL %

Đối chứng

8

26.7 22 73.3 0

0

1.27

Tên tranh vẽ

0.035

Thử nghiệm

16 53.3 14 46.7 0

0

1.53

Đối chứng

12 40.0 18 60.0 0

0

1.40

Nội dung

0.039

Thử nghiệm

20 66.7 10 33.3 0

0

1.67

Đối chứng

9

30.0 21 70.0 0

0

1.30

Bố cục

0.038

Thử nghiệm

17 56.7 13 43.3 0

0

1.57

Đối chứng

8

26.7 22 73.3 0

0

1.27

Màu sắc

0.018

Thử nghiệm

17 56.7 13 43.3 0

0

1.57

Đối chứng

9

30.0 21 70.0 0

0

1.30

Hình vẽ

0.019

Thử nghiệm

18 60.0 12 40.0 0

0

1.60

Đối chứng

5

16.7 25 83.3 0

0

6.53

Tổng điểm

0.000

Thử nghiệm

21 70.0

9

30.0 0

0

7.90

Đến đề tài: Vẽ tự do (Chủ điểm: Vẽ phương tiện giao thông), chúng ta thấy rõ

sự chênh lệch về tần số trẻ đạt được ở mức độ khả năng sáng tạo. Với đề tài này

nhóm đối chứng gặp nhiều khó khăn khi thể hiện tranh vẽ hơn so với nhóm thử

nghiệm. Kết quả tổng điểm và kiểm nghiệm t cho thấy có sự chênh lệch và khác biệt

khá cao 6.53 điểm ở nhóm đối chứng và 7.90 điểm nhóm thử nghiệm (sig ở các tiêu

chí đều nhỏ hơn 0.05), không có trẻ nào khả năng sáng tạo đạt mức độ thấp. Nếu như

ở đề tài “vẽ tự do” tiêu chí màu sắc chiếm ưu thế thì với đề tài này thì nội dung tranh

vẽ có điểm trung bình đạt mức độ cao nhất nhóm, tiếp đến là tiêu chí hình vẽ, bố cục,

màu sắc và cuối cùng là tiêu chí tên tranh vẽ. Điều này cho thấy, trẻ ở cả hai nhóm có

ưu thế thể hiện khả năng sáng tạo ở khía cạnh nội dung và hình vẽ. Cụ thể ở các tiêu

chí như sau:

83

* Tên tranh vẽ

Điểm trung bình tiêu chí này của nhóm thử nghiệm cao hơn nhóm đối chứng và

khác biệt này là có ý nghĩa (sig.=0.035, sig.=0.035< α=0.05).

Qua quá trình phân tích tranh cũng như quá trình trao đổi với trẻ, chúng tôi thấy

rằng trẻ đặt tên cho tranh vẽ của mình theo hai hướng: thứ nhất là tên tranh vẽ là sự

tổng hợp nội dung bức tranh, thứ hai trẻ chọn một một hình ảnh trọng tâm nổi bật mà

trẻ ưa thích để đặt tên cho bức tranh của mình.

Ở nhóm đối chứng, đa số trẻ đặt tên cho sản phẩm theo hướng chọn hình ảnh

trọng tâm, nổi bật và còn chịu ảnh hưởng nhiều bởi tên do giáo viên gợi ý, trao đổi

với trẻ trước khi vẽ nên rất ít trẻ đặt tên mới lạ cho sản phẩm. Một số tên gọi cho

tranh vẽ của trẻ nhóm này khá ấn tượng như: “phi công lái máy bay”, “thuyền

thúng”, “xe tải nhiều màu” …

Ở nhóm thử nghiệm, tranh vẽ của trẻ thể hiện những nội dung rất phong phú,

tranh nào cũng có ý định trước khi trẻ vẽ nên các bức tranh đều có tên rõ ràng, đặc

biệt với những tên gọi mới lạ “gà đi chơi thuyền”, “đĩa bay trên không”, “thuyền

biển”, “đường sắt quê em”, “quả bóng trên không (trẻ giải thích quả bóng là khinh

khí cầu vì có hình tròn) ”… Qua đánh giá cho thấy số lượng tiêu chí tên tranh vẽ ở

nhóm thực nghiệm gấp đôi nhóm đối chứng.

*Nội dung tranh vẽ

Ở đặc điểm nội dung tranh vẽ, cả nhóm đối chứng và nhóm thử nghiệm đều có

điểm trung bình khá cao và đây là tiêu chí có số điểm trung bình cao nhất. Kiểm

nghiệm t cho thấy sự khác biệt là có ý nghĩa về mặt thống kê (sig.= 0.039, sig.=0.039

< α=0.05). Cụ thể:

Trẻ ở hai nhóm đã có những tiến bộ rõ rệt, tạo nên một bức tranh có ý nghĩa, có

sự liên kết giữa các chi tiết trong bức tranh để tạo nên một tổng thể trọn vẹn. Nhưng

phân tích kỹ chúng tôi thấy rõ sự khác nhau giữa nhóm đối chứng và nhóm thực

nghiệm.

Nhóm đối chứng, khi sang đến đề tài này trẻ có sự tiến bộ rõ rệt, tranh có ý

nghĩa hơn và chi tiết trong tranh có sự liên kết. Tuy nhiên, khả năng sáng tạo vẫn còn

đạt mức trung bình khá cao. Trẻ hầu như tập trung vào nội dung vẽ phương tiện giao

84

thông đường bộ và đường thủy là chủ yếu: vẽ xe ôtô, xe tải, xe lửa, thuyền buồm,

thuyền thúng, phương tiện giao thông đường hàng không chỉ một vài trẻ thể hiện.

Ngược lại, nhóm thử nghiệm thể hiện đa dạng, phong phú về vốn biểu tượng,

trẻ đã tạo ra những hình ảnh và sắp xếp chúng theo ý đồ riêng của trẻ nên bức tranh

vẽ sống động, ngộ nghĩnh và đáng yêu, đặc biệt rất ít sản phẩm rập khuôn những

hình ảnh mà trẻ xem trước đây.

Tranh “thuyền biển” được thể hiện với nhiều thuyền khác nhau, những ngọn

núi, có hàng dừa trên bờ biển, người tắm biển, phía trên ông mặt trời đang tỏa nắng

bên cạnh những đám mây xanh; “Đường sắt quên em” gồm đoàn tàu, hàng cây, có

xe ôtô, chú cò trên bầu trời; “Chú phi công trên bầu trời” những chiếc máy bay, trực

thăng nhiều màu, bên trong có chú phi công, xa xa có vài chú chim bay, trẻ còn vẽ

mưa rơi … đây là kết quả của quá trình cô áp dụng các biện pháp giúp phát huy khả

năng sáng tạo cho trẻ, giúp trẻ được nhìn ngắm, quan sát, ghi nhớ và tưởng tượng để

thể hiện qua tranh vẽ phong phú và đa dạng. Khi vẽ trẻ vẫn có sự trao đổi với bạn

nhưng không bắt chước lẫn nhau mà muốn vẽ khác bạn.

* Bố cục

Với tiêu chí này, điểm trung bình của nhóm thử nghiệm cao hơn nhóm đối

chứng và khác biệt này đã được kiểm nghiệm là có ý nghĩa về mặt thống kê (sig.=

0.038, sig.=0.038 < α=0.05).

Với trẻ đề tài này khó hơn đề tài trước nên tiêu chí bố cục mặc dù ở mức cao

nhưng so với đề tài trước thì điểm trung bình không có sự thay đổi . Qua kết quả

phân tích thì trẻ ít chú ý đến sự phân bố, tỷ lệ kích thước các sự vật hiện tượng, trẻ

thường trải đều các hình ảnh trên trang giấy.

Ở nhóm đối chứng, các hình ảnh của đối tượng trên giấy vẽ khá cân đối, thể

hiện được ý tưởng của đề tài tuy nhiên không nhiều, một số ít trẻ thể hiện được luật

phối cảnh nhưng chưa rõ nét. Ngoài ra, nhiều tranh chỉ thể hiện một đối tượng trọng

tâm: xe tải, xe khách, thuyền và thêm một vài chi tiết phụ như ông mặt trời, cây,

thuyền chỉ có nước … hoặc tranh không có thêm chi tiết nào khác. Các đối tượng

trong tranh vẽ sắp xếp rời rạc, ít có sự liên kết chặt chẽ với nhau nên dù có ý tưởng,

85

có sáng tạo nhưng tổng thể bức tranh chưa thể hiện được sự cân đối giữa các hình

ảnh trên mặt giấy vẽ.

Ở nhóm thử nghiệm, bố cục tranh vẽ khá cân đối, thể hiện được luật xa - gần,

trên - dưới như tranh vẽ “Biển quê em” chiếc thuyền ở gần vẽ to hơn chiếc thuyền ở

xa, núi thì vẽ phía trên nhưng xa trẻ vẽ nhỏ; tranh “quả bóng khinh khí cầu” trẻ vẽ

khinh khí cầu nhỏ do ở trên cao phía dưới trẻ vẽ nhiều em bé đang ngắm nhìn. Mặt

khác, trẻ cũng chú ý đến kích thước các hình ảnh trong tranh vẽ: tranh “Bác tài vui

tính” trẻ vẽ chiếc xe, vẽ cửa sổ và bác tài xế chỉ thấy phần đầu và thân, trẻ giải thích

do nhìn từ phía bên ngoài nên các phần khác bị che khuất.

* Màu sắc

Với đề tài này sự biểu hiện khả năng sáng tạo trong việc thể hiện màu sắc tranh

vẽ của trẻ thấp hơn so với đề tài “Vẽ tự do”. Tuy nhiên, trẻ ở nhóm thử nghiệm vẫn

cao hơn trẻ nhóm đối chứng. Cụ thể, điểm trung bình của nhóm thử nghiệm hơn

nhóm đối chứng và khác biệt này được kiểm nghiệm là có ý nghĩa về mặt thống kê

(sig.= 0.018, sig.=0.018 < α=0.05).

Ở nhóm đối chứng, trẻ cũng chú ý đến các màu sắc khác từ những nguyên vật

liệu hỗ trợ nhưng đa số trẻ vẫn chọn giấy vẽ là giấy A4 màu trắng. Màu dùng để tô

chủ yếu là bút màu sáp, một số trẻ pha màu và thể hiện khả năng sáng tạo trên tranh

vẽ nhưng không thành công. Nguyên nhân, các GV ít khi cho trẻ sử dụng màu nước

vì sợ trẻ nghịch màu và sợ bẩn nên khi tiếp xúc với màu nước trẻ khá lúng túng, có

trẻ làm hư tranh và xin cô tờ giấy vẽ khác. Trẻ thường sử dụng màu sắc tươi sáng để

thể hiện ý tưởng miêu tả, nhiều trẻ kết hợp quá nhiều màu nhưng không hài hòa. Có

khoảng 8 trẻ thể hiện được ý đồ tô màu, màu sắc hài hòa gợi cảm.

Ở nhóm thử nghiệm, trẻ thích thú khi thấy nhiều loại nguyên liệu như bút màu

sáp, bút lông, bút dạ quang, màu nước, màu từ rau củ, màu từ len, màu của bông gòn,

các dây nhiều màu sắc … Phần lớn trẻ chú ý tô màu theo ý đồ miêu tả và kết hợp

nhiều nguyên vật liệu hỗ trợ với các màu sắc khác nhau làm tổng thể bức tranh thêm

sinh động chẳng hạn như “Cô ơi, con dùng len màu đỏ cuộn tròn làm ông mặt trời,

các tia nắng con dùng dây màu vàng”, “Trẻ tô đường đi màu đỏ, trẻ giải thích đường

vào nhà ngoại con toàn đất và đá màu đỏ “, “biển tô màu đen vì nguồn nước ô

86

nhiễm”, “Con thuyền rất nhiều loại màu khác nhau: mắt thuyền là bút kim tuyến,

thân là màu nước, cánh buồm màu sáp ”. Bên cạnh đó, màu sắc trong tranh vẽ có

mảng đậm, mảng nhạt, hài hòa, gợi cảm như đối tượng trọng tâm được trẻ tô màu

đậm, sáng làm nổi bật khi mới nhìn vào tranh mảng phụ bầu trời trẻ tô nhạt hơn.

* Hình vẽ

Ở tiêu chí hình vẽ, điểm trung bình của nhóm thử nghiệm cao gấp đôi so với

nhóm đối chứng và kiểm nghiệm này có sự khác biệt về mặt thống kê (sig.= 0.019,

sig.= 0.019< α=0.05).

Ở nhóm đối chứng, hình vẽ của trẻ ở mức trung bình khá cao, hình ảnh trong

tranh vẽ đơn giản chủ yếu dựa vào các dạng hình học, khi vẽ trẻ có sao chép ý tưởng

lẫn nhau dẫn đến các sự vật hiện tượng trong mỗi tranh rập khuôn chẳng hạn như hai

bé ngồi gần nhau thì hình vẽ trọng tâm sẽ giống nhau, chỉ khác một vài chi tiết nhỏ.

Nhiều hình vẽ còn trong tư thế đứng yên, chưa thể hiện được trạng thái của các sự

vật hiện tượng.

Ở nhóm thử ghiệm, hình ảnh tranh vẽ thể hiện gần giống với đối tượng, trẻ còn

sáng tạo khi đưa vào thêm vào những đặc điểm theo suy nghĩ của riêng mình như vẽ

chiếc tàu chở khách trên sông trẻ vẽ thêm lá cờ đỏ sao vàng hoặc tranh vẽ “thuyền

biển quê em” trẻ vẽ cảnh đêm có ông trăng tròn xung quanh là những ngôi sao và có

cả sao chổi. Trẻ còn sử dụng biện pháp nhân cách hóa khi thể hiện sự vật như xe,

thuyền, máy bay có mắt, mũi, miệng … Các hình ảnh trong tranh thể hiện các trạng

thái hoặc hành động xe leo lên núi, xe trong nước (do trời mưa đường bị ngập nước),

cây nghiêng, sóng biển…Ở nhóm thực nghiệm, các tranh vẽ ít có sự rập khuôn mà có

sự phong phú về hình dạng. Trong quá trình vẽ, khi gặp khó khăn trẻ thường mạnh

dạn hỏi cô cách thể hiện, có trẻ nảy sinh chi tiết mà trẻ chưa biết cách thể hiện, giáo

viên gợi ý hướng dẫn, không lờ đi hoặc hướng trẻ vẽ cái khác.

87

Biểu đồ 3.3. Điểm trung bình các tiêu chí nhóm ĐC và TN trong tranh Vẽ tự

do (Chủ điểm: Phương tiện giao thông)

Bảng 3.4. Kết quả khả năng sáng tạo qua tranh Vẽ tự do (Chủ điểm: Động vật)

Mức độ khả năng sáng tạo

Kiểm nghiệm

Điểm

Tiêu chí

Nhóm

t (sig.<α=0.05

Cao Trung bình Thấp

trung bình

có sự khác biệt )

SL % SL % SL %

Đối chứng

5 16.7 25 83.3 0

0

1.17

Tên tranh vẽ

0.024

Thử nghiệm

13 43.3 17 56.7 0

0

1.43

Đối chứng

9 30.0 21 70.0 0

0

1.30

Nội dung

0.019

Thử nghiệm

18 60.0 12 40.0 0

0

1.60

Đối chứng

9 30.0 21 70.0 0

0

1.30

Bố cục

0.038

Thử nghiệm

17 56.7 13 43.3 0

0

1.57

Đối chứng

8 26.7 22 73.3 0

0

1.27

Màu sắc

0.035

Thử nghiệm

16 53.3 14 46.7 0

0

1.53

Đối chứng

10 33.3 20 66.7 0

0

1.33

Hình vẽ

0.009

Thử nghiệm

20 66.7 10 33.3 0

0

1.67

Đối chứng

5 16.7 25 83.3 0

0

6.37

Tổng điểm

0.000

Thử nghiệm

14 46.7 16 53.3 0

0

7.80

88

Bảng 3.4 cho thấy, với các đề tài càng khó thì khả năng sáng tạo của trẻ ở nhóm

đối chứng càng thấp, trẻ gặp nhiều khó khăn khi thể hiện tranh vẽ hơn so với nhóm thử

nghiệm. Kết quả tổng điểm cho thấy có sự chênh lệch khá cao, nhóm đối chứng tổng

điểm 6.37 điểm giảm nhiều hơn so với các đề tài trước, nhóm thử nghiệm 7.80 điểm

cũng giảm nhưng không đáng kể. Tuy nhiên, khác biệt này đã được kiểm nghiệm là có ý

nghĩa thống kê (sig.=0.00<α=0.05) cho thấy khả năng sáng tạo của nhóm thử nghiệm

cao hơn khá rõ so với khả năng sáng tạo của nhóm đối chứng đo cùng thời điểm sau thử

nghiệm (sig ở các tiêu chí đều nhỏ hơn 0.05). Cụ thể ở các tiêu chí như sau:

* Tên tranh vẽ

Đây là đề tài có số lượng trẻ đặt tên sáng tạo cho tranh vẽ đạt mức độ thấp nhất.

Trẻ nhóm đối chứng đều đặt được tên cho tranh vẽ của mình, nhưng đa số vẫn rập

khuôn giống bạn và trùng với những tên gọi cô đã giới thiệu qua tranh mẫu, gợi ý

trước đó. Trẻ chủ yếu chọn hình ảnh trọng tâm để đặt tên cho sản phẩm, số trẻ đạt

mức độ cao ở tiêu chí này là 5 trẻ với một số tên tranh như “gà về chuồng”, “cá

kiểng”, “cá mẹ dẫn cá con đi chơi”…

Nhóm thử nghiệm, mặc dù số lượng trẻ đặt tên sáng tạo cho sản phẩm không

cao ở mức độ trung bình chiếm ưu thế nhưng so với nhóm ĐC vẫn có sự khác biệt về

mặt thống kê (sig.=0.024, sig.=0.024 < α=0.05). Khi GV giới thiệu đề tài trẻ tỏ ra

sung sướng khi được lựa chọn giấy vẽ, một số trẻ đã chú ý đến màu sắc của giấy với

nội dung vẽ của mình “Cô ơi, cho con giấy màu xanh, con muốn vẽ nhiều con vật

sống trong rừng nên con muốn lấy giấy màu xanh cho giống màu xanh của cây ở

trong rừng”. Mỗi tranh là một hình ảnh độc đáo, riêng biệt mang những tâm tư, tình

cảm, suy nghĩ riêng của trẻ, trẻ đã tạo ra những cái tên khác lạ như “cá lau kiếng”,

“muôn thú trong rừng”, “đàn gà trong sân”, “cua bò trên biển”, “gấu trúc ăn mía”,

“đàn bướm hái hoa”… Qua đánh giá cho thấy nhóm thực nghiệm đạt mức độ cao ở

tiêu chí tên tranh vẽ là 13 trẻ, với số lượng này số trẻ đạt mức độ cao ở nhóm thực

nghiệm gấp đôi nhóm đối chứng.

*Nội dung tranh vẽ

Kiểm nghiệm t cho thấy sự khác biệt đặc điểm nội dung tranh vẽ giữa nhóm đối

chứng và nhóm thử nghiệm có ý nghĩa về mặt thống kê (sig.= 0.019, sig.=0.019 <

89

α=0.05). Tuy nhiên, nội dung tranh của nhóm ĐC ở đề tài này đạt mức độ cao thấp,

chủ yếu đạt mức độ trung bình, nhóm thử nghiệm khă năng sáng tạo trong nội dung

tranh cao gấp đôi so với nhóm ĐC. Cụ thể:

Nhóm đối chứng các loài động vật trẻ vẽ không phong phú, đa dạng. Trẻ chủ

yếu vẽ những con vật quen thuộc mà trong giờ học cô đã giới thiệu như: con cá, con

gà, bướm với những đường nét, hình dạng quen thuộc. Ngoài ra các tranh vẽ đều có

hình ảnh về ông mặt trời, cây xanh, hoa … trong hầu hết tranh vẽ của trẻ. Một số ít

trẻ độc lập trong cách thể hiện ví dụ như tranh vẽ “Gà về chuồng” trẻ đã thể hiện

hình ảnh của nhiều loại gà, xung quanh trẻ vẽ hàng rào và có em bé cho gà ăn; Tranh

“cá kiểng” trẻ vẽ hồ nước với nhiều chú cá đủ màu sắc đang bơi lội, xa xa có cánh

đồng lúa, có cây xanh, bầu trời với những chú chim đang bay.

Nhóm thử nghiệm các loài động vật được trẻ thể hiện phong phú, đa dạng như:

vẽ thỏ, sư tử, ốc, cua, bướm, chuồn chuồn, sao biển, tôm …. Ngoài ra, trẻ còn sáng

tạo hình ảnh con hổ, con mèo dù không có vẽ đủ bộ phận nhưng chúng ta dể dàng

nhận ra. Các động vật trẻ vẽ ở nhiều trạng thái khác nhau như: gà gáy, gà mổ thóc,

thỏ thi tài, rùa bò, cá ngủ …. Trẻ cũng chú ý đến nhiều chi tiết đặc trưng của các loài

vật như: hổ trẻ vẽ có vằn trên lưng, sư tử có bờm, bướm nhiều màu sắc, gà trống với

cái đuôi rất dài, lông nhiều màu …Bên cạnh đó, có một số ít tranh trẻ vẽ một đối

tượng thì hầu như ngoài hình ảnh động vật trẻ còn thêm chi tiết khác để tạo bức tranh

có bố cục đẹp. Với tranh vẽ “Sở thú” với nhiều loài động khác nhau trẻ còn vẽ ghế

đá, đường đi, người; tranh “khu rừng vui nhộn” trẻ vẽ thêm núi, ao, xích đu. Phần

lớn các hình ảnh được trẻ sắp xếp theo biểu tượng của riêng mình ví dụ như thỏ cầm

củ cà rốt ăn xung quanh là vườn cà rốt; mèo con chơi cùng gà con, phía sau là ngôi

nhà.

* Bố cục

Điểm trung bình của nhóm thử nghiệm cao hơn nhóm đối chứng và khác biệt

này đã được kiểm nghiệm là có ý nghĩa về mặt thống kê (sig.=0.038, sig.=0.038<

α=0.05). Với đề tài này, về bố cục đa số trẻ vẽ trải đều các hình ảnh trên trang giấy và

tôi nhận thấy số trẻ đạt mức độ cao ở nhóm thử nghiệm gấp đôi so với nhóm đối chứng.

trẻ ít chú ý tỷ lệ, kích thước các đối tượng. Nhưng xét tương quan giữa 2 nhóm, chúng

90

Ở nhóm đối chứng, có nhiều tranh vẽ trẻ thể hiện luật xa gần tuy nhiên không

thể hiện được sự cân đối, các chi tiết trong tranh xếp khá lộn xộn hoặc lệch sang một

bên của giấy vẽ nên sản phẩm không thấy được chiều sâu của bức tranh. Nhiều tranh

các chi tiết sắp xếp rời rạc ít có sự liên kết chặt chẽ. Ngược lại, nhóm thử nghiệm trẻ

rất hứng thú, say mê sáng tạo, mỗi trẻ đều có dự định riêng về nội dung vẽ nên bố

cục cân đối phía trên – dưới, phải – trái trên giấy vẽ. Luật xa gần cũng được trẻ vẽ rất

sinh động, trẻ cũng chú ý đến kích thước, vị trí che khuất của các hình ảnh trong

tranh như tranh vẽ “Muôn thú trong rừng” trẻ vẽ các con vật gần to hơn con vật ở xa,

vẽ hai con vật đứng gần nhau nhưng chỉ thấy chân của một con vật, khi được hỏi trẻ

giải thích bạn thỏ nâu đứng sau bạn thỏ trắng nên chân của bạn bị che khuất.

* Màu sắc

Sự biểu hiện khả năng sáng tạo trong màu sắc tranh vẽ của trẻ thử nghiệm cao

hơn trẻ đối chứng. Khác biệt này được kiểm nghiệm là có ý nghĩa về mặt thống kê

(sig.=0.035, sig.=0.035 < α=0.05).

Về sự thể hiện màu sắc, trẻ ở nhóm đối chứng thường sử dụng màu sắc theo

màu giống với thực tế của sự vật hiện tượng hoặc dùng màu để làm nổi bật bức tranh,

nhiều trẻ vẽ màu theo ý tưởng, sáng tạo riêng như con mèo trẻ tô mỗi bộ phận là một

màu khác nhau và màu sắc chủ đạo của nhóm này vẫn là bút màu sáp là chủ yếu, chỉ

một số chi tiết nhỏ trẻ phối hợp màu nước, bút lông, bút dạ. Trong khi đó, trẻ ở nhóm

thử nghiệm, rất thích sử dụng màu nước và các màu hỗ trợ nên các tranh vẽ của trẻ

rất nổi bật. Phần lớn trẻ chú ý tô màu theo ý đồ miêu tả của mình, trẻ còn sử dụng

các màu biến thể của cùng một gốc màu, trẻ linh hoạt thay đổi màu sắc của sự vật

hiện tượng theo thời gian, thời tiết. Màu sắc trong tranh vẽ có mảng đậm, mảng nhạt,

gợi cảm như ông mặt trời màu đỏ chiếu những tia nắng màu vàng hay tô nhưng đám

mây cùng một màu nhưng có chỗ đậm, chỗ nhạt.

* Hình vẽ

Sự biểu hiện khả năng sáng tạo trong việc thể hiện hình vẽ ở mức độ cao ở

nhóm TN cao hơn trẻ nhóm ĐC và cao nhất trong các tiêu chí và khác biệt này được

kiểm nghiệm là có ý nghĩa về mặt thống kê (sig.= 0.009, sig.=0.009< α=0.05). Ở

nhóm đối chứng, nhiều tranh vẽ thể hiện được nét đặc trưng riêng, hình ảnh thể hiện

91

được trạng thái và có sự liên kết với nhau làm cho tổng thể tranh hài hòa, số lượng

sáng tạo ở nhóm này là 10 trẻ. Bên cạnh đó, những sản phẩm đạt mức trung bình thì

thể hiện hình ảnh trong tranh vẽ còn nghèo nàn, số lượng hình ảnh ít, sự vật hiện

tượng còn rập khuôn. Rất ít trẻ sử dụng các nguyên vật liệu hỗ trợ để tạo nên những

hình ảnh mới lạ, đẹp, ngộ nghĩnh. Nguyên nhân là trẻ không biết kết hợp như thế nào

trong tranh vẽ của mình, đây là điều mà các GV cần quan tâm để giúp trẻ phát triển

khả năng sáng tạo trong HĐVTYT.

Ở nhóm thử nghiệm, khả năng sáng tạo ở hình vẽ đạt mức độ cao là 20 trẻ, số

lượng hình ảnh trong từng tranh vẽ nhiều, rất phong phú, có sự liên kết với nhau và

mang những nét đặc trưng của sự vật. Ngoài ra trẻ còn tưởng tượng những đặc điểm

riêng theo suy nghĩ của trẻ như trong tranh “Ếch học hát” khi vẽ ếch ngồi trên lá sen

trẻ vẽ thêm kèn, trống; trong tranh “Đàn gà trong sân” trẻ vẽ gà con đứng trên lưng

mẹ, ông mặt trời buồn và có những giọt mưa rơi xuống. Các nhân vật trong tranh đều

có sự thể hiện sự chuyển động như gà con tìm mồi, chim hót, chị ong quét sân, con

chim bay, con chuồn chuồn bay …rất ít sản phẩm có sự rập khuôn, đa số các trẻ vẽ

cùng một loài động vật nhưng đều có cách thể hiện khác nhau: Đều vẽ cá nhưng có

trẻ vẽ cá nhảy lên mặt nước, cá đớp mồi, cá bơi lội hoặc trẻ vẽ cá trong ao, trẻ vẽ cá

ở biển ….Ngoài ra, trẻ sử dụng thành thạo các nguyên vật liệu hỗ trở để tạo hình ảnh

con vật thêm sinh động như dùng cát nhiều màu tạo thân mình chị ong, dùng bông

gòn làm thân của thỏ … làm cho bức tranh rất lạ, đẹp và sống động.

Biểu đồ 3.4. Điểm trung bình các tiêu chí nhóm ĐC và TN

trong tranh Vẽ tự do (Chủ điểm: Động vật)

92

Bảng 3.5. Kết quả khả năng sáng tạo qua tranh “Vẽ theo truyện bé yêu thích”

Mức độ tưởng tượng sáng tạo

Kiểm nghiệm

Điểm

t (sig.<α=0.05

Tiêu chí

Nhóm

Cao

Trung bình Thấp

trung bình

có sự khác biệt )

SL % SL % SL %

Đối chứng

8

26.7 22 73.3

0

0

1.27

Tên tranh vẽ

0.018

Thử nghiệm

17 56.7 13 43.3

0

0

1.57

Đối chứng

8

26.7 22 73.3

0

0

1.27

Nội dung

0.002

Thử nghiệm

20 66.7 10 33.3

0

0

1.67

Đối chứng

7

23.3 23 76.7

0

0

1.23

Bố cục

0.017

Thử nghiệm

16 53.3 14 46.7

0

0

1.53

Đối chứng

7

23.3 23 76.7

0

0

1.23

Màu sắc

0.032

Thử nghiệm

15 50.0 15 50.0

0

0

1.50

Đối chứng

9

30.0 21 70.0

0

0

1.30

Hình vẽ

0.038

Thử nghiệm

17 56.7 13 43.3

0

0

1.57

Đối chứng

4

13.3 26 86.7

0

0

6.30

Tổng điểm

0.000

Thử nghiệm

17 56.7 13 43.3

0

0

7.77

Kết quả thử nghiệm cho thấy, đây là đề tài có điểm trung bình thấp nhất ở cả

hai nhóm. Khả năng sáng tạo ở các tiêu chí nhóm ĐC đa số đạt ở mức độ trung bình,

chỉ một số ít đạt mức độ cao. Nhóm TN tuy điểm trung bình thấp hơn so với các đề

tài trước nhưng so với nhóm ĐC khả năng sáng tạo vẫn cao gấp đôi. Qua kiểm

nghiệm t chúng ta thấy ở hai nhóm có sự khác biệt rõ nét (sig=0.00<α=0.05), sự

chênh lệch này được kiểm nghiệm có ý nghĩa về mặt thống kê và tiêu chí nội dung

dẫn đầu các tiêu chí, tiếp đến là hình vẽ, tên tranh vẽ, bố cục và cuối cùng là màu

sắc. Cụ thể:

* Tên tranh vẽ

Điểm trung bình của nhóm thử nghiệm cao hơn nhóm đối chứng và khác biệt

này là có ý nghĩa (sig.=0.018, sig.=0.018 < α=0.05).

Qua quá trình phân tích tranh vẽ chúng tôi thấy trẻ lấy hình ảnh trọng tâm nổi

bật trong tranh để đặt tên cho bức tranh của mình. Đây là đề tài khá khó vì ngoài việc

93

chú ý quan sát tranh mẫu, gợi ý của GV trẻ phải có khả năng nghe hiểu truyện và

phải biết tưởng tượng đối tượng vẽ phù hợp với tình tiết của truyện.

Ở nhóm đối chứng, khi giáo viên phát giấy vẽ một số trẻ cắm cúi vẽ, một số trẻ

ngồi suy nghĩ khá lâu mới bắt đầu vẽ, một số khác quay sang nhìn bạn rồi thay đổi ý

định vẽ trước đây của mình. Hầu như trẻ đều đặt được tên cho tranh vẽ nhưng khả

năng sáng tạo cho tên tranh vẽ không nhiều, trẻ vẫn còn bị ảnh hưởng bởi tên câu

chuyện và các tên cô gợi ý trước đó, số trẻ đạt mức độ cao ở tiêu chí này dao động từ

6 - 7 trẻ. Truyện “Cô bé quàng khăn đỏ” trẻ đặt tên “Cô bé không vâng lời mẹ ” hay

“Con sói hung ác”, Truyện “Tích chu” trẻ đặt tên “Cô tiên xinh đẹp giúp cậu bé”

hay “Tích Chu ham chơi”…

Nhóm thử nghiệm, khi áp dụng các biện pháp thì trẻ tỏ ra sung sướng khi cô

giới thiệu đề tài, trẻ nhanh chóng vẽ ngay khi cô phát giấy vẽ vì đã có ý định từ trước

và hoàn thành cũng nhanh hơn so với nhóm ĐC. Vốn biểu tượng, sự sáng tạo, xúc

cảm đều được bộc lộ trong nội dung tranh và tranh nào cũng có tên rõ ràng, mới lạ

như truyện “Cô bé quàng khăn đỏ” trẻ đặt tên “Bác thợ săn tốt bụng”, “Sói hung ác

và cô bé khăn đỏ” … ; Truyện “Ba Cô gái” có tên “Cô út xinh đẹp”, “Chị cả xấu

xa”, “Sóc tốt bụng”, “Cả nhà yêu thương nhau”…; Truyện “Sự tích cây vú sữa” có

tên khác lạ “Dòng sữa ngọt ngào”, “Hối hận” …

* Nội dung tranh vẽ

Đây là tiêu chí có điểm trung bình cao nhất trong các tiêu chí, đặc biệt có sự

chênh lệch và khác biệt rõ nét có ý nghĩa về mặt thống kê (sig.=0.002, sig.=0.002 <

α=0.05), cụ thể nhóm TN có số trẻ sáng tạo về mặt nội dung tranh vẽ cao gấp 3 lần

so với nhóm ĐC. Phân tích từng tranh vẽ cho thấy nhóm ĐC nội dung tranh của các

trẻ gần như giống nhau, tranh rập khuôn với những tranh cô cho trẻ xem trước đó

hoặc giống như các tình tiết của truyện, ít có tranh thể hiện theo ý đồ riêng của trẻ.

Trẻ vẽ chủ yêu tập trung vào nhân vật thêm vào tranh là những chi tiết phụ như ông

mặt trời, mây, hoa, cỏ.

- Ngược lại, nhóm TN tranh vẽ của trẻ đa dạng về mặt nội dung, trẻ đã tạo ra

những hình ảnh và sắp xếp chúng theo ý đồ riêng của bản thân mình tạo nên bức

tranh sinh động, khác lạ và không rập khuôn lại những bức tranh, hình ảnh mà trẻ đã

94

xem trước đó như: Trẻ vẽ cô bé quàng khăn đỏ mặc chiếc áo màu đỏ đang leo lên núi

hái hoa, bắt bướm; vẽ cậu bé leo trèo trên cây hái trái khi đi chơi trong truyện Tích

chu; Vẽ cậu bé ngồi trên thuyền qua biển để xin nước suối tiên cho bà uống, xung

quanh có đồi núi; Cậu bé vẽ vòng tay ôm trọn cây vú sữa vào người, xung quanh có

nhiều người khóc; vẽ người chị cả biến thành cua và có sóc đứng cạnh bên, xung

quanh có biển;…Rất nhiều trẻ vẽ nội dung của những câu truyện khác mà GV không

gợi ý trước đó như: trẻ vẽ hoàng tử và cô tấm đi qua cây cầu, Vẽ rừng tre và ông bụt

trong truyện “Cây tre trăm đốt” …Kết quả này chính là quá trình trẻ được nhìn

ngắm, quan sát, ghi nhớ và tưởng tượng để rồi thể hiện qua tranh vẽ thật phong phú

và đa dạng.

* Bố cục

Với tiêu chí này, điểm trung bình của nhóm TN cao hơn nhóm ĐC tuy nhiên

khả năng sáng tạo về mặt bố cục cả hai nhóm ở mức độ cao không nhiều và thấp nhất

so với các đề tài trước. Kết quả này đã được GV lớp và chúng tôi dự đoán từ trước

nhưng sự chênh lệch và khác biệt này đã được kiểm nghiệm là có ý nghĩa về mặt

thống kê (sig.=0.017, sig.=0.017 < α=0.05).

Ở nhóm đối chứng, hình ảnh nhân vật trên mặt giấy vẽ chưa cân đối, hài hòa,

rất nhiều trẻ vạch đường thường thẳng ngang làm mặt đất và liệt kê các hình vẽ trên

đó và không có vật nào bị che khuất. Phần lớn trẻ chưa thể hiện được luật phối cảnh

nên tranh vẽ thiếu sự sinh động. Một số trong khi vẽ đột ngột thay đổi dự định nội

dung sẽ vẽ nên trong quá trình vẽ thường bất chợt nghĩ ra và thêm vào một số chi tiết

làm cho nhiều tranh vẽ chưa cân đối. Mặt khác, các chi tiết sắp xếp rời rạc ít có sự

liên kết chặt chẽ nhau và trẻ cũng ít chú ý đến kích thước của các nhân vật trong

tranh

Nhóm TN thì nhiều tranh vẽ bố cục cân đối hơn tuy trong quá trình vẽ trẻ có

thêm vào một số chi tiết so với dự định nhưng hầu như không làm lệch sự cân bằng

trên – dưới, phải – trái trên giấy vẽ. Tranh vẽ cũng thể hiện được luật xa - gần và sử

dụng đa dạng nguyên vật liệu hỗ trợ làm nổi bật nội dung thể hiện. Trẻ cũng bắt đầu

chú ý kích thước của các hình ảnh: một số tranh vẽ trẻ biết vẽ sóc nâu nhỏ hơn bà,

cây vú sữa cao hơn cậu bé, cái nhà thì to …Nhiều chi tiết bị che khuất cũng được trẻ

95

quan tâm, chú ý khi thể hiện trong tranh vẽ: trẻ vẽ giường cho bà nằm chỉ có hai

chân, trẻ giải thích nhìn như thế này chỉ có hai chân; vẽ cậu bé đứng trước cây vú

sữa nên chỉ thấy tán cây, và thấy một phần của thân cây; ông mặt trời bị đám mây

che khuất nên chỉ thấy những tia nắng …Những tranh vẽ thể hiện luật phối cảnh

phong phú giúp bức tranh nổi bật, nhiều tầng cảnh và sinh động.

* Màu sắc

Biểu hiện khả năng sáng tạo trong việc thể hiện màu sắc tranh vẽ của nhóm TN

ở mức độ cao và trung bình bằng nhau, nhưng cao gấp đôi so với nhóm ĐC. Đây

cũng là đề tài có tiêu chí màu sắc thấp nhất so với các đề tài trước. Tuy nhiên khi

kiểm nghiêm sự khác biệt thì có ý nghĩa về mặt thống kê (sig.= 0.032, sig.=0.032

< α=0.05).

Trẻ ở nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm đều thích sử dụng màu sắc tươi

sáng cho tranh vẽ. Cụ thể, nhóm ĐC trẻ tô màu nền và tô màu hình mẫu không hài

hòa, chưa làm nổi bật đối tượng chính. Ở đề tài này trẻ có sự tiến bộ rõ rệt về kỹ

thuật tô màu, trẻ tô mịn và đều hơn, nhiều trẻ đã sử dụng giấy màu, màu nước, bút

lông, bút kim tuyến … nhưng còn lúng túng, vụng về khi sử dụng. Trẻ tô màu giống

với sự vật, hiện tượng thường ngày như là trẻ tô màu xanh của lá cây, màu nâu cho

cây, màu hồng cho bầu trời, ông mặt trời màu đỏ …, cũng có trẻ thể hiện màu chưa

gắn với ý tưởng miêu tả.

Ở nhóm thử nghiệm, trẻ sử dụng các nguyên vật liệu hỗ trợ rất thuần thục, phối

màu hài hòa, có mảng đậm, mảng nhạt. Phần lớn trẻ chú ý tô màu theo ý đồ miêu tả

làm nổi bật tranh vẽ ví dụ như: núi màu xanh trẻ chấm thêm vài màu đỏ trẻ giải thích

cây và hoa mọc trên núi, bầu trời màu đen nhạt trẻ diễn tả là sắp tối, trẻ dùng bút

kim tuyến màu tím tô quả vú sữa hay hoa trẻ dùng bút lông để vẽ và tô màu… Trong

quá trình tô màu, trẻ ở nhóm thực nghiệm chăm chút về màu sắc hình vẽ. Trẻ tô cẩn

thận, chậm để không bị lem ra ngoài, một số trẻ tỏ thái độ lo lắng, buồn khi tô không

được như ý “Cô ơi, con tô màu lem ra ngoài rồi, làm sao bây giờ?”, có trẻ sáng tạo

khi tranh bị lem “Cô ơi, con hết lem rồi!” thì ra đứa trẻ vẽ đối tượng to ra.

96

* Tiêu chí hình vẽ

Đây là tiêu chí đứng thứ hai trong các tiêu chí, điểm trung bình của nhóm thực

nghiệm cao hơn nhóm đối chứng và khác biệt này đã được kiểm nghiệm là có ý

nghĩa về mặt thống kê (sig.=0.038, sig.=0.038 < α=0.05). Ở nhóm đối chứng, phần

lớn khối lượng hình ảnh trong tranh vẽ rất ít và nghèo nàn, trẻ vẽ sự vật hiện tượng

còn rập khuôn chẳng hạn như vẽ nhân vật trai hay gái đều có đầu hình tròn, thân

hình vuông, chân hình chữ nhật; núi là hình tam giác, hoa thì cánh có dạng tròn, lá

dạng dài.

Ở nhóm thử nghiệm, trẻ có sự sáng tạo về mẫu hình theo trí tưởng tượng của

trẻ: có trẻ vẽ mẹ, bác thợ săn rất già, bé khác lại vẽ rất trẻ; cây vú sữa cũng có rất

nhiều hình dạng khác nhau cây có nhiều cành và có một quả duy nhất, có cây nhiều

cành và nhiều quả; trẻ vẽ hình ảnh sóc nâu quá to so với bà …Các nhân vật trong

tranh đều có sự thể hiện các trạng thái hoặc hành động: trẻ vẽ Bà với nhiều tư thế

khác nhau trong mỗi tranh nằm, ngồi, buồn, vui; Sóc đang đi; Cậu bé bơi qua sông

tìm nước suối tiên cho bà. Ngoài ra, các hình ảnh trong tranh có sự liên kết tạo ra bức

tranh đầy màu sắc, mang những nội dung trọn vẹn.

Biểu đồ 3.5. Điểm trung bình các tiêu chí nhóm ĐC và TN

trong tranh “Vẽ theo truyện mà bé thích”

Tóm lại: Kết quả thực nghiệm ở 4 đề tài cho thấy khả năng sáng tạo trẻ nhóm

TN tăng lên, trong khi đó nhóm ĐC không có sự thay đổi nhiều. Trẻ nhóm TN có sự

97

thay đổi rõ nét, đa số trẻ rất thích vẽ, giàu vốn biểu tượng nên đề tài trẻ thể hiện với

những nội dung khá phong phú, ít có sự rập khuôn theo mẫu và theo hướng dẫn của

GV, trẻ độc lập trong suy nghĩ và thể hiện ý tưởng sáng tạo của mình. Ngược lại ở

nhóm đối chứng, khả năng này chỉ thể hiện ở một vài trẻ, phần lớn còn hạn chế, tranh

vẽ của trẻ nội dung chưa phong phú, hình ảnh không sinh động, bố cục thiếu sự hài

hòa và chưa thể hiện được ý đồ miêu tả. Điều này cho thấy việc áp dụng các biện

pháp đã có hiệu quả, góp phần kích thích trẻ suy nghĩ những điều mới mẻ trong quá

trình tạo ra sản phẩm, những biểu hiện của trẻ tuy không quá xuất sắc nhưng cũng là

dấu hiệu tích cực giúp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong

HĐVTYT.

98

Tiểu kết chương 3

Kết quả thử nghiệm cho thấy khả năng sáng tạo của trẻ nhóm thực nghiệm cao

hơn hẳn so với nhóm đối chứng. Cụ thể, trước thử nghiệm khả năng sáng tạo trong

HĐVTYT ở hai nhóm tương đồng nhau. Sau thực nghiệm, nhóm TN có điểm trung

bình trên 5 tiêu chí đều cao gấp đôi, thậm chí có những tiêu chí cao gấp 3 lần nhóm

ĐC. Tỷ lệ trẻ có biểu hiện tưởng tượng sáng tạo ở 5 tiêu chí đạt mức độ cao tăng lên

đáng kể, đa số trẻ thể hiện các bức tranh một cách độc lập, sáng tạo theo ý tưởng

riêng của từng cá nhân. Điều này chứng tỏ các biện pháp áp dụng trong quá trình

thực nghiệm đã có hiệu quả đối với việc nâng cao khả năng sáng tạo của trẻ .

Qua kết quả thử nghiệm kiểm chứng với 4 đề tài ở trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong

HĐVTYT, cho thấy hiệu quả của việc nâng cao mức độ tưởng tượng sáng tạo là do

tác động của những biện pháp sau đây:

- Tổ chức cho trẻ tri giác học cụ trực quan đa dạng về chủng loại và hình thức

giúp vốn biểu tưởng về sự vật hiện tượng tăng lên đáng kể góp phần phát triển khả

năng sáng tạo cho trẻ.

- Tạo môi trường tốt cho trẻ trong hoạt động vẽ theo ý thích giúp trẻ hứng thú

hơn đối với hoạt động vẽ. Mặt khác, làm sống lại các biểu tượng, kỹ năng vẽ liên

quan đến các đề tài.

Giúp trẻ luyện tập kỹ năng vẽ theo ý thích nhằm cũng cố lại các kỹ năng vẽ cho trẻ.

99

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận

Trong các hoạt động của trẻ ở trường mầm non, hoạt động tạo hình nói chung

và hoạt động vẽ nói riêng là một trong những hoạt động có môi trường thuận lợi để

phát triển tưởng tượng, đặc biệt là khả năng sáng tạo của trẻ. Với sự phong phú của

các thể loại vẽ như: vẽ theo mẫu, vẽ theo đề tài, vẽ tự do thì vẽ theo thể loại tự do

giúp trẻ không những được tiếp cận một cách tích cực với thế giới xung quanh mà

còn là cơ hội để bồi dưỡng những xúc cảm tình cảm thẩm mỹ và khả năng sáng tạo

của trẻ. Khi tham gia vào hoạt động vẽ, khả năng này có điều kiện bộc lộ và phát

triển cao. Những sản phẩm nghệ thuật của trẻ rất “ngây thơ” và “trẻ con” nhưng

trong cái non nớt ấy là cả sự tưởng tượng, sáng tạo kỳ diệu. Vì vậy, nghiên cứu việc

phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong HĐVTYT là cần thiết.

Từ kết quả nghiên cứu đề tài, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:

1.1. Sáng tạo của trẻ mầm non là những biểu hiện dựa trên sự tự do, khoáng

đạt, trẻ dễ dàng suy nghĩ và sáng tạo. Cơ bản sự tưởng tượng, sáng tạo của trẻ giống

như một trò chơi mà trẻ thể hiện một cách tự nhiên, thoải mái. Khả năng sáng tạo

trong HĐVTYT là quá trình trẻ sử dụng những kinh nghiệm và vốn sống đã có để

nhào nặn, liên kết chúng lại với nhau tạo thành một sản phẩm có nội dung theo ý

riêng của trẻ dựa vào các đường nét, hình dạng, bố cục và màu sắc.

1.2. Thực trạng khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong HĐVTYT ở

một số trường mầm non trong địa bàn Thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre ở mức trung

bình là chủ yếu. Mặc dù, giáo viên nhận thức được vai trò của sáng tạo trong

HĐVTYT là cần thiết nhưng việc tổ chức hoạt động nhằm phát triển khả năng sáng

tạo cho trẻ còn nhiều hạn chế và chưa khoa học. Giờ học còn cứng nhắc, rập khuôn

vì vậy chưa phát huy được tính tích cực, sáng tạo trong hoạt động vẽ của trẻ, trẻ chủ

yếu thực hiện theo hướng dẫn, gợi ý của GV. Trẻ gặp nhiều khó khăn khi phải tự thể

hiện các tranh vẽ đòi hỏi có sự tham gia của tưởng tượng và sáng tạo.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên nhưng chủ yếu xuất phát từ hạn

chế của giáo viên về các biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ trong

HĐVTYT. Tuy nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển khả năng sáng tạo

100

cho trẻ, nhưng giáo viên còn gặp khó khăn trong việc tìm kiếm các biện pháp tác

động phù hợp để phát triển khả năng này. Các biện pháp GV sử dụng chưa hình

thành: cảm xúc thẩm mỹ, ý tưởng, nội dung vẽ, năng lực sử dụng các phương tiện

miêu tả nên chưa giúp tác phẩm của trẻ được truyền cảm và năng lực hoạt động sáng

tạo. Phương pháp dạy còn cứng nhắc, gò ép áp đặt theo yêu cầu chung.

1.3. Căn cứ vào cơ sở lý luận và thực tiễn, chúng tôi đề xuất thử nghiệm ba biện

pháp sau:

- Tổ chức cho trẻ tri giác học cụ trực quan.

- Giúp trẻ luyện tập kỹ năng vẽ theo ý thích.

- Tạo môi trường tốt cho trẻ trong hoạt động vẽ theo ý thích.

Các biện pháp này đã được thử nghiệm và có kết quả khả quan trong việc phát

triển khả năng sáng tạo cho trẻ. Các tiêu chí ở nhóm thử nghiệm đều cao hơn nhóm

đối chứng và kiểm nghiệm sự khác biệt thì có ý nghĩa về mặt thống kê (sig.<

α=0.05). Khi áp dụng những biện pháp này trẻ thích thú, tích cực và sáng tạo hơn

trong HĐVTYT. Cụ thể: ở nhóm ĐC, biết mình sắp được vẽ một số trẻ tỏ hứng thú

rất ít. Trong quá trình dạy, giáo viên thường làm việc với những bạn tích cực, số

khác ít được cô chú ý gọi lên phát biểu nên trẻ lơ là, một số trẻ tỏ ra lo lắng về nội

dung sắp vẽ. Trong quá trình vẽ: sự thích thú giảm dần, không khí lớp học ít sôi

động, trẻ hay quay sang nhìn nhau rồi bắt chước, vẽ xong trẻ nộp bài ngay, rất ít trẻ

ngắm nhìn sản phẩm. Trong quá trình nhận xét, cô mời một vài trẻ lên nhận xét tranh

của bạn, sau đó cô nhận xét tranh của trẻ và kết thúc giờ học.

Ngược lại, nhóm thử nghiệm, khi giới thiệu đề tài sắp vẽ, trẻ phấn khởi, hăng

hái phát biểu ý kiến, háo hức chờ đợi cô gọi đến tên mình để được trình bày nội dung

sẽ vẽ. Trong quá trình thực hiện tranh vẽ trẻ say sưa thể hiện ý tưởng, không nói

chuyện với bạn, nét vẽ tỉ mỉ và chăm chút. Trẻ mỉm cười khi vẽ xong một chi tiết nào

đó, một số trẻ khoe với bạn. Khi nhận xét, trẻ đưa ra lời nhận xét phù hợp và trầm trồ

lên khi phát hiện những ý tưởng độc đáo khác lạ khi quan sát các bài vẽ của bạn.

Kết quả này cũng phù hợp với giả thuyết khoa học mà chúng tôi đặt ra. Nếu đề

xuất được một số biện pháp hợp lý thì sẽ tạo điều kiện phát triển khả năng sáng tạo

cho trẻ 5 - 6 tuổi trong HĐVTYT.

101

2. Kiến nghị

Trên cơ sở những nghiên cứu, chúng tôi có một số kiến nghị sau:

2.1. Với Sở Giáo dục & Đào tạo tỉnh Bến Tre

- Xây dựng chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non theo hướng cụ thể

hóa và hệ thống hóa các yêu cầu, nội dung, hình thức, biện pháp phát triển khả năng

sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong HĐVTYT và kèm theo hướng dẫn thực

hiện.

- Cần mở các lớp bồi dưỡng khả năng tạo hình nói chung và HĐVTYT nói

riêng cho GV để giúp cho quá trình hướng dẫn trẻ đạt kết quả.

2.2. Với Ban giám hiệu các trường mầm non

- Khuyến khích giáo viên tích cực tìm tòi, sáng tạo các biện pháp tổ chức

HĐVTYT mới nhằm nâng cao hiệu quả phát triển khả năng tưởng tượng sáng tạo cho

trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở trường MN.

- Đảm bảo số lượng trẻ trong 1 lớp theo quy định, giúp giáo viên thuận lợi hơn

trong quá trình tổ chức hoạt động cho trẻ.

- Không gò bó thời gian tổ chức giờ học tạo hình nói chung và giờ vẽ nói riêng

để GV có điều kiện cung cấp nhận thức cho trẻ và trẻ có nhiều thời gian để sáng tạo

tranh vẽ của mình.

- Cần có sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc tích lũy vốn kinh

nghiệm chuẩn bị tiền đề cần thiết cho hoạt động vẽ của trẻ.

2.3. Với giáo viên mầm non

- Thường xuyên học tập, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn cũng như

kĩ năng sư phạm của bản thân.

- Tổ chức tốt cho trẻ tri giác học cụ trực quan đa dạng để tăng vốn biểu tượng

về sự vật, hiện tượng xung quanh. Biểu tượng càng phong phú thì khả năng sáng tạo

của trẻ sẽ phát triển.

- Thường xuyên giúp trẻ luyện tập các kỹ năng vẽ cho trẻ qua các bài tập, trò

chơi hoặc giờ hoạt động tự do giúp trẻ ngày càng hoàn thiện khả năng vẽ.

- Tạo môi trường hoạt động vẽ tốt nhất cho trẻ giúp phát huy tính tự lập của trẻ

như tự nghĩ ra cách thực hiện, tự chọn nguyên vật liệu, tự giải quyết các tình huống

nảy sinh và trẻ có nhiều cơ hội phát triển khả năng sáng tạo khi tham gia hoạt động.

102

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Chương trình Giáo dục mầm non, Nxb Đại học Sư

phạm, Hà Nội.

Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2009). Chuẩn phát triển 5 tuổi. Hà Nội: Nxb Giáo dục.

Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hỗ trợ giảng dạy và chăm sóc trẻ em.

WWW.mamnon.com.

Chu Quang Tiềm. (1999). Tâm Lý học văn nghệ (tr 5). TP.HCM: Nxb Giáo dục.

Đinh Thị Tứ. (2008). Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non. Thành phố Hồ Chí

Minh: Nxb Giáo dục.

Đức Uy. (1998). Tâm lý học sáng tạo (tr 28). Nxb Giáo dục.

Ekarelxkaia. (2000). Những nét vẽ ngộ nghĩnh. Tạp chí GDMN, (4).

Giáo dục phát triển thẩm mỹ cho trẻ mầm non thông qua hoạt động tạo hình.

http://Vinhphuc.Edu.Vn/Pgdyenlac/News/New95365.

Giber &Misen. (1990). Giáo dục của môn vẽ. Thông tin Đại học Pháp.

Hồ Hoàng Yến. (2011). Mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi trong hoạt

động vẽ ở một số trường Mầm non tại Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

(tr.26). Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục. Ngành giáo dục học. Trường Đại

học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh.

Kazakara, T.T. (1982). Trẻ em mẫu giáo vẽ. Nxb Thanh niên.

Lại Thị Kim Cúc. (2014). Một số biện pháp phát huy khả năng sáng tạo của trẻ 5-6

tuổi bản trong hoạt động ca hát ở trường mầm non. Luận văn thạc sĩ khoa học

giáo dục. Ngành giáo dục học. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí

Minh. Thành phố Hồ Chí Minh.

Lê Hồng Vân. (2002). Tạo hình và phương pháp hướng dẫn hoạt động tạo hình cho

trẻ em, Quyển 3 (tr.62 – 63). Hà nội: Nxb Đại học Quốc gia.

Lê Khanh. (2007). Khám phá trẻ em qua nét vẽ. Nxb Phụ nữ.

Lê Thanh Thủy. (2002). Sự phát triển trí tưởng tượng của trẻ em trong hoạt động

tạo hình. Tạp chí Giáo dục (22).

Lê Thanh Thủy. (2003). Phương pháp tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ mầm non.

Trường ĐHSP Hà Nội: Nxb Giáo dục.

103

Lê Thanh Thủy. (2007). Ảnh hưởng của tri giác tới tưởng tượng sáng tạo trong

hoạt động vẽ của trẻ 5 – 6 tuổi. Luận án tiến sĩ. Ngành giáo dục học. Trường

Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh.

Lê Thanh Thủy. (2009). Phương pháp tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ mầm non.

Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Đại học Sư phạm.

Lê Thị Hoàng Trang. (2005). Một số biện pháp phát huy khả năng sáng tạo của trẻ

5-6 tuổi trong hoạt động âm nhạc ở trường mầm non, Luận văn Thạc sĩ.

Ngành giáo dục học. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

Thành phố Hồ Chí Minh.

Lê Thị Thanh Bình. (2006). Phương pháp hướng dẫn hoạt động tạo hình trong

trường mầm non. trường CĐSP Trung ương 3: Nxb Giáo dục.

Lê Xuân Hồng. (2002). Giáo dục nghệ thuật cho trẻ lứa tuổi mầm non. Nxb Phụ nữ.

Leonchiev, A.N. (1980). Sự phát triển tâm lý trẻ em. Trường CĐSP Trung ương 3:

Nxb Giáo dục.

Lương Thị Hồng Thúy. (2016). Một số hình thức tổ chức hoạt động vẽ theo ý thích

cho trẻ mẫu giáo lớn tại trường mầm non. Trường Đại học Quảng Bình

Ngô Thị Tuyết Mai. (2013). Biện pháp phát huy khả năng sáng tạo cho trẻ 5-6 tuổi

trong trò chơi đóng kịch. Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục. Ngành giáo dục

học. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí

Minh.

Nguyễn Ánh Tuyết. (2002). Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non (tr.9). Hà Nội:

Nxb Đại học Sư phạm.

Nguyễn Cảnh Toàn. (1997). Khơi dậy tiềm năng sáng tạo. Thành phố Hồ Chí Minh:

Nxb Giáo dục.

Nguyễn Đức Uy. (1999). Tâm lý học sáng tạo. Hà Nội: Nxb Giáo dục.

Nguyễn Huy Tú. (1996). Đề cương bài giảng tâm lý sáng tạo. Hà Nội: Viện

KHGD.

Nguyễn Huỳnh Ngọc Thủy. (2014). Biện pháp phát huy khả năng sáng tạo của trẻ mẫu

giáo 5-6 tuổi trong hoạt động vẽ. Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục. Ngành giáo

104

dục học. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ

Chí Minh.

Nguyễn Như Ý. (2007). Từ điển Tiếng Việt (tr.67). Nxb Giáo dục.

Nguyễn Quốc Toản. (1997). Về việc đánh giá sản phẩm tạo hình của trẻ mẫu giáo.

Tạp chí Giáo dục Mầm non

Nguyễn Quốc Toản. (2009). Giáo trình hướng dẫn tổ chức hoạt động tạo hình cho

trẻ mầm non. Nxb Đại học Sư Phạm.

Nguyễn Thị Huệ. (2007). Một số biện pháp tổ chức hoạt động tạo hình nhằm phát

triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi. Luận văn thạc sĩ khoa học

giáo dục. Ngành giáo dục học. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí

Minh. Thành phố Hồ Chí Minh.

Nguyễn Thị Ngọc Kim. (2005). Một số biện phát bồi dưỡng khả năng sáng tạo của trẻ

Mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua hoạt động vẽ theo ý thích (tr.10 – 11). Luận văn thạc

sĩ. Ngành giáo dục trẻ em trước tuổi học. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

Nguyễn Thị Ngọc Nuôi. (2013). Một số biện pháp phát triển khả năng tưởng tượng

sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong hoạt động kể chuyện. Luận văn thạc

sĩ khoa học giáo dục. Ngành giáo dục học. Trường Đại học Sư phạm Thành

phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh.

Nguyễn Thị Thanh Hương. (2006). Ảnh hưởng của môi trường giáo dục đối với khả

năng sáng tạo của trẻ trong hoạt động tạo hình. Thông tin khoa học Giáo dục

mầm non.

Nguyễn Văn Đạm. (1999). Từ điển Tiếng Việt tường giải và liên tưởng Tiếng Việt.

Hà Nội: Nxb Văn Hoá Thông tin.

Phạm Thị Nguyên Chi. (2013). Biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5

- 6 tuổi tại góc tạo hình (tr.36). Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục. Ngành

giáo dục học. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố

Hồ Chí Minh.

Phạm Thu Hương. (2007). Tiềm năng sáng tạo và biểu hiện của nó trong vận động

theo nhạc của trẻ Mẫu giáo 5- 6 tuổi. Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục. Ngành

105

giáo dục học. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ

Chí Minh.

Phan Lan Anh. (2010). Sử dụng bộ chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi.

Phan Thị Thu Hiền. (2002). Con đường phát triển sức sáng tạo ở trẻ em. Tạp chí

Giáo dục Mầm non (1).

Prentice Hall (1991), The arts in early childhood, Australia.

Rogatkina, J. (2000). Nào cùng vẽ, cùng sáng tạo, cùng tưởng tượng. Tạp chí

GDMN (6).

Trần Hiệp và Đỗ Long. (1990). Sổ tay tâm lý học. Hà Nội: Nxb KHXH.

Trần Trọng Thủy. (2000). Sáng tạo: Một chức năng quan trọng của trí tuệ. Thông

tin khoa học giáo dục (tr.2, 45) (81).

Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam. (1999). Đại từ điển Tiếng Việt

(tr.161, 1807). Nxb Văn hóa – Thông tin.

Ưng Thị Châu, Nguyễn Lăng Bình, Lê Đức Hiền. (1998). Tạo hình và phương pháp

hướng dẫn hoạt động tạo hình cho trẻ (tr.136). Hà Nội: Nxb Giáo dục.

Vụ Giáo dục mầm non. (2005). Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên mầm

non chu kì II 2004 – 2007 (tr.28). Hà Nội: Nxb Giáo dục.

Vwgotsky, L.X. (1985). Trí tưởng tượng và sáng tạo tuổi thiếu nhi. Nxb Phụ nữ.

Xaculina, N.P and Comarova,T.X. (1992). Phương pháp dạy hoạt động tạo hình.

Nxb Giáo dục.

DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1 ................................................................................................................ 1

PHỤ LỤC 2 ................................................................................................................ 5

PHỤ LỤC 3 ................................................................................................................ 6

PHỤ LỤC 4 ................................................................................................................ 7

PHỤ LỤC 5 ................................................................................................................ 8

PHỤ LỤC 6 .............................................................................................................. 10

PHỤ LỤC 7 .............................................................................................................. 20

PL1

PHỤ LỤC 1

PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN GIÁO VIÊN MẦM NON

( Dành cho Giáo viên trực tiếp dạy trẻ )

Nhằm đánh giá khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi thông qua

hoạt động vẽ theo ý thích tại các trường mầm non trên địa bàn TP. Bến tre, chúng

tôi thực hiện đề tài: “Biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 - 6

tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích”. Rất mong Cô vui lòng cho ý kiến về một số

vấn đề dưới đây:

Những thông tin Cô cung cấp chỉ phục vụ nghiên cứu, xin trân trọng cảm

ơn sự hợp tác và giúp đỡ nhiệt tình của quý Cô!

Xin Cô vui lòng cho biết ý kiến của mình bằng cách đánh dấu (X) vào

những ý chọn

Phần 1: Thông tin cá nhân

+ Giáo viên lớp:………Trường:………………………...............

+ Trình độ chuyên môn:

Sơ cấp  Trung cấp  Cao đẳng  Đại học  Sau đại học ………………………

Phần 2: Nội dung khảo sát

Câu 1: Cô vui lòng cho biết, việc phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu

giáo 5 - 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích quan trọng ở mức nào?

 a. Rất quan trọng

 b. Quan trọng

 c. Ít quan trọng

 d. Không quan trọng

Câu 2: Theo Cô, tranh vẽ TYT của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi được xem là có

sáng tạo khi:

 a. Vẽ theo những biểu tượng đã được học.

 b. Vẽ theo sự hướng dẫn của giáo viên

 c. Vẽ theo mẫu đã có sẵn

 d. Vẽ theo sự bắt chước bạn

 e. Vẽ theo ý nghĩ, sở thích riêng của trẻ.

PL2

Câu 3: Trong lớp Cô, hoạt động vẽ theo ý thích được tổ chức mấy lần trong

tháng?

 a. 1 lần

 b. 2 lần

 c. 3 lần

 d. 4 lần

 e. Ý kiến khác .................................................................................................

Câu 4: Xin Cô vui lòng đánh giá mức độ các biểu hiện khả năng sáng tạo

trong tranh vẽ của trẻ 5 - 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích ở lớp Cô đang công

tác:

Mức độ

Các biểu hiện Trung Cao Thấp bình

Sự mới lạ của tên tranh vẽ

Thay đổi thành phần các hình ảnh trong tranh

vẽ

Nội Thay đổi hình dáng hình ảnh trong tranh vẽ

dung Thay đổi sự liên kết giữa các yếu tố trong tranh

vẽ

Bố cục Tranh vẽ hài hòa, cân đối

Sử dụng luật phối cảnh thể hiện

chiều sâu trong tranh

Thể hiện màu sắc tự tạo Màu

Hình sắc Thể hiện màu sắc hài hòa, phù hợp

thức nội dung

Hình vẽ Đối tượng thể hiện dưới dạng hoạt

động

Đối tượng thể hiện tư thế phù hợp,

giàu hình tượng

PL3

Câu 5: Xin cô vui lòng đánh giá mức độ quan trọng của các tiêu chí sau trong

quá trình tổ chức hoạt động vẽ theo ý thích nhằm giúp trẻ phát triển khả năng sáng

tạo:

Mức độ

Các tiêu chí Quan Trọng Ít quan trọng Không quan trọng

Tạo hứng thú cho trẻ

Quan sát mẫu

Gợi nhớ những hình ảnh mà trẻ đã quan sát

Thể hiện ý tưởng và sáng tạo theo cách riêng

Đánh giá sản phẩm tạo hình

Câu 6: Hiện nay, Cô thường sử dụng biện pháp nào để phát triển khả năng

sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích?

Mức độ

Các biện pháp Thường Ít sử Không

sử dụng dụng sử dụng

Tổ chức cho trẻ tiếp xúc, quan sát sự vật, hiện tượng trong MTXQ

Tổ chức cho trẻ xem tác phẩm nghệ thuật ở triển lãm tranh

Tổ chức cho trẻ miêu tả nhận xét sản phẩm của mình và của bạn.

Sử dụng câu hỏi gợi mở để trẻ suy nghĩ và tưởng tượng

Hướng dẫn, luyện tập kỹ năng tạo hình cho trẻ

Sử dụng hình thức vẽ ngoài giờ học như: vẽ ngoài trời, vẽ ở hoạt động góc, nhóm chơi tạo hình

PL4

Câu 7: Cô vui lòng cho biết nguyên nhân ảnh hưởng đến khả năng sáng tạo

cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích?

 Giáo viên sử dụng chưa thường xuyên các biện pháp phát triển khả năng

sáng tạo cho trẻ trong HĐVTYT

 Giáo viên chưa thấy tầm quan trọng của việc phát triển khả năng sáng tạo

cho trẻ trong hoạt động vẽ theo ý thích

 Giáo viên gò bó, áp đặt trẻ khi tổ chức hoạt động

 Giáo viên không có nhiều thời gian để tổ chức thực hành, luyện tập

 Kỹ năng vẽ của trẻ hạn chế

 Trẻ không đủ thời gian thực hiện sản phẩm

 g. Số lượng trẻ quá đông

Câu 8: Cô có đề xuất, kiến nghị gì khi tổ chức hoạt động vẽ theo ý thích cho

trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi nhằm phát triển khả năng sáng tạo?

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

Xin chân thành cám ơn Cô!

PL5

PHỤ LỤC 2

PHIẾU QUAN SÁT NHỮNG BIỂU HIỆN SÁNG TẠO CỦA TRẺ MG 5-

6 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG VẼ THEO Ý THÍCH

Họ và tên trẻ: …………………………………………………………

Ngày tháng năm sinh: ………………………………………………...

Học tại lớp:………………………Trường……………………………

Ngày quan sát:………………………………………………………...

Không STT Biểu hiện sáng tạo của trẻ Đồng ý đồng ý

1 Mạnh dạn, tự tin

Tích cực, hứng thú tham gia vào hoạt động 2

Trẻ dể dàng và nhanh chóng tạo ra bức tranh từ gợi ý 3 của giáo viên

4 Độc lập trong khi vẽ

Biết tự mình nêu lên những ý tưởng mới lạ, không 5 làm theo khuôn mẫu của giáo viên

Người quan sát

PL6

PHỤ LỤC 3

PHIẾU DỰ GIỜ

Ngày dự: …………………………………………………………

Lớp: ……………………………………………….......................

Trường:…………………………..................................................

Hoạt động:………………………………………………………..

Đề tài:.............................................................................................

Giáo viên:.......................................................................................

Hoạt động Hoạt động của giáo viên Hoạt động của trẻ Nhận xét

Hoạt động 1

Hoạt động 2

Hoạt động 3

PL7

PHỤ LỤC 4

Một số bài tập tạo hình giúp phát triển khả năng sáng tạo ở trẻ.

Vườn của Ba

Ba của bạn Lan được một người bạn cho rất nhiều hạt giống về nhiều loại cây

ăn quả, nhiều loại rau và nhiều loại hoa khác nhau. Ba bạn đã đem hạt giống gieo

trong vườn. Sau một tháng, những cây xanh, rau và hoa sẽ mọc ra như thế nào nhỉ?

Con hãy phát huy trí tưởng tượng, vẽ những vườn cây xanh và hoa cho thật đẹp

nhé! (giáo viên gợi ý thêm về ông mặt trời, mây, chú chim, con cò, …)

Thỏ qua sông

Thỏ con vác một túi cà rốt ra chợ, nhưng đường đến chợ rất xa. Thỏ phải đi bộ

một đoạn đường rất dài và phải qua một con sông rộng. Làm thế nào qua được sông

mà không bị ướt gạo bây giờ? Em hãy nghĩ cách giúp thỏ con được không? (GV gợi

ý cho trẻ vẽ các phương tiện giao thông đường bộ, đường thủy, đường hàng không

và vẽ dòng sông, thỏ, chiếc cầu, … )

Nhà nhiếp ảnh tài ba

Gà trống có sở thích là chụp ảnh, gà trống chụp nhiều cảnh đẹp về khu rừng và

các bạn của gà trong rừng đó các con. Cô rất thích những bức ảnh của bạn gà. Các

con có muốn xem bạn gà đã có những ảnh đẹp nào không? Lớp mình cùng xem với

Cô và Cô sẽ cho các con vẽ lại bức ảnh mà con thích nhé!

Ước mơ của Hoa

Bạn Hoa rất thích nghe mẹ kể chuyện, bạn thích nhất là truyện: cô bé quàng

khăn đỏ, Tích chu, Ba cô gái, Sự tích cây vú sữa và Hoa có một mơ ước được vẽ về

câu chuyện đó. Nhưng Hoa không biết vẽ như thế nào? Các con có thể giúp bạn

Hoa thực hiện được mơ ước này không? Hãy thử tưởng tượng ra và vẽ nhé!

PL8

PHỤ LỤC 5

Một số trò chơi giúp rèn kỹ năng và phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ.

Trò chơi: Xếp hình

Mục đích: Trẻ nhận biết các dạng hình học, nhận biết màu và biết sắp xếp các

hình tạo thành một đối tượng hoặc nhiều đối tượng có bố cục đẹp.

Chuẩn bị: Các hình học bằng bìa carton nhiều kích thước khác nhau (hình

vuông, hình tròn, hình tam giác, hình chữ nhật, hình bầu dục …)

Giấy. Bút màu, màu nước, bút lông, bút kim tuyến.

Cách chơi: Trẻ xếp các hình thành nhiều đối tượng riêng lẻ khác nhau hoặc

xếp hình thành một bức tranh có bố cục. Yêu cầu trẻ nói tên hình, màu sắc. Sau đó,

yêu cầu trẻ vẽ lại các hình mà trẻ đã xếp (VD: ông mặt trời: trẻ chọn hình tròn màu

đó hoặc vàng, tia năng là hình chữ nhật xếp xung quanh.)

Trò chơi: Sự biến đổi của màu sắc

Mục đích: Trẻ biết kết hợp ba màu cơ bản thành nhiều màu sắc khác nhau,

phát triển khả năng phán đoán, quan sát và óc sáng tạo ở trẻ.

Chuẩn bị: Ba hộp màu cơ bản, khay màu, bút lông, nước, khăn, vỏ chai nhựa, giấy

Cách chơi: Mỗi trẻ ba màu cơ bản, bút lông, khay màu, cho trẻ ngồi theo nhóm,

mỗi nhóm cô chuẩn bị chai nhựa đựng nước, khăn lau bút, lau tay đủ cho các trẻ. Yêu

cầu trẻ kết hợp hai màu với nhau và đoán xem sẽ xuất hiện màu gì? Cho trẻ thực hành

pha màu mới và nêu kết quả. Sau đó, trẻ sử dụng các màu đã pha vẽ tranh theo ý thích.

Trò chơi: Ai khéo thế

Mục đích: Cũng cố kỹ năng vẽ, tô màu, tạo bố cục cho bức tranh đẹp, hoàn chỉnh.

Chuẩn bị: Các bức tranh vẽ đối tượng còn thiếu một vài bộ phận; Bút màu,

màu nước, bút lông

Cách chơi: Cô vẽ đối tượng còn thiếu một vài bộ phận. Trẻ quan sát phát hiện

ra bộ phận còn thiếu, trẻ vẽ các bộ phận còn thiếu và vẽ thêm nhiều chi tiết khác để

tạo ra bức tranh có bố cục và tô màu cho tranh.

Trò chơi: Thi ai vẽ nhanh, vẽ đẹp

PL9

Mục đích: Cũng cố kỹ văng vẽ các hình học, khắc sâu biểu tượng về các dạng

hình học

Chuẩn bị: Gấy, nguyên vật liệu dùng để vẽ

Cách chơi: Cô vẽ lên các tờ giấy các hình học ( hình vuông, hình tròn, chữ

nhật, …). Yêu cầu trẻ tưởng tượng những hình này sẽ biến thành hình gì tùy vào

từng trẻ vẽ thêm hình, đường nét vào

VD: cô vẽ hình tròn vào tờ giấy, trẻ có thể vẽ thành ông mặt trời, đầu con thỏ,

mặt người, …

Cô vẽ hình vuông trẻ vẽ thêm hình tam giác làm mái nhà, hình vuông nhỏ làm

của sổ, hình chữ nhật làm cửa ra vào …

Trò chơi: Ai nhanh - ai khéo

Mục đích: Rèn luyện tư duy hình tượng; Cũng cố các kỹ năng vẽ, tô màu

Chuẩn bị: Các câu đố

Cách chơi: Cô đọc câu đố, kết thúc câu đố trẻ đoán và vẽ hình vào giấy, tô

màu phù hợp

Vd: Quả gì ruột đỏ, lấm tấm hạt đen, mời bạn nếm xem, ngọt ơi là ngọt

Quả gì ở trên giàn, từng chùm chín mọng mang toàn chưa O

Con gì gáy ò,ó o; sáng sớm tinh mơ; gọi người thức dậy…

Con gì có đôi tay dài, thích ăn củ cà rốt …

Chú ý: Sau mỗi trò chơi cho trẻ trưng bày sản phẩm và nhận xét

PL10

PHỤ LỤC 6

Đề tài: Vẽ quà tặng Ba, Mẹ

Tranh vẽ lớp đối chứng

PL11

Đề tài: Vẽ quà tặng Ba, Mẹ

Tranh vẽ lớp thử nghiệm

PL12

Đề tài: Vẽ tự do (Chủ điểm: thực vật)

Tranh vẽ lớp đối chứng

PL13

Đề tài: Vẽ tự do (Chủ điểm: thực vật)

Tranh lớp thử nghiệm

PL14

Đề tài: Vẽ tự do (Chủ điểm: Phương tiện giao thông)

Tranh vẽ lớp đối chứng

PL15

Đề tài: Vẽ tự do (Chủ điểm: Phương tiện giao thông)

Tranh vẽ lớp thử nghiệm

PL16

Vẽ tự do (Chủ điểm: Động vật)

Tranh vẽ lớp đối chứng

PL17

Vẽ tự do (Chủ điểm: Động vật)

Tranh vẽ lớp thử nghiệm

PL18

Vẽ tự do (Vẽ theo truyện bé yêu thích)

Truyện Quả bầu tiên

Truyện Sự tích quả dưa hấu

Truyện Ba cô gái

Tranh vẽ lớp đối chứng

PL19

Vẽ tự do (Vẽ theo truyện bé yêu thích)

Truyện Cô bé quàng khăn đỏ

Truyện Sự tích cây vú sữa

Truyện Cậu bé mũi dài

Tranh vẽ lớp thử nghiệm

PL20

PHỤ LỤC 7

Kết quả xử lý thống kê trước thử nghiệm

Đề tài: “Vẽ quà tặng người thân”

Nhom

Mean

Std. Deviation

Std. Error Mean

N

Tentranhve

Doi chung

1.40

.498

.091

30

Thu nghiem

1.37

.490

.089

30

noidung

Doi chung

1.37

.490

.089

30

Thu nghiem

1.33

.479

.088

30

bocuc

Doi chung

1.27

.450

.082

30

Thu nghiem

1.33

.479

.088

30

mausac

Doi chung

1.37

.490

.089

30

Thu nghiem

1.33

.479

.088

30

hinhve

Doi chung

1.30

.466

.085

30

Thu nghiem

1.20

.407

.074

30

tongdiem

Doi chung

6.70

.952

.174

30

Thu nghiem

6.57

.858

.157

30

Group Statistics

PL21

Levene's Test for Equality of Variances

t-test for Equality of Means

95% Confidence Interval of the Difference

F

Sig.

t

df

Sig. (2- tailed)

Mean Difference

Std. Error Difference

Lower

Upper

Tentranhve Equal variances

.269

.606

.261

58

.795

.033

.128

-.222

.289

assumed

.261 57.984

.795

.033

.128

-.222

.289

Equal variances not assumed

noidung

.282

.598

.266

58

.791

.033

.125

-.217

.284

Equal variances assumed

.266 57.972

.791

.033

.125

-.217

.284

Equal variances not assumed

bocuc

1.226 .273

-.555

58

.581

-.067

.120

-.307

.174

Equal variances assumed

-.555 57.765

.581

-.067

.120

-.307

.174

Equal variances not assumed

mausac

.282

.598

.266

58

.791

.033

.125

-.217

.284

Equal variances assumed

.266 57.972

.791

.033

.125

-.217

.284

Equal variances not assumed

hinhve

3.180 .080

.885

58

.380

.100

.113

-.126

.326

Equal variances assumed

.885 56.960

.380

.100

.113

-.126

.326

Equal variances not assumed

tongdiem Equal variances

.088

.768

.570

58

.571

.133

.234

-.335

.602

assumed

.570 57.385

.571

.133

.234

-.335

.602

Equal variances not assumed

Independent Samples Test

PL22

Kết quả xử lý thống kê sau thử nghiệm

Vẽ tự do (Chủ điểm: thực vật)

Nhom

N

Mean

Std. Deviation Std. Error Mean

Tentranhve

Doi chung

1.30

.466

.085

30

Thu nghiem

1.60

.498

.091

30

noidung

Doi chung

1.30

.466

.085

30

Thu nghiem

1.57

.504

.092

30

bocuc

Doi chung

1.27

.450

.082

30

Thu nghiem

1.57

.504

.092

30

mausac

Doi chung

1.37

.490

.089

30

Thu nghiem

1.67

.479

.088

30

hinhve

Doi chung

1.37

.490

.089

30

Thu nghiem

1.63

.490

.089

30

tongdiem

Doi chung

6.60

1.070

.195

30

Thu nghiem

8.03

1.066

.195

30

Group Statistics

PL23

Levene's Test for Equality of Variances

t-test for Equality of Means

95% Confidence Interval of the Difference

F Sig.

t

df

Sig. (2- tailed)

Mean Difference

Std. Error Difference

Lower

Upper

Tentranhve Equal variances assumed 2.417 .125

-2.408

58

.019

-.300

.125

-.549

-.051

-2.408 57.743

.019

-.300

.125

-.549

-.051

Equal variances not assumed

noidung Equal variances assumed 3.863 .054

-2.128

58

.038

-.267

.125

-.518

-.016

-2.128 57.649

.038

-.267

.125

-.518

-.016

Equal variances not assumed

bocuc

Equal variances assumed 6.176 .016

-2.432

58

.018

-.300

.123

-.547

-.053

-2.432 57.264

.018

-.300

.123

-.547

-.053

Equal variances not assumed

mausac

Equal variances assumed

.282 .598

-2.397

58

.020

-.300

.125

-.551

-.049

-2.397 57.972

.020

-.300

.125

-.551

-.049

Equal variances not assumed

hinhve

Equal variances assumed 0.000 1.000 -2.107

58

.039

-.267

.127

-.520

-.013

-2.107 58.000

.039

-.267

.127

-.520

-.013

Equal variances not assumed

tongdiem Equal variances assumed

.298 .587

-5.197

58

.000

-1.433

.276

-1.985

-.881

-5.197 57.999

.000

-1.433

.276

-1.985

-.881

Equal variances not assumed

Independent Samples Test

PL24

Kết quả xử lý thống kê sau thử nghiệm

Vẽ tự do (Chủ điểm: Phương tiện giao thông)

Nhom

Mean

Std. Deviation

Std. Error Mean

N

Tentranhve

Doi chung

1.27

.450

.082

30

Thu nghiem

1.53

.507

.093

30

noidung

Doi chung

1.40

.498

.091

30

Thu nghiem

1.67

.479

.088

30

bocuc

Doi chung

1.30

.466

.085

30

Thu nghiem

1.57

.504

.092

30

mausac

Doi chung

1.27

.450

.082

30

Thu nghiem

1.57

.504

.092

30

hinhve

Doi chung

1.30

.466

.085

30

Thu nghiem

1.60

.498

.091

30

tongdiem

Doi chung

6.53

1.196

.218

30

Thu nghiem

7.90

.885

.162

30

Group Statistics

PL25

Independent Samples Test

95% Confidence Interval of the Difference

Sig. (2- tailed)

Mean Difference

Std. Error Difference

Lower Upper

F

Sig.

t

df

Tentranhve Equal variances assumed 7.552

.008 -2.154

58

.035

-.267

.124

-.514

-.019

-2.154 57.177

.035

-.267

.124

-.515

-.019

Equal variances not assumed

noidung

Equal variances assumed 1.069

.305 -2.112

58

.039

-.267

.126

-.519

-.014

-2.112 57.914

.039

-.267

.126

-.519

-.014

Equal variances not assumed

bocuc

Equal variances assumed 3.863

.054 -2.128

58

.038

-.267

.125

-.518

-.016

-2.128 57.649

.038

-.267

.125

-.518

-.016

Equal variances not assumed

mausac

Equal variances assumed 6.176

.016 -2.432

58

.018

-.300

.123

-.547

-.053

-2.432 57.264

.018

-.300

.123

-.547

-.053

Equal variances not assumed

hinhve

Equal variances assumed 2.417

.125 -2.408

58

.019

-.300

.125

-.549

-.051

-2.408 57.743

.019

-.300

.125

-.549

-.051

Equal variances not assumed

tongdiem

Equal variances assumed 3.392

.071 -5.032

58

.000

-1.367

.272

-1.910

-.823

-5.032 53.430

.000

-1.367

.272

-1.911

-.822

Equal variances not assumed

Levene's Test for Equality of Variances t-test for Equality of Means

PL26

Kết quả xử lý thống kê sau thử nghiệm

Vẽ tự do (Chủ điểm: Động vật)

Nhom

Mean

Std. Deviation

Std. Error Mean

N

Tentranhve

Doi chung

1.27

.450

.082

30

Thu nghiem

1.57

.504

.092

30

noidung

Doi chung

1.27

.450

.082

30

Thu nghiem

1.67

.479

.088

30

bocuc

Doi chung

1.23

.430

.079

30

Thu nghiem

1.53

.507

.093

30

mausac

Doi chung

1.23

.430

.079

30

Thu nghiem

1.50

.509

.093

30

hinhve

Doi chung

1.30

.466

.085

30

Thu nghiem

1.57

.504

.092

30

tongdiem

Doi chung

6.30

.915

.167

30

Thu nghiem

7.77

1.135

.207

30

Group Statistics

PL27

Levene's Test for Equality of Variances

t-test for Equality of Means

95% Confidence Interval of the Difference

Sig. (2- tailed)

Mean Difference

Std. Error Difference

Lower Upper

F

Sig.

t

df

Tentranhve Equal variances assumed

6.176

.016

58

.018

-.300

.123

-.547

-.053

- 2.432

57.264

.018

-.300

.123

-.547

-.053

Equal variances not assumed

- 2.432

noidung

Equal variances assumed

1.226

.273

58

.002

-.400

.120

-.640

-.160

- 3.333

57.765

.002

-.400

.120

-.640

-.160

Equal variances not assumed

- 3.333

bocuc

Equal variances assumed

10.933

.002

58

.016

-.300

.121

-.543

-.057

- 2.470

56.487

.017

-.300

.121

-.543

-.057

Equal variances not assumed

- 2.470

mausac

Equal variances assumed

11.528

.001

58

.032

-.267

.122

-.510

-.023

- 2.193

56.448

.032

-.267

.122

-.510

-.023

Equal variances not assumed

- 2.193

hinhve

Equal variances assumed

3.863

.054

58

.038

-.267

.125

-.518

-.016

- 2.128

57.649

.038

-.267

.125

-.518

-.016

Equal variances not assumed

- 2.128

tongdiem Equal variances assumed

1.743

.192

58

.000

-1.467

.266 -2.000

-.934

- 5.509

55.508

.000

-1.467

.266 -2.000

-.933

Equal variances not assumed

- 5.509

Independent Samples Test

PL28

Kết quả xử lý thống kê sau thử nghiệm

Vẽ tự do (Vẽ theo truyện bé yêu thích)

Nhom

N

Mean

Std. Deviation Std. Error Mean

Tentranhve

Doi chung

1.17

.379

.069

30

Thu nghiem

1.43

.504

.092

30

noidung

Doi chung

1.30

.466

.085

30

Thu nghiem

1.60

.498

.091

30

bocuc

Doi chung

1.30

.466

.085

30

Thu nghiem

1.57

.504

.092

30

mausac

Doi chung

1.27

.450

.082

30

Thu nghiem

1.53

.507

.093

30

hinhve

Doi chung

1.33

.479

.088

30

Thu nghiem

1.67

.479

.088

30

tongdiem

Doi chung

6.37

1.033

.189

30

Thu nghiem

7.80

1.243

.227

30

Group Statistics

PL29

Levene's Test for Equality of Variances

t-test for Equality of Means

95% Confidence Interval of the Difference

F

Sig.

t

df

Sig. (2- tailed)

Mean Difference

Std. Error Difference

Lower Upper

Tentranhve Equal variances assumed 19.969

.000

-2.316

58

.024

-.267

.115

-.497

-.036

-2.316 53.854

.024

-.267

.115

-.498

-.036

Equal variances not assumed

noidung Equal variances assumed 2.417

.125

-2.408

58

.019

-.300

.125

-.549

-.051

-2.408 57.743

.019

-.300

.125

-.549

-.051

Equal variances not assumed

bocuc Equal variances assumed 3.863

.054

-2.128

58

.038

-.267

.125

-.518

-.016

-2.128 57.649

.038

-.267

.125

-.518

-.016

Equal variances not assumed

mausac Equal variances assumed 7.552

.008

-2.154

58

.035

-.267

.124

-.514

-.019

-2.154 57.177

.035

-.267

.124

-.515

-.019

Equal variances not assumed

hinhve Equal variances assumed

.000

1.000

-2.693

58

.009

-.333

.124

-.581

-.086

-2.693 58.000

.009

-.333

.124

-.581

-.086

Equal variances not assumed

tongdiem Equal variances assumed 1.331

.253

-4.857

58

.000

-1.433

.295

-2.024 -.843

-4.857 56.129

.000

-1.433

.295

-2.024 -.842

Equal variances not assumed

Independent Samples Test