BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Kim Thoa
BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG
SÁNG TẠO CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI
TRONG HOẠT ĐỘNG VẼ THEO Ý THÍCH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Kim Thoa
BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG
SÁNG TẠO CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI
TRONG HOẠT ĐỘNG VẼ THEO Ý THÍCH
Chuyên ngành : Giáo dục học (Giáo dục Mầm non)
Mã số
: 8140114
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. LÊ THỊ MINH HÀ
Thành phố Hồ Chí Minh – 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng công bố trong bất kì công trình
nào khác.
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến:
Ban giám hiệu trường Đại học Sư phạm TP.HCM đặc biệt là những thầy cô
khoa Giáo dục mầm non và những thầy cô đã tận tình giảng dạy cho tôi trong suốt
thời gian học tập tại trường.
Tôi cũng xin gửi lời tri ân chân thành và sâu sắc nhất đến PGS.TS. Lê Thị Minh
Hà, người Cô kính mến đã hết lòng quan tâm, hỗ trợ, hướng dẫn nghiên cứu và động
viên để tôi hoàn thành luận văn..
Tôi xin cảm ơn Quý Thầy Cô Phòng Sau đại học đã hỗ trợ và tạo điều kiện để
tôi có thể tham gia học tập và thực hiện luận văn.
Đồng thời tôi cũng xin cảm ơn Ban giám hiệu, giáo viên trường Mầm non Sen
Hồng, Mầm non Hoa Dừa, Mầm non Rạng Đông, Mầm non Trúc Giang, Mầm non
Hướng Dương đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong công tác nghiên cứu.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn đến gia đình, quý đồng nghiệp và bạn bè đã
động viên, khích lệ và chia sẻ kiến thức trong suốt quá trình nghiên cứu.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm luận văn
đã cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 11 năm 2018
Tác giả
Nguyễn Thị Kim Thoa
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KHẢ
NĂNG SÁNG TẠO CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI
TRONG HOẠT ĐỘNG VẼ THEO Ý THÍCH .................................. 5
1.1. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................... 5
1.1.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu trên thế giới ................................................... 5
1.1.2. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu ở Việt Nam .................................................... 8
1.2. Lý luận về sáng tạo và phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo
5 - 6 tuổi ............................................................................................................. 10
1.2.1. Sáng tạo ....................................................................................................... 10
1.2.2. Khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong hoạt động vẽ ............. 14
1.3. Lý luận hoạt động vẽ theo ý thích ....................................................................... 21
1.3.1. Khái niệm hoạt động vẽ theo ý thích .......................................................... 21
1.3.2. Đặc điểm hoạt động vẽ theo ý thích của trẻ mẫu giáo ................................ 22
1.3.3. Một số tiêu chí đánh giá khả năng sáng tạo cho trẻ MG 5-6 tuổi trong
tranh vẽ theo ý thích. ................................................................................... 29
1.4. Biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong
hoạt động vẽ theo ý thích. .................................................................................... 32
1.4.1. Khái niệm biện pháp và biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ
mẫu giáo trong hoạt động vẽ theo ý thích. .................................................. 32
1.4.2. Biện pháp tổ chức hoạt động vẽ theo ý thích cho trẻ mẫu giáo
5 – 6 tuổi ...................................................................................................... 33
Tiểu kết chương 1 ..................................................................................................... 36
Chương 2. THỰC TRẠNG BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG
SÁNG TẠO CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI TRONG
HOẠT ĐỘNG VẼ THEO Ý THÍCH ................................................ 37
2.1. Tổ chức nghiên cứu thực trạng ............................................................................ 37
2.1.1. Mục đích ....................................................................................................... 37
2.1.2. Đối tượng ..................................................................................................... 37
2.1.3. Nội dung ....................................................................................................... 38
2.1.4. Phương pháp ................................................................................................ 38
2.1.5. Thời gian: Tháng 2 – 3/2018 ........................................................................ 39
2.2. Phân tích kết quả điều tra bằng phiếu .................................................................. 39
2.2.1. Thực trạng nhận thức của giáo viên về việc phát triển khả năng sáng
tạo cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích ................. 39
2.2.2. Thực trạng tổ chức hoạt động vẽ theo ý thích nhằm phát triển khả năng
sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở trường mầm non. ............................ 50
2.2.3. Thực trạng biểu hiện khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi
trong tranh vẽ theo ý thích. ......................................................................... 52
Tiểu kết chương 2 ..................................................................................................... 58
Chương 3. ĐỀ XUẤT VÀ THỬ NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT
TRIỂN KHẢ NĂNG SÁNG TẠO CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6
TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG VẼ THEO Ý THÍCH ...................... 59
3.1. Một số biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
trong hoạt động vẽ theo ý thích .................................................................................. 59
3.1.1. Cơ sở đề xuất biện pháp .............................................................................. 59
3.1.2. Nguyên tắc vận dụng các biện pháp ............................................................ 59
3.1.3. Đề xuất một số biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu
giáo 5- 6 tuổi trong HĐVTYT .................................................................... 60
3.2. Thử nghiệm một số biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu
giáo 5- 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích ............................................................ 66
3.2.1. Khái quát về tổ chức thử nghiệm ................................................................. 66
3.2.2. Kết quả nghiên cứu thử nghiệm ................................................................... 75
Tiểu kết chương 3 ..................................................................................................... 98
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................................. 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 102
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
: Mẫu giáo MG
: Mầm non MN
Giáo viên : GV
HĐVTYT Hoạt động vẽ theo ý thích :
VTYT Vẽ theo ý thích :
: Đối chứng ĐC
: Thử nghiệm TN
: Số lượng SL
: Tỷ lệ %
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Nhận thức của GV về phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo
5 - 6 tuổi trong HĐVTYT ......................................................................... 39
Bảng 2.2. Nhận thức của GV về biểu hiện sáng tạo trong tranh vẽ của trẻ .............. 40
Bảng 2.3. Tần suất tổ chức HĐVTYT ....................................................................... 40
Bảng 2.4. Giáo viên đánh giá mức độ biểu hiện khả năng sáng tạo của trẻ mẫu
giáo 5 - 6 tuổi trong HĐVTYT ................................................................. 41
Bảng 2.5. Giáo viên đánh giá mức độ quan trọng của các yếu tố trong quá
trình tổ chức HĐVTYT ............................................................................. 43
Bảng 2.6. Giáo viên sử dụng biện pháp phát triển khả năng sáng tạo trong
HĐVTYT .................................................................................................. 44
Bảng 2.7. Nguyên nhân ảnh hưởng đến khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi trong HĐVTYT ........................................................................... 47
Bảng 2.8. Giáo viên kiến nghị nhằm phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu
giáo 5 - 6 tuổi trong HĐVTYT ................................................................. 49
Bảng 2.9. Kết quả mức độ sáng tạo tranh vẽ của trẻ ở các trường mầm non ............ 53
Bảng 3.1. Khả năng sáng tạo qua tranh vẽ “Vẽ quà tặng Ba Mẹ” ............................ 75
Bảng 3.2. Kết quả khả năng sáng tạo qua tranh Vẽ tự do (Chủ điểm: Thực vật) ..... 77
Bảng 3.3. Kết quả khả năng sáng tạo qua tranh Vẽ tự do (Chủ điểm: Phương
tiện giao thông) ......................................................................................... 82
Bảng 3.4. Kết quả khả năng sáng tạo qua tranh Vẽ tự do (Chủ điểm: Động vật) ........ 87
Bảng 3.5. Kết quả khả năng sáng tạo qua tranh “Vẽ theo truyện bé yêu thích” ....... 92
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Điểm trung bình các tiêu chí nhóm ĐC và TN trước TN ..................... 76
Biểu đồ 3.2. Điểm trung bình các tiêu chí nhóm ĐC và TN trong tranh Vẽ tự
do (Chủ điểm: Thực vật) ....................................................................... 81
Biểu đồ 3.3. Điểm trung bình các tiêu chí nhóm ĐC và TN trong tranh Vẽ tự
do (Chủ điểm: Phương tiện giao thông) ............................................... 87
Biểu đồ 3.4. Điểm trung bình các tiêu chí nhóm ĐC và TN trong tranh Vẽ tự
do (Chủ điểm: Động vật) ...................................................................... 91
Biểu đồ 3.5. Điểm trung bình các tiêu chí nhóm ĐC và TN trong tranh “Vẽ
theo truyện mà bé thích” ....................................................................... 96
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là
nền tảng cho các bậc học tiếp theo và còn là thời kỳ vàng để phát triển nhân cách cho
trẻ. Sự hình thành và phát triển các đặc điểm tâm lý nói chung và khả năng sáng tạo
nói riêng ở lứa tuổi mẫu giáo là cơ sở, nền móng cho sự phát triển tâm lý cũng như
khả năng sáng tạo sau này của trẻ. Hoạt động tạo hình là nhu cầu không thể thiếu,
được xem là hoạt động thú vị với mọi trẻ và cũng là một trong những nội dung giáo
dục giúp cho trẻ phát triển thẩm mĩ và hoàn thiện nhân cách.
Các nghiên cứu về vai trò của hoạt động tạo hình đối với sự phát triển nhận
thức của trẻ cho thấy hoạt động tạo hình tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển khả
năng sáng tạo của trẻ em.
Hoạt động tạo hình bao gồm nhiều hoạt động: vẽ, nặn, thủ công và lắp ghép
xây dựng. Trong đó, hoạt động vẽ mang tính tạo hình đặc trưng, xuất hiện sớm nhất.
Có thể nói, vẽ chính là một trò chơi, thú tiêu khiển của trẻ thơ. Đặc biệt là trẻ thích tự
mình làm ra sản phẩm, mặc dù sản phẩm của trẻ còn rất đơn sơ nhưng nó chứa đựng
tính hồn nhiên của trẻ, làm trẻ thích thú ngắm nhìn, khác nào một họa sĩ vừa hoàn
thành một tuyệt tác. Trẻ lứa tuổi mầm non, đặc biệt trẻ 5 – 6 tuổi rất thích vẽ, trẻ vẽ
say mê, vẽ không biết mệt. Trong hoạt động vẽ, nhất là vẽ theo ý thích (VTYT), trẻ
dùng ngôn từ là những nét vẽ, màu sắc, biểu tượng để nói lên xúc cảm của mình về
thế giới xung quanh theo cách sáng tạo riêng của trẻ. Quá trình sáng tạo này không
phải ngẫu nhiên tập trung vào môn vẽ mà chính hoạt động vẽ có thể biểu thị dễ dàng
hơn hết những điều tràn ngập trong tâm hồn trẻ. Với trẻ, vẽ theo ý thích đã đánh thức
trí tưởng tượng để từ đó trí tưởng tượng trở thành nhiên liệu thắp sáng năng lực sáng
tạo đang tiểm ẩn trong con người trẻ. Những suy nghĩ, ước mơ thầm kín, ngộ nghĩnh
của trẻ được bộ lộ qua bức tranh vẽ với những đường nét và màu sắc hấp dẫn, phong
phú. Từ tranh vẽ của trẻ ta có thể hiểu trẻ và có hướng giáo dục phù hợp, đồng thời
phát huy được năng lực sáng tạo của trẻ.
Tuy nhiên, qua khảo sát các trường mầm non trong Thành phố Bến Tre hiện
nay, việc tổ chức hoạt động vẽ nói chung và hoạt động vẽ theo ý thích (HĐVTYT)
2
của trẻ nói riêng chưa thực sự kích thích được khả năng sáng tạo của trẻ. Việc giáo
viên hoàn toàn chỉ đạo trẻ như: áp đặt sẵn các hoạt động vẽ trên bàn, dạy trẻ cách sử
dụng và sau đó đứng cạnh bàn theo dõi để đảm bảo trẻ làm theo chỉ dẫn của giáo
viên đã khiến HĐVTYT trở nên ít sáng tạo. Bên cạnh đó, hoạt động này tổ chức với
nội dung chưa phong phú, chất lượng các giờ học vẽ theo ý thích chưa cao, bởi các
giờ học vẽ mang tính khuôn mẫu, thiếu đi sự mềm mại. Hay khi đưa ra nhiều nguyên
vật liệu mở về hoạt động vẽ vào lớp học giúp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ
nhưng trẻ chưa được tự do thoải mái sử dụng theo ý thích của mình, chưa được tự do
thỏa sức sáng tạo. Vì thế, trẻ thực hiện quá trình tạo hình một cách thụ động thiếu
nguồn cảm hứng. Tình trạng này sẽ làm cản trở sự phát triển nhận thức thẩm mỹ và
làm mai một khả năng sáng tạo của trẻ.
Xuất phát từ tình hình thực tế đó, chúng tôi đã lựa chọn đề tài "Biện pháp
phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý
thích".
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu một số biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6
tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích nhằm phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ trong
hoạt động này.
3. Giới hạn đề tài
3.1. Giới hạn về nội dung nghiên cứu
- Biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong hoạt
động vẽ theo ý thích.
- Khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích.
3.2. Giới hạn về mẫu nghiên cứu
- Khảo sát thực trạng biện pháp giáo viên sử dụng nhằm phát triển khả năng
sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích.
- Khảo sát thực trạng khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt
động vẽ theo ý thích ở 5 trường mầm non tại Thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.
- Thử nghiệm sư phạm được tổ chức tại 2 lớp mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở Trường
Mầm non Rạng Đông, Thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.
3
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt
động vẽ theo ý thích.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong
hoạt động vẽ theo ý thích.
5. Giả thuyết nghiên cứu
Nếu đề xuất được một số biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo
5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích thì sẽ giúp trẻ phát triển khả năng sáng tạo.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống cơ sở lý luận có liên quan đến đề tài bao gồm: sáng tạo, khả năng
sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi và khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
trong hoạt động vẽ theo ý thích; hoạt động vẽ của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi và hoạt
động vẽ qua thể loại vẽ theo ý thích của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi; biện pháp phát triển
khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích.
- Thực trạng biện pháp giáo viên sử dụng nhằm phát triển khả năng sáng tạo
cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích và thực trạng khả năng
sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích.
- Đề xuất và thử nghiệm một số biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ
mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích.
7. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng và phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa tài liệu nhằm xác lập cơ sở lý luận về biện
pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo
ý thích.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
4
Sử dụng phiếu điều tra bằng bảng hỏi 50 giáo viên dạy lớp mẫu giáo 5 – 6 tuổi
của 5 trường mầm non trên địa bàn Thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre. Cụ thể:
- Tìm hiểu các biện pháp giáo viên sử dụng nhằm phát triển khả năng sáng tạo
của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động vẽ theo ý thích.
- Tìm hiểu thực trạng khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt
động vẽ theo ý thích.
7.2.2. Phương pháp quan sát
- Quan sát những biện pháp giáo viên sử dụng nhằm phát triển khả năng sáng
tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích.
- Quan sát biểu hiện khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt
động vẽ theo ý thích.
7.2.3. Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động vẽ theo ý thích
Nghiên cứu tranh vẽ của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích
để đánh giá khả năng sáng tạo ở trẻ.
7.2.4. Phương pháp thử nghiệm
- Thử nghiệm sư phạm được sử dụng để kiểm chứng tính khả thi của giả thuyết
khoa học của đề tài.
- Thử nghiệm sư phạm được tổ chức tại 2 lớp mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở Trường
mầm non Rạng Đông, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre: một lớp đối chứng và một
lớp thử nghiệm để tiến hành phương pháp này.
7.3. Phương pháp toán thống kê
Phương pháp thống kê toán học (phần mềm SPSS) được sử dụng để thu thập,
xử lý, phân tích số liệu thu thập được trong quá trình nghiên cứu.
8. Những đóng góp mới của đề tài
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận, thực tiễn và biện pháp phát triển khả năng sáng
tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý ở một số trường mầm non
trên địa bàn Thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm hỗ trợ giáo viên phát triển khả năng sáng tạo
cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý ở một số trường mầm non trên
địa bàn Thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.
5
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN
KHẢ NĂNG SÁNG TẠO CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI
TRONG HOẠT ĐỘNG VẼ THEO Ý THÍCH
1.1. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu trên thế giới
1.1.1.1. Những công trình nghiên cứu về sáng tạo
Khi nói đến sáng tạo người ta thường đề cập đến những thiên tài trong các lĩnh
vực khoa học, nghệ thuật như: Leonarda Vinci, Albert Einstein, Tonxtoi … những danh
nhân này sáng tạo ra những vấn đề khoa học lớn, những tác phẩm vĩ đại. Các nhà khoa
học trước đây khi nghiên cứu vấn đề sáng tạo tập trung mô tả, giải thích sơ bộ dựa trên
cơ sở các hồi ký, tiểu sử, các tác phẩm văn học mang tính tự thuật của các doanh nhân
nhưng chưa đi sâu vào bản chất, quy luật của hoạt động sáng tạo.
Giữa thế kỷ XIX, với những nghiên cứu đầu tiên và có ý nghĩa lớn về sáng tạo,
các nhà xã hội học đã khẳng định rằng, bản chất của tính tích cực sáng tạo là hoạt
động tưởng tượng, nhờ hoạt động tưởng tượng mà kích thích khả năng sáng tạo.
Quan điểm này gần với quan điểm của các nhà tâm lý học ngày nay.
Sang thế kỷ XX đây là thời điểm có tính chất bước ngoặt trong lịch sử phát
triển nhân loại, cùng với sự phát triển vượt bậc trong các lĩnh vực khoa học, nhiều
ngành khoa học ra đời, nhiều thành tựu khoa học được công bố và lĩnh vực sáng tạo
cũng bắt đầu được quan tâm nghiên cứu như là một hiện tượng phổ biến trong xã hội.
Như một tất yếu, quốc gia nào có nền khoa học kỹ thuật phát triển cao thì càng tập
trung nghiên cứu nhiều lĩnh vực sáng tạo.
Khi nói đến lĩnh vực sáng tạo thì phải kể đến các nghiên cứu của nước Mỹ -
một ra và bồi dưỡng những nhân cách sáng tạo là vấn đề có ý nghĩa quốc gia, bởi vì
“hoạt động sáng tạo có ảnh hưởng to lớn không chỉ đến sự tiến bộ khoa học, mà còn
đến toàn bộ xã hội nói chung, và dân tộc nào biết nhận ra được những nhân cách
sáng tạo một cách tốt nhất, biết phát triển họ và biết tạo ra một cách tốt nhất cho họ
những điều kiện thuận lợi nhất, thì dân tộc đó sẽ có những ưu thế lớn lao” (Trần
Trọng Thủy, 2000).
6
Vào đầu năm 1920 công trình nghiên cứu về sáng tạo của Lewis Terman trên
những học sinh giỏi có chỉ số IQ từ 140 trở lên đã được các nhà khoa học đánh giá
cao. Sau đó, ông còn nghiên cứu tiếp tục nhiều công trình khác cũng về lĩnh vực sáng
tạo, rút ra nhiều kết luận về các vấn đề chung của sáng tạo như: môi trường sáng tạo,
sản phẩm sáng tạo, vấn đề nhân cách sáng tạo.
Và quyển sách đầu tiên về vấn đề sáng tạo xuất hiện vào năm 1943 ở Mỹ của
tác giả A.Osborn. Ông đã cho ra đời 4 quyển sách về lĩnh vực này và được tái bản
nhiều lần. Theo kinh nghiệm từ bản thân, ông nhận thấy rằng sự thành công của ông
trong lĩnh vực kinh doanh là nhờ vào sự phát minh ra phương pháp “Tập kích não” –
phương pháp này dựa trên cơ sở của hoạt động sáng tạo.
Tuy nhiên, vấn đề sáng tạo chỉ được nghiên cứu một cách có hệ thống khi
J.P.Guilford, nhà tâm lý học Mỹ. Trong bài phát biểu tại buổi lể nhận chức Chủ tịch
hội tâm lý học Mỹ, đã nhấn mạnh đến ý nghĩa của hoạt động sáng tạo và đồng thời
khuyến khích cổ vũ các nhà tâm lý học tham gia nghiên cứu vấn đề này. Từ đó vấn
đề sáng tạo được đầu tư và cũng đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
Nhiều công trình nghiên cứu trong thời gian này đã được xuất bản nội dung đề
cập đến những vấn đề cơ bản của hoạt động sáng tạo, các thuộc tính của nhân cách
sáng tạo, bản chất, quy luật của hoạt động sáng tạo, các giai đoạn của quá trình sáng
tạo … Ngoài ra còn có nhiều tác giả khác ở Mỹ cũng nghiên cứu về vấn đề sáng tạo
như: Barron, Blom, Helmoholtz, Wallass …
Vượt ra khỏi nước Mỹ, các nhà khoa học Liên Xô (cũ) cũng có nhiều công trình
nghiên cứu về sáng tạo, đóng góp cho xã hội, nổi bật như: V.N.Puskin, P.A.Rudich,
L.X.Vygotski … Họ cũng đã tổ chức hội nghị, hội thảo về sáng tạo vào những năm
1960 – 1980 tại Matxcova, Praha, Budapest …
Từ những năm 60 – 70 của thập kỷ XX trở đi, không chỉ ở Mỹ, Liên xô mà cả ở
Tây Âu, đặc biệt là Đức, do nhận ra ý nghĩa phát triển kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật,
cũng như ý nghĩa phát triển cá nhân của sáng tạo mà vấn đề tính sáng tạo dưới góc nhìn
mới của tâm lý học, giáo dục học và xã hội học đã được quan tâm nghiên cứu.
7
1.1.1.2. Những công trình nghiên cứu về hoạt động vẽ của trẻ em
Việc nghiên cứu về hoạt động tạo hình của trẻ em mà đặc biệt là hoạt động vẽ
có lịch sử khá phức tạp. Lúc đầu, sự lý giải về bản chất của hoạt động này mang tính
kinh nghiệm chủ nghĩa. Sau đó các cách giải thích đều mang ảnh hưởng của các
trường phái Tâm lý học như: “Tâm lý học Ưu sinh”, “Tâm lý học cấu trúc”, “Tâm lý
học duy vật biện chứng” với câu hỏi được các nhà tâm lý học giải đáp là “Trẻ em vẽ
gì?” (Lê Thanh Thủy, 1998).
Các nhà Tâm lý học theo trường phái Ưu sinh đã xem xét bản chất của hoạt
động vẽ của trẻ từ góc độ sinh học. Đại diện nổi tiếng của trường phái này là
G.Kerschensteiner khi trả lời câu hỏi “Trẻ vẽ gì” đã khẳng định rằng “Trẻ vẽ những
gì nó biết”. Một đại diện khác là V.Stern lại chỉ rõ hơn “Trẻ vẽ những gì nó nghĩ, nó
biết chứ không phải là cái nó nhìn thấy”. Sự phát triển hoạt động tạo hình theo quan
điểm này chính là những tiềm năng mang tính bẩm sinh mà đứa trẻ có được từ khi
sinh ra (Lê Thanh Thủy, 1998).
Các nhà Tâm lý học cấu trúc cũng nghiên cứu hoạt động vẽ của trẻ em và cho
rằng “Trẻ em vẽ những gì chúng nhìn thấy”. Điều này cho thấy Tâm lý học cấu trúc
đã khẳng định vai trò quan trọng của tri giác thị giác và kinh nghiệm trong quá trình
trẻ vẽ. Tuy nhiên, theo trường phái này “nhìn” và nhìn nhiều thì chưa đủ, cần phải
biết nhìn: “nhìn” trong hoạt động tạo hình là khả năng quan sát có phân tích, tổng
hợp và nhận biết cấu trúc của đối tượng quan sát như một tổng thể trọn vẹn. Quan
điểm này là một đóng góp rất lớn cho công tác giáo dục nghệ thuật. Họ khẳng định
vai trò của tri giác trọn vẹn trong việc hình thành các tác phẩm nghệ thuật. Hạn chế
của họ là quá thiên về “quy luật bừng sáng” và đánh giá quá cao về nó nhằm giải
thích các hiện tượng sáng tạo trong hoạt động vẽ như là kết quả của sự “lóe lên” của
“cấu trúc sinh học” mang tính tiền định nên đánh giá thấp vai trò của ý thức trong
hoạt động sáng tạo nghệ thuật (Lê Thanh Thủy, 1998).
Tranh vẽ của trẻ là sự quan tâm đặc biệt của các nhà Phân tâm học khi lý giải
về bản chất của tranh vẽ, họ khẳng định “Đứa trẻ vẽ những gì chúng cảm thấy”. Cái
“Cảm thấy” ở đây chính là các năng lượng sinh học bản năng. Với quan điểm này,
các nhà phân tâm học đã sinh vật hóa tâm lý con người, làm cho con người mất đi
8
tính chủ thể, tính tích cực hoạt động và sự sáng tạo trong hoạt động vẽ (Lê Thanh
Thủy, 1998).
Nhìn chung, khi xem xét các quan điểm của những trường phái Tâm lý học
trên có thể nhận thấy chỉ mới dừng lại ở sự phát triển tự phát của trẻ trong hoạt động
tạo hình mà không thừa nhận rằng hoạt động tạo hình của trẻ là kết quả hoạt động
tích cực của chủ thể trên cơ sở lĩnh hội và vận dụng sáng tạo các kinh nghiệm xã hội,
kinh nghiệm hoạt động thực tiễn.
Từ những năm 40 - 50 của thế kỷ XX, dưới ánh sáng của các công trình nghiên
cứu của nhà Tâm lý học Xô viết lỗi lạc L.X.Vưgotski thì sự nhìn nhận về sự phát
triển hoạt động tạo hình nói chung và sự sáng tạo nói riêng ở trẻ đã có sự thay đổi.
Khi tìm hiểu xem “trẻ em vẽ gì” các nhà tâm lý học duy vật biện chứng đã nhận thấy
tranh vẽ của trẻ em thể hiện các kinh nghiệm sau:
- Trước hết và nhiều nhất là các kinh nghiệm tri giác bằng thị giác về sự vật,
hiện tượng, sự kiện trong thế giới xung quanh.
- Tiếp đó là các kinh nghiệm về sự vật xung quanh mà trẻ có được khi tiếp xúc,
tiếp nhận bằng các cơ quan cảm giác khác như xúc giác, cảm giác vận động, thính
giác, thị giác, khứu giác.
- Các khuôn mẫu đồ họa mang tính sơ đồ mà trẻ tiếp thu được từ người lớn
trong quá trình giao tiếp.
Sự thể hiện những kinh nghiệm trên có liên quan rất chặt chẽ với các đặc điểm
đặc trưng của khả năng tri giác, tư duy, tưởng tượng, xúc cảm, tình cảm và thái độ rất
riêng của từng đứa trẻ đối với thế giới xung quanh (Hồ hoàng Yến, 2011).
Tóm lại, các nhà Tâm lý học duy vật biện chứng đã khẳng định rằng, hoạt động
tạo hình của trẻ em nói chung và hoạt động vẽ nói riêng là một hoạt động có nguồn
gốc xã hội, mang bản chất xã hội rõ rệt.
1.1.2. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, nhiều hoạt động thể hiện sự chăm lo, bồi dưỡng, khuyến khích khả
năng sáng tạo được tổ chức hàng năm như: Hội thi sáng chế kỹ thuật, tổ chức hỗ trợ
sáng tạo khoa học và công nghệ Việt Nam thuộc Viện Khoa học Việt Nam và Trung
9
tâm sáng chế khoa học kỹ thuật thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và
nhiều hội thi tài năng được tổ chức trong các trường học.
Đến năm 1990, Viện Khoa học giáo dục thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ
quan khoa học đầu tiên ở Việt Nam tiến hành nghiên cứu về “khả năng sáng tạo” của
học sinh. Các công trình này nghiên cứu bản chất, cấu trúc tâm lý của sự sáng tạo,
phương pháp chẩn đoán, đánh giá khả năng sáng tạo của người Việt Nam.
Bên cạnh đó, cũng có nhiều công trình nghiên cứu về hoạt động sáng tạo cũng
như đề xuất các biện pháp nhằm phát triển khả năng sáng tạo của trẻ như:
Lê Thanh Thủy nghiên cứu “Ảnh hưởng của tri giác tới tưởng tượng sáng
tạo trong hoạt động vẽ của trẻ 5 – 6 tuổi”.
Phạm Thu Hương nghiên cứu “Tiềm năng sáng tạo và biểu hiện của nó trong
vận động theo nhạc của trẻ Mẫu giáo 5 – 6 tuổi”.
Lại Thị Kim Cúc nghiên cứu “Một số biện pháp phát huy khả năng sáng tạo
của trẻ 5 – 6 tuổi trong hoạt động ca hát ở trường mầm non”.
Luận văn Thạc sĩ của Ngô Thị Tuyết Mai nghiên cứu “Biện pháp phát huy
khả năng sáng tạo cho trẻ 5 – 6 tuổi trong trò chơi đóng kịch”.
Nguyễn Thị Ngọc Nuôi nghiên cứu “Một số biện pháp phát triển khả năng
tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động kể chuyện”.
Phạm Thị Nguyên Chi nghiên cứu “Biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ
mẫu giáo 5 – 6 tuổi tại góc tạo hình”.
Nguyễn Thị Huệ nghiên cứu “Một số biện pháp tổ chức hoạt động tạo hình
nhằm phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi”.
Nguyễn Huỳnh Ngọc Thủy nghiên cứu “Biện pháp phát huy khả năng sáng
tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ”.
Những nghiên cứu trên đã hệ thống hóa những vấn đề cơ bản của sáng tạo như:
khái niệm, bản chất, đặc điểm của sáng tạo, vai trò của sáng tạo đối với sự phát triển
của trẻ trong các hoạt động khác nhau. Và đưa ra một số biện pháp để phát huy tính
sáng tạo của trẻ trong các hoạt động này.
10
Việc phát triển khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo thông qua hoạt động tạo
hình nói chung và phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt
động vẽ theo ý thích nói riêng là vấn đề hết sức cần thiết và mang ý nghĩa thực tiễn
cao. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu biện pháp phát triển khả năng sáng tạo
trong hoạt động vẽ chỉ nghiên cứu hoạt động vẽ theo mẫu, hoạt động vẽ theo đề tài,
rất ít công trình nghiên cứu về hoạt động VTYT. Chúng tôi nhận thấy biện pháp phát
triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích là
rất cần thiết. Vì vậy, chúng tôi hi vọng đề tài của mình sẽ góp phần phát triển khả
năng sáng tạo ở trẻ.
1.2. Lý luận về sáng tạo và phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo
5 - 6 tuổi
1.2.1. Sáng tạo
1.2.1.1. Khái niệm chung về sáng tạo
Cho đến nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về sáng tạo:
Theo S.Freud “Sáng tạo cũng giống như giấc mơ hiện hành, là sự tiếp tục và sự
thay thế trò chơi trẻ con cũ” (Vụ Giáo dục mầm non, 2005).
Cùng với quan điểm của S.Freud cho rằng sáng tạo như một trò chơi, Thiessy
Gaudin, tác giả cuốn: “Chuyện kể về thế kỷ 21”, đã viết rằng: “Trò chơi là sự thăm
dò những cái có thể và một sự học tập. Ai không chơi thì người đó thu hẹp trường tri
giác và sáng tạo của họ” (Đức Uy, 1998).
Đối với L.X.Vygotsky hoạt động sáng tạo được coi là hoạt động cao nhất của
con người. Theo ông “Bộ não không những là một cơ quan giữ lại và tái hiện kinh
nghiệm cũ của chúng ta, nó còn là cơ quan phối hợp, chỉnh lý một cách sáng tạo và
xây dựng nên những tình thế mới và hành vi mới bằng những yếu tố của kinh nghiệm
cũ đó” Hoạt động sáng tạo được ông nhìn nhận như sau: “Sự sáng tạo thật ra không
chỉ có ở nơi nó tạo ra những tác phẩm vĩ đại, mà ở khắp nơi nào con người tưởng
tượng, phối hợp, biến đổi và tạo ra cái gì mới, cho dù cái mới ấy nhỏ bé đến đâu đi
nữa so với những sáng tạo của các thiên tài…” (Nguyễn Thị Ngọc Kim, 2005).
Theo Chu Quang Tiềm, đại học Bắc Kinh, trong cuốn sách “Tâm lý học văn
nghệ”đã định nghĩa sáng tạo là: “Căn cứ vào những ý tưởng đã có sẵn làm tài liệu
11
rồi cắt xén gạt bỏ chọn lọc tổng hợp thành một hình tượng mới” (Nguyễn Thị Ngọc
Kim, 2005).
Theo từ điển triết học của NXB Tiến bộ Matxcơva: “Sáng tạo là quá trình hoạt
động của con người tạo ra những giá trị mới về vật chất, tinh thần. Các loại hình sáng
tạo được xác định bởi đặc trưng nghề nghiệp như khoa học, kỹ thuật, văn học nghệ
thuật…”. Có thể nói sáng tạo có mặt trong mọi lĩnh vực của thế giới vật chất và tinh
thần (Nguyễn Thị Ngọc Kim, 2005).
Từ điển Tiếng Việt của tác giả Như Ý: “Sáng tạo là tìm thấy và làm nên cái
mới” (Nguyễn Như Ý,1999).
Khi đề cập đến quá trình sáng tạo, Nguyễn Đức Uy cho rằng “Đó là sự đột khởi
thành hành động của một sản phẩm liên hệ mới mẻ nảy sinh từ sự độc đáo của một cá
nhân một đằng và những tư liệu biến cố, nhân sự hay những hoàn cảnh của đời người ấy,
đằng khác” (Nguyễn Ánh Tuyết, 2002).
Nguyễn Huy Tú định nghĩa:“Sáng tạo thể hiện khi con người đứng trước hoàn
cảnh có vấn đề. Quá trình này là tổ hợp các phẩm chất và năng lực mà nhờ đó con
người trên cơ sở kinh nghiệm của mình, và bằng tư duy độc lập tạo ra được ý tưởng
mới, độc đáo, hợp lý trên bình diện cá nhân hay xã hội. Ở đó người sáng tạo gạt bỏ
được các giải pháp truyền thống để đưa ra những giải pháp mới, độc đáo và thích
hợp cho vấn đề đặt ra” (Chu Quang Tiềm, 1999).
Đối với trẻ em, tính sáng tạo là năng lực diễn tả của bản thân theo cách của riêng
mình. Tiềm năng sáng tạo của trẻ em mầm non bao gồm cả trẻ khuyết tật được thể hiện
trong tất cả hoạt động của trẻ nhưng đặc biệt nổi trội là ở 4 hoạt động chính: âm nhạc, tạo
hình, ngôn ngữ và chơi tưởng tượng (Nguyễn Xuân Khoa, 2003).
Tóm lại, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những quan điểm khác nhau về sáng tạo
nhưng có điểm chung là sáng tạo là một quá trình tạo ra hay hướng đến cái mới. Trên
cơ sở phân tích một số quan niệm trên về sáng tạo của các nhà nghiên cứu, theo
chúng tôi sáng tạo có thể hiểu là: quá trình con người vận dụng những kinh nghiệm
của bản thân, độc lập đưa ra những ý tưởng mới lạ hoặc cải tạo và biến đổi những
sản phẩm có sẵn để tạo ra những sản phẩm mới nhằm phục vụ cho lợi ích chính
đáng của bản thân và xã hội.
12
1.2.1.2. Đặc điểm của sáng tạo
Đặc điểm của sáng tạo được bộc lộ ở 3 thuộc tính cơ bản đó là: tính mới mẻ,
tính độc lập và tính hiện thực (Nguyễn Huy Tú, 1998).
Thứ nhất, tính sáng tạo bộc lộ ở tính mới mẻ trong sản phẩm của tư duy hay
hành động, tính mới mẻ này có thể là đối với cá nhân hoặc đối với xã hội. Khi đề cập
đến sự sáng tạo của người trưởng thành, của nhà khoa học, nhà phát minh sáng chế,
sáng tác… là nói đến tính mới mẻ trên bình diện xã hội.
Ở lứa tuổi học sinh, trong quá trình sáng tạo, cái mới được phát hiện không
nhất thiết phải có ý nghĩa toàn xã hội mà chỉ là đối với bản thân mình. Tuy nhiên,
bản thân quá trình sáng tạo đó có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với xã hội. Tâm lý
học đã xác định được tính tương tự giữa quá trình sáng tạo của học sinh và quá trình
sáng tạo của các nhà khoa học, sáng chế sáng tác. Sự khác nhau ở đây chỉ là vấn đề
cần giải quyết ở trình độ tự lập trong diễn tiến các giai đoạn của quá trình sáng tạo.
Còn cơ chế dẫn đến cái mới về nguyên tắc không có sự khác biệt nào giữa sáng tạo
của học sinh và người lớn.
Thứ hai, tính sáng tạo thể hiện ở tính độc lập trong tư duy và hành động. Tư
duy độc lập làm tiền đề để nảy sinh những ý tưởng mới, giải pháp và phương pháp
mới. Ở cả trẻ em và người lớn muốn phát triển tính độc lập tư duy, cần đặt cho họ
trước những vấn đề buộc họ đi đến đích bằng con đường giải quyết vấn đề đó. Khi đi
vào giải quyết vấn đề, nếu chúng ta thử nghiệm độc lập để tìm ra giải pháp và càng
khác lạ với thông thường thì càng được đánh giá là có tính sáng tạo.
Người sáng tạo có khuynh hướng tránh lặp lại cách giải quyết cũ, họ hoài nghi,
muốn từ bỏ cái truyển thống, có khi từ bỏ cả mục đích truyền thống. Họ thường đưa ra
các ý tưởng mới, cách thực hiện mới để thực hiện ý tưởng độc đáo, mới lạ của mình.
Thứ ba là tính hiện thực, nó được thể hiện trong giá trị sản phẩm mới. Quá
trình sáng tạo ra sản phẩm mới luôn có mối liên quan đến hiện thực. Sáng tạo không
phải là sự đoạn tuyệt của hiện thực mà là sự phản ánh hiện thực tối đa nhưng trong
tình huống mới, chất lượng mới và mục đích mới.
Người ta thường quan niệm rằng: sáng tạo bao giờ cũng xuất phát từ nhu cầu
của hiện thực khách quan nhằm vươn tới việc tạo ra cái mới, độc đáo, tốt hơn, có lợi
13
hơn cho sự phát triển của xã hội. Điều này có vẻ trái ngược khi người ta nghiên cứu
các sản phẩm sáng tạo của trẻ: không độc đáo hơn, không đẹp hơn, không có lợi hơn
cho xã hội nhưng ở đây chúng ta đã tập cho trẻ học cách sáng tạo, để thể hiện nhu cầu
tự nhiên, vốn có của trẻ không bị phụ thuộc vào một công thức, một giải pháp, một
đường mòn có sẵn. Chúng ta giúp trẻ trở thành người sáng tạo. Như vậy, việc giúp cho
trẻ trở thành người sáng tạo là việc có ý nghĩa xã hội to lớn mà ngay chính đứa trẻ
cũng chưa ý thức được, mà trẻ chỉ thấy sự thoải mái được thực hiện những điều
chúng tưởng tượng ra.
Tóm lại, xét trên bình diện toàn xã hội thì hoạt động chơi và học tập là hoạt
động tái tạo, nhưng trên bình diện cá nhân thì hoạt động chơi và học tập là hoạt động
sáng tạo, sáng tạo cho bản thân mình. Vì vậy được gọi là sáng tạo đặc biệt. Do đó,
chúng ta phải động viên, chỉ dẫn và khuyến khích trẻ để trẻ tiếp tục sáng tạo và đó là
điều kiện rất tốt cho sự sáng tạo thực sự sau này của trẻ.
1.2.1.3. Các cấp độ của sáng tạo
Theo nhà tâm lý học người Mỹ C.W. Taylor sáng tạo có thể phân ra 5 cấp độ
khác nhau như sau:
Cấp độ 1: Sáng tạo biểu hiện là dạng cơ bản nhất của sáng tạo, không đòi hỏi
tính độc đáo hay kỹ năng quan trọng nào. Đặc trưng của cấp độ sáng tạo này là tính
bộc phát “hứng khởi” và sự tự do khoáng đạt.
Cấp độ 2: Sáng tạo chế tạo là bậc cao hơn sáng tạo biểu hiện. Nó đòi hỏi kỹ
năng nhất định (xử lý thông tin hoặc kỹ năng kỹ thuật…) để thể hiện rõ ràng, chính
xác các ý kiến của cá nhân. Ở cấp độ này tính tự do, hứng khởi bộc phát đã nhường
bước cho các quy tắc trong khi thể hiện cái tôi của người sáng tạo.
Cấp độ 3: Sáng tạo phát kiến có đặc trưng là sự phát hiện hoặc “tìm ra” do
“nhìn thấy” các quan hệ mới giữa các thông tin trước đây. Đây chưa phải là cấp bậc
sáng tạo cao nhất mà chỉ là chế biến các thông tin cũ và sắp xếp lại chúng để đi đến
các quan hệ mới và đó chính là sự xuất hiện sáng kiến hay phát kiến.
Cấp độ 4: Sáng tạo cải tiến (đổi mới, cải cách) là cấp bậc sáng tạo cao. Nó thể
hiện sự am hiểu sâu sắc các kiến thức khoa học hoặc nghệ thuật, kỹ thuật hay sản
xuất, tức đòi hỏi một trình độ trí tuệ nhất định. Từ đó xây dựng được các ý tưởng cải
14
tạo, cải cách có ý nghĩa xã hội và khoa học kỹ thuật. Lackben cho rằng dự án trong
đầu càng xa với ban đầu bao nhiêu thì sự sáng tạo càng lớn bấy nhiêu.
Cấp độ 5: Sáng tạo bậc cao, tột đỉnh của quá trình sáng tạo. Người ta đưa ra
những ý tưởng mới hoàn toàn, thậm chí nảy sinh những ngành nghề mới, trường phái
mới, chương trình mới… vượt qua trí tuệ đương thời. Đại diện cho những người đạt
cấp bậc này là Einstein trong vật lý học, Picasso trong hội họa, Chopin trong âm
nhạc, Darwin trong sinh vật học, K. Marx, Hồ Chí Minh trong xã hội và khoa học
chính trị (Lê Thanh Thủy, 2004)
Sáng tạo của trẻ em thường ở cấp bậc thấp nhất là sáng tạo biểu hiện, đây là
bậc quan trọng nhất của sáng tạo, vì không có nó thì chẳng có một chút sáng tạo nào
cao hơn. Đặc trưng của cấp độ một là tính bộc phát, hứng khởi và tự do khoáng đạt,
nếu như hai đặc tính này bị hạn chế, bị gò ép vào khuôn phép ngay từ lúc nẩy mầm
thì rất có hại cho sự sáng tạo.
Như vậy, nếu chúng ta làm hạn chế những biểu hiện sáng tạo của trẻ ngay từ
tuổi MN dần dần sẽ trở thành thói quen, ngấm dần vào trong tư duy của con người,
đi đến chỗ thụ động, máy móc.
1.2.2. Khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong hoạt động vẽ
1.2.2.1. Khái niệm khả năng sáng tạo
Khả năng là cái có thể xuất hiện trong điều kiện nhất định.
Khả năng sáng tạo là sự hội tụ của nhiều yếu tố như: khả năng nhận thức, tính
cách cá nhân, cảm xúc và những yếu tố từ môi trường.
Mọi trẻ em đều tiềm ẩn năng lực sáng tạo, nhưng sự sáng tạo của trẻ em không
giống sự sáng tạo của người lớn. Sự sáng tạo của người lớn là việc tạo ra cái mới, cái
độc đáo, gắn với tính chủ đích, có tính bền vững và thường là kết quả của quá trình
nỗ lực tìm tòi để phát minh, sáng kiến ra những sản phẩm hoàn toàn mới lạ và có ý
nghĩa nhất định trong đời sống xã hội. Nhưng ở một đứa trẻ thì khả năng sáng tạo lại
chính là khi trẻ bắt đầu tái tạo, bắt chước, mô phỏng một điều gì đó và thường không
có tính chủ đích. Sự sáng tạo của trẻ em phụ thuộc nhiều vào xúc cảm, tình huống và
thường kém bền vững.
15
Ở lứa tuổi mầm non, trong bất cứ hoạt động nào trẻ cũng tỏ ra ngạc nhiên, tò
mò và có khuynh hướng khám phá, thử nghiệm. Do vậy, nếu một đứa trẻ không có
khả năng sáng tạo thì không hẳn do trẻ vốn đã thiếu khả năng sáng tạo mà có thể xuất
phát từ gia đình, trường học và môi trường văn hóa mà trẻ tiếp nhận.
Khả năng sáng tạo được thể hiện rõ rệt ở trẻ 5 - 6 tuổi vì ở tuổi này trẻ đã bắt
đầu thích nghi với những điều xảy ra xung quanh thông qua việc học, chơi và biết
chủ động tham gia nhiều hoạt động khác nhau, từ đó trẻ tích lũy và biết cách phát
huy khả năng sáng tạo của mình.
1.2.2.2. Vai trò của sáng tạo đối với sự phát triển tâm lý cho trẻ mẫu giáo
Lứa tuổi MG là giai đoạn phát triển mạnh mẽ về thể chất và tâm lý, do đó mọi
tác động đến trẻ lúc này đều có những ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển nhân
cách của chính đứa trẻ sau này. Cho nên việc phát hiện và bồi dưỡng tính sáng tạo
cho trẻ cần phải được quan tâm thích đáng bởi vai trò quan trọng của nó đối với sự
phát triển toàn diện của trẻ. Mặc dù những nghiên cứu về khả năng sáng tạo của trẻ
còn ít, nhưng thông qua các nghiên cứu của một số nhà tâm lý, giáo dục học thì
chúng ta đã phần nào thấy được vai trò của tính sáng tạo đối với sự phát triển tâm lý
trẻ. Điều này thể hiện ở một số điểm: (Phạm Thị Nguyên Chi, 2013).
Một là, hoạt động sáng tạo là một hình thức giúp trẻ tự do thể hiện cái tôi của
mình. Đề cặp đến vấn đề này, X.L.Rubinstein cho rằng: “Mặc dù vốn kiến thức kinh
nghiệm của trẻ còn hạn chế, nhưng trẻ có nhiều cơ hội để bộc lộ sự sáng tạo mang
tính chủ quan của mình. Điều quan trọng là phải xem cái gì là cái mới chủ quan của
trẻ. Sứ mệnh của sự sáng tạo với vị trí là bậc thang cao nhất ở hoạt động của con
người, có liên quan không chỉ những giá trị khách quan và sự phát triển xã hội mà
còn có giá trị chủ quan đối với sự phong phú đa dạng trong cuộc sống cá nhân”
(Chu Quang Tiềm, 1999).
Như vậy, ý nghĩa sự sáng tạo của trẻ không chỉ được xem xét ở kết quả trong
sản phẩm sáng tạo mà còn được nhìn nhận trong bản thân quá trình sáng tạo. Điều
quan trọng không hẳn là ở cái mới mà trẻ tạo ra, mà là trẻ đang được sáng tạo, đang
được bộc lộ và rèn luyện trong hoạt động sáng tạo đó. Sáng tạo của trẻ như một trò
16
chơi nảy sinh từ một nhu cầu cấp bách tự nhiên. Trẻ tự mình khám phá, tìm tòi, nghĩ
ra một cái mới và thể hiện cái mới đó với niềm vui sướng vô biên.
Hai là, hoạt động sáng tạo giúp trẻ hình thành và phát triển những xúc cảm,
tình cảm thẩm mỹ ở trẻ. Khi trẻ sáng tạo, những xúc cảm ở trẻ lay động, qua đây trẻ
có thể nhìn thấy cái đẹp, yêu cái đẹp và cố gắng tạo ra cái đẹp trong khuôn khổ vốn
kinh nghiệm ít ỏi của mình. Cho dù những gì mà trẻ tạo ra không mang giá trị xã hội
lớn lao, không mang tính độc đáo hay mới đối với xã hội, nhưng khi được hoạt động,
được sáng tạo và trải nghiệm cảm xúc đã mang lại cho trẻ niềm vui thích vô biên và
cũng là món quà vô giá mà sáng tạo mang lại cho trẻ.
Ba là, hoạt động sáng tạo giúp phát triển ngôn ngữ và trí tuệ của trẻ. Với trẻ,
muốn cho trí tưởng tượng sáng tạo của trẻ phát triển phải cho nó được tham gia vào
các hoạt động, trong đó hoạt động vui chơi là hoạt động cơ bản. Thông qua hoạt
động vui chơi vá cả hoạt động tạo hình trẻ được tiếp xúc với thế giới xung quanh,
xác lập được quan hệ của mình với hoàn cảnh và với người khác. Trẻ được giao lưu,
trao đổi, trình bày ý kiến của mình và thỏa sức tưởng tượng.
Do vậy có thể nói, thông qua những ý tưởng và sáng tạo đã giúp cho các nét tâm lý
xã hội, những tri thức, kinh nghiệm và ngôn ngữ của trẻ có nhiều cơ hội phát triển.
1.2.2.3. Đặc điểm sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
Sáng tạo của trẻ mầm non có những đặc điểm như sau: (Lê Thị Thanh Bình,
2006).
- Sáng tạo của trẻ bao giờ cũng xuất phát từ nhu cầu đã có trước, một nhu cầu
cấp bách tự nhiên và điều kiện tồn tại của trẻ. Trẻ không bao giờ sáng tạo cái gì mà
trẻ không biết, không hiểu và không có hứng thú.
- Trẻ có thể sáng tạo đột nhiên, có cách làm việc tự do, không cần ghi nhớ,
không cần sự bắt chước, bất kì chỗ nào thiếu trí nhớ, những kỉ niệm bị rạn nứt chỉ
còn lại những yếu tố rời rạc thì óc tưởng tượng sẽ móc ghép theo cách riêng, thế là
có sáng tạo.
- Sáng tác của trẻ ít khi nghiền ngẫm lâu về tác phẩm của mình, phần lớn trẻ
sáng tác liền một mạch. Trẻ giải quyết nhu cầu sáng tạo của mình nhanh chóng và
triệt để những tình cảm đang tràn ngập trong lòng trẻ.
17
- Trẻ không phải ngẫu nhiên tập trung vào việc sáng tạo, mà chính sáng tạo cho
phép đứa trẻ ở lứa tuổi này có thể dễ dàng thể hiện hơn hết những điều đang tràn
ngập tâm hồn trẻ.
- Trò chơi hay sáng tác của trẻ không phải là hồi ức đơn giản, mà là sự gia
công sáng tạo những ấn tượng đã tiếp nhận. Sự phối hợp những tiếp nhận ấy và từ đó
cấu tạo nên một thực tế mới, đáp ứng nhu cầu và hứng thú của bản thân. Vậy khả
năng biết xây dựng một hệ thống bằng các yếu tố, biết phối hợp cái cũ lại thành
những kết hợp mới chính là tạo nên cơ sở của sáng tạo.
- Sáng tạo của trẻ cũng như trò chơi, về căn bản còn chưa tách rời khỏi hứng
thú và đời sống cá nhân. Sáng tạo của trẻ biểu hiện một cách tự phát, độc lập với ý
muốn của người lớn.
- Trong mọi hoạt động của mình trẻ luôn có cảm giác thắc mắc, tò mò cao độ
và một sự nỗ lực tự phát nhằm khám phá, thử nghiệm và thao tác theo kiểu độc đáo
mang tính trò chơi. Đó là biểu hiện mang tính sáng tạo của trẻ.
- Sáng tạo của trẻ mang tính chất tổng hợp các lĩnh vực trí tuệ, tình cảm, ý chí
và đặc biệt là tưởng tượng sáng tạo được hưng phấn với một sức mạnh trực tiếp của
cuộc sống.
- Chúng ta biết rằng so với người lớn, tri thức và kinh nghiệm của trẻ còn ít ỏi,
trí tưởng tượng còn nghèo nàn, hứng thú đơn giản và sơ đẳng hơn nhưng do sự dễ
dãi, sự mộc mạc của trí tưởng tượng nên trẻ sống trong thế giới tưởng tượng nhiều
hơn, tin vào sản phẩm của trí tưởng tượng nhiều hơn, kiểm tra những sản phẩm ít
hơn do đó mà trẻ dễ có những biểu hiện sáng tạo hơn.
- Sản phẩm sáng tạo của trẻ có thể không hoàn hảo nhưng ưu thế là chúng nảy
sinh trong quá trình sáng tạo của trẻ.
- Ở đứa trẻ, toàn bộ con người nằm trong sự vận động thực tế trực tiếp. Nó
sáng tạo ra hành động thực tế. Nó quan tâm trước hết đến quá trình hành động chứ
không phải đến kết quả (Nguyễn Thị Thanh Hương, 2006).
Tóm lại: Giai đoạn đầu tiên của quá trình sáng tạo, ý tưởng xuất hiện chính
trong quá trình hoạt động của trẻ. Trẻ càng nhỏ thì càng nhanh chóng thực hiện ý
18
tưởng của mình. Trẻ càng có nhiều kinh nghiệm thì sự liên tưởng và ý tưởng tạo hình
càng phong phú.
1.2.2.4. Đặc điểm ngôn ngữ tạo hình trong tranh vẽ của trẻ mẫu giáo
Đặc điểm ngôn ngữ tạo hình trong tranh vẽ của trẻ được xem như là các
phương tiện truyền cảm mang tính tạo hình mà trẻ sử dụng để thể hiện những hiểu
biết, suy nghĩ, tình cảm của mình qua các hình ảnh, hình tượng (Lê Thanh Thủy,
2009).
a. Đường nét, hình dạng
Đường nét, hình dạng là những dấu hiệu đầu tiên của hình vẽ giúp trẻ nhận ra
và hiểu được mối liên hệ giữa sự vật thật và hình ảnh biểu đạt sự vật đó.
Lúc đầu, do khả năng thao tác để tạo ra các đường nét còn hạn chế nên hình
vẽ của trẻ còn mang tính sơ đồ, lắp ráp từ những hình học. Do sự phát triển nhanh về
thể lực, cơ bắp và khéo léo của vận động, trẻ mẫu giáo lớn đã có khả năng tạo nên
các đường nét với tính chất khác nhau khá phức tạp. Với trình độ phát triển của năng
lực nhận thức thẩm mỹ và kĩ năng vận động, trẻ ở tuổi này có thể cảm nhận được
tính nguyên thể của các hình ảnh đối tượng miêu tả và biết dùng đường nét liền
mạch, mềm mại, uyển chuyển để truyền đạt hình dáng trọn vẹn của mọi sự vật trong
cấu trúc hợp lý, đồng thời thể hiện tư thế vận động, hành động phù hợp với nội dung
sáng tạo. Đặc biệt trẻ 5 – 6 tuổi đã có vốn kinh nghiệm phong phú cho nên các biểu
tượng hình thành khá đầy đủ về hình dáng, cấu trúc và đặc điểm riêng biệt, khá linh
hoạt trong việc biến đổi, phối hợp tính chất của đường nét và hình để thể hiện vẻ độc
đáo, rất riêng của mỗi hình tượng sự vật cụ thể. Hình tượng của trẻ đến gần với hiện
thực, mất dần tính chủ quan.
b. Màu sắc
Trong tranh vẽ của trẻ em, hình vẽ là dấu hiệu hàng đầu để tạo nên hình ảnh
sự vật, nhưng màu sắc mới là yếu tố mang lại hiệu quả thẩm mỹ cho hình ảnh và gây
tác động thẩm mỹ nhất đến trẻ cũng như người xem tranh. Màu sắc chính là phương
tiện quan trọng thể hiện sự sáng tạo của trẻ trong hoạt động tạo hình.
Trẻ mẫu giáo bé thường sử dụng màu theo ý thích và theo cảm xúc, trẻ có khả
năng phân biệt và sử dụng được nhiều màu. Những màu có chung một gốc thường
19
được trẻ quy lại thành một màu đại diện. Sang tuổi mẫu giáo lớn, trẻ tiếp tục sử dụng
đồng thời cả hai cách vẽ màu: “màu bắt chước” và “màu không bắt chước”. Trẻ có thể
thuộc lòng các màu quy định theo chuẩn mẫu như đất thì màu nâu, bầu trời thì màu
xanh dương, cỏ thì màu xanh lá…, trẻ có thể sử dụng màu tự do nhưng tình trạng vẽ
màu kiểu tự do, ngẫu nhiên không liên hệ với nội dung ý đồ mô tả vẫn còn phổ biến.
Tuy nhiên, một số trẻ đã có vốn hiểu biết khá phong phú về màu sắc, đã có khả năng
độc lập quan sát để thấy được vẻ linh hoạt trong sự thay đổi màu sắc của các sự vật,
hiện tượng trong hiện thực và làm quen qua quá trình tri giác với một số cách phối hợp
màu sắc. Tính tích cực quan sát, nhận thức chính là điều kiện giúp trẻ biết sử dụng
màu sắc một cách sinh động để thể hiện một cách sáng tạo nội dung tranh vẽ, qua đó
mà biểu lộ suy nghĩ, tình cảm, ước mơ của mình. Vì thế, giáo viên cần kích thích hứng
thú về vẻ đẹp của sự vật hiện tượng thông qua màu sắc, điều đó sẽ làm cho màu sắc và
sự phối hợp màu trong bài vẽ của trẻ sẽ rất truyền cảm.
c. Bố cục
Ngoài đường nét, hình dạng, màu sắc, trẻ mẫu giáo còn sử dụng một phương
tiện truyền cảm khác đó là sự sắp xếp vị trí các hình ảnh trong không gian tranh vẽ
hay còn gọi là xây dựng bố cục. Bố cục là phương thức tổ chức nghệ thuật của một
tác phẩm nghệ thuật.
Ngoài khả năng tạo nhịp điệu, trẻ mẫu giáo lớn đã biết tạo nên bố cục tranh
với thế cân bằng qua cách sắp xếp đối xứng. Để tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa nội
dung với hình thức của tranh, nhiều trẻ biết dùng cách sắp xếp thể hiện sự vận động,
hành động và các mối quan hệ giữa các sự vật, nhân vật để tạo ra một không gian có
chiều sâu với nhiều tầng cảnh. Tính nhịp điệu trong bố cục tranh vẽ của trẻ 5 – 6 tuổi
thể hiện ở nhiều vẻ: bằng sự sắp xếp lặp đi, lặp lại của các hình ảnh cùng loại, bằng
sự sắp xếp đan xen các hình ảnh không cùng loại, bằng sự phân biệt, thể hiện quan hệ
chính - phụ.... Tuy nhiên, tranh vẽ thường mang tính liệt kê, trẻ trải đều các hình vẽ
trên mặt giấy, ít có trước, sau, xa, gần và ít tuân theo tỉ lệ trong thực tế.
Hiệu quả của việc sử dụng các phương tiện tạo hình trong tranh vẽ của trẻ
phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tri giác hình tượng, vào sự lựa chọn góc độ nhìn và
khả năng cảm nhận vẻ đẹp đa dạng, sinh động của thế giới xung quanh, đồng thời
20
phụ thuộc vào khả năng tưởng tượng sáng tạo, biến đổi hình tượng và vào mức độ
phong phú sâu sắc của các xúc cảm, tình cảm thẩm mỹ của trẻ.
1.2.2.5. Một số đặc điểm tâm lý có liên quan đến phát triển khả năng sáng tạo
cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi
a. Đặc điểm phát triển tư duy
Tư duy giúp trẻ hiểu rõ nhiệm vụ đặt ra, từ đó giúp trẻ tạo ra hình ảnh sáng
tạo, bay bổng, rực rỡ, giàu màu sắc cảm xúc. Vì thế nhà giáo dục cần:
Dạy cho trẻ các phương pháp và phương tiện cải biến, phát triển ở trẻ
những khả năng liên hợp các biểu tượng đã có.
Dạy trẻ diễn đạt các ý tưởng khác nhau và thực hiện các ý tưởng ấy trong
các dạng hoạt động có sản phẩm. Việc diễn đạt bằng lời một cách chi tiết và đầy đủ
các ý tưởng không chỉ về cái gì sẽ làm mà còn cả cách thức làm việc đó, làm cho quá
trình xây dựng hình ảnh mới thành quá trình có chủ định.
Sự hình thành tư duy phê phán cũng đóng góp cho sự phát triển khả năng
sáng tạo ở trẻ. Trẻ có thái độ phê phán với những hình ảnh sáng tạo của mình.
b. Đặc điểm phát triển tưởng tượng
Sự phát triển trí tưởng tượng của trẻ nhỏ thường gắn liền với khả năng hiểu và
sử dụng một loại ngôn ngữ giao tiếp đặc biệt, đó là ngôn ngữ hình ảnh trực quan.
Sự xuất hiện của tưởng tượng trong quá trình tạo hình, tính tích cực của tưởng
tượng thay đổi theo sự phát triển tâm lý chung, đặc biệt là theo sự phát triển của tri
giác bằng thị giác của trẻ em.
Ở tuổi mẫu giáo lớn (5-6 tuổi): với sự phát triển của quá trình nhận thức và vốn
kinh nghiệm của trẻ, ở lứa tuổi này tưởng tượng của trẻ bắt đầu mang tính độc lập, có
thể tách khỏi quá trình tạo hình, đi trước định hướng và điều khiển các hành động tạo
hình nhằm đạt kết quả đã tạo ra từ trước quá trình tạo hình. Trẻ có thể độc lập tìm
kiếm các nội dung hoạt động vẽ, định trước tên gọi các “tác phẩm” tương lai và dùng
trí tưởng tượng để xây dựng các hình tượng phù hợp với nội dung đã định. Trong
hoạt động vẽ, tưởng tượng của trẻ liên kết khá chặt chẽ, phối hợp nhịp nhàng với tri
giác, trí nhớ, tư duy đặc biệt là tư duy trực quan sơ đồ trong quá trình quan sát phân
tích các đối tượng miêu tả để hình thành các biểu tượng. Với sự hỗ trợ của xúc cảm,
21
tình cảm tưởng tượng của trẻ có thể giúp chúng biến đổi một cách dễ dáng các biểu
tượng, từ đó xây dựng dễ dàng các biểu tượng mới. Ở tuổi 5-6 tuổi mức độ phát triển
của năng lực tưởng tượng mang tính sáng tạo, điều này biểu hiện rõ ở khả năng xây
dựng và thực hiện dự định tạo hình. Để thực hiện nhiệm vụ tạo hình, trẻ đã biết độc
lập tìm kiếm, tích lũy thông tin, lựa chọn đề tài cụ thể, trên cơ sở đó mà xây dựng
nên hình ảnh đồ họa của kết quả tạo hình trong đầu (mô hình tâm lí) phù hợp với nội
dung đã lựa chọn. Sức hấp dẫn của các hình vẽ mà trẻ có thể tạo nên phụ thuộc phần
lớn vào mức độ đầy đủ, phong phú và rõ nét các thông tin hình ảnh trong trẻ vào khả
năng liên kết các ấn tượng, các kinh nghiệm cũ hoặc thay đổi bổ sung các hình ảnh
khái quát ban đầu, làm cho chúng ngày càng sinh động và mang màu sắc nghệ thuật
hơn (Lê Thanh Thủy, 2002).
1.3. Lý luận hoạt động vẽ theo ý thích
1.3.1. Khái niệm hoạt động vẽ theo ý thích
Vẽ theo ý thích là vẽ những gì trẻ thích, không theo một đề tài cho trước.
Trẻ được quyền lựa chọn nội dung đề tài mà trẻ thích. Vẽ theo ý thích nhằm rèn
luyện trí nhớ, trí tưởng tượng sáng tạo (Lương Thị Hồng Thúy, 2016).
Hoạt động vẽ theo ý thích là hoạt động nhằm rèn luyện, cũng cố những kỹ
năng mà trẻ đã học, trẻ phải nhớ lại hoặc tưởng tượng ra các hình tượng theo ý thích
(Ưng Thị Châu, Nguyễn Lăng Bình, Lê Đức Hiền, 1998).
Vẽ là một hoạt động tạo hình được nhiều trẻ yêu thích, trẻ có nhiều điều kiện
thể hiện những ấn tượng của mình về thế giới xung quanh ở mọi lúc, mọi nơi mà
không phải chờ đến khi có điều kiện mới thực hiện được. Cụ thể như khi đang chơi ở
sân, trẻ muốn thể hiện một ấn tượng nào đó, trẻ chỉ việc dùng viên phấn, cục gạch,
cái que để vẽ là trẻ có thể thực hiện được ý thích của mình.
Theo từ điển tiếng Việt thì: “Vẽ là dùng bút mà tả hình trạng các vật cho
được như thực bằng đường nét hoặc màu sắc” (Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa
Việt Nam, 1999).
Khi bàn về hoạt động vẽ của trẻ mầm non, tác giả Nguyễn Ánh Tuyết đã cho
rằng: “Vẽ là hoạt động mà ở đó tập hợp những cảm nhận mà trẻ có về cơ thể mình và
22
về thế giới xung quanh được phóng chiếu vào đường nét, hình dạng do nó tạo ra”
(Hồ hoàng Yến, 2011).
Theo tác giả Nguyễn Quốc Toản: “Hoạt động vẽ là hoạt động tạo ra sản
phẩm trên mặt phẳng bằng nhiều chất liệu khác nhau” (Nguyễn Quốc Toản, 2009).
Đối với trẻ mẫu giáo, ở hoạt động này trẻ phải quan sát đối tượng, nhận xét thông
qua ước lượng bằng mắt về hình dáng, tỉ lệ… và diễn tả lại trên nền giấy bằng cảm
nhận riêng của mình.
Khi nghiên cứu về hoạt động tạo hình, tác giả Lê Thanh Thủy cho rằng:
“Hoạt động vẽ là dùng đường nét, hình mảng, màu sắc tạo bố cục thể hiện trên mặt
phẳng hai chiều” (Lê Thanh Thủy, 2009).
Tóm lại, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những quan điểm khác nhau về hoạt
động vẽ nhưng đều có những điểm giống nhau đó là hoạt động tạo ra sản phẩm trên
mặt phẳng bằng đường nét và màu sắc. Đây cũng là nội dung mà chúng tôi chọn lọc
để nghiên cứu hoạt động vẽ theo ý thích.
1.3.2. Đặc điểm hoạt động vẽ theo ý thích của trẻ mẫu giáo
Hoạt động vẽ theo ý thích nhằm phát triển tính độc lập, chủ động trong công
việc và phát triển khả năng sáng tạo của trẻ, cũng cố những kỹ năng, kỷ xảo mà trẻ
đã học, đồng thời giúp cho người lớn đánh giá được sự tiếp thu những kỹ năng, kỷ
xảo tạo hình cũng như khả năng sáng tạo của trẻ, từ đó có định hướng tốt hơn trong
việc giáo dục trẻ em.
Trong quá trình vẽ theo ý thích, trẻ không được trang bị kiến thức mới mà chỉ
vận dụng những kiến thức đã học để miêu tả. Tùy theo ý thích của mình, trẻ được tự
do thoải mái lựa chọn nội dung để thể hiện. Nội dung vẽ theo ý thích rất đa dạng và
phong phú, trẻ có thể miêu tả một sự vật hiện tượng riêng biệt hay miêu tả một sự
kiện trong truyện cổ tích, trong môi trường xung quanh mà trẻ thấy, trẻ biết và ghi
nhớ thành biểu tượng, những hình ảnh quen thuộc đối với trẻ. Trong quá trình hoạt
động, trẻ đã vận dụng những tri thức, kỹ năng, kỷ xảo đã học để miêu tả chủ đề do tự
mình sáng tạo.
Giờ học tạo hình theo ý thích có những nội dung không phải do cô đề ra mà phụ
thuộc vào ý muốn của trẻ. Nhiệm vụ của giáo viên là làm sao nảy sinh ở trẻ những ý
23
tưởng, gợi ý để trẻ nhớ lại những biểu tượng mà trẻ đã cảm thụ từ trước, giúp trẻ thể
hiện nội dung trên giấy, những biểu tượng không thu hẹp trong một đề tài nào cả, mà
nó rất phong phú sinh động (Lê Hồng Vân, 2002).
Cách tiến hành giờ học vẽ theo ý thích gồm các bước sau:
Bước 1: Gây hứng thú và giao nhiệm vụ
- Giáo viên tạo cho trẻ tâm thế thoải mái, hứng thú và xác định được ý tưởng tạo
hình của mình bằng cách sử dụng các biện pháp như bài hát, thơ, câu đố, tình huống có
vấn … đề để trẻ cảm thấy cần thiết tạo ra sản phẩm cho các hoạt động của trẻ.
- Định hướng cho trẻ cách thức hiện:
Giáo viên có thể không cần cho trẻ quan sát mẫu hay tranh mẫu mà trong giờ
học cô gợi ý bằng nhiều hình thức khác nhau để làm sống lại những biểu tượng mà
trẻ đã thu được trước đó và khai thác kinh nghiệm, hiểu biết của trẻ, giúp trẻ tự tìm ra
cách thể hiện (trẻ có thể nêu lên ý kiến cá nhân, có thể thông qua các gợi ý, hướng
dẫn của giáo viên, có thể trao đổi theo những nhóm nhỏ có cùng lựa chọn).
Bước 2: Trẻ thực hiện
Giáo viên quan sát và giúp đỡ trẻ khi cần thiết. Giáo viên đến từng trẻ, hỏi xem
trẻ vẽ gì? Góp ý cho trẻ về cách sắp xếp các hình tượng hoặc bổ sung chi tiết vào chỗ
trống cho cân đối hoặc giúp trẻ sử dụng màu sắc cho phù hợp, nếu trẻ hỏi.
Bước 3: Trưng bày sản phẩm
Đánh giá thẩm mỹ của mỗi sản phẩm, trao đổi, chia sẻ và thưởng thức kết quả
hoạt động
Động viên, khuyến khích những trẻ có nhiều sáng tạo (Vụ Giáo dục mầm non, 2005).
Hoạt động vẽ theo ý thích được xem như là một thể loại tạo hình theo đề tài tự
chọn. Dưới hình thức hoạt động này, trẻ được chủ động, tích cực, tự do lựa chọn và
thể hiện nội dung miêu tả mà mình thích theo dự định của cá nhân. Để hạn chế
những khó khăn mà trẻ có thể gặp, giáo viên cần định hướng các đề tài tự chọn trong
phạm vi những kinh nghiệm, những xúc cảm, tình cảm mà trẻ được trải nghiệm (Lê
Thanh Thủy, 2009).
Tóm lại: trong phân chia các thể loại của hoạt động tạo hình có thể nói hoạt
động tạo hình theo ý thích là một thể loại tạo điều kiện cho trẻ được bộc lộ khả năng
24
sáng tạo nhiều nhất. Những giờ tạo hình này nếu được thực hiện đúng mức sẽ mang
đến cho trẻ nhiều niềm vui sướng và đạt được những kết quả “bất ngờ” về sự phát
triển khả năng sáng tạo ở trẻ.
1.3.2.1. Những biểu hiện sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong hoạt động
vẽ theo ý thích
Khả năng sáng tạo của trẻ được thể hiện rất phong phú và đa dạng dưới nhiều
hình thức khác nhau, riêng về hoạt động vẽ nói chung và hoạt động vẽ theo ý thích
nói riêng những biểu hiện sáng tạo của trẻ mẫu giáo được thể hiện cụ thể như sau:
- Trẻ luôn có những ý tưởng phong phú mới lạ.
- Trẻ cũng dễ dàng và nhanh chóng tạo ra bức tranh từ gợi ý của giáo viên.
- Trẻ sử dụng màu sắc táo bạo, khác thường, khả năng phối màu rất phong phú,
đa dạng.
- Bố cục tranh vẽ của trẻ hợp lý, hài hòa, sự lựa chọn, sắp xếp và liên kết giữa
các hình, hình với đề tài mang nét đặc sắc riêng của trẻ.
- Sử dụng nhiều nguyên vật liệu khác nhau để thể hiện ý tưởng.
- Biết giải thích ý nghĩa việc lựa chọn màu sắc hay đường nét thể hiện.
- Trẻ luôn luôn độc lập trong khi vẽ.
- Nêu lên được ý tưởng của sản phẩm.
- Trẻ đặt tên mới lạ cho sản phẩm.
Khả năng sáng tạo rất cần thiết cho trẻ trong việc học tập sau này. Nó không tự
xuất hiện, tự phát triển mà được hình thành thông qua việc nhà giáo dục, tổ chức và
hướng dẫn. Vì vậy, việc tổ chức các hoạt động mang tính sáng tạo ở lứa tuổi này là
nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của người lớn và giáo viên mầm non.
1.3.2.2. Ý nghĩa của hoạt động vẽ đối với sự phát triển của trẻ
Hoạt động tạo hình nói chung và hoạt động vẽ nói riêng là hoạt động sáng
tạo nghệ thuật, trong đó con người không chỉ nhận thức cái đẹp của thế giới xung
quanh mà còn cải tạo nó theo quy luật của cái đẹp. Bên cạnh đó, Hoạt động tạo hình
cũng là một phương tiện quan trọng giúp trẻ phát triển toàn diện (Lê Thị Thanh Bình,
2006)
25
a. Ý nghĩa của hoạt động vẽ đối với giáo dục trí tuệ, ngôn ngữ
Trong quá trình vẽ theo ý thích trẻ có nhiều cơ hội để tìm hiểu, khám phá các
sự vật hiện tượng trong môi trường xung quanh như đặc điểm đặc trưng, sự tương
quan giữa các đặc điểm đó, nhận biết hình dáng, màu sắc. Từ đó xây dựng các biểu
tượng sự vật hiện tượng, biết quan sát, phân tích, so sánh, đánh giá vật này với vật
khác. Ngoài ra, trẻ còn tìm hiểu bản chất của các vật liệu trong hoạt động vẽ và sự
liên quan giữa kết quả thu được và vật liệu tạo hình.
Hoạt động vẽ còn là môi trường thuận lợi hình thành ở trẻ các phẩm chất trí
tuệ như tính tự giác, tính ham hiểu biết, tính tích cực nhận thức và óc sáng tạo. Hoạt
động này còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ. Trong quá trình nhận biết các đối tượng,
so sánh và nhận xét sản phẩm tạo hình sẽ giúp trẻ phát triển vốn từ, lời nói hình
tượng - truyền cảm và ngôn ngữ mạch lạc hơn.
b. Ý nghĩa của hoạt động vẽ đối với giáo dục đạo đức
Thông qua các giờ VTYT, các đức tính tốt được hình thành như tính tích cực
chủ động thực hiện nhiệm vụ được giao, kiên nhẫn làm việc từ đầu đến cuối, biết
lắng nghe ý kiến của cô và các bạn.
Ngoài những biểu tượng, kinh nghiệm mà trẻ thu nhận được từ thế giới xung
quanh qua hoạt động vẽ, trẻ còn biểu lộ những tình cảm, xúc cảm thái độ đối với
những gì mà trẻ thể hiện. Tham gia vào hoạt động vẽ, trẻ có những điều kiện tiếp thu
chuẩn mực thẩm mỹ - đạo đức trong xã hội, trải nghiệm các xúc cảm tình cảm, học
hỏi các kĩ năng xã hội qua các hình vi văn hóa xã hội qua các hình tượng, các sự kiện
được miêu tả.
Hoạt động tạo hình là một phương tiện giao tiếp, trẻ luôn mong muốn được
người khác tiếp nhận và cảm nhận, hiểu được những điều mà trẻ muốn gửi gắm trong
sản phẩm. Đồng thời trẻ luôn chờ đợi ở người khác sự động viên, khuyến khích,
khen ngợi và rất thích thú khi nhận được sự đồng cảm từ người khác.
Hoạt động vẽ còn giúp trẻ phản ánh những sự vật hiện tượng có trong thiên
nhiên, những gì làm trẻ rung động, suy nghĩ và có những tình cảm yêu ghét đối với
chúng. Khi tham gia vào hoạt động vẽ, trẻ còn trải nghiệm những xúc cảm - tình cảm
khi có mong muốn sẽ tạo ra sản phẩm thật đẹp cho người khác. Chính những điều đó
26
là điều kiện để hình thành ở trẻ ý thức cộng đồng, luôn quan tâm, nghĩ đến người
khác trong giao tiếp xã hội.
c. Ý nghĩa của hoạt động vẽ đối với việc giáo dục thẩm mỹ
Hoạt động vẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển cảm
giác, tri giác thẩm mỹ. Ở trường mầm non, hoạt động tạo hình chiếm khá nhiều thời
lượng và được thực hiện thông qua các loại hình như vẽ, nặn, thủ công, lắp ghép- xây
dựng. Giáo viên tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc, nhận ra các đặc điểm thẩm mỹ độc
đáo, hấp dẫn của các đối tượng. Khi quan sát các sự vật, hiện tượng của cuộc sống
xung quanh, trẻ em thường hồi hộp xúc động. Sự tri giác một màu sắc rực rỡ hay một
phong cảnh tuyệt diệu làm trẻ xúc động, vui mừng. Những đặc điểm thẩm mỹ này là
những yếu tố kích thích sự xuất hiện những rung động, xúc cảm thẩm mỹ như cảm
xúc về màu sắc trong quá trình tri giác sự phối hợp màu sắc tuyệt đẹp: những ngôi
sao nổi bật trên nền trời tối, những đóa hoa cúc vàng trên thảm cỏ xanh …, hay sự
xuất hiện cảm xúc nhịp điệu khi thưởng thức một sự cân đối nhịp nhàng của vật thể:
sự sắp xếp các cành cây, sự nhấp nhô của ngọn sóng. Từ đó tạo cho trẻ có những xúc
cảm, tình cảm thẩm mỹ, giúp trẻ biết thưởng thức cái đẹp từ thiên nhiên. Dần dần trẻ
có được khả năng đưa ra những nhận xét đơn giản và có thẩm mỹ về những sự kiện
của cuộc sống, về con người, các tác phẩm nghệ thuật mà làm phát triển thị hiếu
thẩm mỹ. Trẻ mẫu giáo lớn có sự cảm nhận được cái đẹp tinh tế hơn mẫu giáo bé, trẻ
có thể cảm nhận cái đẹp sự hài hòa của màu sắc, đường nét, sự mềm mại của điệu
múa, nhịp điệu của bản nhạc. Trẻ mẫu giáo lớn đánh giá cái đẹp tương đối chính xác
hơn. Trẻ hiểu đối tượng được xem là đẹp phải có hình dáng cân đối, có sự tương
quan giữa các phần và phong phú về màu sắc.
Mỗi dạng hoạt động tạo hình ngoài những ảnh hưởng chung đối với phát
triển thẩm mỹ ở trẻ, nó còn có những ảnh hưởng đặc trưng riêng của từng loại. Vẽ có
ảnh hưởng đến phát triển cảm giác màu sắc, trẻ học cách nhận biết vẻ đẹp của sự kết
hợp nhiều màu sắc khác nhau.
Quá trình thể hiện các sản phẩm vẽ là điều kiện thuận lợi cho trẻ vận dụng
tích cực vốn biểu tượng hình tượng đã tích lũy để phối hợp, xây dựng hình tượng
mới làm cho các sản phẩm của trẻ ngày càng trở nên sinh động, hấp dẫn và mang
27
màu sắc nghệ thuật. Hoạt động vẽ không chỉ là cơ hội thuận lợi cho trẻ được tiếp xúc
với cái đẹp mà còn nảy sinh và nuôi dưỡng ở trẻ hứng thú với hoạt động nghệ thuật
và niềm say mê sáng tạo nghệ thuật. Chính hứng thú trong hoạt động vẽ đã giúp trẻ
khám phá cái đẹp, cái mới lạ trong thế giới xung quanh mặc dù trẻ có thể đã nhìn
nhưng không nhìn thấy, đã nghe nhưng không nghe thấy.
Trong quá trình hoạt động vẽ, năng khiếu sáng tạo nghệ thuật của trẻ được
phát triển, trẻ biết vận dụng những hiểu biết về cái đẹp vào cuộc sống hàng ngày như
ăn mặc sao cho đẹp, ở sao cho gọn gàng, ngăn nắp… từ đó có ý thức tôn trọng và
bảo vệ cái đẹp.
d. Ý nghĩa của hoạt động vẽ đối với việc giáo dục thể chất
Hoạt động vẽ có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển thể lực của trẻ. Những
giờ tham gia hoạt động vẽ, với bầu không khí tự do thoải mái sẽ mang đến cho trẻ
niềm vui thích. Chính sự phấn khởi này sẽ ảnh hưởng tốt đến hệ thần kinh, tác động
đến sự điều hòa hoạt động của các bộ phận trong cơ thể trẻ.
Các giờ học vẽ giúp cho bàn tay và các ngón tay của trẻ phát triển, tạo điều kiện
cho trẻ học viết ở trường phổ thông. Trong quá trình tạo hình các chuyển động của tay
và mắt được phát triển linh hoạt và phối hợp nhịp nhàng, giáo viên hướng dẫn cho trẻ có
tư thế ngồi đúng, tránh cho trẻ không bị vẹo cuộc sống, vai không bị lệch.
Hoạt động vẽ còn là biện pháp trị liệu tâm lý đối với trẻ khuyết tật, những
người có căn bệnh trầm uất, bệnh thần kinh. Sự tự do thoải mái trong quá trình thể
hiện, biểu lộ các xúc cảm, tình cảm sẽ giúp người bệnh điều hòa các quá trình ức chế
và hưng phấn, lấy lại thế cân bằng. Có thể xem hoạt động vẽ là “món ăn tinh thần”,
một loại “vitamin” đặc biệt cho sự phát triển tâm lý và sinh lý của trẻ em.
e. Ý nghĩa của hoạt động vẽ đối với việc giáo dục lao động
Hoạt động vẽ tạo ra sản phẩm. Quá trình này đã giúp trẻ “thiết kế”, “kiến
tạo”, “chế tạo” nên các sản phẩm, biểu hiện thành quả lao động của chính trẻ. Hoạt
động đã rèn luyện cho trẻ những kĩ năng lao động thực tiễn, thói quen làm việc lao
động tự giác. Đây là môi trường lý tưởng để hình thành ở trẻ ý thức lao động, lòng
yêu lao động, có thái độ biết bảo vệ, trân trọng những sản phẩm lao động cũng như
đối với người lao động.
28
Mặt khác khi chuẩn bị cho giờ học vẽ, cô hướng dẫn trẻ cùng tham gia kê bàn
ghế một cách cẩn thận, nhường nhịn, giúp đỡ nhau. Đối với lớp mẫu giáo nhỡ và
mẫu giáo lớn cô hướng dẫn các cháu trực nhật sắp xếp các vật liệu tạo hình sao cho
thuận lợi, gọn gàng và đẹp mắt, không vứt các vật liệu thừa xuống sàn nhà mà phải
để gọn vào một chỗ để sau giờ học sẽ bỏ vào sọt rác.
f. Ý nghĩa của hoạt động vẽ đối với việc chuẩn bị cho trẻ đến trường phổ thông
Hoạt động vẽ còn là môi trường phương tiện để hình thành cho trẻ những cơ
sở ban đầu của hoạt động học tập trong trường phổ thông.
Qua hoạt động vẽ, trẻ được bồi dưỡng khả năng độc lập tổ chức một quá trình
hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn để tạo nên các vật thể sản phẩm. Hoạt động
này hình thành ở trẻ khả năng đánh giá và tự đánh giá. Ngoài ra, nó còn góp phần
vào việc chuẩn bị cho trẻ một vốn kiến thức sơ đẳng về tự nhiên, xã hội, khoa học kỹ
thuật giúp trẻ nhanh chóng tiếp thu các kiến thức ở trường phổ thông. Sự hoạt động
khéo léo, linh hoạt trong vận động tay giúp trẻ sau này học viết ở trường phổ thông
sẽ đạt kết quả tốt hơn.
Hoạt động vẽ còn góp phần chuẩn bị tâm thế cho trẻ bước vào lớp phổ thông vì
hoạt động đó đã giúp giáo dục cho trẻ lòng ham muốn nhận thức, tiếp thu những điều
mới lạ, có thói quen học tập một cách có mục đích, có tổ chức, biết nghe lời chỉ bảo của
thầy cô. Hoạt động tạo hình là môi trường cho trẻ rèn luyện năng lực hành vi của mình
nhằm thực hiện nhiệm vụ đã đề ra, biết cách tự điều khiển hành vi và những ước muốn
của mình, biết từ chối những ước muốn để thực hiện những hoạt động cần thiết.
1.3.2.3. Nội dung hoạt động vẽ cho trẻ MG 5 - 6 tuổi trong Chương trình giáo
dục mầm non
Theo Chương trình giáo dục mầm non năm 2009 của Bộ Giáo dục và Đào tạo
(Chương trình GDMN có sửa đổi, bổ sung một số nội dung theo thông tư số
28/2016/TT-BGDĐT ngày 31/12/2016) đã đưa ra nội dung phát triển thẫm mỹ có nội
dung trẻ thể hiện các kỹ năng và sự sáng tạo khi tham gia các hoạt động tạo hình nói
chung và hoạt động vẽ nói riêng cụ thể như sau:
“...Lựa chọn, phối hợp các nguyên vật liệu tạo hình để tạo ra sản phẩm; phối
hợp các kỹ năng để tạo ra sản phẩm có màu sắc, hình dáng, đường nét và bố cục;
29
nhận xét sản phẩm tạo hình về màu sắc, hình dáng, đường nét và bố cục; tìm kiếm
lựa chọn các dụng cụ, nguyên vật liệu phù hợp để tạo ra sản phẩm theo ý thích...”
Trong nội dung kết quả mong đợi của chương trình Giáo dục mầm non có nêu
trong lĩnh vực phát triển thẩm mỹ về hoạt động vẽ như sau:
“...Phối hợp và lựa chọn các nguyên vật liệu tạo hình để tạo ra sản phẩm; phối
hợp các kỹ năng vẽ để tạo thành bức tranh có màu sắc hài hòa, bố cục cân đối; nhận
xét các sản phẩm tạo hình về màu sắc, hình dáng, bố cục...”
1.3.2.4. Các chỉ số đánh giá khả năng sáng tạo của trẻ MG 5 - 6 tuổi trong Bộ
chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi Việt Nam
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi (Bộ Giáo
dục và Đào tạo, 2009) với các chuẩn và chỉ số nhằm phát triển lĩnh vực thẫm mỹ:
“Bộ chuẩn nhằm hỗ trợ thực hiện chương trình giáo dục mầm non, nâng cao chất
lượng chăm sóc, giáo dục, chuẩn bị tâm thế cho trẻ em năm tuổi vào lớp 1". Trong
Giáo dục và Đào tạo, 2009).
đó, hoạt động tạo hình và khả năng sáng tạo của trẻ được nêu cụ thể như sau: (Bộ
Chuẩn 22: Trẻ thể hiện một số hiểu biết về tạo hình
Chỉ số 102. Biết sử dụng các vật liệu khác nhau để làm một sản phẩm đơn giản.
Chỉ số 103. Nói được ý tưởng thể hiện trong sản phẩm tạo hình của mình.
Chuẩn 28: Trẻ thể hiện khả năng sáng tạo
Chỉ số 118. Thực hiện một số công việc theo cách riêng của mình.
Chỉ số 119. Thể hiện ý tưởng của bản thân thông qua các hoạt động khác nhau.
1.3.3. Một số tiêu chí đánh giá khả năng sáng tạo cho trẻ MG 5-6 tuổi trong
tranh vẽ theo ý thích
Trên cơ sở nghiên cứu về hoạt động vẽ và khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi, chúng tôi xác định biểu hiện sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong hoạt
động vẽ theo ý thích được thể hiện ở những tiêu chí sau:
+ Về nội dung:
- Tên tranh vẽ: trẻ đặt tên mới lạ cho sản phẩm
- Đặc điểm nội dung tranh vẽ: có sự thay đổi về nhân vật, sự vật hiện tượng,
tình tiết, bối cảnh và sự biểu hiện trạng thái cảm xúc của các hình ảnh trong tranh vẽ.
30
+ Về hình thức
- Bố cục: sử dụng luật phối cảnh để thể hiện chiều sâu trong không gian.
- Màu sắc: sử dụng màu sắc một cách có chủ ý, theo ý đồ miêu tả.
- Hình vẽ: giàu tính hình tượng, thể hiện ở nhiều dạng hoạt động.
Từ các tiêu chí này, chúng tôi đưa ra thang đánh giá mức độ sáng tạo của trẻ
trong tranh vẽ theo ý thích như sau:
Thấp Trung bình Các mặt Mức độ Cao (2 điểm) (0 điểm) (1 điểm)
Đặt tên tranh Đặt được tên Đặt được tên mới
Tên tranh vẽ vẽ giống cho sản phẩm lạ cho sản phẩm
mẫu, theo sự nhưng trùng với
gợi ý của GV bạn hoặc có sự
thay đổi tên tranh
vẽ nhưng không
hoàn toàn Nội dung
Đặc điểm Lặp lại gần Có sự thay đổi ít Có sự thay đôi
nội dung bức như nguyên về nhân vật, sự nhiều về nhân vật,
tranh vẹn các sự vật, hiện tượng, sự vật, hiện tượng,
vật hiện tình tiết, bối cảnh tình tiết, bối cảnh
tượng theo sự theo đề tài. được thể hiện một
gợi ý của Thể hiện rời rạc cách mới mẻ theo
viên mối liên hệ giữa suy nghĩ riêng của giáo
bắt các nhân vật trẻ. hoặc
chước theo trong tranh vẽ. Thể hiện mối liên
khuôn mẫu hệ giữa các nhân
đã học trước vật trong tranh vẽ.
đó
Không sử Có điểm nhấn Sử dụng luật phối
dụng luật thể hiện được ý cảnh thể hiện chiều
phối cảnh, tưởng sâu trong không
không có Chưa sử dụng gian như: sử dụng
31
điểm nhấn luật phối cảnh luật xa gần, mối
Bố cục trong tranh vẽ tương quan về kích
thước giữa các hình
vẽ trong tranh và
thể hiên được điểm
nhấn trong tranh
vẽ. Hình thức
Màu sắc Chưa biết sử Màu sắc tương Màu sắc phong
dụng màu sắc đối phù hợp với phú, phù hợp với
phù hợp nội dung, tuy nội dung, sử dụng
nhiên còn đơn màu một cách có
điệu, phần lớn tô chủ ý theo ý đồ
màu quen thuộc, miêu tả, biết phối
có thêm một số màu, có đậm, nhạt,
màu sắc mới mẻ gợi cảm, mới lạ.
thể hiện sự biến
đổi của sự vật,
hiện tượng
Thể Thể hiện Đường nét
hiện được đối được đặc điểm mềm mại, tư thế
Hình vẽ tượng tuy riêng của đối phù hợp với nội
nhiên còn sơ tượng dung, giàu tính
sài hình tượng. Đối
tượng trong tranh
được thể hiện dưới
nhiều dạng hoạt
động, tạo nên bức
tranh sinh động,
mới lạ.
Các mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ 5 – 6 tuổi qua hoạt động vẽ theo ý thích.
- Mức cao: trẻ đạt thang điểm từ 8 – 10 điểm.
32
- Mức trung bình: trẻ đạt thang điểm từ 5 – 7 điểm.
- Mức thấp: trẻ đạt thang điểm từ 0 – 4 điểm.
1.4. Biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong
hoạt động vẽ theo ý thích
1.4.1. Khái niệm biện pháp và biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho
trẻ mẫu giáo trong hoạt động vẽ theo ý thích
1.4.1.1. Khái niệm biện pháp
Theo từ điển tiếng Việt của tác giả Nguyễn Như Ý thì “Biện pháp là cách làm,
cách giải quyết một vấn đề cụ thể. (Nguyễn Như Ý, 2007).
Trong tiếng Anh, khi nói đến “biện pháp”, từ điển xem nó có ý nghĩa như một
kế hoạch hoặc một hành động để đạt được mục đích cụ thể đã đề ra (Phạm Thị
Nguyên Chi, 2013).
Theo từ điển bách khoa toàn thư Wiki trong tiếng Nga “Меры” hay “biện pháp”
được xem như một phương tiện để thực hiện một cái gì đó (Phạm Thị Nguyên Chi, 2013).
Theo từ điển Tiếng Việt tường giải và liên tưởng Tiếng Việt: “Biện pháp là
cách làm, cách hành động, đối phó để đi đến một mục đích nhất định” (Nguyễn Văn
Đạm, 1999).
Như vậy, ở đây chúng ta có thể hiểu: Biện pháp là cách làm, cách giải quyết
một vấn đề cụ thể hay hướng tới giải quyết nhiệm vụ từng phần, cụ thể nhằm đạt
được mục đích nhất định đã đề ra”. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, biện pháp
cũng có thể giải quyết được các nhiệm vụ khác nhau như một phương pháp.
Biện pháp giáo dục là một trong các thành tố của quá trình giáo dục, nó có
quan hệ mật thiết và có tính biện chứng với các thành tố khác của quá trình giáo dục,
đặc biệt là phương pháp giáo dục.
Theo giáo trình Giáo dục học mầm non của tác giả Nguyễn Thị Hòa thì: “Biện
pháp giáo dục được hiểu là cách làm cụ thể trong hoạt động hợp tác cùng nhau giữa
giáo viên với trẻ nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục đã đặt ra” (Nguyễn
Thị Hòa, 2011).
33
Từ những khái niệm trên có thể hiểu biện pháp là cách làm, cách giải quyết một
vấn đề cụ thể, hay hướng tới giải quyết nhiệm vụ, giải quyết từng phần cụ thể. Trong
một số trường hợp biện pháp có thể giải quyết được một số nhiệm vụ khác nhau.
1.4.1.2. Khái niệm biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo
trong hoạt động vẽ theo ý thích
Biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo trong hoạt động
vẽ theo ý thích là những cách thức tạo cho trẻ có những cơ hội để thử nghiệm
những ý tưởng mới, cách suy nghĩ mới và cách giải quyết vấn đề nảy sinh mới
trong hoạt động vẽ theo ý thích. Cung cấp cơ hội tuyệt vời để trẻ có thể tích cực
sáng tạo nhất và cho phép trẻ chứng minh sự sáng tạo trong bất kỳ sự tự thể
hiện nào của mình.
1.4.2. Biện pháp tổ chức hoạt động vẽ theo ý thích cho trẻ mẫu giáo
5 – 6 tuổi
Hoạt động tạo hình nói chung và hoạt động vẽ theo ý thích nói riêng là hoạt
động mà đa số trẻ đều rất thích. Tuy nhiên, muốn đạt được kết quả thì nhà sư phạm
phải biết lựa chọn các phương pháp, biện pháp thích hợp, phải biết tổ chức các hoạt
động cho trẻ đầy đủ để giúp trẻ nắm được những nội dung giáo dục nhất định, đồng
thời phát triển năng lực sáng tạo ở trẻ.
Căn cứ vào bản chất của hoạt động tạo hình, mục đích, nhiệm vụ giáo dục, đặc
điểm nhận thức, xúc cảm - tình cảm và khả năng hoạt động của trẻ 5 – 6 tuổi, theo
chương trình Giáo dục mầm non hiện nay, chúng ta phân loại các nhóm biện pháp tổ
chức hoạt động cho trẻ vẽ như sau: (Lê Thanh Thủy, 2003).
1.4.2.1. Nhóm các biện pháp thông tin tiếp nhận
Là nhóm có vai trò cung cấp cho trẻ những kiến thức sơ đẳng về từ nhiên, xã
hội ... về các phương thức hoạt động (các kỹ năng tạo hình), đồng thời hình thành ở
trẻ các xúc cảm, tình cảm thẫm mỹ.
Nhóm biện pháp này bao gồm các quá trình quan sát, nghiên cứu đối tượng
miêu tả như các sự vật, đồ chơi, mô hình, tranh ảnh và cung cấp thông tin cho trẻ về
các sự vật, hiện tượng xung quanh. Nhóm này bao gồm quá trình hướng dẫn cho trẻ
cá phương thức, kỹ năng tạo hình.
34
* Biện pháp quan sát
Nhằm giúp cho trẻ tái tạo các sự vật hiện tượng của thế giới xung quanh. Để đạt
được mục đích quan sát, giáo viên phải tổ chức tốt quá trình quan sát: phải giúp trẻ tích
cực vận dụng các khả năng tri giác, biết sử dụng các thao tác tư duy để hiểu rõ về đối
tượng, đồng thời khám phá ra những nét đặc trưng của nó. Phải biết lựa chọn đối tượng,
vị trí đặt mẫu, thời điểm, góc độ quan sát đồng thời phải biết kết hợp các câu hỏi để giúp
trẻ có những biểu tượng sâu sắc về đối tượng. Quá trình quan sát phải được tiến hành
một cách sinh động để gây hứng thú, hình thành các xúc cảm, tình cảm thẫm mỹ, giúp
trẻ hiểu và hình dung ra được quá trình miêu tả mà trẻ sẽ thực hiện.
* Biện pháp chỉ dẫn trực quan
Biện pháp này giúp trẻ lĩnh hội các phương thức tạo hình cơ bản. Trong quá
trình tổ chức chỉ dẫn cho trẻ, giáo viên giúp trẻ biết tích cực huy động vốn kinh
nghiệm của mình, đối chiếu, so sánh và tự xây dựng mối liên hệ giữa cái cũ và cái
mới biết nhằm hình thành, bồi dưỡng cho trẻ tính tích cực độc lập trong hoạt động.
* Biện pháp dùng lời
Đây là biện pháp đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên hiệu quả của
toàn bộ quá trình tạo hình. Giáo viên dùng lời để: miêu tả, kể, hướng dẫn, giải thích,
trao đổi với trẻ… Biện pháp dùng lời nói sẽ kích thích trẻ, giúp trẻ tích cực hoạt
động, tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ thể hiện một cách thành công. Trong quá trình
nhận xét sản phẩm, lời nói của giáo viên phải gây cho trẻ sự hứng thú, say mê, thấy
rõ sản phẩm của mình và rất thích hoạt động tạo hình. Bằng lời nói, giáo viên rèn
luyện cho trẻ khả năng nhận xét kết quả hoạt động để có hướng sửa chữa sai sót, giúp
trẻ thực hiện sản phẩm tốt. Lời giảng giải của cô phải hấp dẫn, sinh động, rõ ràng, dể
hiểu, cần tích cực sử dụng những ngôn ngữ văn học, những lời nói so sánh, hình
tượng hóa mang tính sáng tạo nghệ thuật. Đặc biệt câu hỏi phải ngắn gọn, dễ phù hợp
với khả năng nhận thức của trẻ.
1.4.2.2. Nhóm biện pháp thực hành - ôn luyện
Biện pháp này bao gồm các cách thức hướng dẫn các hoạt động, các bài tập
tạo hình, tổ chức cho trẻ vận dung tích cực những hiểu biết, những thông tin mới tiếp
thu được, tạo điều kiện cho trẻ được lặp lại, được rèn luyện các thao tác, các phương
35
thức hoạt động tạo hình để hình thành các kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, tạo ra
sản phẩm đẹp nhất. Các bài tập thực hành phải sắp xếp một cách có hệ thống, tránh
sự lặp đi lặp lại. Quá trình thực hành - ôn luyện phải mang tính tích cực, hạn chế sự
sao chép, sự rập khuôn theo mẫu. Giáo viên thường xuyên độn viên, khuyến khích
trẻ chủ động tiếp thu những kinh nghiệm mới và biết vận dụng những kinh nghiệm
của mình trong hoàn cảnh khác nhau một cách thích hợp.
1.4.2.3. Nhóm biện pháp tìm tòi - sáng tạo
Là nhóm biện pháp tổ chức hoạt động tìm kiếm, khám phá, bồi dưỡng cho trẻ
các kinh nghiệm hoạt động sáng tạo.
Nhóm này bao gồm các biện pháp mang tính gợi mở, các hoạt động, các bài
tập tạo hình theo điều kiện, các tình huống có vấn đề, các bài tập sáng tạo.
Biện pháp sáng tạo là phương pháp tổ chức hoạt động nhằm giúp trẻ không
chỉ tìm kiếm từng phần mà còn biết độc lập tổ chức một quá trình sáng tạo, giải
quyết các bài tập sáng tạo theo ý đồ riêng của trẻ. Nội dung các bài tập sáng tạo
thường là những đề tài tự chọn. Để hình thành được ý định tạo hình giáo viên phải
hướng dẫn, giúp đỡ trẻ, nhưng đồng thời trẻ cũng tích cực sử dụng vốn kinh nghiệm
đã có để giải quyết nhiệm vụ.
Có nhiều con đường để kích thích, khuyến khích trẻ sáng tạo trong hoạt
động: giúp trẻ tích lũy làm giàu vốn biểu tượng; có những cảm xúc tình cảm thẩm
mỹ về các sự vật, hiện tượng; phải tổ chức thực tiễn tạo ra sản phẩm mới; hướng dẫn,
dìu dắt trẻ tới hoạt động tìm kiếm, khám phá đưa vào sản phẩm những nét mới lạ,
những suy nghĩ “riêng của mình”; tạo mối liên hệ mật thiết giữa hoạt động tạo hình
với các hoạt động khác.
Trong quá trình miêu tả, giáo viên giúp trẻ hình thành ý định tạo hình càng rõ
nét bao nhiêu thì trong quá trình thể hiện trẻ càng tự tin, tự lập, và biết chủ động
trong hành động bấy nhiêu.
36
Tiểu kết chương 1
Trong mỗi trẻ đều tiềm ẩn khả năng sáng tạo và chúng ta hoàn toàn có thể phát
hiện, bồi dưỡng khả năng sáng tạo cho trẻ em thông qua các hoạt động phong phú và
phù hợp với từng lứa tuổi.
Vẽ là một trong những hoạt động tạo hình được dạy ở trường mầm non giúp trẻ
hình thành tình cảm và xúc cảm thẩm mĩ, góp phần vào việc phát triển toàn diện
nhân cách cho trẻ. Trong đó, hoạt động vẽ theo ý thích là hoạt động nhằm rèn luyện,
cũng cố những kỹ năng mà trẻ đã học, trẻ phải nhớ lại hoặc tưởng tượng ra các hình
tượng theo ý thích.
Đối với trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi, nếu được giáo dục và hướng dẫn kịp thời thì
khả năng sáng tạo trong hoạt động vẽ nói chung và hoạt động vẽ theo ý thích nói
riêng sẽ được hình thành và phát triển tốt. Đồng thời, đó còn là tiền đề cho các hoạt
động sáng tạo ở lứa tuổi kế tiếp, ngược lại nếu giáo viên làm hạn chế những biểu
hiện sáng tạo của trẻ, bắt trẻ thực hiện một cách rập khuôn, dần dần sẽ trở thành thói
quen, ngấm vào tư duy và biến trẻ trở thành một con người thụ động, máy móc.
Khả năng sáng tạo ở trẻ không tự nhiên xuất hiện, không tự phát triển mà phụ
thuộc rất nhiều vào sự tổ chức và hướng dẫn của GV. Chính vì vậy, để phát triển khả
năng sáng tạo cho trẻ trong hoạt động vẽ theo ý thích, giáo viên cần phải quan tâm
đến cách thức tổ chức hoạt động và các biện pháp giảng dạy của giáo viên. Vì biện
pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo trong hoạt động vẽ theo ý thích
là những cách thức tạo cho trẻ có những cơ hội để thử nghiệm những ý tưởng mới,
cách suy nghĩ mới và cách giải quyết vấn đề nảy sinh mới trong hoạt động vẽ theo ý
thích. Cung cấp cơ hội tuyệt vời để trẻ có thể tích cực sáng tạo nhất và cho phép trẻ
chứng minh sự sáng tạo trong bất kỳ sự tự thể hiện nào của mình.
37
Chương 2. THỰC TRẠNG BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN
KHẢ NĂNG SÁNG TẠO CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI
TRONG HOẠT ĐỘNG VẼ THEO Ý THÍCH
2.1. Tổ chức nghiên cứu thực trạng
2.1.1. Mục đích
- Tìm hiểu biện pháp giáo viên sử dụng nhằm phát triển khả năng sáng tạo cho
trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích ở một số trường mầm non
Thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.
- Tìm hiểu khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ
theo ý thích.
2.1.2. Đối tượng
- Khảo sát 50 giáo viên trực tiếp giảng dạy trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi tại 5 trường
mầm non Thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.
- Khảo sát 150 trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi tại 4 trường mầm non trong địa bàn
Thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.
Tên trường
Trường MN Trường MN Trường MN Trường MN
Sen Hồng Hoa Dừa Rạng Đông Trúc Giang
Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ
12 25 14 23 16 22 18 20
Tổng số: 150 trẻ
* Vài nét về cơ sở giáo dục:
Trường Mầm non Sen Hồng, Mầm non Hoa Dừa, Mầm non Rạng Đông và
Mầm non Trúc Giang đều trực thuộc quản lý của Phòng Giáo dục & Đào tạo TP. Bến
Tre, tỉnh Bến Tre. Trong đó trường mầm non Sen Hồng và trường mầm non Hoa
Dừa được công nhận là trường chuẩn quốc đã nhiều năm. Các trường này được thành
lập khá lâu, đội ngũ giáo viên đều đã qua đào tạo đạt chuẩn, giáo viên có rất nhiều
kinh nghiệm trong chăm sóc - giáo dục trẻ, tích cực tham gia các hoạt động và đã đạt
một số kết quả cao trong các cuộc thi “Giáo viên dạy giỏi cấp thành phố”, “Hội thi
38
đồ dùng đồ chơi”. Cơ sở vật chất các trường khá đầy đủ, các lớp học có đồ dùng
trang thiết bị hiện đại như máy chiếu, máy vi tính, hệ thống bếp đảm bảo vệ sinh an
toàn tuyệt đối. Đặc biệt, môi trường sư phạm lành mạnh giúp các bé phát triển về thể
chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên, số lượng trẻ trong từng lớp ở mỗi trường vẫn còn vượt
so với chuẩn quy định của ngành giáo dục mầm non.
2.1.3. Nội dung
- Nhận thức của giáo viên về khả năng sáng tạo của trẻ trong HĐVTYT.
- Khảo sát biện pháp giáo viên sử dụng nhằm phát triển khả năng sáng tạo cho
trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích.
- Khảo sát khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ
theo ý thích.
2.1.4. Phương pháp
2.1.4.1. Phương pháp điều tra
- Sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến trên 50 giáo viên đang dạy lớp mẫu giáo 5 – 6
tuổi ở 5 trường mầm non Thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.
- Phiếu khảo sát gồm 10 câu hỏi [Phụ lục 1] nhằm tìm hiểu:
+ Nhận thức của giáo viên về khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
trong hoạt động vẽ theo ý thích.
+ Các biện pháp giáo viên sử dụng nhằm phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ
mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích.
+ Đánh giá thực trạng khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi, biểu hiện
khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong HĐVTYT.
2.1.4.2. Phương pháp dự giờ, quan sát
Chúng tôi tiến hành dự 15 tiết dạy hoạt động tạo hình theo ý thích của trẻ mẫu
giáo 5 – 6 tuổi tại 4 trường mầm non ở tỉnh Bến Tre. Trong quá trình dự giờ chúng tôi
ghi chép lại các hoạt động của giáo viên của trẻ, đặc biệt là quan sát những biểu hiện
của trẻ trong giờ học cũng như khi trẻ vẽ tranh nhằm tìm hiểu khả năng sáng tạo của
trẻ theo các tiêu chí đưa ra.
39
2.1.4.3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
* Phân tích giáo án
Phân tích giáo án của giáo viên để tìm hiểu cách thực hiện HĐVTYT nhằm
giúp trẻ phát huy khả năng sáng tạo.
* Phân tích sản phẩm tạo hình
Phân tích một số sản phẩm tạo hình của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi qua giờ học để
đánh giá khả năng sáng tạo của trẻ trong HĐVTYT theo các tiêu chí đưa ra ở trang
(29).
2.1.5. Thời gian: Tháng 2 – 3/2018.
2.2. Phân tích kết quả điều tra bằng phiếu
Trong quá trình nghiên cứu thực trạng việc tổ chức HĐVTYT cho trẻ mẫu giáo
5 - 6 tuổi ở các trường mầm non trong TP. Bến Tre bằng phiếu thăm do ý kiến, sau
khi xử lý các số liệu chúng tôi thu được kết quả như sau:
2.2.1. Thực trạng nhận thức của giáo viên về việc phát triển khả năng sáng
tạo cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích
Bảng 2.1. Nhận thức của GV về phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 -
6 tuổi trong HĐVTYT
STT Mức độ Số phiếu Tỷ lệ (%)
1 Rất quan trọng 37 74
2 Quan trọng 13 26
3 Ít quan trọng 0 0
4 Không quan trọng 0 0
Qua bảng khảo sát cho thấy, đa số GV nhận thức được việc phát triển khả năng
sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong HĐVTYT ở các trường mầm non hiện nay
là hoạt động rất quan trọng đối với trẻ 74%. Từ thực tế dự giờ, quan sát trẻ trong các
giờ HĐVTYT tôi thấy rằng 90% các GV đã thực hiện các hoạt động VTYT theo
đúng chương trình qui định. Các GV có đầu tư khá chu đáo vào giáo án, đồ dùng và
lựa chọn những phương pháp giúp trẻ phát huy khả năng sáng tạo. Trẻ cũng tích cực
40
hứng thú khi tham gia vào hoạt động, trẻ rất mạnh dạn, tự tin trả lời câu hỏi của cô.
Tuy nhiên, khả năng tạo hình còn hạn chế.
Bảng 2.2. Nhận thức của GV về biểu hiện sáng tạo trong tranh vẽ của trẻ
STT Biểu hiện sáng tạo của trẻ trong tranh VTYT Số phiếu Tỷ lệ (%)
Vẽ theo những biểu tượng đã được học. 8 16 1
Vẽ theo sự hướng dẫn của giáo viên 0 0 2
Vẽ theo mẫu đã có sẵn 0 0 3
Vẽ theo sự bắt chước bạn 0 0 4
Vẽ theo ý nghĩ, sở thích riêng của trẻ. 42 84 5
Bảng 2.2 cho thấy 84% GV cho rằng sự sáng tạo của trẻ thể hiện khi trẻ vẽ theo
ý nghĩ, sở thích riêng của trẻ. Bên cạnh đó, cũng có một số ý kiến 16% GV cho rằng
sự sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi khi trẻ thể hiện những biểu tượng đã được
học. Không có ý kiến nào cho rằng trẻ sáng tạo khi thể hiện theo sự hướng dẫn của
GV, theo mẫu có sẵn và theo bắt chước bạn.
Qua đó cho thấy hầu hết GV đều nhận thức đúng về những biểu hiện sáng tạo
trong tranh vẽ khi trẻ VTYT và đó cũng chính là điều kiện thuận lợi để GV tạo nhiều
cơ hội cho trẻ được thể hiện theo cách riêng cũng như tạo mọi điều kiện để trẻ có thể
phát huy mọi khả năng sáng tạo trong các hoạt động tạo hình nói chung và trong
HĐVTYT nói riêng. Điều này trùng khớp với kết quả dự giờ, có một số đề tài khi
GV tổ chức hoạt động vẽ, trẻ nhanh nắm bắt yêu cầu, trẻ vẽ khá nhanh chóng và độc
lập trong khi vẽ không cần sự giúp đỡ của GV, mặc dù cô chỉ cho xem một vài tranh
và giới thiệu rất ngắn gọn nội dung tranh.
Bảng 2.3. Tần suất tổ chức HĐVTYT
TT Tần suất tổ chức HĐVTYT trong tháng Số phiếu Tỷ lệ (%)
1 lần 9 18 1
2 lần 21 42 2
3 lần 7 14 3
4 lần 8 16 4
5 Ý kiến khác: nhiều lần 5 10
41
Nhìn chung, 42% GV cho rằng HĐVTYT được tổ chức 2 lần trong tháng.
Ngoài ra, việc tổ chức hoạt động này có sự khác nhau ở các trường. Theo trường
Trúc Giang chỉ duy nhất 1 lần trong tháng 18%, trường Mẫu giáo Hướng Dương,
Rạng Đông, Hoa Dừa tổ chức khoảng 3 đến 4 lần trog tháng với tỷ lệ 14% đến16%.
Và cũng có một vài ý kiến khác cho rằng HĐVTYT được tổ chức rất nhiều lần (6 lần
trở lên) trong tháng “tùy theo chủ đề của tháng đó” 10% . Tất cả những ý kiến trên
đây đều có điểm chung chính là “tùy theo chủ đề” mà các GV sẽ tổ chức hoạt động
với tần suất nhiều hay ít. Các chủ đề ở trường mầm non dao động từ 2 đến 5 tuần và
trong các tuần GV sẽ sắp xếp, tổ chức nhiều hoạt động khác nhau. Tùy theo chủ đề
mà GV sẽ chọn dạng hoạt động tạo hình (tạo hình theo mẫu, theo đề tài hay ý thích)
để dạy trẻ và tần suất tổ chức HĐVTYT là một trong những cơ hội để trẻ thỏa sức
phát huy khả năng sáng tạo của mình.
Bảng 2.4. Giáo viên đánh giá mức độ biểu hiện khả năng sáng tạo của trẻ mẫu
giáo 5 - 6 tuổi trong HĐVTYT
Mức độ
Trung Biểu hiện Cao Thấp bình
SL % SL % SL %
Sự mới lạ của tên tranh vẽ 16 32 34 68 0 0
Thay đổi thành phần các hình ảnh trong 26 52 24 48 0 0 Nội tranh vẽ dung
Thay đổi hình dáng hình ảnh trong tranh 22 44 24 48 4 8 vẽ
Thay đổi sự liên kết giữa các yếu tố trong 10 20 37 74 3 6 Hình tranh vẽ
thức 11 22 35 70 4 8 Tranh vẽ hài hòa, cân đối
42
Bố Sử dụng luật phối cảnh thể hiện 7 14 43 86 0 0 cục chiều sâu trong tranh
Thể hiện màu sắc tự tạo 6 12 44 88 0 0 Màu Thể hiện màu sắc hài hòa, phù sắc 10 20 40 80 0 0 hợp nội dung
Đối tượng thể hiện dưới dạng 6 12 37 74 7 14 hoạt động Hình
vẽ Đối tượng thể hiện tư thế phù 6 12 44 88 0 0 hợp, giàu hình tượng
Có thể thấy, phần lớn GVMN đánh giá biểu hiện tưởng tượng sáng tạo của trẻ
thể hiện trong hoạt động vẽ ở mức độ trung bình là chủ yếu.
Về nội dung tranh vẽ: Theo tiêu chí tên tranh vẽ, có 32% giáo viên cho rằng độ
mới lạ trong tên tranh vẽ của trẻ đạt mức độ cao, nhưng có đến 68% giáo viên đánh
giá chỉ đạt ở mức trung bình. Tiêu chí đặc điểm nội dung tranh vẽ, biểu hiện sự thay
đổi thành phần các hình ảnh trong tranh vẽ có 52% giáo viên đánh giá biểu hiện này
ở mức độ cao, biểu hiện sự thay đổi đặc điểm hình dáng của các hình ảnh trong
tranh vẽ có 44 % giáo viên đánh giá ở mức độ cao. Còn biểu hiện sự thay đổi liên kết
giữa các yếu tố thì rất ít giáo viên đánh giá ở mức độ cao 20%, tỷ lệ còn lại ở mức độ
trung bình và thấp. Từ thực tế dự giờ ở các trường, cho thấy trẻ đa số trẻ đặt tên tranh
vẽ theo mẫu, theo sự gợi ý của cô hoặc đặt tên giống như bạn, rất ít có sự sáng tạo
khi đặt tên tranh vẽ. Các sản phẩm của trẻ thể hiện có sự thay đổi về mặt nội dung
nhưng không nhiều, các đối tượng trong tranh vẽ được thể hiện với kích thước ngang
nhau, chưa chú đến tỷ lệ của các sự vật. Tranh vẽ của trẻ có sự thay đổi trật tự vị trí
nhưng chưa tạo được sự liên kết giữa các đối tượng trong tranh.
Về hình thức tranh vẽ: Theo tiêu chí bố cục, có 86% GV đánh giá trẻ thể hiện
luật phối cảnh ở mức độ trung bình và thấp. Điều này được thể hiện một cách rõ ràng
qua tranh vẽ của trẻ mà khi dự giờ, hầu hết trẻ chỉ thể hiện quan hệ không gian trên –
dưới hoặc có một tầng cảnh, và sắp xếp theo lối liệt kê, nên tranh vẽ chưa có sự hài
43
hòa, cân đối. Về tiêu chí màu sắc có đến 88% các giáo viên cho rằng trẻ chưa biết
phối hợp các màu sắc để tạo ra màu mới, chủ yếu là dùng màu có sẵn. Khi sử dụng
màu sắc, trẻ thường chỉ chú ý đến độ tươi sáng, đặc điểm thường ngày của sự vật, thể
hiện sự yêu ghét đối tượng được yêu tô màu sáng, đối tượng ghét thì tô màu tối chứ
chưa hướng đến việc tạo ra màu sắc thể hiện sự biến đổi màu sắc của sự vật. Về tiêu
chí hình vẽ phần lớn trẻ chưa biết cách thể hiện đối tượng dưới dạng hoạt động, trẻ
chủ yếu thể hiện đối tượng ở một số dạng cơ bản như nắm tay, đưa tay ra hoặc đứng
yên, các dạng hoạt động chưa phong phú và mang tính hình tượng.
Bảng 2.5. Giáo viên đánh giá mức độ quan trọng của các yếu tố trong quá trình tổ
chức HĐVTYT
Mức độ
Không quan Các yếu tố Quan Trọng Ít quan trọng trọng
SL % SL % SL %
Tạo hứng thú cho trẻ 50 100 0 0 0 0
Quan sát mẫu 42 84 8 16 0 0
Gợi nhớ những hình ảnh mà trẻ đã 44 88 6 12 0 0 quan sát
Thể hiện ý tưởng và sáng tạo theo 43 86 7 14 0 0 cách riêng
Đánh giá sản phẩm tạo hình 29 58 18 36 3 6
100% giáo viên cho rằng việc tạo hứng thú cho trẻ là quan trọng. Liệu có sự
tương đồng số liệu này và thực tế ở các trường mầm non hiện nay không? Quá trình
quan sát thực tế cho thấy giáo viên không có nhiều thời gian để đầu tư, tìm tòi suy
nghĩ để gây hứng thú cho trẻ trong hoạt động vẽ nhất là VTYT. Sự hứng thú ở trẻ
trong hoạt động này là một trong những yếu tố trọng yếu để đưa trẻ đến với nghệ
thuật và sẽ là chất xúc tác tạo nên các tác phẩm nghệ thuật đẹp và đầy sáng tạo.
Chính vì vậy, khó duy trì được hứng thú cho trẻ trong suốt thời gian vẽ. Không khí
44
buổi học thường chỉ sinh động lúc đầu giờ, càng về sau các cháu càng tỏ ra mệt mỏi,
làm xong rồi đứng lên, không thích ngồi ngắm nghía và phát triển thêm ý tưởng.
84% GV đánh giá yếu tố cho trẻ quan sát mẫu là quan trọng, 88% GV cho rằng
yếu tố gợi nhớ hình ảnh đã quan sát cũng rất quan trọng. Một số rất ít cho rằng 2 tiêu
chí này ít quan trọng. Điều đó cho thấy, các GV rất quan tâm trong việc cung cấp
kiến thức, vốn biểu tượng cho trẻ vì nếu vốn sống trẻ ít trẻ sẽ rất khó khăn trong việc
thể hiện sản phẩm và tác phẩm của trẻ sẽ không sáng tạo. Thực tế dự giờ cho thấy, có
một số giờ dạy giáo viên đã tổ chức đúng trình tự như cho trẻ xem tranh ảnh, tranh
mẫu và khai thác hết nội dung tranh vẽ giúp trẻ nhanh chóng hoàn thành tác phẩm
86% GV đồng ý để trẻ tự do sáng tạo theo cách riêng quan trọng và rất ít 14%
GV cho rằng yếu tố cho trẻ được tự do thể hiện là ít quan trọng. Điều đó cho thấy
GV đã nhận thức được yếu tố then chốt để tạo ra môi trường sáng tạo chính là
khuyến khích trẻ tự do thể hiện ý tưởng và sáng tạo theo cách riêng của trẻ. Sự tự do
tâm lý sẽ tạo điều kiện quan trọng để trẻ suy nghĩ, nuôi dưỡng những ý tưởng sáng
tạo.
58% GV cho rằng đánh giá sản phẩm tạo hình là quan trọng, 36% ý kiến ít
quan trọng và 6% ý kiến không quan trọng. Từ kết quả, cho thấy việc tổ chức đánh
giá sản phẩm cho trẻ chưa được giáo viên quan tâm nhiều và đây sẽ là một nguyên
nhân đáng lưu ý. Giáo viên thường quan tâm sản phẩm vẽ của trẻ ở nhiều yếu tố như
tạo ra được hình dạng, tô đều, vẽ nhiều hình, hoặc vận dụng những kĩ năng miêu tả.
Bảng 2.6. Giáo viên sử dụng biện pháp phát triển khả năng sáng tạo trong
HĐVTYT
Mức độ
Thường sử Không sử Các biện pháp Ít sử dụng dụng dụng
SL % SL % SL %
Tổ chức cho trẻ tiếp xúc, quan sát 28 56 22 44 0 0 sự vật, hiện tượng trong MTXQ
Tổ chức cho trẻ xem tác phẩm nghệ 5 10 18 36 27 54
45
thuật ở triển lãm tranh
Tổ chức cho trẻ miêu tả nhận xét 45 90 5 10 0 0 sản phẩm của mình và của bạn.
Sử dụng câu hỏi gợi mở để trẻ suy 44 88 6 12 0 0 nghĩ và tưởng tượng
Hướng dẫn, luyện tập kỹ năng tạo 30 60 20 40 0 0 hình cho trẻ
Sử dụng hình thức vẽ ngoài giờ học
như: vẽ ngoài trời, vẽ ở hoạt động 31 62 14 28 5 10
góc, nhóm chơi tạo hình
Kết quả khảo sát biện pháp tổ chức cho trẻ tiếp xúc, quan sát sự vật, hiện tượng
trong MTXQ có 56% ý kiến nhận định rằng đây là biện pháp thường được sử dụng trong
quá trình tổ chức cho trẻ phát triển khả năng sáng tạo trong HĐVTYT và cũng có 44%
GV cho rằng họ ít sử dụng biện pháp này. Để phát huy khả năng tưởng tượng sáng tạo
trong hoạt động vẽ thì việc cung cấp vốn biểu tượng cho trẻ rất là quan trọng. Tuy nhiên,
với kết quả trên thì đây là biện pháp ít được các giáo viên quan tâm và sử dụng.
Sử dụng câu hỏi gợi mở để trẻ suy nghĩ và tưởng tượng cũng nhằm giúp trẻ
tăng khả năng sáng tạo. Với 88% thường sử dụng biện pháp này và cũng có 12% cho
rằng họ ít sử dụng để giúp trẻ phát triển khả năng sáng tạo. Từ đó cho thấy đây là
biện pháp rất tích cực và mang lại hiệu quả nếu chúng ta biết cách đặt câu hỏi gợi mở
đúng đề tài và đúng thời điểm.
60% GV hướng dẫn, luyện tập kỹ năng tạo hình cho trẻ là biện pháp nhằm
cung cấp và củng cố kỹ năng tạo hình cho trẻ. Và đây là biện pháp được sử dụng
thường xuyên trong hoạt động vẽ theo ý thích, 40% là tỉ lệ GV ít thường xuyên lựa
chọn biện pháp này. Đối với hoạt động tạo hình thì kỹ năng tạo hình là một trong
những yếu tố giúp trẻ có khả năng sáng tạo cho tranh vẽ của mình thế nhưng với tỉ lệ
như trên thì biện pháp này các GV vẫn chưa quan tâm nhiều nên ít sử dụng đến.
Sử dụng hình thức vẽ ngoài giờ học như: vẽ ngoài trời, vẽ ở hoạt động góc,
nhóm chơi tạo hình là biện pháp nhằm thay đổi môi trường vẽ để kích thích sự hứng
46
thú và khả năng sáng tạo cho trẻ trong HĐVTYT. Với 62% ý kiến cho rằng đây là
biện pháp được sử dụng thường xuyên trong quá trình phát huy sự sáng tạo của trẻ.
Có thể thấy các GV ở trường mầm non cũng chú trọng biện pháp này để giúp trẻ phát
huy khả năng sáng tạo. Tuy nhiên cũng có 28 % GV ít sử dụng biện pháp này. Với
trẻ được thoải mái, tự do sáng tạo trong một không gian mở trẻ sẽ vô cùng thích thú
nhưng có thể do điều kiện thực tế cũng như cách tổ chức của cô mà cơ hội trẻ được
tiếp xúc với môi thiên nhiên và trong hoạt động góc, hoạt động trong nhóm chơi để
phát triển sự sáng tạo trong hoạt động VTYT còn nhiều hạn chế. Có 10% GV được
hỏi đã không chọn biện pháp này để giúp trẻ sáng tạo trong HĐVTYT. Điều này
cũng đúng với thực tế ở một số trường mầm non trong TP Bến Tre vì nhiều nguyên
nhân khác nhau mà giáo viên rất ngại cho trẻ vẽ ở ngoài trời (không gian trường hẹp,
không có nhiều cây xanh, khó quản lý trẻ…), còn vẽ trong hoạt động góc thì số trẻ
tham gia tại góc này cũng không nhiều nên thiếu sự đồng loạt.
Một biện pháp có tác dụng rất lớn trong việc cung cấp vốn biểu tượng tạo hình
cho trẻ nhằm làm phong phú hơn nội dung tranh vẽ là tổ chức cho trẻ xem tác phẩm
nghệ thuật ở triển lãm tranh. Tuy nhiên, điểm hạn chế khi áp dụng biện pháp này là
địa điểm và thời gian diễn ra triển lãm không phải lúc nào cũng thuận lợi để tổ chức
cho trẻ đi xem trừ khi buổi triển lãm tranh được GV tổ chức ngay tại trường để trẻ
được quan sát và tìm hiểu. Vì thế nên có đến 54% không sử dụng biện pháp này giúp
trẻ phát huy khả năng sáng tạo trong HĐVTYT, có 36% ít sử dụng biện pháp này, 10
% thường sử dụng biện pháp tổ chức cho trẻ xem tác phẩm nghệ thuật ở triển lãm
tranh chủ yếu là các trường lớn và là trường điểm.
Trong hoạt động tạo hình biện pháp thường xuyên tổ chức cho trẻ là thường
xuyên tổ chức cho trẻ quan sát, miêu tả, nhận xét sản phẩm của mình và của bạn rất
thường được sử dụng để giúp trẻ phát huy khả năng sáng tạo trong HĐVTYT và đây
cũng là cơ hội để cho trẻ biết nhận ra cái đẹp và đánh giá cái đẹp, 90% GV cho rằng
đây là biện pháp dễ tiến hành trong quá trình tổ chức. Bên cạnh đó vẫn còn 10% ý
kiến cho rằng ít sử dụng biện pháp nêu trên.
Nhìn chung đa số GV ý thức được tầm quan trọng trong việc lựa chọn biện
pháp phù hợp để giúp trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi phát triển khả năng sáng tạo trong
47
HĐVTYT. Mỗi biện pháp nếu áp dụng thành công thì sẽ mang lại những hiệu quả
tích cực, tuy nhiên GV cần phải lựa chọn và kết hợp các biện pháp sao cho phù hợp
với đối tượng và đề tài vẽ cụ thể thì mới có được kết quả.
Bảng 2.7. Nguyên nhân ảnh hưởng đến khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi trong HĐVTYT
Số Tỷ lệ STT Nguyên nhân phiếu (%)
Giáo viên sử dụng chưa thường xuyên các biện pháp phát triển 33 66 1 khả năng sáng tạo cho trẻ trong HĐVTYT
Giáo viên chưa thấy tầm quan trọng của việc phát triển khả năng 2 4 8 sáng tạo cho trẻ trong hoạt động vẽ theo ý thích
3 GV gò bó, áp đặt trẻ khi tổ chức hoạt động 27 54
GV không có nhiều thời gian để tổ chức thực hành, luyện tập 4 34 68 cho trẻ
5 Kỹ năng vẽ của trẻ hạn chế 22 44
6 Trẻ không đủ thời gian thực hiện sản phẩm 31 62
7 Số lượng trẻ quá đông 29 58
Bảng 2.7 cho thấy sự đồng tình nhiều nhất đều xuất phát nguyên nhân từ GV cụ
thể như sau: có 66 % giáo viên sử dụng chưa thường xuyên các biện pháp phát triển
khả năng sáng tạo cho trẻ trong HĐVTYT, 68% GV không có nhiều thời gian để tổ
chức thực hành, luyện tập, 54% GV gò bó, áp đặt trẻ khi tổ chức hoạt động. Bên cạnh
đó, có 8% GV chưa thấy tầm quan trọng của việc phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ
trong hoạt động vẽ theo ý thích là cần thiết. Hiện nay, chương trình giáo dục mầm
non với nguyên tắc lấy trẻ làm trung tâm phát huy tính tích cực, sáng tạo cho trẻ
trong tất cả hoạt động là mục tiêu mà các trường mầm non hướng đến. Nhưng từ kết
quả khảo sát trên và quá trình dự giờ ở các trường mầm non chúng tôi nhận thấy việc
không sử dụng thường xuyên các biện pháp là hạn chế rất lớn trong việc phát triển
khả năng sáng tạo cho trẻ: trẻ ít vốn biểu tượng, kỹ năng vẽ hạn chế nên tranh vẽ
48
nghèo nàn, thiếu ý tưởng và rập khuôn theo mẫu hoặc theo gợi ý của giáo viên. Ngoài
ra, GV còn gò bó áp đặt trong khi tổ chức hoạt động vẽ, chưa tạo được môi trường tự
do sáng tạo nên chưa phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo cho trẻ. Bên
cạnh đó, tần suất làm việc của các GV trong một ngày với quá nhiều hoạt động nên
việc rèn luyện các kỹ năng tạo hình, cho trẻ thực hành - luyện tập để tăng khả năng
sáng tạo cho trẻ cũng bị hạn chế.
Nguyên nhân cũng ảnh hưởng đến khả năng sáng tạo của trẻ trong HĐVTYT là
về phía trẻ. Có 62% nhất trí rằng trẻ không đủ thời gian thực hiện sản phẩm, đây là
mối quan tâm hàng đầu của GV trong việc phát huy khả năng sáng tạo cho trẻ. Với
thời lượng khác nhau ở từng nhóm tuổi dao động từ 30 - 45 phút cho hoạt động tạo
hình. Đây là hạn chế nhưng chính điều này cũng là một trong những yếu tố gây khó
khăn cho GV khi tổ chức. Do đó, chủ yếu trẻ chỉ kịp vẽ những gì cô đã hướng dẫn,
làm theo yêu cầu của cô. Tuy nhiên, yếu tố này GV hoàn toàn có điều chỉnh cách tổ
chức và GV có thể chủ động phân bố thời gian hợp lý để trẻ thực hiện nhiệm vụ.
Nhưng nếu trẻ kỹ năng vẽ hạn chế hoặc trẻ thật sự thích vẽ và có nhiều ý tưởng sáng
tạo trong hoạt động này thì thời gian chính là trở ngại lớn làm trẻ không được thoải
sức sáng tạo.
Ngoài ra, số lượng trẻ quá đông, kỹ năng vẽ hạn chế cũng gây ra nhiều khó
khăn cho khả năng sáng tạo của trẻ. Số lượng trẻ đông làm cô khó khăn trong việc
bao quát, tiếp xúc trực tiếp với từng trẻ để hướng dẫn trẻ yếu và động viên trẻ có
sáng tạo trong quá trình hoạt động. Ngoài ra, trẻ chưa hứng thú trong hoạt động vẽ
cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sáng tạo của chúng. Vậy nên, vấn đề cần đặt ra
là GV cần phải tạo điều kiện thực hành, luyện tập các kỹ năng cho trẻ mọi lúc mọi
nơi, luôn động viên khuyến khích và tạo không khí thoải mái để trẻ có thêm hứng thú
và tích cực hơn trong việc phát huy hết khả năng của mình trong lĩnh vực sáng tạo.
49
Bảng 2.8. Giáo viên kiến nghị nhằm phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu
giáo 5 - 6 tuổi trong HĐVTYT
Số Tỷ lệ STT Giáo viên đề xuất phiếu (%)
1 Mở thêm các lớp bồi dưỡng về tạo hình lứa tuổi mầm non 30 60
Trang bị thêm nhiều tài liệu hướng dẫn sáng tạo trong hoạt động 2 12 24 vẽ
Trang bị thêm nhiều nguyên vật liệu mở từ nhiều nguồn khác 3 31 62 nhau
4 Thay đổi nội dung chương trình giảng dạy 7 14
Kết hợp giữa gia đình và nhà trường để tạo ra môi trường vẽ cho 5 35 70 trẻ
39 78 6 Kéo dài thời gian cho trẻ tạo ra sản phẩm
42 84 7 Tăng cường tích lũy biểu tượng, kinh nghiệm cho trẻ
Trên đây là kết quả những kiến nghị, đề xuất của giáo viên để phát triển khả năng
sáng tạo cho trẻ trong HĐVTYT. Có 60% GV đều có nguyện vọng mở thêm các lớp
bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn đi sâu về tạo hình, 24 % GV cần trang bị thêm
nhiều tài liệu hướng dẫn sáng tạo trong hoạt động VTYT, 14 % GV đề xuất cần thay
đổi nội dung chương trình giảng dạy và mong muốn có sự kết hợp chặt chẽ hơn nữa
giữa gia đình và nhà trường để tạo ra môi trường hoạt động tốt nhất, khuyết khích
niềm vui sáng tạo nơi trẻ cũng chiếm tỉ lệ khá cao từ 70%. Hiện nay với sự chỉ đạo
của Bộ Giáo dục và đào tạo thì cả nước đang thực hiện Chương trình giáo dục mầm
non, chương trình mang tính chất khung, vậy nên giáo viên hoàn toàn có thể linh
hoạt chọn lựa nội dung giáo dục phù hợp với những yêu cầu đề ra trong chương
trình. Có thể là do nguyên nhân chủ quan từ cá nhân hay một vài yếu tố khách quan
khác nên có 7 ý kiến đồng tình nguyện vọng cần thay đổi nội dung chương trình
giảng dạy. Bên cạnh đó, có 62% ý kiến mong muốn trẻ được hỗ trợ bổ sung thêm
nhiều nguyên vật liệu mở từ nhiều nguồn khác nhau để trẻ có thêm nguyên liệu trang
trí tranh vẽ và cũng giúp trẻ hứng thú, say mê với hoạt động này. Tuy nhiên sự bổ
50
sung nguyên liệu cũng cần phải phù hợp với đề tài thì trẻ mới có thể sử dụng để sáng
tạo được. Nguyện vọng tiếp theo là cần thêm thời gian cho trẻ tạo ra sản phẩm, đây
là một nguyện vọng rất chính đáng của số đông GV 78 %, vì với thời gian quy định
trong chương trình GDMN thì trẻ khó có thể hoàn thành tác phẩm của mình nhưng
vẫn khắc phục được nếu GV biết linh hoạt trong quá trình tổ chức hoạt động, thời
lượng dành cho trẻ tạo ra sản phẩm là dài nhất có thể.
Và đề xuất được nhiều ý kiến nhất là 84% nhất trí cần tăng cường tích lũy biểu
tượng, kinh nghiệm từ nhiều nguồn khác nhau (dạo chơi, tham quan, xem máy tính,
hoạt động nhóm ...). Vì trẻ không thể nào sáng tạo được nếu vốn biểu tượng không
nhiều, cho nên GV cần giúp trẻ tích lũy vốn kiến thức ở mọi lúc, mọi nơi khi cần để
trẻ phát huy khả năng sáng tạo cao nhất.
2.2.2. Thực trạng tổ chức hoạt động vẽ theo ý thích nhằm phát triển khả
năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở trường mầm non
Chúng tôi tiến hành dự giờ 15 hoạt động vẽ theo ý thích của các lớp ở năm
trường khảo sát và nhận thấy như sau:
Hầu hết các GV đã thực hiện các hoạt động VTYT theo đúng chương trình qui
định. Các GV có đầu tư khá chu đáo vào giáo án, đồ dùng và lựa chọn những phương
pháp giúp trẻ phát huy khả năng sáng tạo. Vì vậy, trẻ cũng tích cực hứng thú khi
tham gia vào hoạt động, trẻ rất mạnh dạn, tự tin trả lời câu hỏi của cô. Tuy nhiên,
thực tế trái ngược hẳn với kết quả khi trẻ tạo ra sản phẩm, điều này cho thấy có sự
chuẩn bị trước nội dung giờ dạy cho trẻ. Bên cạnh đó, cũng có một số giáo án nội
dung hướng dẫn chưa khai thác hết vốn kinh nghiệm của trẻ nên dù trẻ tự tin trả lời
nhưng khả năng sáng tạo của trẻ qua những sản phẩm vẫn chưa đạt được mức độ cao.
Giáo viên đã tổ chức đúng trình tự như cho trẻ xem tranh ảnh, tranh mẫu với số
lượng nhiều tranh nhưng câu hỏi đàm thoại chưa sâu nên trẻ khá lúng túng khi thực
hiện tác phẩm. Với những đề tài quen thuộc như: vẽ rau, củ, quả bé thích hay vẽ tự
do.... trẻ nhanh nắm bắt đề tài, trẻ vẽ khá nhanh chóng và độc lập trong khi vẽ không
cần sự giúp đỡ của GV, mặc dù cô chỉ cho xem một vài tranh và giới thiệu rất ngắn
gọn nội dung tranh. Đối với các đề tài khó hơn như vẽ về phong cảnh quê em, vẽ
người thân trong gia đình, vẽ phương tiện giao thông … thì bố cục, hình ảnh tranh vẽ
51
rất lộn xộn và trong quá trình thực hiện sản phẩm trẻ không thể nhanh chóng tạo ra
sản phẩm, trẻ rất hay hỏi cô và cần sự giúp đỡ của GV. Mặt khác, có 2 tiết dạy khi
giới thiệu, ổn định lớp xong giáo viên đàm thoại một vài câu hỏi liên quan đến chủ
đề và sau đó giáo viên gợi ý rất nhiều và yêu cầu trẻ vẽ tự do theo ý thích mà chưa
giúp trẻ định hướng lại cần vẽ gì, phải vẽ như thế nào. Xuất phát từ lý do trên, nên
tranh vẽ của trẻ thường là sự lặp lại của những hình vẽ trước đó, chưa thể hiện được
sự sáng tạo và đôi lúc cũng không phù hợp với đề tài. Trong các tiết này giáo viên có
sử dụng lời để hướng dẫn nhưng chủ yếu cũng chỉ là mô tả tranh và giao nhiệm vụ
cho trẻ thực hiện đề tài. Cô ít đặt câu hỏi gợi mở ý tưởng, hay cho trẻ đối chiếu, so
sánh…tìm cách tạo mẫu hình, sắp xếp bố cục mới lạ để làm tranh đẹp hơn.
Có một vài sự khác biệt giữa các trường khi GV tiến hành tổ chức cho trẻ
HĐVTYT: có trường để rất nhiều tranh cho trẻ xem nhưng khai thác tranh khá sơ
xài; có trường để hai đến ba tranh và trò chuyện để trẻ tự tưởng tượng; một trường
khác thì lại hoàn toàn không trang bị tranh ảnh, cô hỏi trẻ thật nhiều câu hỏi xoay
quanh đề tài để giúp trẻ gợi nhớ và kích thích trí tưởng tượng của trẻ, sau đó cô giao
nhiệm vụ cho trẻ thực hiện. Đó là sự khác biệt rất lớn về cách sử dụng tranh ảnh và
tranh mẫu của giáo viên ở các trường. Tuy nhiên, điểm chung nhất của hầu hết giáo
viên ở các trường là sau khi đàm thoại về nội dung đề tài các GV đều có cách hỏi
giống nhau như một hình thức với một vài câu quen thuộc như: “Con thích vẽ gì?”,
“Con sẽ vẽ nó như thế nào”, “Con sẽ vẽ thêm gì cho tranh của con thêm sinh
động?”… và khi kết thúc nội dung trò chuyện là lời nhắc nhở trẻ về cách cầm bút, tư
thế ngồi cho đúng, cách tô màu và sắp xếp bố cục sao cho hợp lý. Đặc biệt, trong quá
trình trẻ tạo ra sản phẩm cô luôn gợi ý về nội dung hình vẽ, màu sắc tô và bố cục để
tranh được phù hợp với ý của cô, cô còn giúp trẻ thực hiện sản phẩm. Nhìn chung,
GV thường “không quan tâm” lắm đến ý tưởng cũng như cách tạo hình của trẻ trong
hoạt động này chỉ mong muốn là khi kết thúc thời gian quy định của hoạt động trẻ
hoàn thành xong sản phẩm là được. Vì vậy, đây chính là một trong những lý do làm
hạn chế khả năng sáng tạo của trẻ trong quá trình VTYT.
Một số giờ học, phần đánh giá sản phẩm của trẻ khá sinh động hơn khi GV cho
trẻ đặt tên sản phẩm của mình hoặc của bạn. Tuy nhiên, hầu như các tiết học GV cho
52
trẻ nhận xét sản phẩm với hình thức như nhau cùng dạng câu hỏi “Con thích nhất sản
phẩm nào?” “Vì sao con thích?” Và câu trả lời đều gần giống nhau “con thích sản
phẩm này vì sản phẩm đẹp hay con thích sản phẩm này vì bạn tô màu đẹp”... Giáo
viên chưa gợi ý cũng như chưa tập trung khai thác sâu về bố cục, hình dáng, ...Mặt
khác, trẻ còn chọn sản phẩm không đẹp hay đơn giản sản phẩm đó là của bạn mà trẻ
thích để nhận xét rằng bạn vẽ đẹp mà không nêu lên được những cái mới, cái đẹp
trong tác phẩm hay nêu lên cách nhận xét mới lạ, hấp dẫn. Điều đó cho thấy, GV
chưa chú ý nhiều đến việc cho trẻ phân tích sản phẩm vì thế đây cũng là nguyên nhân
làm trẻ giảm sự hứng thú ở hoạt động này và làm mai một khả năng sáng tạo của trẻ.
Tóm lại, tất cả các hoạt động mà chúng tôi được dự thì đa số giáo viên đều thực
hiện theo đúng qui trình của một giờ hoạt động vẽ theo ý thích nhưng vẫn chưa phát
huy hết khả năng sáng tạo của trẻ và thể hiện hết tính độc lập trong quá trình thực
hiện. Giờ học được tổ chức thường rập khuôn, máy móc, giáo viên chú trọng nhiều
đến kết quả phải đạt được nên sản phẩm của trẻ vẫn chưa thể hiện sự sáng tạo nhiều.
2.2.3. Thực trạng biểu hiện khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi
trong tranh vẽ theo ý thích
Đối với trẻ nhỏ, khi được cô cho vẽ là một sự thích thú, hứng khởi: trẻ hăng hái
xếp bàn ghế, phụ cô chuẩn bị đồ dùng để vẽ, nhắc nhỡ các bạn cùng thực hiện. Khi
tiết học tiến hành, trẻ chăm chú nghe cô hướng dẫn, trò chuyện và tham gia phát biểu
ý kiến. Nhìn chung, qua 15 tiết dự giờ chúng tôi nhận thấy trẻ rất tích cực tham gian
hoạt động vẽ cùng cô. Tuy nhiên, khi trẻ bắt đầu vẽ thì lại loay hoay chưa xác định rõ
ràng ý tưởng của mình nên: nội dung tranh còn nghèo nàn, hình vẽ đơn giản, bố cục
sắp xếp đôi khi còn lộn xộn, màu sắc có tươi sáng nhưng sự phối màu chưa có. Ở
một số tranh, trẻ cũng thể hiện được ý tưởng độc đáo, ngộ nghĩnh nhưng vì chưa biết
cách thể hiện nên vẫn chưa đẹp lắm.
Để đánh giá khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong HĐVTYT
thông qua sản phẩm tạo hình, chúng tôi đã tiến hành cho 150 trẻ vẽ theo ý thích ở 4
trường với các đề tài: “Vẽ phong cảnh quê em”; “Trường mầm non của bé”; “Vẽ
những người thân trong gia đình”; “Vẽ vườn rau nhà bé” và dựa trên những tiêu chí
đánh giá ở phần cơ sở lý luận trang (31) chúng tôi thu được kết quả như sau:
53
Bảng 2.9. Kết quả mức độ sáng tạo tranh vẽ của trẻ ở các trường mầm non
Trường Rạng
Trường Trúc
Trường Sen Hồng Trường Hoa Dừa
Đông
Giang
Tiêu chí
Cao
TB Thấp Cao TB Thấp Cao TB Thấp Cao TB Thấp
Tên tranh vẽ
13
24
0
11
26
0
10
25
3
7
30
1
Đặc điểm nội dung
16
21
0
13
24
0
8
30
0
6
32
0
Bố cục
6
31
0
7
30
0
1
37
0
2
36
0
Màu sắc
12
25
0
9
28
0
9
29
0
8
30
0
Hình vẽ
8
29
0
11
26
0
5
33
0
4
34
0
Tổng điểm
11
26
0
10
26
0
6
30
3
5
32
1
Kết quả bảng 2.9 cho thấy ở tổng điểm các tiêu chí cả 4 trường trẻ đều đạt mức
độ sáng tạo trung bình. Cụ thể như trường Sen Hồng, Hoa Dừa có 26 trẻ, Rạng Đông
có 30 trẻ, Trúc Giang 32 trẻ, như vậy số lượng trẻ đạt mức trung bình ở mỗi trường
đều chiếm trên 70%. Xét trên từng tiêu chí cho thấy, trường Sen Hồng, Hoa Dừa
không có trẻ nào đạt mức độ thấp ở tất cả các tiêu chí, riêng ở tiêu chí tên tranh vẽ
trường Rạng Đông có 3 trẻ, trường Trúc Giang có 1 trẻ đạt mức độ thấp. Ở cả 4
trường, số trẻ tưởng tượng sáng tạo ở mức độ cao ở các tiêu chí chiếm số ít chẳng
hạn như ở tiêu chí bố cục trường Sen Hồng có 6 trẻ, Hoa Dừa 7 trẻ, Rạng Đông có 1
trẻ và Trúc Giang có 2 trẻ.
Có thể phân tích trên từng tiêu chí như sau:
+ Tên tranh vẽ
Ở tiêu chí này, tưởng tượng sáng tạo của trẻ ở mức độ trung bình chiếm trên
64%, cao chiếm 35%, và mức độ thấp chiếm 2%. Điểm trung bình của tiêu chí trên
của tranh vẽ nghiêng về phía trung bình.
Phần lớn trẻ đều nêu được ý định tên gọi bức tranh mình sẽ vẽ khi giáo viên
đưa ra đề tài, bên cạnh đó còn có một số trẻ lúng túng và nêu tên tranh vẽ giống bạn.
Khi bắt đầu vẽ, số trẻ còn ngập ngừng, thiếu tự tin khi thể hiện ý tưởng, nhìn sang
bạn và hay bắt chước lẫn nhau chiếm khoảng 12%, số còn lại bắt đầu thể hiện ý
tưởng của mình khi thực hiện tranh vẽ.
54
Với đề tài: “Vẽ người thân trong gia đình”, “Vẽ phong cảnh quê em”, sau khi
đã hoàn tất xong tranh vẽ hầu hết trẻ đều đặt được tên cho tranh vẽ của mình. Khi gọi
tên tranh vẽ, chỉ có một số ít trẻ sử dụng lại tên như lúc ban đầu, phần lớn có sự thay
đổi tên tranh vẽ theo hai hướng: thứ nhất đặt tên một cách cụ thể hơn chẳng hạn như
trước khi bắt đầu vẽ đặt tên “ba mẹ của em” thì sau đó trẻ đặt tên “ba mẹ đi làm”
hay đề tài “Vẽ phong cảnh quê em” trẻ đặt tên “đường phố nhà em”, “Đồng lúa xanh
non” ....
Về độ mới lạ, có khoảng 2/3 trẻ lặp lại những nội dung tên đề tài mà giáo viên
đã giới thiệu và có khác đi đôi chút nên tên tranh vẽ cũng không có gì mới lạ, chỉ có
khoảng 1/3 trẻ khai thác một số khía cạnh khác so với những nội dung mà cô đã giới
thiệu nên đã có sự “đột phá” khi gọi tên cho tranh vẽ của mình. Ví dụ như với tên
tranh như “dòng sông tuổi thơ” trẻ vẽ về cảnh dòng sông với những chiếc thuyền
“mẹ trồng rau” trẻ mô tả những hình ảnh, hành động của mẹ khi chăm sóc vườn rau;
“cô lao công quét rác” tả cảnh cô lao công ở trường bé học, hay “em và chị nhảy
dây” trẻ vẽ hình ảnh bé và chị của bé khi ở nhà.
+ Đặc điểm nội dung tranh vẽ
Tiêu chí này có số trẻ mức độ tưởng tượng sáng tạo ở loại trung bình chiếm
57%, cao chiếm 43%, và không có trẻ nào đạt ở mức độ thấp.
Nhìn chung, phần lớn trẻ thể hiện nội dung phù hợp với đề tài nhưng chưa
phong phú. Với các đề tài hầu như trẻ đều vẽ nhiều hơn một chi tiết chính và trẻ
thường thêm vào những chi tiết phụ quen thuộc được cô giáo đã giới thiệu qua những
tiết học vẽ trước như mặt đất, ông mặt trời, mây, cây cối, hoa, nhà…, cũng có một số
chi tiết mới nhưng rất ít.
Trong quá trình vẽ, một số trẻ thay đổi ý định vẽ của mình, đang vẽ vật này lại
đổi sang vật khác cho thấy tưởng tượng không chủ định vẫn còn tồn tại ở một số trẻ
mẫu giáo 5 – 6 tuổi. Một số trẻ nhìn bạn để vẽ chưa tập trung suy nghĩ hình ảnh thể
hiện. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên có đặt câu hỏi giúp trẻ gợi nhớ và tưởng
tượng tuy nhiên số lượng câu hỏi chưa nhiều, chưa sâu. Thực tế qua dự giờ, với
những đề tài quen thuộc trẻ nhanh nắm bắt đề tài, trẻ vẽ khá nhanh chóng và độc lập
trong khi vẽ không cần sự giúp đỡ của GV, mặc dù cô chỉ cho xem một vài tranh và
55
giới thiệu rất ngắn gọn nội dung tranh. Đối với các đề tài khó hơn thì hình ảnh tranh
vẽ rất lộn xộn và trong quá trình vẽ trẻ không thể nhanh chóng tạo ra sản phẩm, trẻ
rất hay hỏi cô và cần sự giúp đỡ của GV. Mặt khác, có những tiết dạy khi giới thiệu,
ổn định lớp xong giáo viên đàm thoại một vài câu hỏi liên quan đến chủ đề và sau đó
giáo viên gợi ý rất nhiều và yêu cầu trẻ vẽ gì thì vẽ, theo ý thích của mình mà chưa
giúp trẻ định hướng lại cần vẽ gì, phải vẽ như thế nào. Xuất phát từ lý do trên, nên
tranh vẽ của trẻ thường là sự lặp lại của những hình vẽ trước đó, chưa thể hiện được
sự sáng tạo đôi lúc cũng không phù hợp với đề tài. Trong các tiết này giáo viên có sử
dụng lời để hướng dẫn nhưng chủ yếu cũng chỉ là mô tả tranh và giao nhiệm vụ cho
trẻ thực hiện đề tài. Cô ít đặt câu hỏi gợi mở ý tưởng, hay cho trẻ đối chiếu, so
sánh…tìm cách tạo mẫu hình, sắp xếp bố cục mới lạ để làm tranh đẹp hơn.
Đây là một hạn chế khá lớn, bởi vì chính hệ thống câu hỏi sẽ giúp trẻ nhớ lại,
khắc sâu thêm các biểu tượng, và phát huy khả năng sáng tạo, từ đó trẻ có thể thể
hiện một bức tranh với những ý tưởng bất ngờ, thú vị và độc đáo. Bên cạnh đó, vốn
biểu tượng của trẻ được cung cấp chưa phong phú, giáo viên chưa khai thác triệt để
vốn kinh nghiệm của trẻ và thường xuyên hướng trẻ vào hình ảnh mẫu. Mặt khác, kĩ
năng vẽ của trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ muốn vẽ nhưng lại không biết cách vẽ, vì thế
khi vẽ trẻ khó tạo ra các hình ảnh mới.
Các chi tiết được mô tả ở một số tranh vẽ vẫn còn là những hình ảnh mang tính
liệt kê, rời rạc. Sự liên kết giữa các đối tượng thường được trẻ thể hiện trong trạng
thái đứng yên, không thể hiện được sự chuyển động của các sự vật.
+ Bố cục tranh vẽ
Với tiêu chí này, tỉ lệ trẻ có mức độ tưởng tượng sáng tạo ở loại trung bình
chiếm 83,8%, cao chiếm 16.2%, và không có trẻ nào đạt ở mức độ thấp. Điểm trung
bình của tiêu chí bố cục đạt ở mức độ trung bình. Trong các tiêu chí, tiêu chí bố cục
có điểm trung bình cao nhất.
Khảo sát hình vẽ của trẻ trong tranh và cả qua quá trình dự giờ cho thấy phần
lớn trẻ tranh vẽ của trẻ chưa thể hiện luật phối cảnh, khoảng 2/3 trẻ chưa chú ý đến
sự thể hiện được luật cao - thấp ví dụ trẻ vẽ hình người cao bằng với cái cây cổ thụ,
cây hoa…, trẻ chưa thể hiện luật xa - gần vì thế hầu như tranh vẽ đều thể hiện một
56
tầng cảnh, vì thế tranh vẽ của trẻ ít có chiều sâu. Tuy nhiên, gần như hầu hết trẻ đều
thể hiện quan hệ không gian trên - dưới trẻ biết vẽ đám mây, ông mặt trời, chim...
phía trên; cây cối, con người… phía dưới. Nhưng hình ảnh trong tranh vẽ còn mang
tính liệt kê dàn ngang ra cả trang giấy, trẻ thường vẽ một đường thẳng ngang từ trái
sang phải và vẽ những gì trẻ biết lên tất cả đường thẳng đó, có một số tranh vẽ bố cục
còn rất lộn xộn. Trẻ thường bắt tay vào là vẽ những nhân vật chính sau đó vẽ thêm
những chi tiết khác như phong cảnh… và ít chú ý đến việc phân chia bố cục nên
tranh vẽ của trẻ thường bị lệch trong bố cục.
+ Màu sắc tranh vẽ
Ở tiêu chí này, tưởng tượng sáng tạo của trẻ ở mức độ trung bình chiếm 67.6%,
cao chiếm 32.4%, và không có trẻ nào đạt ở mức độ thấp.
Qua trao đổi với giáo viên, dự giờ và quan sát thực tế, chúng tôi nhận thấy giáo
viên chỉ sử dụng các vật liệu được nhà trường cấp đầu năm, và vật liệu dùng để vẽ,
để tô màu thì chưa phong phú. Ở trường Mầm non Rạng Đông và Trúc Giang, giáo
viên cho trẻ vẽ và tô màu bằng bút màu sáp, rất ít khi sử dụng màu nước và vẽ trên
giấy hầu như không sử dụng các nguyên vật liệu khác. Đối với trường Hoa Dừa, Sen
Hồng nguyên vật liệu vẽ ngoài bút màu sáp có thêm màu nước và một số vật liệu hỗ
trợ khác nhưng ít. Vì thế, khi hoạt động sẽ làm giảm hứng thú của trẻ khi vẽ và
không phát huy được khả năng sáng tạo cho trẻ. Mặt khác, giáo viên chưa quan tâm
đến tác dụng của nguyên vật liệu đối với việc tạo ra hứng thú, phát huy khả năng
tưởng tượng sáng tạo ở trẻ.
Trẻ được hoàn toàn tự do lựa chọn màu sắc để vẽ theo ý mình. Tuy nhiên, phần
lớn khi tô màu trẻ thường dùng màu sắc quen thuộc như cây cối tô màu xanh, mặt đất
tô màu nâu, ông mặt trời tô màu đỏ… một số ít trẻ thể hiện được sự biến đổi màu sắc
của sự vật hiện tượng theo thời gian. Màu sắc trẻ sử dụng thì tươi sáng nhưng chưa
có sự phối hợp màu, số trẻ thể hiện phối hợp màu sắc để bài vẽ đẹp là rất hiếm.
+ Hình vẽ
Với tiêu chí này, tỉ lệ trẻ có mức độ tưởng tượng sáng tạo ở loại trung bình
chiếm 70.3%, cao chiếm 29.7%, và không có trẻ nào đạt ở mức độ thấp. Điểm trung
bình của tiêu chí hình vẽ ở mức độ trung bình.
57
Phân tích các tranh vẽ cho thấy chất lượng hình ảnh tưởng tượng sáng tạo của
trẻ thông qua hoạt động vẽ còn một số hạn chế. Có những sự vật, hiện tượng trẻ sử
dụng lại những biểu tượng mà trẻ đã tri giác, ít có sự cải biến hình ảnh sự vật theo ý
tưởng của trẻ chẳng hạn hầu như tất cả trẻ vẽ ông mặt trời là một hình tròn ở ngoài
có các tia thể hiện sự chiếu sáng, hay hình ảnh cây cối có sự rập khuôn một kiểu
mẫu. Ngược lại có một số trẻ có những ý tưởng độc đáo, ngộ nghĩnh, sự mới lạ trong
việc thể hiện đối tượng ví dụ như khi vẽ cánh đồng lúa trẻ vẽ nhiều bông lúa trên
cánh đồng, tuy nhiên số lượng trẻ thể hiện những điều này rất ít. Ngoài ra ở một số
tranh, trẻ cũng gợi lên những hình ảnh mới nhưng chưa biết cách thể hiện. Với đề tài:
“Vẽ người thân trong gia đình” có trẻ vẽ bà ngồi và ông đứng, nhưng hình ảnh của
ông và bà được trẻ vẽ giống như một người nam và nữ trẻ tuổi vì thế nhìn vào tranh
ta chỉ phân biệt được nam – nữ chứ khó phân biệt được lứa tuổi. Đây cũng là một
hạn chế bình thường của lứa tuổi.
Phần lớn chưa thể hiện các tư thế vận động, mặc dù một số trẻ trong tên tranh
vẽ có sự thể hiện hành động. Bên cạnh đó cũng có một số trẻ thể hiện được tư thế
vận động quen thuộc, đơn giản như giơ tay, nắm tay, cây nghiên theo gió. Ngoài ra,
có trẻ thể hiện những hành động phức tạp như gặt lúa, ngồi… nhưng rất ít.
Tóm lại, với kết quả trên thì khả năng sáng tạo của trẻ ở các trường mầm non chỉ
đạt ở mức độ trung bình. Điều này phù hợp một cách ngẫu nhiên với sự đánh giá chất
lượng của từng trường. Sự nổi trội của trường Sen Hồng và Hoa Dừa trên tất cả các tiêu
chí so với hai trường còn lại. Điều này cũng dễ lý giải vì hai trường này đều được công
nhận đạt chuẩn quốc gia khá lâu và là trường điểm của TP Bến Tre, được đầu tư cơ sở
vật chất khá tốt, trang thiết bị dạy học hiện đại, đặc biệt là đội ngũ giáo viên phụ trách có
trình độ chuyên môn nghiệp vụ và thâm niên công tác lâu năm.
58
Tiểu kết chương 2
Qua nghiên cứu thực trạng có thể rút ra một số tiểu kết sau:
- Giáo viên đều nhận thấy việc phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ MG 5 – 6 tuổi
trong HĐVTYT là rất cần thiết đối với sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Giáo viên
cũng nắm được các biểu hiện sáng tạo của trẻ qua tranh vẽ cũng như sử dụng một số
biện pháp để phát huy khả năng sáng tạo cho trẻ. Tuy nhiên, trên giờ học HĐVTYT
chưa sinh động, giáo viên chưa chú ý và chưa tạo nhiều cơ hội sáng tạo cho trẻ nên vô
tình đã làm hạn chế khả năng sáng tạo của trẻ. Với những khó khăn và nguyện vọng
được đề xuất trong việc phát triển khả năng cho trẻ sáng tạo trong HĐVTYT, thì hầu hết
giáo viên đều mong muốn có thêm thời gian để trẻ được thoải mái tạo ra sản phẩm, có
thên nhiều nguồn tài liệu về phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ và cung cấp nhiều hơn
những nguyên vật liệu tạo hình để trẻ có điều kiện sáng tạo.
- Giáo viên có soạn đầy đủ giáo án, nội dung dạy đúng theo quy định, khi lên
tiết dạy, có đồ dùng, đồ chơi… Giáo viên cũng sử dụng những câu hỏi đàm thoại, hỏi
ý định của trẻ để giúp trẻ hiểu rõ về nội dung của đề tài. Tuy nhiên, trong giờ học
hoàn toàn làm theo yêu cầu của cô và không có sự khởi sướng từ trẻ, điều này vô tình
đã làm hạn chế khả năng sáng tạo của trẻ. Đôi khi GV còn áp đặt trẻ vẽ như: con hãy
vẽ thêm cây, ông mặt trời, hoa cho tranh con đẹp ... Khi nhận xét tranh cô cũng chỉ
tuyên dương trẻ có tranh đẹp, chưa quan tâm nhiều đến những tranh có yếu tố sáng
tạo và những tranh chưa đạt yêu cầu.
- Khả năng sáng tạo qua tranh vẽ của trẻ đạt ở mức độ trung bình, rất ít trẻ có
sáng tạo trong HĐVTYT. Nguyên nhân chủ yếu chính là cách tổ chức và hướng dẫn
HĐVTYT của cô chưa gợi cho trẻ biết cách thể hiện tranh vẽ sao cho sinh động và
sáng tạo, kỹ năng tạo hình của trẻ còn hạn chế. Giáo viên chỉ tập trung sử dụng các
phương pháp dạy học đặc trưng trong hoạt động tạo hình nói chung, ít mang đặc thù
của HĐVTYT, cũng như chưa có những biện pháp tích cực, thích hợp để tạo cơ hội
cho trẻ được sáng tạo trong quá trình tạo ra sản phẩm.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu thực trạng, đề xuất biện pháp tác động phù hợp
khắc phục những hạn chế trên chính là những giải pháp tích cực nhằm nâng cao chất
lượng hoạt động vẽ nói chung ở các trường mầm non và cũng là giải pháp tích cực
nhằm phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong HĐVTYT.
59
Chương 3. ĐỀ XUẤT VÀ THỬ NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG SÁNG TẠO
CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI
TRONG HOẠT ĐỘNG VẼ THEO Ý THÍCH
3.1. Một số biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
trong hoạt động vẽ theo ý thích
3.1.1. Cơ sở đề xuất biện pháp
- Cơ sở lý luận: Ở lứa tuổi mầm non, sáng tạo xuất hiện rất sớm và biểu hiện
nhiều nhất qua hoạt động tạo hình. Khả năng này càng phát triển mạnh mẽ hơn khi
trẻ bước sang tuổi mẫu giáo, nhất là trẻ ở 5 – 6 tuổi. Muốn phát triển sáng tạo đòi hỏi
trẻ phải có những điều kiện nhất định mà quan trọng nhất đó chính là giáo dục. Nếu
được giáo dục đúng đắn thì khả năng này sẽ phát triển ở trẻ tốt hơn và ngược lại khả
năng này sẽ bị hạn chế.
- Cơ sở thực tế: Từ nhận thức của giáo viên mầm non về khả năng sáng tạo của
trẻ trong HĐVTYT và kết quả khảo sát thực trạng việc dạy học trên ở một số trường
mầm non, chúng tôi đề xuất và thử nghiệm một số biện pháp nhằm hỗ trợ cho các
giáo viên mầm non cách thức tổ chức HĐVTYT để phát triển khả năng sáng tạo
trong hoạt động VTYT cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi.
3.1.2. Nguyên tắc vận dụng các biện pháp
+ Đảm bảo mục tiêu giáo dục mầm non đó là“Giúp trẻ phát triển về thể chất,
tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị
cho trẻ em vào lớp một”. Đồng thời phải phù hợp với nội dung chương trình chăm
sóc – giáo dục trẻ hiện nay.
+ Đảm bảo nguyên tắc “Lấy trẻ làm trung tâm”. Giáo viên tổ chức HĐVTYT
trong giờ học và mọi lúc mọi nơi phải linh hoạt, xuất phát từ nhu cầu, kinh nghiệm của
trẻ và phải phù hợp với đặc điểm từng cá nhân, nhằm giúp mỗi trẻ phát huy tối đa tiềm
năng sẳn có để cho trẻ phát triển khả năng sáng tạo. Mặt khác, GV cần phải phải dựa
trên nguyên tắc tôn trọng trẻ, kích thích trẻ tưởng tượng khi VTYT. Khuyến khích sự
60
tìm tòi khám phá ở trẻ, giúp trẻ tự tìm kiếm, thể hiện tình cảm, năng lực của mình một
cách tự do, sáng tạo chứ không phải đơn thuần là sự sao chép máy móc, bắt chước.
+ Đảm bảo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn về vấn đề nghiên cứu
Nội dung hoạt động tạo hình nói chung và HĐVTYT nói riêng phải gần gũi,
quen thuộc trong cuộc sống của trẻ, phù hợp với xúc cảm, tình cảm của trẻ. Ngoài
những nội dung mà trẻ được trải nghiệm GV cần tạo nhiều cơ hội cho trẻ biết về
những sự vật hiện tượng mà trẻ khó có điều kiện tiếp xúc thông qua các hình tượng
nghệ thuật và các phương tiện thông tin mang tính tạo hình khác để giúp trẻ tích lũy
vốn biểu tượng. Đây cũng là yếu tố giúp phát triển khả năng sáng tạo nơi trẻ.
+ Đảm bảo nguyên tắc tích hợp, linh hoạt, sáng tạo và có yêu cầu ngày càng
cao đòi hỏi trẻ phải nỗ lực cố gắng khi tham gia HĐVTYT.
Hoạt động tạo hình nói chung và HĐVTYT nói riêng là hoạt động giúp trẻ phát
triển tính sáng tạo. Khi GV tổ chức cho trẻ tạo hình, trẻ không chỉ được tạo ra sản
phẩm mà còn có thể học thông qua hoạt động này. Bên cạnh đó còn giúp trẻ cũng cố,
trải nghiệm những kiến thức mà trẻ đã học, vừa giúp trẻ thực hành, được sáng tạo
theo cách riêng của chúng.
HĐTH là hoạt động tích hợp của nhiều hoạt động giáo dục khác như: thể chất,
ngôn ngữ, tình cảm – xã hội, nhận thức và chuẩn bị cho trẻ vào trường phổ thông. Do
vậy, khi tổ chức giờ học VTYT cần lập kế hoạch, phối hợp nhiều biện pháp khác nhau
để gây hứng thú làm trẻ nhàm chán. Hoặc giáo viên có thể tạo ra sự thay đổi bằng cách
cho trẻ được tiếp xúc với nhiều NVL vẽ khác nhau như màu nước, màu bột, màu sáp,
màu từ rau - củ - quả … giúp trẻ được tự do tưởng tượng, sáng tạo và tạo ra sản phẩm
cho mình.
+ Đảm bảo tính khả thi, phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường, địa phương.
Tóm lại, các nguyên tắc trên là những cơ sở khoa học để giúp chúng tôi đề xuất
một số biện pháp nhằm phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong
HĐVTYT.
3.1.3. Đề xuất một số biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu
giáo 5- 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích
Biện pháp 1: Tổ chức cho trẻ tri giác học cụ trực quan
61
a . Mục đích
- Tăng vốn biểu tượng của trẻ về đối tượng sắp vẽ, kích thích các xúc cảm, tình
cảm với cái đẹp - cái xấu, cái thiện - cái ác, cái đúng - cái sai và giúp trẻ ghi nhớ,
hình thành biểu tượng.
- Phân tích, so sánh, tổng hợp tìm ra đặc điểm đặc trưng của từng đối tượng.
- Rèn luyện cho trẻ khả năng cảm thụ thẩm mỹ, biết rung động trước cái đẹp
của cuộc sống xung quanh.
- Hình thành tưởng tượng sáng tạo của trẻ.
b. Nội dung
- Sử dụng đa dạng và hiệu quả các học cụ trực quan như vật thật, hình minh họa
(tranh phiên bản các tác phẩm nghệ thuật hội họa, đồ họa; tranh minh họa của các
sách truyện kể của thiếu nhi; ảnh chụp các sản phẩm nghệ thuật, phong cảnh thiên
nhiên …
- Sử dụng hình vẽ mẫu của cô trên bảng, trên giấy, hình mẫu của trẻ, các tác
phẩm điêu khắc nhỏ, các đoạn video có liên quan, các mô hình.
- Hướng dẫn trẻ quan sát có định hướng và nhận ra những đặc tính riêng, những
biến đổi bên ngoài các biểu tượng như đường nét, hình dáng, màu sắc, sự chuyển
động và bố cục không gian.
- Tổ chức cho trẻ quan sát và nhắc lại với nội dung được nâng cao hơn. Dạy trẻ
tích cực tri giác so sánh, tổng hợp các chi tiết, chú ý sự khác nhau của vật này với vật
khác.
- Gợi cho trẻ hình thành ý tưởng và lập kế hoạch cho hoạt động vẽ ngay trong
hoặc sau khi quan sát, gợi ý cho trẻ suy nghĩ sẽ chọn vật liệu nào để vẽ và sẽ thể hiện
ra sao theo cách suy nghĩ riêng của trẻ.
c. Yêu cầu
- Học cụ trực quan phải đẹp, mang lại niềm vui, sự ngạc nhiên thán phục
cho trẻ.
- Học cụ trực quan nên để ở một vị trí tất cả trẻ đều nhìn thấy và dễ quan sát .
- Hướng dẫn trẻ tri giác có mục đích, có chọn lọc.
- Tạo điều kiện để trẻ vận dụng tất cả các giác quan vào quá trình tri giác.
62
- Xây dựng hệ thống câu hỏi, sử dụng ngôn ngữ biểu cảm trong quá trình
cho trẻ tri giác đối tượng
d. Cách tiến hành
* Quá trình tổ chức tri giác cho trẻ gồm 4 bước:
Bước 1: Cho trẻ tri giác một cách toàn diện (GV giới thiệu đối tượng nói chung).
Bước 2: Phân tích các đặc điểm của đối tượng (hình dáng, màu sắc, kích thước).
Bước 3: Xác định vị trí của vật trong không gian.
Bước 4: Tri giác lại toàn bộ sự vật.
Biện pháp 2: Giúp trẻ luyện tập kỹ năng vẽ theo ý thích
a. Mục đích
- Củng cố các kỹ năng vẽ cho trẻ như:
+ Củng cố kỹ năng sử dụng các đường nét vẽ: nét cong, nét thẳng đứng, nét
thẳng ngang, nét xiên, nét gấp khúc … kỹ năng vẽ các hình học (hình vuông, tròn,
tam giác, chữ nhật …) giúp trẻ thể hiện các đường nét một cách liền mạch, uyển
chuyển, mềm mại, để miêu tả tính trọn vẹn về hình dạng đối tượng.
+ Củng cố kỹ năng tạo bố cục, giúp trẻ sắp xếp các hình tượng trên trang giấy
sao cho các đồ vật, sự việc quan hệ liên kết với nhau tạo nên nội dung chủ đề, sự
thay đổi vị trí các bộ phận của đối tượng khi chúng chuyển động.
+ Củng cố kỹ năng tô màu, kỹ năng nhận biết các màu sắc cơ bản, linh hoạt
trong việc tạo ra các bước chuyển màu, phối màu để tạo nên hiệu quả thẩm mỹ khác
nhau và thể hiện suy nghĩ, tình cảm của mình (VD: màu xanh non của lá mạ, màu
xanh đậm của bụi cây, màu của bầu trời trong những thời điểm khác nhau …)
- Rèn luyện kỹ năng cầm bút, tư thế ngồi và rèn luyện khả năng khéo, linh hoạt
của đôi bàn tay.
- Giúp trẻ hứng thú, tích cực đối với hoạt động vẽ.
b. Nội dung
- Tổ chức một số bài tập vẽ nhằm củng cố kỹ năng vẽ đường nét, bố cục, màu
sắc cho trẻ theo một số chủ điểm: vườn cây của Ba, ước mơ của Hoa, nhà nhiếp ảnh
tài ba, mèo qua sông (Phụ lục 4).
63
- Tổ chức trò chơi giúp trẻ rèn luyện kỹ năng vẽ, tô màu, pha màu, tạo bố cục
như: xếp hình, sự biến đổi của màu sắc, ai khéo thế, thi ai vẽ nhanh - vẽ đẹp, ai
nhanh - ai khéo (Phụ lục 5).
c. Yêu cầu
- Các bài tập, trò chơi phải phù hợp với khả năng của trẻ.
- Sử dụng nguyên vật liệu, đồ dùng phải đa dạng, phong phú và an toàn.
- Trẻ phải thể hiện được đặc điểm cơ bản và nét đẹp riêng của đối tượng dựa
vào các đường nét đã học trước đó phù hợp với bài tập, trò chơi.
- Trẻ tạo được bố cục tranh vẽ hợp lý, thể hiện được sự chuyển động của đối
tượng.
- Trẻ biết sử dụng màu nước và pha màu từ ba màu gốc, tô màu đúng quy định
(tô từ trái sáng phải hoặc từ trên xuống dưới), tô màu mịn, không lem ra ngoài, tô kín
đối tượng.
- Thời gian thực hiện bài tập, trò chơi khoảng 35 - 40 phút.
- Chia nhóm nhỏ trong quá trình trẻ vẽ.
- Động viên, khuyến khích trẻ, giúp đỡ khi cần thiết, GV tổ chức thi đua ở các
nhóm để tăng sức hấp dẫn của bài tập, trò chơi.
- Không áp đặt mà để trẻ tự do sáng tạo theo suy nghĩ riêng của trẻ.
d. Cách thực hiện
Bước 1: Giáo viên nêu tên bài tập, tên trò chơi.
Bước 2: Trò chuyện với trẻ về nội dung bài tập; cách chơi trò chơi. Đàm thoại về
hình dáng, bố cục, màu sắc, sự chuyển động của đối tượng. Các kỹ năng vẽ và tô màu.
Ví dụ: bài tập Vườn của Ba GV đàm thoại:
- Vườn của Ba sẽ mọc những loại cây xanh, hoa, rau gì?
- Nó có đặc điểm như thế nào? Có màu gì?
- Con dùng kỹ năng gì để vẽ cây, hoa, lá?
- Khi có gió cây, hoa, lá sẽ như thế nào?
- Con còn vẽ gì nữa cho tranh con đẹp hơn? (Các chi tiết phụ)
- Con sẽ tô màu nào cho cây, hoa, lá?
* Hỏi trẻ cách cầm bút, tư thế ngồi trước khi vào bàn để vẽ
64
Ví dụ: Trò chơi Sự biến đổi màu sắc, GV đàm thoại:
- Các con có những màu nước nào? (xanh lam, đỏ, vàng)
- Màu xanh pha với màu đỏ; màu đỏ pha với màu vàng; Xanh pha với màu
vàng … sẽ ra màu gì?
- Với những màu sắc đó con sẽ vẽ gì?
- Con dùng kỹ năng gì để vẽ?
- Con sẽ vẽ thêm gì cho tranh của con?
- Con sẽ tô màu gì? Con tô như thế nào?
* Gợi ý trẻ sắp xếp bố cục trên - dưới, xa - gần và sự chuyển động của sự vật.
Bước 3: Trẻ thực hiện theo nhóm, cô quan sát giúp đỡ trẻ (chú ý về hình dạng,
bố cục, màu sắc), động viên, khích lệ. Đưa ra hình thức thi đua để kích thích hứng
thú trong quá trình hoạt động.
Bước 4: Nhận xét, tuyên dương, khen ngợi các sản phẩm.
Biện pháp 3: Tạo môi trường tốt cho trẻ trong hoạt động vẽ theo ý thích
a. Mục đích
- Tạo môi trường tâm lý thoải mái, chia sẻ và cởi mở: giúp trẻ có sự an toàn về
tâm lý, trẻ sẽ cảm thấy hứng thú, tích cực say mê như là đang chơi, sáng tạo
- Tổ chức môi trường vật chất đa dạng: trang bị dụng cụ, nguyên liệu phong
phú khi thực hiện HĐVTYT sẽ giúp trẻ có nhiều điều kiện thể hiện, góp phần nâng
cao hứng thú là tiền đề vững chắc giúp trẻ thỏa sức sáng tạo
b. Nội dung
- Giáo viên không la rầy, bắt buộc trẻ vẽ theo ý của giáo viên. Nên động viên,
khuyến khích trẻ thực hiện, tạo điều kiện cho trẻ vận dụng những hiểu biết để thể hiện ý
tưởng của mình, mỗi hướng dẫn của cô phải dựa trên ý tưởng và khả năng của từng trẻ.
- GV sưu tầm, tìm kiếm các nguyên vật liệu đa dạng, phong phú như: màu
nước, bút sáp, bút chì màu, bút lông, màu từ rau củ, phấn màu…và các nguyên vật
liệu hỗ trợ khác nhau.
- Giáo viên tạo một góc cho trẻ trưng bày các sản phẩm để giúp khơi dậy niềm
vui khi sáng tạo, khuyến khích trẻ thể hiện hơn nữa những ý tưởng của mình.
65
c. Yêu cầu
Môi trường tâm lý
- GV cần tạo tâm lý vui tươi, thoải mái cho trẻ khi tham gia hoạt động.
- GV quan tâm, động viên, khuyến khích trẻ vẽ.
- GV hướng dẫn trẻ hợp tác, hòa đồng, luôn chia sẽ và giúp đỡ lẫn nhau để hoàn
thành nhiệm vụ.
Môi trường vật chất
- Bố trí góc HĐTH trong lớp học sao cho hấp dẫn, nổi bật và thu hút sự chú ý
của trẻ.
- Cách sắp xếp, bài trí trong góc tạo hình sao cho trẻ dễ thấy, lấy dễ dàng để
thực hiện HĐVTYT và có thể tự trưng bày sản phẩm của mình
- Các nguyên vật liệu cần đảm bảo an toàn, rẻ tiền, dễ kiếm, dễ bảo quản, dễ
cầm và dễ sửa chữa.
- Mỗi nguyên vật liệu, dụng cụ cần để riêng, có ghi tên hoặc ký hiệu cho trẻ dễ
nhận biết, dễ lựa chọn khi sử dụng.
d. Cách thức tiến hành
Bước 1: Chọn đề tài phù hợp, trang bị đầy đủ dụng cụ, đồ dùng và phong phú
nguyên vật liệu để trẻ có điều kiện thể hiện ý tưởng một cách sáng tạo.
Bước 2: Giáo viên phải thử tạo hình bằng các NVL mà mình sẽ cung cấp và
phải đảm bảo không quá khó cho trẻ sử dụng.
Bước 3: Giáo viên sử dụng những tình huống bất ngờ, câu hỏi gợi mở, mô tả
những NVL một cách sinh động để thu hút sự chú ý tò mò khám phá, nhằm kích
thích trí tưởng tượng của trẻ.
Bước 4: Chia nhóm nhỏ cho trẻ thực hiện, động viên, khuyến khích trẻ tìm
kiếm, đưa ra ý tưởng mới lạ về những sản phẩm tạo hình. Mọi ý kiến, dự định trẻ đưa
ra đều được động viên, khen ngợi, khuyến khích thể hiện.
Bước 5: Nhận xét sản phẩm (các sản phẩm của trẻ thực hiện cũng phải được
công nhận và coi trọng, đặc biệt không được chê những sản phẩm chưa đẹp hoặc
chưa hoàn chỉnh).
66
3.2. Thử nghiệm một số biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu
giáo 5- 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích
3.2.1. Khái quát về tổ chức thử nghiệm
3.2.1.1. Mục đích thử nghiệm
Thử nghiệm nhằm để kiểm chứng hiệu quả thực tế một số biện pháp được đề
xuất nhằm phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi trong hoạt động vẽ
theo ý thích và kiểm định lại giả thuyết khoa học đã đưa ra.
3.2.1.2. Đối tượng thử nghiệm
Tiến hành thử nghiệm ở 2 lớp lá của trường Mầm non Rạng Đông
Lớp Lá 3: lớp đối chứng (ĐC)
Lớp Lá 4: lớp thực nghiệm (TN)
Số trẻ ở mỗi lớp là 30 cháu, được chọn ngẫu nhiên theo danh sách của giáo
viên trong lớp cung cấp.
3.2.1.3. Nội dung thử nghiệm
Thử nghiệm được tiến hành bằng cách vận dụng phối hợp đồng bộ các biện pháp:
Tổ chức cho trẻ tri giác học cụ trực quan.
Giúp trẻ luyện tập kỹ năng vẽ theo ý thích.
Tạo môi trường tốt cho trẻ trong hoạt động vẽ theo ý thích.
Áp dụng các biện pháp đã nêu ở nhóm thử nghiệm thông qua các đề tài vẽ
theo ý thích sau:
- Vẽ tự do (Chủ điểm: Thực vật).
- Vẽ tự do (Chủ điểm: Phương tiện giao thông).
- Vẽ tự do (Chủ điểm: Động vật).
- Vẽ theo truyện bé yêu thích.
Lớp đối chứng cũng vẽ các đề tài trên nhưng không thử nghiệm các biện pháp.
Trong mỗi buổi tổ chức hoạt động vẽ cho trẻ, chúng tôi tiến hành phối hợp một
cách linh hoạt các biện pháp đề xuất trong nghiên cứu này nhằm nâng cao khả năng
sáng tạo cho trẻ. Cụ thể:
67
HĐVTYT 1: Vẽ tự do (Chủ đề: Thực vật)
Biện pháp 1: Tổ chức cho trẻ tiếp xúc với các loại thực vật (loại rau, củ, quả,
hoa, cây xanh) đa dạng và phong phú
- GV cho trẻ xem vật thật, đồ dùng - đồ chơi (các loại hoa, rau, của, quả, cây
xanh được làm bằng must, nhựa), tranh, ảnh, mô hình, video về các loại thực vật
khác nhau … Các tranh, ảnh phải thể hiện một đối tượng hay nhiều đối tượng và có
sắp xếp bố cục khác nhau.
- GV đàm thoại giúp trẻ nhận ra những đặc điểm giống và khác nhau của đối
tượng với nhiều kiểu dáng, kích thước, màu sắc, bố cục, sự chuyển động. Kích thích
trẻ ngắm nhìn, thưởng thức, cảm nhận vẽ đẹp trong mỗi sự vật, tranh, ảnh và giúp trẻ
khắc sâu các biểu tượng. Cô nên gợi ý, hỏi trẻ xem “nếu con vẽ rau, củ, quả, hoa,
hoặc vườn hoa, vườn cây… con sẽ vẽ gì ? vẽ như thế nào?” giúp trẻ tưởng tượng,
sáng tạo đồng thời giúp trẻ nhớ lại các kỹ năng vẽ.
- Quá trình tri giác này được tiến hành qua các hoạt động khám phá khoa học,
âm nhạc, làm quen văn học hoặc vào một thời điểm khác ở những ngày trước đó.
Biện pháp 2: Giúp trẻ luyện tập kỹ năng vẽ theo ý thích qua bài tập, trò chơi, vẽ
tự do
- Giáo viên cho trẻ thực hiện bài tập vẽ nhằm cũng cố kỹ năng vẽ và phát triển
trí tưởng tượng cho trẻ: Vườn của Ba.
- GV cho trẻ chơi nhiều trò chơi nhằm cũng cố kỹ năng vẽ các đường nét, các
dạng hình học, màu sắc, bố cục cho trẻ như: xếp hình, sự biến đổi của màu sắc, ai
khéo thế, thi ai vẽ nhanh - vẽ đẹp, ai nhanh - ai khéo.
+ Chuẩn bị đồ dùng, nguyên vật liệu cho bài tập, trò chơi.
+ GV giới thiệu tên bài tập, trò chơi.
+ Đàm thoại với trẻ về bài tập, trò chơi
+ Cho trẻ thực hiện sản phẩm theo nhóm, đối với trò chơi GV phổ biến cách
chơi và cho trẻ thực hiện. GV quan sát, động viên, khuyến khích trẻ.
+ Cô nhận xét, tuyên dương kết quả của trẻ.
Biện pháp 3: Tạo môi trường an toàn về tâm lý và đa dạng về vật liệu
68
- GV trang trí lớp học sao cho ấn tượng, hấp dẫn trẻ như: nhiều các loại rau, củ,
quả, các loại hoa, cây xanh … bằng nhiều vật liệu khác nhau; tranh, mô hình vườn
cây, vườn hoa, vườn rau …GV cùng trẻ làm sách tranh để ở góc thư viện, một số đồ
dùng bằng nhựa, must trang trí góc xây dựng hoặc góc phân vai, tranh ảnh treo hoặc
dán lên tường, mô hình để xung quanh lớp học.
- GV tạo tình huống gây bất ngờ, hứng thú cho trẻ như: Các con có thấy lớp
chúng ta hôm nay đẹp không? Tại sao? Cho trẻ quan sát và giải thích. Sau đó cô gợi
mở, dẫn dắt cho trẻ tri giác các đồ dùng, đồ chơi, tranh, mô hình có trong lớp học,
đàm thoại về đặc điểm của các đối tượng. Sau đó dẫn dắt trẻ vào hoạt động vẽ.
- Để trẻ vẽ đẹp và phát huy tính sáng tạo GV chuẩn bị đa dạng vật liệu vẽ như
sáp màu, màu nước, bút lông, bút chì màu, bút kim tuyến nhiều màu sắc, bút dạ; các
nguyên vật liệu hỗ trợ: dây, bông gòn, kim sa để trẻ sáng tạo thêm cho mẫu hình. (Ví
dụ: Trẻ dùng dây để viền cho cây, cho quả, ao, hồ hay trẻ có thể lấy tăm bông nhúng
vào màu nước, kim sa làm quả cho cây hoặc làm bông hoa)
- Trẻ tự do chọn vật liệu mà trẻ thích và vào bàn hoạt động vẽ trong không gian
sạch sẽ, thoáng mát của lớp học. Cô xếp bàn thành 5 nhóm, mỗi nhóm 6 trẻ hoặc cho
trẻ ngồi dưới sàn nhà theo nhóm, mỗi trẻ đều có không gian hoạt động vẽ rất thoải
mái nhưng không tách rời bạn.
- Trong suốt quá trình trẻ vẽ, cô nên vui vẻ động viên, khuyến khích sự sáng tạo
của trẻ, gợi ý và hỗ trợ trẻ khi cần thiết nhất là những trẻ yếu. Trẻ được tự do trò
chuyện với nhau về đề tài đang thực hiện trong trật tự, đảm bảo không làm ảnh
hưởng đến các bạn xung quanh. Cho các nhóm thi đua nhau để gây thêm hứng thú,
tích cực ở trẻ.
- Kết thúc hoạt động cô cho trưng bày sản phẩm theo từng nhóm. GV cho các
nhóm nhận xét tranh lẫn nhau và cô dùng lời mô tả, dẫn dắt trẻ thưởng thức, ngắm
nhìn kết quả mà trẻ đạt được.
HĐVTYT 2: Vẽ tự do (Chủ điểm: Phương tiện giao thông)
Biện pháp 1: Tổ chức cho trẻ tiếp xúc với các phương tiện giao thông đa dạng
về chủng loại và hình thức nhằm làm giàu vốn biểu tượng.
69
- Giáo viên đưa trẻ đi quan sát mô hình các PTGT đường bộ, đường thủy,
đường hàng không có trong sân trường; cho trẻ xem các đoạn video về các phương
tiện đang hoạt động; mua các loại PT như: xe máy, xe ôtô, xe khách, tàu thủy, ca nô,
thuyền thúng, xuồng, máy bay, trực thăng bằng nhựa, gỗ, gáo dừa… trang trí trong
lớp học; cùng trẻ sưu tầm và cắt những tranh, ảnh chụp, lịch làm album hoặc sách
tranh để ở góc thư viện; treo một số tranh vẽ PTGT ở góc tạo hình, cho trẻ xem các
tác phẩm nghệ thuật. Giáo viên cùng trẻ trao đổi về đặc điểm của các phương tiện
(hình dáng, màu sắc, kích thước, bố cục, sự chuyển động) qua các hoạt động như
khám phá khoa học, âm nhạc, làm quen với tác phẩm văn học, những giờ hoạt động
tự do trong những ngày trước đó.
- Trong quá trình đàm thoại GV hỏi trẻ đã thấy những PTGT nào? Cho trẻ kể
lại các phương tiện trẻ biết? Yêu cầu trẻ tưởng tượng với những phương tiện đó trẻ
sẽ dùng kỹ năng nào để vẽ? GV động viên, khích lệ để trẻ phát huy trí tưởng tượng,
sáng tạo.
- Quá trình tri giác này được tiến hành qua các hoạt động khám phá khoa học,
âm nhạc, làm quen văn học hoặc vào một thời điểm khác ở những ngày trước đó.
Biện pháp 2: Giúp trẻ luyện tập kỹ năng vẽ theo ý thích qua bài tập, trò chơi
- Giáo viên cho trẻ thực hiện bài tập vẽ nhằm cũng cố kỹ năng vẽ và phát triển
trí tưởng tượng cho trẻ: Thỏ qua sông.
- GV cho trẻ chơi nhiều trò chơi nhằm cũng cố kỹ năng vẽ các đường nét, các
dạng hình học, màu sắc, bố cục cho trẻ như: xếp hình, sự biến đổi của màu sắc, ai
khéo thế, thi ai vẽ nhanh - vẽ đẹp, ai nhanh - ai khéo.
+ Chuẩn bị đồ dùng, nguyên vật liệu cho bài tập, trò chơi.
+ GV giới thiệu tên bài tập, trò chơi.
+ Đàm thoại với trẻ về bài tập, trò chơi.
+ Cho trẻ thực hiện sản phẩm theo nhóm, đối với trò chơi GV phổ biến cách
chơi và cho trẻ thực hiện. GV quan sát, động viên, khuyến khích trẻ.
+ Cô nhận xét, tuyên dương kết quả của trẻ.
Biện pháp 3: Tạo môi trường an toàn về tâm lý và đa dạng về vật liệu
70
- GV chuẩn bị đa dạng các nguyên vật liệu cho trẻ hoạt động như: màu nước,
bút lông, bút chì màu, bút kim tuyến nhiều màu sắc, bút dạ; giấy nhiều loại, nhiều
màu sắc cho trẻ vẽ; các nguyên vật liệu hỗ trợ: hồ dán, kéo, băng keo dán, bông gòn,
tăm tre, kim sa, lá cây, nút áo nhiều loại … để trẻ sáng tạo thêm cho mẫu hình. (vd:
trẻ đùng lá cây làm cánh bườm, kim sa để làm mắt của thuyền, nút áo làm bánh xe
hoặc cửa sổ).
- GV tạo tình huống hấp dẫn, lôi cuốn trẻ vào hoạt động như Bác nông dân vừa
mới thu hoạch rất nhiều rau, củ, trái cây nhưng Bác không có phương tiện vận
chuyển về. Nhà Bác ở rất xa khu vườn phải qua đoạn đường quanh co và qua rất
nhiều con sông. Các con giúp Bác nhé.
- Nhiệm vụ đặt ra là cô sử dụng câu hỏi để tìm hiểu các ý tưởng của trẻ, nêu
một vài đặc điểm về các phương tiện mà trẻ muốn thể hiện, cách trình bày, bối cảnh.
Giáo viên chấp nhận những câu trả lời của trẻ và đưa ra lời khen ngợi đối với những
ý tưởng mới lạ.
- Trẻ vào bàn thực hiện theo nhóm và có thể tự do lựa chọn vật liệu; quan sát,
trao đổi kinh nghiệm giải bày cảm xúc với bạn. Để tránh tình trạng mất trật tự, kéo
dài thời gian giáo viên đưa ra qui định cụ thể như chỉ được trao đổi, quan sát các bạn
cùng nhóm và đưa ra hình thức thi đua giữa các nhóm.
- Cô nên khích lệ, động viên, vui vẻ với trẻ, tạo cho trẻ tâm lý thoải mái trong
quá trình hoạt động.
- Sau khi trẻ hoàn thành sản phẩm, giáo viên cùng trẻ nhận xét. Giáo viên dùng
biện pháp mô tả, dẫn dắt để trẻ cảm nhận vẻ đẹp của tranh vẽ và nhận ra những thiếu
sót hoặc chưa đẹp, chưa hoàn chỉnh trong tranh vẽ của trẻ. Sau đó, cô cho trẻ mang
các phương tiện đến tặng cho Bác nông dân.
HĐVTYT 3: Vẽ tự do (Chủ điểm: Động vật)
Biện pháp 1: Tổ chức cho trẻ tiếp xúc với các loài động vật đa dạng phong phú
qua các học cụ trực quan.
- GV cho trẻ xem các loại động vật sống trong gia đình, trong rừng, dưới nước,
chim, côn trùng bằng nhiều nguyên vật liệu khác nhau, tranh, ảnh, mô hình, video về
các loại động vật … các đối tượng phải đa dạng về hình dạng, màu sắc, kích thước;
71
cho trẻ xem tranh, ảnh, mô hình, video về các động vật, nhiều nơi sống khác nhau
(VD: cho xem tranh, video về thỏ sống trong gia đình được nuôi trong chuồng, thỏ
sống trong rừng hoặc ở sở thú …).
- GV tạo tình huống, câu đố, câu hỏi đàm thoại để giúp trẻ nhận ra những đặc
điểm của đối tượng với nhiều kiểu dáng, kích thước, màu sắc, bố cục, sự chuyển
động khác nhau. Kích thích trẻ ngắm nhìn, thưởng thức, cảm nhận vẻ đẹp ở các con
vật, cảm nhận cái đẹp, thẩm mỹ qua tranh, ảnh và giúp trẻ khắc sâu các biểu tượng.
Cô nên gợi ý, hỏi trẻ xem “Con thích con vật nào nhất? Con có thích vẽ nó không?
Con sẽ vẽ như thế nào? Tô màu, bố cục tranh ra sao? …” để giúp trẻ tưởng tượng,
sáng tạo đồng thời giúp trẻ nhớ lại các kỹ năng vẽ.
- Quá trình tri giác này được tiến hành qua các hoạt động khám phá khoa học,
âm nhạc, làm quen văn học hoặc vào một thời điểm khác ở những ngày trước đó.
Biện pháp 2: Giúp trẻ luyện tập kỹ năng vẽ theo ý thích qua bài tập, trò chơi
- Giáo viên cho trẻ thực hiện bài tập vẽ nhằm cũng cố kỹ năng vẽ và phát
triển trí tưởng tượng cho trẻ: Nhà nhiếp ảnh tài ba.
- GV cho trẻ chơi nhiều trò chơi nhằm cũng cố kỹ năng vẽ các đường nét, các
dạng hình học, màu sắc, bố cục cho trẻ như: xếp hình, sự biến đổi của màu sắc, ai
khéo thế, thi ai vẽ nhanh - vẽ đẹp, ai nhanh - ai khéo.
+ Chuẩn bị đồ dùng, nguyên vật liệu cho bài tập, trò chơi.
+ GV giới thiệu tên bài tập, trò chơi.
+ Đàm thoại với trẻ về bài tập, trò chơi.
+ Cho trẻ thực hiện sản phẩm theo nhóm, đối với trò chơi GV phổ biến cách
chơi và cho trẻ thực hiện. GV quan sát, động viên, khuyến khích trẻ.
+ Cô nhận xét, tuyên dương kết quả của trẻ.
Biện pháp 3: Tạo môi trường an toàn về tâm lý và đa dạng về vật liệu
- GV trang trí xung quanh lớp học nhiều loài động vật bằng những vật liệu khác
nhau, GV cùng trẻ sưu tầm tranh, lịch về các động vật làm sách tranh để ở góc thư
viện, một số đồ dùng bằng nhựa, must, vật liệu phế thải đặt ở góc xây dựng, tranh
ảnh treo hoặc dán lên tường, mô hình để xung quanh lớp học. Các sắp xếp, bố trí này
72
giúp trẻ hứng thú khi bước vào lớp học, trẻ có thể cùng nhau trao đổi, trò chuyện về
các động vật này trong những giờ hoạt động tự do của lớp.
- Bên cạnh đó, GV cũng nên tạo tình huống gây bất ngờ, hứng thú cho trẻ với
những đối tượng mà trẻ ít quan tâm như: Đây là con gì hay trong bức tranh có con
vật gì? Con biết nó sống ở đâu không? Cho trẻ quan sát và giải thích.
- GV đặt nhiều câu hỏi kích thích sự sáng tạp ở trẻ như: hỏi trẻ con thích nhất
động vật nào? Con có muốn vẽ không? Con kể cho cô và các bạn nghe con sẽ vẽ như
thế nào? Con sẽ vẽ gì nữa trong bức tranh của con? … Sau đó dẫn dắt trẻ vào hoạt
động vẽ.
- Để trẻ vẽ đẹp và phát huy tính sáng tạo GV chuẩn bị đa dạng vật liệu vẽ như
sáp màu, màu nước, bút lông, bút chì màu, bút kim tuyến nhiều màu sắc, bút dạ; các
nguyên vật liệu hỗ trợ: dây, bông gòn, kim sa … để trẻ sáng tạo thêm cho mẫu hình.
- Trẻ tự do chọn vật liệu mà trẻ thích và vào bàn hoạt động vẽ trong không gian
sạch sẽ, thoáng mát của lớp học. GV kê bàn cho trẻ hoạt động, mỗi bàn 2 trẻ để giúp
trẻ vẽ rất thoải mái nhưng không tách rời bạn.
- Trong quá trình trẻ vẽ, cô nên vui vẽ động viên, khuyến khích sự sáng tạo của
trẻ, gợi ý và hỗ trợ trẻ khi cần thiết nhất là những trẻ yếu. Trẻ được tự do trò chuyện
với nhau về đề tài đang thực hiện trong trật tự, đảm bảo không làm ảnh hưởng đến
các bạn xung quanh.
- Kết thúc hoạt động cô cho trưng bày sản phẩm và nhận xét, cô dùng lời mô tả,
dẫn dắt trẻ thưởng thức, ngắm nhìn kết quả mà trẻ đạt được.
HĐVTYT 4: Vẽ theo truyện bé yêu thích
Biện pháp 1: Tổ chức cho trẻ tiếp xúc với học cụ trực quan đa dạng, phong phú
giúp trẻ mở rộng hiểu biết và khắc sâu các biểu tượng
- Giáo viên cho trẻ tiếp nhận nội dung truyện bằng nhiều hình thức khác nhau:
xem hình mẫu, tranh ảnh, giáo án điện tử, mô hình, rối các câu chuyện mà trẻ đã học
trước đó như: Cô bé quàng khăn đỏ, Tích chu, Ba cô gái, Sự tích cây vú sữa …
- Cô dẫn dắt trẻ vào hoạt động bằng các câu hỏi liên quan đến truyện: Các con
có biết quả vú sữa không? Quả như thế nào? Có vị gì? Con có biết truyện nào nói về
cây vú sữa không? hoặc cô cho trẻ xem chiếc khăn màu đỏ, đàm thoại với trẻ: Đây là
73
gì? Có màu gì? Con biết câu chuyện nào nói về chiếc khăn màu đỏ … Cô cho trẻ kể
lại một đoạn truyện mà trẻ thích hay cả câu chuyện nếu trẻ nhớ, sau đó dẫn dắt cho
trẻ xem rối, tranh, video mà cô chuẩn bị liên quan đến câu chuyện.
- Mỗi bức tranh hay đoạn video, rối … cô hỏi trẻ hoặc cô chỉ ra những điểm nút
của truyện như truyện Sự tích cây vú sữa: Cậu bé được mẹ nuông chiều nên ngày
càng ngỗ nghịch, bị mẹ mắng cậu bé bỏ nhà đi, khi cậu bị trẻ lớn bắt nạt, đói khát thì
mới nhớ về mẹ, Cậu về nhà, tìm mãi không thấy mẹ và cậu đã ngồi xuống dưới gốc
một thân cây to, được ăn quả ngọt (Cây vú sữa). Cô hỏi trẻ và nhắc lại kỹ năng vẽ
của một số mẫu hình (vóc dáng, khuôn mặt và hành động của người mẹ, người con,
cây vú sữa có gốc to, tán rộng, trái dạng tròn … sắp xếp bố cục của mỗi tranh hay
đoạn câu chuyện, màu sắc); Truyện Cô bé quàng khăn đỏ: Mẹ dặn cô bé quàng khăn
đỏ mang bánh sang biếu bà, nên đi đường thẳng không đi đường vòng, cô bé không
nghe lời mẹ đi đường vòng vì đường này có rất nhiều hoa thơm, bướm đẹp, cô bé
gặp sói …Cô nhắc kỹ năng vẽ hình mẫu hoặc hỏi trẻ kỹ năng vẽ (hoa, bướm, cây
xanh, vóc dáng, khuôn mặt, hành động của cô bé khi vui chơi trong rừng, khi gặp sói,
hình dạng của sói, bác thợ săn … cách sắp xếp bố cục, màu sắc trong tranh, video
…), Cô cho trẻ thấy sự đa dạng về hình dạng nhân vật, bố cục, màu sắc khác nhau
nhưng đều thể hiện chi tiết và hình ảnh nhân vật.
- Cho trẻ xem tranh ảnh, video, hình mẫu của các truyện được lặp đi lặp lại ở
các thời điểm hoạt động tự do trong ngày.
Biện pháp 2: Giúp trẻ luyện tập kỹ năng vẽ theo ý thích qua bài tập, trò chơi
- Giáo viên cho trẻ thực hiện bài tập vẽ nhằm cũng cố kỹ năng vẽ và phát triển
trí tưởng tượng cho trẻ: ước mơ của Hoa
- GV cho trẻ chơi nhiều trò chơi nhằm cũng cố kỹ năng vẽ các đường nét, các
dạng hình học, màu sắc, bố cục cho trẻ như: xếp hình, sự biến đổi của màu sắc, ai
khéo thế, thi ai vẽ nhanh - vẽ đẹp, ai nhanh - ai khéo.
+ Chuẩn bị đồ dùng, nguyên vật liệu cho bài tập, trò chơi.
+ GV giới thiệu tên bài tập, trò chơi.
+ Đàm thoại với trẻ về bài tập, trò chơi
+ Cho trẻ thực hiện sản phẩm theo nhóm, đối với trò chơi GV phổ biến cách
74
chơi và cho trẻ thực hiện. GV quan sát, động viên, khuyến khích trẻ.
+ Cô nhận xét, tuyên dương kết quả của trẻ.
Biện pháp 3: Tạo môi trường an toàn về tâm lý và đa dạng về vật liệu
- GV chuẩn bị nhiều sách tranh, tranh ảnh liên quan đến các câu chuyện để ở góc
học tập sách hoặc cô và trẻ cùng sưu tầm những hình ảnh liên quan đến câu chuyện cắt
ra và làm sách tranh, mỗi sách tranh là một câu chuyện với bố cục đơn giản.
- Trong hoạt động này cô chuẩn bị phong phú về nguyên vật liệu vẽ: màu sáp,
màu nước, màu bút lông, bút kim tuyến và có thêm nguyên liệu hỗ trợ là sỏi, đá nhỏ,
cát mịn, thóc, bông gòn, lá cây, một số quả nhỏ, tâm tre, kim sa … để trẻ sáng tạo
mẫu hình.
- GV tạo tình huống hấp dẫn, lôi cuốn trẻ vào hoạt động như hôm nay trường có
cuộc thi triễn lãm tranh, lớp chúng ta sẽ vẽ tranh về các truyện mà con đã học hoặc
nghe người lớn kể. Cô sẽ chọn ra những bức tranh đẹp nhất để dự thi.
- Nhiệm vụ đặt ra là cô sử dụng câu hỏi để tìm hiểu các ý tưởng của trẻ, một vài
đặc điểm về một cảnh, tình tiết mà trẻ muốn thể hiện, cách trình bày, bối cảnh.
- Nguyên liệu được bố trí theo nhóm, trẻ thích chọn nguyên liệu vẽ nào thì lại
chỗ đó lấy. Trẻ được tự do di chuyển trong quá trình tạo hình sao cho đảm bảo được
trật tự và giữ nguyên vẹn tranh vẽ.
- Trong hoạt động này cô luôn dùng lời để động viên trẻ, giúp trẻ tự tin hơn khi
vẽ, gợi ý cho trẻ yếu và khuyến khích trẻ có ý tưởng độc đáo.
- Sau khi trẻ hoàn thành sản phẩm, GV cùng trẻ xem, chọn và trò chuyện về
tranh vẽ. GV tìm những tranh đẹp, sáng tạo khác nhau theo diễn biến nội dung của
truyện để giới thiệu cùng trẻ và các sản phẩm đó cô đem đi dự thi.
3.2.1.4. Tổ chức thử nghiệm
Điều kiện thử nghiệm
- Thử nghiệm tiến hành trong điều kiện bình thường như trong các buổi lên lớp
của trẻ. Điều kiện chăm sóc, giáo dục trẻ ở nhóm thử nghiệm không khác gì so với
quy định chung của chương trình chăm sóc, giáo dục trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi.
- Trình độ giáo viên ở hai nhóm thử nghiệm và đối chứng đều tốt nghiệp Đại
học Sư phạm mầm non và có thâm niên công tác chăm sóc giáo dục trẻ 5 – 10 năm.
75
Giáo viên yêu nghề, yêu trẻ, có ý thức tự giác thực hiện yêu cầu chuyên môn.
Sự khác biệt giữa nhóm đối chứng và nhóm thử nghiệm
- Tại nhóm đối chứng (ĐC): Mọi nội dung, hình thức, phương pháp, biện pháp dạy
và học vẽ theo ý thích đều được thực hiện như quy định của chương trình hiện hành.
- Tại nhóm thử nghiệm (TN): Chúng tôi đưa ra các biện pháp để tham khảo ý
kiến của GVMN, thống nhất với GVMN cách thức tổ chức biện pháp theo mục
đích nghiên cứu.
3.2.2. Kết quả nghiên cứu thử nghiệm
3.2.2.1. Kết quả đo đầu vào trước khi tiến hành thử nghiệm
Chúng tôi dự giờ hoạt động học có chủ đích trong đó hoạt động vẽ là hoạt động
trọng tâm về vẽ theo ý thích: “Vẽ quà tặng Ba, Mẹ” ở lớp đối chứng và lớp thử nghiệm.
Qua việc phân tích sản phẩm tranh vẽ của trẻ chúng tôi thu được kết quả như sau:
Bảng 3.1. Khả năng sáng tạo qua tranh vẽ “Vẽ quà tặng Ba Mẹ”
Mức độ tưởng tượng sáng tạo
Tiêu chí
Nhóm
Cao
Trung bình Thấp
Kiểm nghiệm t (sig.<α=0.05 có sự khác biệt )
Điểm trung bình
SL %
SL % SL %
0
0
Đối chứng
12 40.0 18
60.0
1.40
Tên tranh vẽ
0.795
0
0
Thử nghiệm
11 36.7 19
63.3
1.37
0
0
Đối chứng
11 36.7 19
63.3
1.37
0.791
Đặc điểm nội dung
0
0
Thử nghiệm
10 33.3 20
66.7
1.33
0
0
Đối chứng
8
26.7 22
73.3
1.27
Bố cục
0.581
0
0
Thử nghiệm
10 33.3 20
66.7
1.33
0
0
Đối chứng
11 36.7 19
63.3
1.37
Màu sắc
0.791
0
0
Thử nghiệm
10 33.3 20
66.7
1.33
0
0
Đối chứng
30.0 21
70.0
9
1.30
Hình vẽ
0.380
0
0
Thử nghiệm
20.0 24
80.0
6
1.20
0
0
Đối chứng
16.7 25
83.3
5
6.70
Tổng điểm
0.571
0
0
Thử nghiệm
13.3 26
86.7
4
6.57
Bảng 3.1 cho thấy, khả năng sáng tạo đạt mức độ cao chiếm tỉ lệ thấp, phần lớn
ở mức độ trung bình. Về mặt nội dung: trẻ gọi được tên tranh vẽ, thể hiện được đề tài
tuy nhiên tranh mẫu và lời gợi ý cô giới thiệu, trao đổi với trẻ ở giờ học vẫn còn ảnh
76
hưởng đến trẻ. Có một vài trẻ ở nhóm đối chứng và nhóm thử nghiệm đã thể hiện
một cách độc lập suy nghĩ tình cảm riêng của mình như bé Ngân vẽ Ti vi tặng Ba, bé
Gia Bảo vẽ hộp phấn tặng mẹ, bé Mi vẽ vườn hoa. Khi được hỏi vì sao trẻ lại vẽ như
vậy thì bé Ngân trả lời: “Ti vi nhà con không hư rồi nên Ba không xem đá bóng
được”, bé Gia Bảo nói: “Mẹ con rất thích trang điểm” còn bé Mi nói “Mẹ con rất
thích hoa”. Về hình thức: bố cục tranh vẽ còn rời rạc, chưa nổi bật trọng tâm, màu
sắc chưa thể hiện được những ý tưởng mới lạ, hình vẽ còn đơn giản, chưa sinh động
và rất ít trẻ thể hiện sự chuyển động của các sự vật trong tranh.
Chúng tôi cùng với giáo viên đã chọn 2 nhóm khá tương đồng nhằm đảm bảo
kết quả ban đầu là không có sự khác biệt. Ở các tiêu chí sự chênh lệch giữa nhóm đối
chứng và nhóm thử nghiệm là không đáng kể. Để khẳng định sự tương đồng này,
chúng tôi đã sử dụng kiểm nghiệm t để kiểm định thì sig của các tiêu chí và tổng
điểm đều lớn hơn α = 0.05 rất nhiều, chỉ có hình vẽ nhỏ hơn α, cho thấy giữa nhóm
đối chứng và nhóm thử nghiệm không có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê. Bên
cạnh đó, việc chọn lựa không chỉ căn cứ trên kết quả mức độ khả năng sáng tạo thể
hiện trong tranh vẽ mà còn có sự đánh giá của các giáo viên giảng dạy lớp. Nhìn tổng
quan, nhóm TN khả năng sáng tạo của trẻ có phần thấp hơn so với nhóm ĐC. Đây
chính là cơ sở để tiến hành thử nghiệm nhằm phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ
trong hoạt động vẽ nói chung và HĐVTYT nói riêng.
Biểu đồ 3.1. Điểm trung bình các tiêu chí nhóm ĐC và TN trước TN
77
3.2.2.2. Kết quả nghiên cứu sau thử nghiệm
Trẻ lần lượt thực hiện 4 hoạt động vẽ theo ý thích: Vẽ tự do (Chủ điểm: thực
vật), Vẽ tự do (Chủ điểm: Phương tiện giao thông, Vẽ tự do (Chủ điểm: Động vật),
Vẽ theo truyện mà bé thích ở hai nhóm trong cùng một thời điểm nhất định, sau khi
hoàn thành các biện pháp nhằm nâng cao mức độ tưởng tượng sáng tạo lên nhóm
thực nghiệm. Việc phân tích kết quả thực nghiệm được tiến hành đối với từng giờ
dạy trên mỗi bài vẽ ở nhóm thử nghiệm và nhóm đối chứng. Chúng tôi theo dõi,
quan sát hoạt động của cô và trẻ trên mỗi giờ dạy cụ thể, đặc biệt là sử dụng các tiêu
chí đã nêu ở phần cơ sở lý luận (29) để đánh giá khả năng sáng tạo của trẻ trong hoạt
động VTYT.
* Với đề tài: Vẽ tự do (Chủ điểm: thực vật) chúng tôi thu được kết quả như sau:
Bảng 3.2. Kết quả khả năng sáng tạo qua tranh Vẽ tự do (Chủ điểm: Thực vật)
Mức độ khả năng sáng tạo
Điểm
Kiểm nghiệm
t (sig.<α=0.05
trung
Tiêu chí
Nhóm
Cao Trung bình Thấp
có sự khác biệt )
bình
SL % SL % SL %
1.30
Đối chứng
9 30.0 21 70.0 0
0
Tên tranh vẽ
0.019
1.60
Thử nghiệm
18 60.0 12 40.0 0
0
Đối chứng
1.30
9 30.0 21 70.0 0
0
Nội dung
0.038
Thử nghiệm
17 56.7 13 43.3 0
0
1.57
Đối chứng
8 26.7 22 73.3 0
0
1.27
Bố cục
0.018
Thử nghiệm
17 56.7 13 43.3 0
0
1.57
1.37
Đối chứng
11 36.7 19 63.3 0
0
Màu sắc
0.020
1.67
Thử nghiệm
20 66.7 10 33.3 0
0
Đối chứng
11 36.
1.37
19 63.3 0
0
Hình vẽ
0.039
Thử nghiệm
19 63.3 11 36.7 0
0
1.63
Đối chứng
7 23.3 23 76.7 0
0
6.60
Tổng điểm
0.000
21 70.0
9
8.03
Thử nghiệm
30.0 0
0
Bảng 3.2, các tiêu chí và tổng điểm chúng ta thấy nhóm đối chứng và nhóm thử
nghiệm không có trẻ nào tưởng tượng sáng tạo đạt mức độ thấp. Khả năng sáng tạo
của nhóm đối chứng ở mức trung bình (6.60 điểm), nhóm thử nghiệm sau khi áp
78
dụng các biện pháp khả năng sáng tạo đạt mức độ cao (8.03 điểm). Xét các tiêu chí ở
2 nhóm, thì tiêu chí màu sắc có điểm trung bình cao nhất nhóm, tiếp đến là tiêu chí
hình vẽ, tên tranh vẽ, nội dung và cuối cùng là tiêu chí bố cục. Điều này cho thấy, trẻ
ở cả hai nhóm có ưu thế thể hiện khả năng sáng tạo ở khía cạnh màu sắc và hình vẽ.
Tiêu chí của hai nhóm có sự khác biệt rõ nét, khả năng sáng tạo của nhóm thử
nghiệm cao hơn nhóm đối chứng cụ thể:
* Tên tranh vẽ
Điểm trung bình tiêu chí của nhóm thử nghiệm cao hơn nhóm đối chứng và
khác biệt này là có ý nghĩa (sig.=0.019, sig.=0.032 < α=0.05).
Quá trình phân tích tranh cũng như trao đổi với trẻ, chúng tôi thấy rằng trẻ đặt
tên cho tranh vẽ theo hướng tổng hợp nội dung bức tranh hoặc trẻ chọn hình ảnh
trọng tâm nổi bật trong tranh để đặt tên cho tranh vẽ của mình.
Ở nhóm đối chứng, trẻ đều đặt được tên cho tranh vẽ của mình, nhưng vẫn còn chịu
ảnh hưởng những tên gọi cô đã giới thiệu qua tranh mẫu, gợi ý trước đó. Nhiều trẻ tỏ
ra khá lúng túng khi đặt tên cho sản phẩm. Số trẻ đạt mức độ cao ở tiêu chí này là 9
trẻ với một số tên tranh như “hoa màu gà đủ sắc”, “hoa bi”,“cây xanh trên núi”,
“khu vườn rộng lớn”, …
Ở nhóm thử nghiệm, vốn biểu tượng của trẻ phong phú do được cung cấp trong
những ngày trước đó nên khi cô yêu cầu nêu ý tưởng nội dung bức tranh, và đặt tên trẻ
rất hứng thú, sáng tạo với những ý tưởng mới lạ. Mỗi tranh là một hình ảnh độc đáo với
những tên gọi riêng biệt mang những tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của trẻ như: “mẹ em
bán rau”, “xe ô tô chở hoa”, “Chợ quả quê em”, “vườn cà rốt của thỏ”,… Qua đánh
giá cho thấy nhóm thực nghiệm đạt mức độ cao ở tiêu chí tên tranh vẽ là 18 trẻ, với số
lượng này số trẻ đạt mức độ cao ở nhóm thực nghiệm gấp đôi nhóm đối chứng.
*Nội dung tranh vẽ
Ở tiêu chí đặc điểm nội dung tranh vẽ, nhóm đối chứng và nhóm thử nghiệm có
sự chênh lệch điểm trung bình khá cao, nhóm thực nghiệm cao hơn nhóm đối chứng.
Kiểm nghiệm t cho thấy sự khác biệt ở đây là có ý nghĩa về mặt thống kê (sig.=
0.038, sig.=0.038 < α=0.05).
79
Phân tích từng tranh vẽ, chúng tôi nhận thấy có sự nổi trội của nhóm thử
nghiệm so với nhóm đối chứng.
Nhóm đối chứng các loài hoa, cây xanh, củ, quả trẻ vẽ không phong phú bằng
nhóm thực nghiệm đa số trẻ vẽ những đối tượng gần gũi, quen thuộc mà cô đã giới
thiệu, ngoài hình ảnh chính trẻ vẽ thêm mặt đất, bầu trời … Bên cạnh đó vẫn có một
số trẻ độc lập trong cách thể hiện của mình, ví dụ như tranh vẽ “Hoa móng tay” trẻ
đã thể hiện hình ảnh bông hoa như ngón tay và lá có dạng dài. Tuy nhiên, số lượng
trẻ ở mức trung bình vẫn chiếm tỷ lệ cao 21/30 trẻ.
Nhóm thử nghiệm các loài hoa, cây xanh, rau, củ, quả được trẻ thể hiện phong
phú và đa dạng về chủng loại như hoa ly, hoa hướng dương, cây sake, cây dâu, củ
năng, quả măng cụt, quả dâu, … Ngoài ra, còn có một số hình ảnh trẻ kết hợp giữa
các loài hoa, các loại củ, cây xanh để tạo ra một loại mới, trẻ gọi là hoa, cây xanh, củ,
quả chứ chưa đặt tên cụ thể được. Các đối tượng trẻ vẽ nhiều trạng thái khác nhau
như: cây rụng lá chỉ còn cành, cây tán rộng, cây có nhiều hoa hoặc vẽ quả non, quả
sắp chín và quả chín … Trẻ chú ý đến nhiều chi tiết trên đói tượng như vẽ hoa thì có
đài hoa, nhụy hoa; cây thì có hoa, nụ, quả …Bên cạnh đó, các tranh vẽ thêm một số
chi tiết như với tranh vẽ “Công viên cây xanh” trẻ vẽ bướm, chuồn chuồn, ông mặt
trời, đám mây; với tranh vẽ “Hoa ngày tết” trẻ vẽ thêm bánh chưng, dưa hấu.
* Bố cục
Với tiêu chí này, điểm trung bình của nhóm thử nghiệm cao hơn nhóm đối
chứng và khác biệt này đã được kiểm nghiệm là có ý nghĩa về mặt thống kê (sig=
0.018, sig=0.018 < α=0.05).
Đây là tiêu chí mà các GV lớp cũng như chúng tôi dự đoán thì khả năng sáng
tạo ở trẻ đạt mức độ cao thấp nhất trong các tiêu chí và qua phân tích tranh vẽ kết
quả đúng như dự đoán.
Ở nhóm đối chứng, hầu hết các hình ảnh phân bố trên mặt giấy vẽ khá lộn xộn,
chỉ một số ít tranh thể hiện sự cân đối, thể hiện được ý tưởng, nổi bật trọng tâm. Tuy
nhiên, trẻ chưa thể hiện được luật phối cảnh xa gần nên chưa thể hiện được chiều sâu
của bức tranh. Một số trẻ lúng túng, khó khăn khi thể hiện đối tượng trong nội dung
vẽ nên khi vẽ thường bất chợt nghĩ ra và thêm vào một số chi tiết làm cho nhiều
80
tranh vẽ chưa cân đối, rời rạc ít có sự liên kết chặt chẽ tạo thành một tổng thể thể
hiện một ý tưởng trọn vẹn.
Ở nhóm thử nghiệm, đa số trẻ đều có dự định về nội dung sẽ vẽ nên bố cục khá
cân đối. Cũng có nhiều trẻ khi vẽ thêm vào một số chi tiết so với dự định nhưng vẫn
cân bằng trên – dưới, phải – trái trên giấy vẽ. Ngoài ra, nhiều tranh vẽ thể hiện được
luật xa - gần, ví dụ như tranh vẽ “Vườn cây” trẻ vẽ cây ở gần to ở xa nhỏ, hay trong
tranh vẽ “nhà ngoại” trẻ vẽ phía trước là vườn hoa, phía sau lưng là ngôi nhà. Nhiều
trẻ chú ý kích thước các hình ảnh cao - thấp, to - nhỏ. Một số chi tiết bị che khuất
cũng được trẻ quan tâm như tranh vẽ “Vườn rau nhà mèo” khi trẻ vẽ cà rốt trẻ không
vẽ hết củ mà vẽ có nữa thân trên và lá và trẻ giải thích là phần còn lại nằm ở dưới đất
nên không thấy. Với những tranh vẽ thể hiện luật phối cảnh đã giúp cho bức tranh có
nhiều tầng cảnh, sinh động.
* Màu sắc
Qua quá trình thử nghiệm, sự biểu hiện của tưởng tượng sáng tạo trong việc thể
hiện màu sắc tranh vẽ của nhóm thử nghiệm cao hơn trẻ đối chứng và cao nhất trong
các tiêu chí. Khác biệt này được kiểm nghiệm là có ý nghĩa về mặt thống kê (sig.=
0.020, sig.=0.020 < α=0.05).
Ở nhóm đối chứng, giấy vẽ hầu như là giấy A4 màu trắng và vật liệu tô màu chỉ
có bút màu sáp, rất ít trẻ sử dụng màu nước. Màu sắc của đối tượng chủ yếu là các
màu thường ngày ví dụ đất màu nâu, mây màu xanh, hoa màu đỏ, cây màu xanh lá và
màu tự do màu trẻ thích chưa gắn với ý tưởng miêu tả. Có khoảng 11 trẻ thể hiện
được ý đồ tô màu, màu sắc hài hòa gợi cảm, số lượng này chỉ bằng ½ so với nhóm
thực nghiệm.
Ở nhóm thử nghiệm, trẻ phấn khởi khi được lựa chọn màu sắc giấy vẽ và các
nguyên liệu để tô màu như bút màu sáp, bút lông, bút dạ quang, màu nước… Phần
lớn trẻ chú ý tô màu theo ý đồ miêu tả của mình chẳng hạn như “Lá cây màu vàng do
sắp rụng, bầu trời màu đen do sắp mưa” ... Trẻ pha màu thuần thục và dùng các màu
đã pha để tô màu sự vật hiện tượng phù hợp với hoàn cảnh. Có rất nhiều tranh vẽ
phối hợp rất nhiều loại màu khác nhau nhưng rất hài hòa, đẹp mắt.
81
* Hình vẽ
Ở tiêu chí hình vẽ, điểm trung bình của nhóm thử nghiệm cao hơn nhóm đối
chứng và khác biệt này đã được kiểm nghiệm là có ý nghĩa về mặt thống kê (sig.=
0.039, sig.= 0.039 < α=0.05).
Ở nhóm đối chứng, phần lớn khối lượng hình ảnh trong tranh vẽ còn nghèo nàn,
trẻ vẽ sự vật hiện tượng còn rập khuôn chẳng hạn như lá trẻ vẽ dạng dài, thân hoa là
nét thẳng, thân cây là hai nét thẳng song song, tán cây thì vẽ bằng nét cong hoặc
cong tròn … số lượng trẻ biết kết hợp các nguyên vật liệu hỗ trợ như giấy màu, bông
gòn, len …để hình ảnh sự vật thêm sinh động là rất ít.
Ở nhóm thử nghiệm, trẻ biết sử dụng các nguyên vật liệu hỗ trợ nên hình vẽ
khá phong phú, sáng tạo, số lượng hình ảnh trong tranh vẽ của nhóm thử nghiệm
nhiều hơn 3 – 4 hình so với nhóm đối chứng, bên cạnh những nét đặc trưng của sự
vật, trẻ còn thể hiện những đặc điểm theo suy nghĩ của riêng của trẻ như trong tranh
vẽ về ông mặt trời trẻ vẽ thêm mắt, mũi, miệng có một số tranh trẻ vẽ ông mặt trời
buồn do trời sắp mưa, hoặc ông mặt trời cười, trẻ vẽ thân cây có một lổ tròn trẻ nói
đó là nhà của chị ong … Ngoài ra, tranh vẽ có sự liên kết giữa các hình ảnh để tạo
thành một bức tranh mang một nội dung trọn vẹn. Các đối tượng trong tranh đều có
sự thể hiện các trạng thái hoặc hành động như ông mặt trời cười, ong đậu ở hoa để
hút mật, cây nghiêng vì gió rất to…, Có nhiều tranh vẽ thể hiện cùng một đối tượng
tuy nhiên các hình ảnh không trùng nhau ví dụ tranh cùng vẽ hoa mai nhưng có bé
chỉ tô màu vàng vẽ năm cánh hoa, bé khác tô nhiều màu vẽ nhiều cánh hoa.
Biểu đồ 3.2. Điểm trung bình các tiêu chí nhóm ĐC và TN
trong tranh Vẽ tự do (Chủ điểm: Thực vật)
82
Bảng 3.3. Kết quả khả năng sáng tạo qua tranh Vẽ tự do (Chủ điểm Phương
tiện giao thông)
Mức độ khả năng sáng tạo
Kiểm nghiệm
Điểm
t (sig.<α=0.05
Tiêu chí
Nhóm
Cao
Trung bình Thấp
trung bình
có sự khác biệt )
SL % SL % SL %
Đối chứng
8
26.7 22 73.3 0
0
1.27
Tên tranh vẽ
0.035
Thử nghiệm
16 53.3 14 46.7 0
0
1.53
Đối chứng
12 40.0 18 60.0 0
0
1.40
Nội dung
0.039
Thử nghiệm
20 66.7 10 33.3 0
0
1.67
Đối chứng
9
30.0 21 70.0 0
0
1.30
Bố cục
0.038
Thử nghiệm
17 56.7 13 43.3 0
0
1.57
Đối chứng
8
26.7 22 73.3 0
0
1.27
Màu sắc
0.018
Thử nghiệm
17 56.7 13 43.3 0
0
1.57
Đối chứng
9
30.0 21 70.0 0
0
1.30
Hình vẽ
0.019
Thử nghiệm
18 60.0 12 40.0 0
0
1.60
Đối chứng
5
16.7 25 83.3 0
0
6.53
Tổng điểm
0.000
Thử nghiệm
21 70.0
9
30.0 0
0
7.90
Đến đề tài: Vẽ tự do (Chủ điểm: Vẽ phương tiện giao thông), chúng ta thấy rõ
sự chênh lệch về tần số trẻ đạt được ở mức độ khả năng sáng tạo. Với đề tài này
nhóm đối chứng gặp nhiều khó khăn khi thể hiện tranh vẽ hơn so với nhóm thử
nghiệm. Kết quả tổng điểm và kiểm nghiệm t cho thấy có sự chênh lệch và khác biệt
khá cao 6.53 điểm ở nhóm đối chứng và 7.90 điểm nhóm thử nghiệm (sig ở các tiêu
chí đều nhỏ hơn 0.05), không có trẻ nào khả năng sáng tạo đạt mức độ thấp. Nếu như
ở đề tài “vẽ tự do” tiêu chí màu sắc chiếm ưu thế thì với đề tài này thì nội dung tranh
vẽ có điểm trung bình đạt mức độ cao nhất nhóm, tiếp đến là tiêu chí hình vẽ, bố cục,
màu sắc và cuối cùng là tiêu chí tên tranh vẽ. Điều này cho thấy, trẻ ở cả hai nhóm có
ưu thế thể hiện khả năng sáng tạo ở khía cạnh nội dung và hình vẽ. Cụ thể ở các tiêu
chí như sau:
83
* Tên tranh vẽ
Điểm trung bình tiêu chí này của nhóm thử nghiệm cao hơn nhóm đối chứng và
khác biệt này là có ý nghĩa (sig.=0.035, sig.=0.035< α=0.05).
Qua quá trình phân tích tranh cũng như quá trình trao đổi với trẻ, chúng tôi thấy
rằng trẻ đặt tên cho tranh vẽ của mình theo hai hướng: thứ nhất là tên tranh vẽ là sự
tổng hợp nội dung bức tranh, thứ hai trẻ chọn một một hình ảnh trọng tâm nổi bật mà
trẻ ưa thích để đặt tên cho bức tranh của mình.
Ở nhóm đối chứng, đa số trẻ đặt tên cho sản phẩm theo hướng chọn hình ảnh
trọng tâm, nổi bật và còn chịu ảnh hưởng nhiều bởi tên do giáo viên gợi ý, trao đổi
với trẻ trước khi vẽ nên rất ít trẻ đặt tên mới lạ cho sản phẩm. Một số tên gọi cho
tranh vẽ của trẻ nhóm này khá ấn tượng như: “phi công lái máy bay”, “thuyền
thúng”, “xe tải nhiều màu” …
Ở nhóm thử nghiệm, tranh vẽ của trẻ thể hiện những nội dung rất phong phú,
tranh nào cũng có ý định trước khi trẻ vẽ nên các bức tranh đều có tên rõ ràng, đặc
biệt với những tên gọi mới lạ “gà đi chơi thuyền”, “đĩa bay trên không”, “thuyền
biển”, “đường sắt quê em”, “quả bóng trên không (trẻ giải thích quả bóng là khinh
khí cầu vì có hình tròn) ”… Qua đánh giá cho thấy số lượng tiêu chí tên tranh vẽ ở
nhóm thực nghiệm gấp đôi nhóm đối chứng.
*Nội dung tranh vẽ
Ở đặc điểm nội dung tranh vẽ, cả nhóm đối chứng và nhóm thử nghiệm đều có
điểm trung bình khá cao và đây là tiêu chí có số điểm trung bình cao nhất. Kiểm
nghiệm t cho thấy sự khác biệt là có ý nghĩa về mặt thống kê (sig.= 0.039, sig.=0.039
< α=0.05). Cụ thể:
Trẻ ở hai nhóm đã có những tiến bộ rõ rệt, tạo nên một bức tranh có ý nghĩa, có
sự liên kết giữa các chi tiết trong bức tranh để tạo nên một tổng thể trọn vẹn. Nhưng
phân tích kỹ chúng tôi thấy rõ sự khác nhau giữa nhóm đối chứng và nhóm thực
nghiệm.
Nhóm đối chứng, khi sang đến đề tài này trẻ có sự tiến bộ rõ rệt, tranh có ý
nghĩa hơn và chi tiết trong tranh có sự liên kết. Tuy nhiên, khả năng sáng tạo vẫn còn
đạt mức trung bình khá cao. Trẻ hầu như tập trung vào nội dung vẽ phương tiện giao
84
thông đường bộ và đường thủy là chủ yếu: vẽ xe ôtô, xe tải, xe lửa, thuyền buồm,
thuyền thúng, phương tiện giao thông đường hàng không chỉ một vài trẻ thể hiện.
Ngược lại, nhóm thử nghiệm thể hiện đa dạng, phong phú về vốn biểu tượng,
trẻ đã tạo ra những hình ảnh và sắp xếp chúng theo ý đồ riêng của trẻ nên bức tranh
vẽ sống động, ngộ nghĩnh và đáng yêu, đặc biệt rất ít sản phẩm rập khuôn những
hình ảnh mà trẻ xem trước đây.
Tranh “thuyền biển” được thể hiện với nhiều thuyền khác nhau, những ngọn
núi, có hàng dừa trên bờ biển, người tắm biển, phía trên ông mặt trời đang tỏa nắng
bên cạnh những đám mây xanh; “Đường sắt quên em” gồm đoàn tàu, hàng cây, có
xe ôtô, chú cò trên bầu trời; “Chú phi công trên bầu trời” những chiếc máy bay, trực
thăng nhiều màu, bên trong có chú phi công, xa xa có vài chú chim bay, trẻ còn vẽ
mưa rơi … đây là kết quả của quá trình cô áp dụng các biện pháp giúp phát huy khả
năng sáng tạo cho trẻ, giúp trẻ được nhìn ngắm, quan sát, ghi nhớ và tưởng tượng để
thể hiện qua tranh vẽ phong phú và đa dạng. Khi vẽ trẻ vẫn có sự trao đổi với bạn
nhưng không bắt chước lẫn nhau mà muốn vẽ khác bạn.
* Bố cục
Với tiêu chí này, điểm trung bình của nhóm thử nghiệm cao hơn nhóm đối
chứng và khác biệt này đã được kiểm nghiệm là có ý nghĩa về mặt thống kê (sig.=
0.038, sig.=0.038 < α=0.05).
Với trẻ đề tài này khó hơn đề tài trước nên tiêu chí bố cục mặc dù ở mức cao
nhưng so với đề tài trước thì điểm trung bình không có sự thay đổi . Qua kết quả
phân tích thì trẻ ít chú ý đến sự phân bố, tỷ lệ kích thước các sự vật hiện tượng, trẻ
thường trải đều các hình ảnh trên trang giấy.
Ở nhóm đối chứng, các hình ảnh của đối tượng trên giấy vẽ khá cân đối, thể
hiện được ý tưởng của đề tài tuy nhiên không nhiều, một số ít trẻ thể hiện được luật
phối cảnh nhưng chưa rõ nét. Ngoài ra, nhiều tranh chỉ thể hiện một đối tượng trọng
tâm: xe tải, xe khách, thuyền và thêm một vài chi tiết phụ như ông mặt trời, cây,
thuyền chỉ có nước … hoặc tranh không có thêm chi tiết nào khác. Các đối tượng
trong tranh vẽ sắp xếp rời rạc, ít có sự liên kết chặt chẽ với nhau nên dù có ý tưởng,
85
có sáng tạo nhưng tổng thể bức tranh chưa thể hiện được sự cân đối giữa các hình
ảnh trên mặt giấy vẽ.
Ở nhóm thử nghiệm, bố cục tranh vẽ khá cân đối, thể hiện được luật xa - gần,
trên - dưới như tranh vẽ “Biển quê em” chiếc thuyền ở gần vẽ to hơn chiếc thuyền ở
xa, núi thì vẽ phía trên nhưng xa trẻ vẽ nhỏ; tranh “quả bóng khinh khí cầu” trẻ vẽ
khinh khí cầu nhỏ do ở trên cao phía dưới trẻ vẽ nhiều em bé đang ngắm nhìn. Mặt
khác, trẻ cũng chú ý đến kích thước các hình ảnh trong tranh vẽ: tranh “Bác tài vui
tính” trẻ vẽ chiếc xe, vẽ cửa sổ và bác tài xế chỉ thấy phần đầu và thân, trẻ giải thích
do nhìn từ phía bên ngoài nên các phần khác bị che khuất.
* Màu sắc
Với đề tài này sự biểu hiện khả năng sáng tạo trong việc thể hiện màu sắc tranh
vẽ của trẻ thấp hơn so với đề tài “Vẽ tự do”. Tuy nhiên, trẻ ở nhóm thử nghiệm vẫn
cao hơn trẻ nhóm đối chứng. Cụ thể, điểm trung bình của nhóm thử nghiệm hơn
nhóm đối chứng và khác biệt này được kiểm nghiệm là có ý nghĩa về mặt thống kê
(sig.= 0.018, sig.=0.018 < α=0.05).
Ở nhóm đối chứng, trẻ cũng chú ý đến các màu sắc khác từ những nguyên vật
liệu hỗ trợ nhưng đa số trẻ vẫn chọn giấy vẽ là giấy A4 màu trắng. Màu dùng để tô
chủ yếu là bút màu sáp, một số trẻ pha màu và thể hiện khả năng sáng tạo trên tranh
vẽ nhưng không thành công. Nguyên nhân, các GV ít khi cho trẻ sử dụng màu nước
vì sợ trẻ nghịch màu và sợ bẩn nên khi tiếp xúc với màu nước trẻ khá lúng túng, có
trẻ làm hư tranh và xin cô tờ giấy vẽ khác. Trẻ thường sử dụng màu sắc tươi sáng để
thể hiện ý tưởng miêu tả, nhiều trẻ kết hợp quá nhiều màu nhưng không hài hòa. Có
khoảng 8 trẻ thể hiện được ý đồ tô màu, màu sắc hài hòa gợi cảm.
Ở nhóm thử nghiệm, trẻ thích thú khi thấy nhiều loại nguyên liệu như bút màu
sáp, bút lông, bút dạ quang, màu nước, màu từ rau củ, màu từ len, màu của bông gòn,
các dây nhiều màu sắc … Phần lớn trẻ chú ý tô màu theo ý đồ miêu tả và kết hợp
nhiều nguyên vật liệu hỗ trợ với các màu sắc khác nhau làm tổng thể bức tranh thêm
sinh động chẳng hạn như “Cô ơi, con dùng len màu đỏ cuộn tròn làm ông mặt trời,
các tia nắng con dùng dây màu vàng”, “Trẻ tô đường đi màu đỏ, trẻ giải thích đường
vào nhà ngoại con toàn đất và đá màu đỏ “, “biển tô màu đen vì nguồn nước ô
86
nhiễm”, “Con thuyền rất nhiều loại màu khác nhau: mắt thuyền là bút kim tuyến,
thân là màu nước, cánh buồm màu sáp ”. Bên cạnh đó, màu sắc trong tranh vẽ có
mảng đậm, mảng nhạt, hài hòa, gợi cảm như đối tượng trọng tâm được trẻ tô màu
đậm, sáng làm nổi bật khi mới nhìn vào tranh mảng phụ bầu trời trẻ tô nhạt hơn.
* Hình vẽ
Ở tiêu chí hình vẽ, điểm trung bình của nhóm thử nghiệm cao gấp đôi so với
nhóm đối chứng và kiểm nghiệm này có sự khác biệt về mặt thống kê (sig.= 0.019,
sig.= 0.019< α=0.05).
Ở nhóm đối chứng, hình vẽ của trẻ ở mức trung bình khá cao, hình ảnh trong
tranh vẽ đơn giản chủ yếu dựa vào các dạng hình học, khi vẽ trẻ có sao chép ý tưởng
lẫn nhau dẫn đến các sự vật hiện tượng trong mỗi tranh rập khuôn chẳng hạn như hai
bé ngồi gần nhau thì hình vẽ trọng tâm sẽ giống nhau, chỉ khác một vài chi tiết nhỏ.
Nhiều hình vẽ còn trong tư thế đứng yên, chưa thể hiện được trạng thái của các sự
vật hiện tượng.
Ở nhóm thử ghiệm, hình ảnh tranh vẽ thể hiện gần giống với đối tượng, trẻ còn
sáng tạo khi đưa vào thêm vào những đặc điểm theo suy nghĩ của riêng mình như vẽ
chiếc tàu chở khách trên sông trẻ vẽ thêm lá cờ đỏ sao vàng hoặc tranh vẽ “thuyền
biển quê em” trẻ vẽ cảnh đêm có ông trăng tròn xung quanh là những ngôi sao và có
cả sao chổi. Trẻ còn sử dụng biện pháp nhân cách hóa khi thể hiện sự vật như xe,
thuyền, máy bay có mắt, mũi, miệng … Các hình ảnh trong tranh thể hiện các trạng
thái hoặc hành động xe leo lên núi, xe trong nước (do trời mưa đường bị ngập nước),
cây nghiêng, sóng biển…Ở nhóm thực nghiệm, các tranh vẽ ít có sự rập khuôn mà có
sự phong phú về hình dạng. Trong quá trình vẽ, khi gặp khó khăn trẻ thường mạnh
dạn hỏi cô cách thể hiện, có trẻ nảy sinh chi tiết mà trẻ chưa biết cách thể hiện, giáo
viên gợi ý hướng dẫn, không lờ đi hoặc hướng trẻ vẽ cái khác.
87
Biểu đồ 3.3. Điểm trung bình các tiêu chí nhóm ĐC và TN trong tranh Vẽ tự
do (Chủ điểm: Phương tiện giao thông)
Bảng 3.4. Kết quả khả năng sáng tạo qua tranh Vẽ tự do (Chủ điểm: Động vật)
Mức độ khả năng sáng tạo
Kiểm nghiệm
Điểm
Tiêu chí
Nhóm
t (sig.<α=0.05
Cao Trung bình Thấp
trung bình
có sự khác biệt )
SL % SL % SL %
Đối chứng
5 16.7 25 83.3 0
0
1.17
Tên tranh vẽ
0.024
Thử nghiệm
13 43.3 17 56.7 0
0
1.43
Đối chứng
9 30.0 21 70.0 0
0
1.30
Nội dung
0.019
Thử nghiệm
18 60.0 12 40.0 0
0
1.60
Đối chứng
9 30.0 21 70.0 0
0
1.30
Bố cục
0.038
Thử nghiệm
17 56.7 13 43.3 0
0
1.57
Đối chứng
8 26.7 22 73.3 0
0
1.27
Màu sắc
0.035
Thử nghiệm
16 53.3 14 46.7 0
0
1.53
Đối chứng
10 33.3 20 66.7 0
0
1.33
Hình vẽ
0.009
Thử nghiệm
20 66.7 10 33.3 0
0
1.67
Đối chứng
5 16.7 25 83.3 0
0
6.37
Tổng điểm
0.000
Thử nghiệm
14 46.7 16 53.3 0
0
7.80
88
Bảng 3.4 cho thấy, với các đề tài càng khó thì khả năng sáng tạo của trẻ ở nhóm
đối chứng càng thấp, trẻ gặp nhiều khó khăn khi thể hiện tranh vẽ hơn so với nhóm thử
nghiệm. Kết quả tổng điểm cho thấy có sự chênh lệch khá cao, nhóm đối chứng tổng
điểm 6.37 điểm giảm nhiều hơn so với các đề tài trước, nhóm thử nghiệm 7.80 điểm
cũng giảm nhưng không đáng kể. Tuy nhiên, khác biệt này đã được kiểm nghiệm là có ý
nghĩa thống kê (sig.=0.00<α=0.05) cho thấy khả năng sáng tạo của nhóm thử nghiệm
cao hơn khá rõ so với khả năng sáng tạo của nhóm đối chứng đo cùng thời điểm sau thử
nghiệm (sig ở các tiêu chí đều nhỏ hơn 0.05). Cụ thể ở các tiêu chí như sau:
* Tên tranh vẽ
Đây là đề tài có số lượng trẻ đặt tên sáng tạo cho tranh vẽ đạt mức độ thấp nhất.
Trẻ nhóm đối chứng đều đặt được tên cho tranh vẽ của mình, nhưng đa số vẫn rập
khuôn giống bạn và trùng với những tên gọi cô đã giới thiệu qua tranh mẫu, gợi ý
trước đó. Trẻ chủ yếu chọn hình ảnh trọng tâm để đặt tên cho sản phẩm, số trẻ đạt
mức độ cao ở tiêu chí này là 5 trẻ với một số tên tranh như “gà về chuồng”, “cá
kiểng”, “cá mẹ dẫn cá con đi chơi”…
Nhóm thử nghiệm, mặc dù số lượng trẻ đặt tên sáng tạo cho sản phẩm không
cao ở mức độ trung bình chiếm ưu thế nhưng so với nhóm ĐC vẫn có sự khác biệt về
mặt thống kê (sig.=0.024, sig.=0.024 < α=0.05). Khi GV giới thiệu đề tài trẻ tỏ ra
sung sướng khi được lựa chọn giấy vẽ, một số trẻ đã chú ý đến màu sắc của giấy với
nội dung vẽ của mình “Cô ơi, cho con giấy màu xanh, con muốn vẽ nhiều con vật
sống trong rừng nên con muốn lấy giấy màu xanh cho giống màu xanh của cây ở
trong rừng”. Mỗi tranh là một hình ảnh độc đáo, riêng biệt mang những tâm tư, tình
cảm, suy nghĩ riêng của trẻ, trẻ đã tạo ra những cái tên khác lạ như “cá lau kiếng”,
“muôn thú trong rừng”, “đàn gà trong sân”, “cua bò trên biển”, “gấu trúc ăn mía”,
“đàn bướm hái hoa”… Qua đánh giá cho thấy nhóm thực nghiệm đạt mức độ cao ở
tiêu chí tên tranh vẽ là 13 trẻ, với số lượng này số trẻ đạt mức độ cao ở nhóm thực
nghiệm gấp đôi nhóm đối chứng.
*Nội dung tranh vẽ
Kiểm nghiệm t cho thấy sự khác biệt đặc điểm nội dung tranh vẽ giữa nhóm đối
chứng và nhóm thử nghiệm có ý nghĩa về mặt thống kê (sig.= 0.019, sig.=0.019 <
89
α=0.05). Tuy nhiên, nội dung tranh của nhóm ĐC ở đề tài này đạt mức độ cao thấp,
chủ yếu đạt mức độ trung bình, nhóm thử nghiệm khă năng sáng tạo trong nội dung
tranh cao gấp đôi so với nhóm ĐC. Cụ thể:
Nhóm đối chứng các loài động vật trẻ vẽ không phong phú, đa dạng. Trẻ chủ
yếu vẽ những con vật quen thuộc mà trong giờ học cô đã giới thiệu như: con cá, con
gà, bướm với những đường nét, hình dạng quen thuộc. Ngoài ra các tranh vẽ đều có
hình ảnh về ông mặt trời, cây xanh, hoa … trong hầu hết tranh vẽ của trẻ. Một số ít
trẻ độc lập trong cách thể hiện ví dụ như tranh vẽ “Gà về chuồng” trẻ đã thể hiện
hình ảnh của nhiều loại gà, xung quanh trẻ vẽ hàng rào và có em bé cho gà ăn; Tranh
“cá kiểng” trẻ vẽ hồ nước với nhiều chú cá đủ màu sắc đang bơi lội, xa xa có cánh
đồng lúa, có cây xanh, bầu trời với những chú chim đang bay.
Nhóm thử nghiệm các loài động vật được trẻ thể hiện phong phú, đa dạng như:
vẽ thỏ, sư tử, ốc, cua, bướm, chuồn chuồn, sao biển, tôm …. Ngoài ra, trẻ còn sáng
tạo hình ảnh con hổ, con mèo dù không có vẽ đủ bộ phận nhưng chúng ta dể dàng
nhận ra. Các động vật trẻ vẽ ở nhiều trạng thái khác nhau như: gà gáy, gà mổ thóc,
thỏ thi tài, rùa bò, cá ngủ …. Trẻ cũng chú ý đến nhiều chi tiết đặc trưng của các loài
vật như: hổ trẻ vẽ có vằn trên lưng, sư tử có bờm, bướm nhiều màu sắc, gà trống với
cái đuôi rất dài, lông nhiều màu …Bên cạnh đó, có một số ít tranh trẻ vẽ một đối
tượng thì hầu như ngoài hình ảnh động vật trẻ còn thêm chi tiết khác để tạo bức tranh
có bố cục đẹp. Với tranh vẽ “Sở thú” với nhiều loài động khác nhau trẻ còn vẽ ghế
đá, đường đi, người; tranh “khu rừng vui nhộn” trẻ vẽ thêm núi, ao, xích đu. Phần
lớn các hình ảnh được trẻ sắp xếp theo biểu tượng của riêng mình ví dụ như thỏ cầm
củ cà rốt ăn xung quanh là vườn cà rốt; mèo con chơi cùng gà con, phía sau là ngôi
nhà.
* Bố cục
Điểm trung bình của nhóm thử nghiệm cao hơn nhóm đối chứng và khác biệt
này đã được kiểm nghiệm là có ý nghĩa về mặt thống kê (sig.=0.038, sig.=0.038<
α=0.05). Với đề tài này, về bố cục đa số trẻ vẽ trải đều các hình ảnh trên trang giấy và
tôi nhận thấy số trẻ đạt mức độ cao ở nhóm thử nghiệm gấp đôi so với nhóm đối chứng.
trẻ ít chú ý tỷ lệ, kích thước các đối tượng. Nhưng xét tương quan giữa 2 nhóm, chúng
90
Ở nhóm đối chứng, có nhiều tranh vẽ trẻ thể hiện luật xa gần tuy nhiên không
thể hiện được sự cân đối, các chi tiết trong tranh xếp khá lộn xộn hoặc lệch sang một
bên của giấy vẽ nên sản phẩm không thấy được chiều sâu của bức tranh. Nhiều tranh
các chi tiết sắp xếp rời rạc ít có sự liên kết chặt chẽ. Ngược lại, nhóm thử nghiệm trẻ
rất hứng thú, say mê sáng tạo, mỗi trẻ đều có dự định riêng về nội dung vẽ nên bố
cục cân đối phía trên – dưới, phải – trái trên giấy vẽ. Luật xa gần cũng được trẻ vẽ rất
sinh động, trẻ cũng chú ý đến kích thước, vị trí che khuất của các hình ảnh trong
tranh như tranh vẽ “Muôn thú trong rừng” trẻ vẽ các con vật gần to hơn con vật ở xa,
vẽ hai con vật đứng gần nhau nhưng chỉ thấy chân của một con vật, khi được hỏi trẻ
giải thích bạn thỏ nâu đứng sau bạn thỏ trắng nên chân của bạn bị che khuất.
* Màu sắc
Sự biểu hiện khả năng sáng tạo trong màu sắc tranh vẽ của trẻ thử nghiệm cao
hơn trẻ đối chứng. Khác biệt này được kiểm nghiệm là có ý nghĩa về mặt thống kê
(sig.=0.035, sig.=0.035 < α=0.05).
Về sự thể hiện màu sắc, trẻ ở nhóm đối chứng thường sử dụng màu sắc theo
màu giống với thực tế của sự vật hiện tượng hoặc dùng màu để làm nổi bật bức tranh,
nhiều trẻ vẽ màu theo ý tưởng, sáng tạo riêng như con mèo trẻ tô mỗi bộ phận là một
màu khác nhau và màu sắc chủ đạo của nhóm này vẫn là bút màu sáp là chủ yếu, chỉ
một số chi tiết nhỏ trẻ phối hợp màu nước, bút lông, bút dạ. Trong khi đó, trẻ ở nhóm
thử nghiệm, rất thích sử dụng màu nước và các màu hỗ trợ nên các tranh vẽ của trẻ
rất nổi bật. Phần lớn trẻ chú ý tô màu theo ý đồ miêu tả của mình, trẻ còn sử dụng
các màu biến thể của cùng một gốc màu, trẻ linh hoạt thay đổi màu sắc của sự vật
hiện tượng theo thời gian, thời tiết. Màu sắc trong tranh vẽ có mảng đậm, mảng nhạt,
gợi cảm như ông mặt trời màu đỏ chiếu những tia nắng màu vàng hay tô nhưng đám
mây cùng một màu nhưng có chỗ đậm, chỗ nhạt.
* Hình vẽ
Sự biểu hiện khả năng sáng tạo trong việc thể hiện hình vẽ ở mức độ cao ở
nhóm TN cao hơn trẻ nhóm ĐC và cao nhất trong các tiêu chí và khác biệt này được
kiểm nghiệm là có ý nghĩa về mặt thống kê (sig.= 0.009, sig.=0.009< α=0.05). Ở
nhóm đối chứng, nhiều tranh vẽ thể hiện được nét đặc trưng riêng, hình ảnh thể hiện
91
được trạng thái và có sự liên kết với nhau làm cho tổng thể tranh hài hòa, số lượng
sáng tạo ở nhóm này là 10 trẻ. Bên cạnh đó, những sản phẩm đạt mức trung bình thì
thể hiện hình ảnh trong tranh vẽ còn nghèo nàn, số lượng hình ảnh ít, sự vật hiện
tượng còn rập khuôn. Rất ít trẻ sử dụng các nguyên vật liệu hỗ trợ để tạo nên những
hình ảnh mới lạ, đẹp, ngộ nghĩnh. Nguyên nhân là trẻ không biết kết hợp như thế nào
trong tranh vẽ của mình, đây là điều mà các GV cần quan tâm để giúp trẻ phát triển
khả năng sáng tạo trong HĐVTYT.
Ở nhóm thử nghiệm, khả năng sáng tạo ở hình vẽ đạt mức độ cao là 20 trẻ, số
lượng hình ảnh trong từng tranh vẽ nhiều, rất phong phú, có sự liên kết với nhau và
mang những nét đặc trưng của sự vật. Ngoài ra trẻ còn tưởng tượng những đặc điểm
riêng theo suy nghĩ của trẻ như trong tranh “Ếch học hát” khi vẽ ếch ngồi trên lá sen
trẻ vẽ thêm kèn, trống; trong tranh “Đàn gà trong sân” trẻ vẽ gà con đứng trên lưng
mẹ, ông mặt trời buồn và có những giọt mưa rơi xuống. Các nhân vật trong tranh đều
có sự thể hiện sự chuyển động như gà con tìm mồi, chim hót, chị ong quét sân, con
chim bay, con chuồn chuồn bay …rất ít sản phẩm có sự rập khuôn, đa số các trẻ vẽ
cùng một loài động vật nhưng đều có cách thể hiện khác nhau: Đều vẽ cá nhưng có
trẻ vẽ cá nhảy lên mặt nước, cá đớp mồi, cá bơi lội hoặc trẻ vẽ cá trong ao, trẻ vẽ cá
ở biển ….Ngoài ra, trẻ sử dụng thành thạo các nguyên vật liệu hỗ trở để tạo hình ảnh
con vật thêm sinh động như dùng cát nhiều màu tạo thân mình chị ong, dùng bông
gòn làm thân của thỏ … làm cho bức tranh rất lạ, đẹp và sống động.
Biểu đồ 3.4. Điểm trung bình các tiêu chí nhóm ĐC và TN
trong tranh Vẽ tự do (Chủ điểm: Động vật)
92
Bảng 3.5. Kết quả khả năng sáng tạo qua tranh “Vẽ theo truyện bé yêu thích”
Mức độ tưởng tượng sáng tạo
Kiểm nghiệm
Điểm
t (sig.<α=0.05
Tiêu chí
Nhóm
Cao
Trung bình Thấp
trung bình
có sự khác biệt )
SL % SL % SL %
Đối chứng
8
26.7 22 73.3
0
0
1.27
Tên tranh vẽ
0.018
Thử nghiệm
17 56.7 13 43.3
0
0
1.57
Đối chứng
8
26.7 22 73.3
0
0
1.27
Nội dung
0.002
Thử nghiệm
20 66.7 10 33.3
0
0
1.67
Đối chứng
7
23.3 23 76.7
0
0
1.23
Bố cục
0.017
Thử nghiệm
16 53.3 14 46.7
0
0
1.53
Đối chứng
7
23.3 23 76.7
0
0
1.23
Màu sắc
0.032
Thử nghiệm
15 50.0 15 50.0
0
0
1.50
Đối chứng
9
30.0 21 70.0
0
0
1.30
Hình vẽ
0.038
Thử nghiệm
17 56.7 13 43.3
0
0
1.57
Đối chứng
4
13.3 26 86.7
0
0
6.30
Tổng điểm
0.000
Thử nghiệm
17 56.7 13 43.3
0
0
7.77
Kết quả thử nghiệm cho thấy, đây là đề tài có điểm trung bình thấp nhất ở cả
hai nhóm. Khả năng sáng tạo ở các tiêu chí nhóm ĐC đa số đạt ở mức độ trung bình,
chỉ một số ít đạt mức độ cao. Nhóm TN tuy điểm trung bình thấp hơn so với các đề
tài trước nhưng so với nhóm ĐC khả năng sáng tạo vẫn cao gấp đôi. Qua kiểm
nghiệm t chúng ta thấy ở hai nhóm có sự khác biệt rõ nét (sig=0.00<α=0.05), sự
chênh lệch này được kiểm nghiệm có ý nghĩa về mặt thống kê và tiêu chí nội dung
dẫn đầu các tiêu chí, tiếp đến là hình vẽ, tên tranh vẽ, bố cục và cuối cùng là màu
sắc. Cụ thể:
* Tên tranh vẽ
Điểm trung bình của nhóm thử nghiệm cao hơn nhóm đối chứng và khác biệt
này là có ý nghĩa (sig.=0.018, sig.=0.018 < α=0.05).
Qua quá trình phân tích tranh vẽ chúng tôi thấy trẻ lấy hình ảnh trọng tâm nổi
bật trong tranh để đặt tên cho bức tranh của mình. Đây là đề tài khá khó vì ngoài việc
93
chú ý quan sát tranh mẫu, gợi ý của GV trẻ phải có khả năng nghe hiểu truyện và
phải biết tưởng tượng đối tượng vẽ phù hợp với tình tiết của truyện.
Ở nhóm đối chứng, khi giáo viên phát giấy vẽ một số trẻ cắm cúi vẽ, một số trẻ
ngồi suy nghĩ khá lâu mới bắt đầu vẽ, một số khác quay sang nhìn bạn rồi thay đổi ý
định vẽ trước đây của mình. Hầu như trẻ đều đặt được tên cho tranh vẽ nhưng khả
năng sáng tạo cho tên tranh vẽ không nhiều, trẻ vẫn còn bị ảnh hưởng bởi tên câu
chuyện và các tên cô gợi ý trước đó, số trẻ đạt mức độ cao ở tiêu chí này dao động từ
6 - 7 trẻ. Truyện “Cô bé quàng khăn đỏ” trẻ đặt tên “Cô bé không vâng lời mẹ ” hay
“Con sói hung ác”, Truyện “Tích chu” trẻ đặt tên “Cô tiên xinh đẹp giúp cậu bé”
hay “Tích Chu ham chơi”…
Nhóm thử nghiệm, khi áp dụng các biện pháp thì trẻ tỏ ra sung sướng khi cô
giới thiệu đề tài, trẻ nhanh chóng vẽ ngay khi cô phát giấy vẽ vì đã có ý định từ trước
và hoàn thành cũng nhanh hơn so với nhóm ĐC. Vốn biểu tượng, sự sáng tạo, xúc
cảm đều được bộc lộ trong nội dung tranh và tranh nào cũng có tên rõ ràng, mới lạ
như truyện “Cô bé quàng khăn đỏ” trẻ đặt tên “Bác thợ săn tốt bụng”, “Sói hung ác
và cô bé khăn đỏ” … ; Truyện “Ba Cô gái” có tên “Cô út xinh đẹp”, “Chị cả xấu
xa”, “Sóc tốt bụng”, “Cả nhà yêu thương nhau”…; Truyện “Sự tích cây vú sữa” có
tên khác lạ “Dòng sữa ngọt ngào”, “Hối hận” …
* Nội dung tranh vẽ
Đây là tiêu chí có điểm trung bình cao nhất trong các tiêu chí, đặc biệt có sự
chênh lệch và khác biệt rõ nét có ý nghĩa về mặt thống kê (sig.=0.002, sig.=0.002 <
α=0.05), cụ thể nhóm TN có số trẻ sáng tạo về mặt nội dung tranh vẽ cao gấp 3 lần
so với nhóm ĐC. Phân tích từng tranh vẽ cho thấy nhóm ĐC nội dung tranh của các
trẻ gần như giống nhau, tranh rập khuôn với những tranh cô cho trẻ xem trước đó
hoặc giống như các tình tiết của truyện, ít có tranh thể hiện theo ý đồ riêng của trẻ.
Trẻ vẽ chủ yêu tập trung vào nhân vật thêm vào tranh là những chi tiết phụ như ông
mặt trời, mây, hoa, cỏ.
- Ngược lại, nhóm TN tranh vẽ của trẻ đa dạng về mặt nội dung, trẻ đã tạo ra
những hình ảnh và sắp xếp chúng theo ý đồ riêng của bản thân mình tạo nên bức
tranh sinh động, khác lạ và không rập khuôn lại những bức tranh, hình ảnh mà trẻ đã
94
xem trước đó như: Trẻ vẽ cô bé quàng khăn đỏ mặc chiếc áo màu đỏ đang leo lên núi
hái hoa, bắt bướm; vẽ cậu bé leo trèo trên cây hái trái khi đi chơi trong truyện Tích
chu; Vẽ cậu bé ngồi trên thuyền qua biển để xin nước suối tiên cho bà uống, xung
quanh có đồi núi; Cậu bé vẽ vòng tay ôm trọn cây vú sữa vào người, xung quanh có
nhiều người khóc; vẽ người chị cả biến thành cua và có sóc đứng cạnh bên, xung
quanh có biển;…Rất nhiều trẻ vẽ nội dung của những câu truyện khác mà GV không
gợi ý trước đó như: trẻ vẽ hoàng tử và cô tấm đi qua cây cầu, Vẽ rừng tre và ông bụt
trong truyện “Cây tre trăm đốt” …Kết quả này chính là quá trình trẻ được nhìn
ngắm, quan sát, ghi nhớ và tưởng tượng để rồi thể hiện qua tranh vẽ thật phong phú
và đa dạng.
* Bố cục
Với tiêu chí này, điểm trung bình của nhóm TN cao hơn nhóm ĐC tuy nhiên
khả năng sáng tạo về mặt bố cục cả hai nhóm ở mức độ cao không nhiều và thấp nhất
so với các đề tài trước. Kết quả này đã được GV lớp và chúng tôi dự đoán từ trước
nhưng sự chênh lệch và khác biệt này đã được kiểm nghiệm là có ý nghĩa về mặt
thống kê (sig.=0.017, sig.=0.017 < α=0.05).
Ở nhóm đối chứng, hình ảnh nhân vật trên mặt giấy vẽ chưa cân đối, hài hòa,
rất nhiều trẻ vạch đường thường thẳng ngang làm mặt đất và liệt kê các hình vẽ trên
đó và không có vật nào bị che khuất. Phần lớn trẻ chưa thể hiện được luật phối cảnh
nên tranh vẽ thiếu sự sinh động. Một số trong khi vẽ đột ngột thay đổi dự định nội
dung sẽ vẽ nên trong quá trình vẽ thường bất chợt nghĩ ra và thêm vào một số chi tiết
làm cho nhiều tranh vẽ chưa cân đối. Mặt khác, các chi tiết sắp xếp rời rạc ít có sự
liên kết chặt chẽ nhau và trẻ cũng ít chú ý đến kích thước của các nhân vật trong
tranh
Nhóm TN thì nhiều tranh vẽ bố cục cân đối hơn tuy trong quá trình vẽ trẻ có
thêm vào một số chi tiết so với dự định nhưng hầu như không làm lệch sự cân bằng
trên – dưới, phải – trái trên giấy vẽ. Tranh vẽ cũng thể hiện được luật xa - gần và sử
dụng đa dạng nguyên vật liệu hỗ trợ làm nổi bật nội dung thể hiện. Trẻ cũng bắt đầu
chú ý kích thước của các hình ảnh: một số tranh vẽ trẻ biết vẽ sóc nâu nhỏ hơn bà,
cây vú sữa cao hơn cậu bé, cái nhà thì to …Nhiều chi tiết bị che khuất cũng được trẻ
95
quan tâm, chú ý khi thể hiện trong tranh vẽ: trẻ vẽ giường cho bà nằm chỉ có hai
chân, trẻ giải thích nhìn như thế này chỉ có hai chân; vẽ cậu bé đứng trước cây vú
sữa nên chỉ thấy tán cây, và thấy một phần của thân cây; ông mặt trời bị đám mây
che khuất nên chỉ thấy những tia nắng …Những tranh vẽ thể hiện luật phối cảnh
phong phú giúp bức tranh nổi bật, nhiều tầng cảnh và sinh động.
* Màu sắc
Biểu hiện khả năng sáng tạo trong việc thể hiện màu sắc tranh vẽ của nhóm TN
ở mức độ cao và trung bình bằng nhau, nhưng cao gấp đôi so với nhóm ĐC. Đây
cũng là đề tài có tiêu chí màu sắc thấp nhất so với các đề tài trước. Tuy nhiên khi
kiểm nghiêm sự khác biệt thì có ý nghĩa về mặt thống kê (sig.= 0.032, sig.=0.032
< α=0.05).
Trẻ ở nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm đều thích sử dụng màu sắc tươi
sáng cho tranh vẽ. Cụ thể, nhóm ĐC trẻ tô màu nền và tô màu hình mẫu không hài
hòa, chưa làm nổi bật đối tượng chính. Ở đề tài này trẻ có sự tiến bộ rõ rệt về kỹ
thuật tô màu, trẻ tô mịn và đều hơn, nhiều trẻ đã sử dụng giấy màu, màu nước, bút
lông, bút kim tuyến … nhưng còn lúng túng, vụng về khi sử dụng. Trẻ tô màu giống
với sự vật, hiện tượng thường ngày như là trẻ tô màu xanh của lá cây, màu nâu cho
cây, màu hồng cho bầu trời, ông mặt trời màu đỏ …, cũng có trẻ thể hiện màu chưa
gắn với ý tưởng miêu tả.
Ở nhóm thử nghiệm, trẻ sử dụng các nguyên vật liệu hỗ trợ rất thuần thục, phối
màu hài hòa, có mảng đậm, mảng nhạt. Phần lớn trẻ chú ý tô màu theo ý đồ miêu tả
làm nổi bật tranh vẽ ví dụ như: núi màu xanh trẻ chấm thêm vài màu đỏ trẻ giải thích
cây và hoa mọc trên núi, bầu trời màu đen nhạt trẻ diễn tả là sắp tối, trẻ dùng bút
kim tuyến màu tím tô quả vú sữa hay hoa trẻ dùng bút lông để vẽ và tô màu… Trong
quá trình tô màu, trẻ ở nhóm thực nghiệm chăm chút về màu sắc hình vẽ. Trẻ tô cẩn
thận, chậm để không bị lem ra ngoài, một số trẻ tỏ thái độ lo lắng, buồn khi tô không
được như ý “Cô ơi, con tô màu lem ra ngoài rồi, làm sao bây giờ?”, có trẻ sáng tạo
khi tranh bị lem “Cô ơi, con hết lem rồi!” thì ra đứa trẻ vẽ đối tượng to ra.
96
* Tiêu chí hình vẽ
Đây là tiêu chí đứng thứ hai trong các tiêu chí, điểm trung bình của nhóm thực
nghiệm cao hơn nhóm đối chứng và khác biệt này đã được kiểm nghiệm là có ý
nghĩa về mặt thống kê (sig.=0.038, sig.=0.038 < α=0.05). Ở nhóm đối chứng, phần
lớn khối lượng hình ảnh trong tranh vẽ rất ít và nghèo nàn, trẻ vẽ sự vật hiện tượng
còn rập khuôn chẳng hạn như vẽ nhân vật trai hay gái đều có đầu hình tròn, thân
hình vuông, chân hình chữ nhật; núi là hình tam giác, hoa thì cánh có dạng tròn, lá
dạng dài.
Ở nhóm thử nghiệm, trẻ có sự sáng tạo về mẫu hình theo trí tưởng tượng của
trẻ: có trẻ vẽ mẹ, bác thợ săn rất già, bé khác lại vẽ rất trẻ; cây vú sữa cũng có rất
nhiều hình dạng khác nhau cây có nhiều cành và có một quả duy nhất, có cây nhiều
cành và nhiều quả; trẻ vẽ hình ảnh sóc nâu quá to so với bà …Các nhân vật trong
tranh đều có sự thể hiện các trạng thái hoặc hành động: trẻ vẽ Bà với nhiều tư thế
khác nhau trong mỗi tranh nằm, ngồi, buồn, vui; Sóc đang đi; Cậu bé bơi qua sông
tìm nước suối tiên cho bà. Ngoài ra, các hình ảnh trong tranh có sự liên kết tạo ra bức
tranh đầy màu sắc, mang những nội dung trọn vẹn.
Biểu đồ 3.5. Điểm trung bình các tiêu chí nhóm ĐC và TN
trong tranh “Vẽ theo truyện mà bé thích”
Tóm lại: Kết quả thực nghiệm ở 4 đề tài cho thấy khả năng sáng tạo trẻ nhóm
TN tăng lên, trong khi đó nhóm ĐC không có sự thay đổi nhiều. Trẻ nhóm TN có sự
97
thay đổi rõ nét, đa số trẻ rất thích vẽ, giàu vốn biểu tượng nên đề tài trẻ thể hiện với
những nội dung khá phong phú, ít có sự rập khuôn theo mẫu và theo hướng dẫn của
GV, trẻ độc lập trong suy nghĩ và thể hiện ý tưởng sáng tạo của mình. Ngược lại ở
nhóm đối chứng, khả năng này chỉ thể hiện ở một vài trẻ, phần lớn còn hạn chế, tranh
vẽ của trẻ nội dung chưa phong phú, hình ảnh không sinh động, bố cục thiếu sự hài
hòa và chưa thể hiện được ý đồ miêu tả. Điều này cho thấy việc áp dụng các biện
pháp đã có hiệu quả, góp phần kích thích trẻ suy nghĩ những điều mới mẻ trong quá
trình tạo ra sản phẩm, những biểu hiện của trẻ tuy không quá xuất sắc nhưng cũng là
dấu hiệu tích cực giúp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong
HĐVTYT.
98
Tiểu kết chương 3
Kết quả thử nghiệm cho thấy khả năng sáng tạo của trẻ nhóm thực nghiệm cao
hơn hẳn so với nhóm đối chứng. Cụ thể, trước thử nghiệm khả năng sáng tạo trong
HĐVTYT ở hai nhóm tương đồng nhau. Sau thực nghiệm, nhóm TN có điểm trung
bình trên 5 tiêu chí đều cao gấp đôi, thậm chí có những tiêu chí cao gấp 3 lần nhóm
ĐC. Tỷ lệ trẻ có biểu hiện tưởng tượng sáng tạo ở 5 tiêu chí đạt mức độ cao tăng lên
đáng kể, đa số trẻ thể hiện các bức tranh một cách độc lập, sáng tạo theo ý tưởng
riêng của từng cá nhân. Điều này chứng tỏ các biện pháp áp dụng trong quá trình
thực nghiệm đã có hiệu quả đối với việc nâng cao khả năng sáng tạo của trẻ .
Qua kết quả thử nghiệm kiểm chứng với 4 đề tài ở trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong
HĐVTYT, cho thấy hiệu quả của việc nâng cao mức độ tưởng tượng sáng tạo là do
tác động của những biện pháp sau đây:
- Tổ chức cho trẻ tri giác học cụ trực quan đa dạng về chủng loại và hình thức
giúp vốn biểu tưởng về sự vật hiện tượng tăng lên đáng kể góp phần phát triển khả
năng sáng tạo cho trẻ.
- Tạo môi trường tốt cho trẻ trong hoạt động vẽ theo ý thích giúp trẻ hứng thú
hơn đối với hoạt động vẽ. Mặt khác, làm sống lại các biểu tượng, kỹ năng vẽ liên
quan đến các đề tài.
Giúp trẻ luyện tập kỹ năng vẽ theo ý thích nhằm cũng cố lại các kỹ năng vẽ cho trẻ.
99
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Trong các hoạt động của trẻ ở trường mầm non, hoạt động tạo hình nói chung
và hoạt động vẽ nói riêng là một trong những hoạt động có môi trường thuận lợi để
phát triển tưởng tượng, đặc biệt là khả năng sáng tạo của trẻ. Với sự phong phú của
các thể loại vẽ như: vẽ theo mẫu, vẽ theo đề tài, vẽ tự do thì vẽ theo thể loại tự do
giúp trẻ không những được tiếp cận một cách tích cực với thế giới xung quanh mà
còn là cơ hội để bồi dưỡng những xúc cảm tình cảm thẩm mỹ và khả năng sáng tạo
của trẻ. Khi tham gia vào hoạt động vẽ, khả năng này có điều kiện bộc lộ và phát
triển cao. Những sản phẩm nghệ thuật của trẻ rất “ngây thơ” và “trẻ con” nhưng
trong cái non nớt ấy là cả sự tưởng tượng, sáng tạo kỳ diệu. Vì vậy, nghiên cứu việc
phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong HĐVTYT là cần thiết.
Từ kết quả nghiên cứu đề tài, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
1.1. Sáng tạo của trẻ mầm non là những biểu hiện dựa trên sự tự do, khoáng
đạt, trẻ dễ dàng suy nghĩ và sáng tạo. Cơ bản sự tưởng tượng, sáng tạo của trẻ giống
như một trò chơi mà trẻ thể hiện một cách tự nhiên, thoải mái. Khả năng sáng tạo
trong HĐVTYT là quá trình trẻ sử dụng những kinh nghiệm và vốn sống đã có để
nhào nặn, liên kết chúng lại với nhau tạo thành một sản phẩm có nội dung theo ý
riêng của trẻ dựa vào các đường nét, hình dạng, bố cục và màu sắc.
1.2. Thực trạng khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong HĐVTYT ở
một số trường mầm non trong địa bàn Thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre ở mức trung
bình là chủ yếu. Mặc dù, giáo viên nhận thức được vai trò của sáng tạo trong
HĐVTYT là cần thiết nhưng việc tổ chức hoạt động nhằm phát triển khả năng sáng
tạo cho trẻ còn nhiều hạn chế và chưa khoa học. Giờ học còn cứng nhắc, rập khuôn
vì vậy chưa phát huy được tính tích cực, sáng tạo trong hoạt động vẽ của trẻ, trẻ chủ
yếu thực hiện theo hướng dẫn, gợi ý của GV. Trẻ gặp nhiều khó khăn khi phải tự thể
hiện các tranh vẽ đòi hỏi có sự tham gia của tưởng tượng và sáng tạo.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên nhưng chủ yếu xuất phát từ hạn
chế của giáo viên về các biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ trong
HĐVTYT. Tuy nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển khả năng sáng tạo
100
cho trẻ, nhưng giáo viên còn gặp khó khăn trong việc tìm kiếm các biện pháp tác
động phù hợp để phát triển khả năng này. Các biện pháp GV sử dụng chưa hình
thành: cảm xúc thẩm mỹ, ý tưởng, nội dung vẽ, năng lực sử dụng các phương tiện
miêu tả nên chưa giúp tác phẩm của trẻ được truyền cảm và năng lực hoạt động sáng
tạo. Phương pháp dạy còn cứng nhắc, gò ép áp đặt theo yêu cầu chung.
1.3. Căn cứ vào cơ sở lý luận và thực tiễn, chúng tôi đề xuất thử nghiệm ba biện
pháp sau:
- Tổ chức cho trẻ tri giác học cụ trực quan.
- Giúp trẻ luyện tập kỹ năng vẽ theo ý thích.
- Tạo môi trường tốt cho trẻ trong hoạt động vẽ theo ý thích.
Các biện pháp này đã được thử nghiệm và có kết quả khả quan trong việc phát
triển khả năng sáng tạo cho trẻ. Các tiêu chí ở nhóm thử nghiệm đều cao hơn nhóm
đối chứng và kiểm nghiệm sự khác biệt thì có ý nghĩa về mặt thống kê (sig.<
α=0.05). Khi áp dụng những biện pháp này trẻ thích thú, tích cực và sáng tạo hơn
trong HĐVTYT. Cụ thể: ở nhóm ĐC, biết mình sắp được vẽ một số trẻ tỏ hứng thú
rất ít. Trong quá trình dạy, giáo viên thường làm việc với những bạn tích cực, số
khác ít được cô chú ý gọi lên phát biểu nên trẻ lơ là, một số trẻ tỏ ra lo lắng về nội
dung sắp vẽ. Trong quá trình vẽ: sự thích thú giảm dần, không khí lớp học ít sôi
động, trẻ hay quay sang nhìn nhau rồi bắt chước, vẽ xong trẻ nộp bài ngay, rất ít trẻ
ngắm nhìn sản phẩm. Trong quá trình nhận xét, cô mời một vài trẻ lên nhận xét tranh
của bạn, sau đó cô nhận xét tranh của trẻ và kết thúc giờ học.
Ngược lại, nhóm thử nghiệm, khi giới thiệu đề tài sắp vẽ, trẻ phấn khởi, hăng
hái phát biểu ý kiến, háo hức chờ đợi cô gọi đến tên mình để được trình bày nội dung
sẽ vẽ. Trong quá trình thực hiện tranh vẽ trẻ say sưa thể hiện ý tưởng, không nói
chuyện với bạn, nét vẽ tỉ mỉ và chăm chút. Trẻ mỉm cười khi vẽ xong một chi tiết nào
đó, một số trẻ khoe với bạn. Khi nhận xét, trẻ đưa ra lời nhận xét phù hợp và trầm trồ
lên khi phát hiện những ý tưởng độc đáo khác lạ khi quan sát các bài vẽ của bạn.
Kết quả này cũng phù hợp với giả thuyết khoa học mà chúng tôi đặt ra. Nếu đề
xuất được một số biện pháp hợp lý thì sẽ tạo điều kiện phát triển khả năng sáng tạo
cho trẻ 5 - 6 tuổi trong HĐVTYT.
101
2. Kiến nghị
Trên cơ sở những nghiên cứu, chúng tôi có một số kiến nghị sau:
2.1. Với Sở Giáo dục & Đào tạo tỉnh Bến Tre
- Xây dựng chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non theo hướng cụ thể
hóa và hệ thống hóa các yêu cầu, nội dung, hình thức, biện pháp phát triển khả năng
sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong HĐVTYT và kèm theo hướng dẫn thực
hiện.
- Cần mở các lớp bồi dưỡng khả năng tạo hình nói chung và HĐVTYT nói
riêng cho GV để giúp cho quá trình hướng dẫn trẻ đạt kết quả.
2.2. Với Ban giám hiệu các trường mầm non
- Khuyến khích giáo viên tích cực tìm tòi, sáng tạo các biện pháp tổ chức
HĐVTYT mới nhằm nâng cao hiệu quả phát triển khả năng tưởng tượng sáng tạo cho
trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở trường MN.
- Đảm bảo số lượng trẻ trong 1 lớp theo quy định, giúp giáo viên thuận lợi hơn
trong quá trình tổ chức hoạt động cho trẻ.
- Không gò bó thời gian tổ chức giờ học tạo hình nói chung và giờ vẽ nói riêng
để GV có điều kiện cung cấp nhận thức cho trẻ và trẻ có nhiều thời gian để sáng tạo
tranh vẽ của mình.
- Cần có sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc tích lũy vốn kinh
nghiệm chuẩn bị tiền đề cần thiết cho hoạt động vẽ của trẻ.
2.3. Với giáo viên mầm non
- Thường xuyên học tập, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn cũng như
kĩ năng sư phạm của bản thân.
- Tổ chức tốt cho trẻ tri giác học cụ trực quan đa dạng để tăng vốn biểu tượng
về sự vật, hiện tượng xung quanh. Biểu tượng càng phong phú thì khả năng sáng tạo
của trẻ sẽ phát triển.
- Thường xuyên giúp trẻ luyện tập các kỹ năng vẽ cho trẻ qua các bài tập, trò
chơi hoặc giờ hoạt động tự do giúp trẻ ngày càng hoàn thiện khả năng vẽ.
- Tạo môi trường hoạt động vẽ tốt nhất cho trẻ giúp phát huy tính tự lập của trẻ
như tự nghĩ ra cách thực hiện, tự chọn nguyên vật liệu, tự giải quyết các tình huống
nảy sinh và trẻ có nhiều cơ hội phát triển khả năng sáng tạo khi tham gia hoạt động.
102
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Chương trình Giáo dục mầm non, Nxb Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2009). Chuẩn phát triển 5 tuổi. Hà Nội: Nxb Giáo dục.
Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hỗ trợ giảng dạy và chăm sóc trẻ em.
WWW.mamnon.com.
Chu Quang Tiềm. (1999). Tâm Lý học văn nghệ (tr 5). TP.HCM: Nxb Giáo dục.
Đinh Thị Tứ. (2008). Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non. Thành phố Hồ Chí
Minh: Nxb Giáo dục.
Đức Uy. (1998). Tâm lý học sáng tạo (tr 28). Nxb Giáo dục.
Ekarelxkaia. (2000). Những nét vẽ ngộ nghĩnh. Tạp chí GDMN, (4).
Giáo dục phát triển thẩm mỹ cho trẻ mầm non thông qua hoạt động tạo hình.
http://Vinhphuc.Edu.Vn/Pgdyenlac/News/New95365.
Giber &Misen. (1990). Giáo dục của môn vẽ. Thông tin Đại học Pháp.
Hồ Hoàng Yến. (2011). Mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi trong hoạt
động vẽ ở một số trường Mầm non tại Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
(tr.26). Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục. Ngành giáo dục học. Trường Đại
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh.
Kazakara, T.T. (1982). Trẻ em mẫu giáo vẽ. Nxb Thanh niên.
Lại Thị Kim Cúc. (2014). Một số biện pháp phát huy khả năng sáng tạo của trẻ 5-6
tuổi bản trong hoạt động ca hát ở trường mầm non. Luận văn thạc sĩ khoa học
giáo dục. Ngành giáo dục học. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh. Thành phố Hồ Chí Minh.
Lê Hồng Vân. (2002). Tạo hình và phương pháp hướng dẫn hoạt động tạo hình cho
trẻ em, Quyển 3 (tr.62 – 63). Hà nội: Nxb Đại học Quốc gia.
Lê Khanh. (2007). Khám phá trẻ em qua nét vẽ. Nxb Phụ nữ.
Lê Thanh Thủy. (2002). Sự phát triển trí tưởng tượng của trẻ em trong hoạt động
tạo hình. Tạp chí Giáo dục (22).
Lê Thanh Thủy. (2003). Phương pháp tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ mầm non.
Trường ĐHSP Hà Nội: Nxb Giáo dục.
103
Lê Thanh Thủy. (2007). Ảnh hưởng của tri giác tới tưởng tượng sáng tạo trong
hoạt động vẽ của trẻ 5 – 6 tuổi. Luận án tiến sĩ. Ngành giáo dục học. Trường
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh.
Lê Thanh Thủy. (2009). Phương pháp tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ mầm non.
Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Đại học Sư phạm.
Lê Thị Hoàng Trang. (2005). Một số biện pháp phát huy khả năng sáng tạo của trẻ
5-6 tuổi trong hoạt động âm nhạc ở trường mầm non, Luận văn Thạc sĩ.
Ngành giáo dục học. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Thành phố Hồ Chí Minh.
Lê Thị Thanh Bình. (2006). Phương pháp hướng dẫn hoạt động tạo hình trong
trường mầm non. trường CĐSP Trung ương 3: Nxb Giáo dục.
Lê Xuân Hồng. (2002). Giáo dục nghệ thuật cho trẻ lứa tuổi mầm non. Nxb Phụ nữ.
Leonchiev, A.N. (1980). Sự phát triển tâm lý trẻ em. Trường CĐSP Trung ương 3:
Nxb Giáo dục.
Lương Thị Hồng Thúy. (2016). Một số hình thức tổ chức hoạt động vẽ theo ý thích
cho trẻ mẫu giáo lớn tại trường mầm non. Trường Đại học Quảng Bình
Ngô Thị Tuyết Mai. (2013). Biện pháp phát huy khả năng sáng tạo cho trẻ 5-6 tuổi
trong trò chơi đóng kịch. Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục. Ngành giáo dục
học. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí
Minh.
Nguyễn Ánh Tuyết. (2002). Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non (tr.9). Hà Nội:
Nxb Đại học Sư phạm.
Nguyễn Cảnh Toàn. (1997). Khơi dậy tiềm năng sáng tạo. Thành phố Hồ Chí Minh:
Nxb Giáo dục.
Nguyễn Đức Uy. (1999). Tâm lý học sáng tạo. Hà Nội: Nxb Giáo dục.
Nguyễn Huy Tú. (1996). Đề cương bài giảng tâm lý sáng tạo. Hà Nội: Viện
KHGD.
Nguyễn Huỳnh Ngọc Thủy. (2014). Biện pháp phát huy khả năng sáng tạo của trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi trong hoạt động vẽ. Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục. Ngành giáo
104
dục học. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ
Chí Minh.
Nguyễn Như Ý. (2007). Từ điển Tiếng Việt (tr.67). Nxb Giáo dục.
Nguyễn Quốc Toản. (1997). Về việc đánh giá sản phẩm tạo hình của trẻ mẫu giáo.
Tạp chí Giáo dục Mầm non
Nguyễn Quốc Toản. (2009). Giáo trình hướng dẫn tổ chức hoạt động tạo hình cho
trẻ mầm non. Nxb Đại học Sư Phạm.
Nguyễn Thị Huệ. (2007). Một số biện pháp tổ chức hoạt động tạo hình nhằm phát
triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi. Luận văn thạc sĩ khoa học
giáo dục. Ngành giáo dục học. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh. Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thị Ngọc Kim. (2005). Một số biện phát bồi dưỡng khả năng sáng tạo của trẻ
Mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua hoạt động vẽ theo ý thích (tr.10 – 11). Luận văn thạc
sĩ. Ngành giáo dục trẻ em trước tuổi học. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Nguyễn Thị Ngọc Nuôi. (2013). Một số biện pháp phát triển khả năng tưởng tượng
sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong hoạt động kể chuyện. Luận văn thạc
sĩ khoa học giáo dục. Ngành giáo dục học. Trường Đại học Sư phạm Thành
phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thị Thanh Hương. (2006). Ảnh hưởng của môi trường giáo dục đối với khả
năng sáng tạo của trẻ trong hoạt động tạo hình. Thông tin khoa học Giáo dục
mầm non.
Nguyễn Văn Đạm. (1999). Từ điển Tiếng Việt tường giải và liên tưởng Tiếng Việt.
Hà Nội: Nxb Văn Hoá Thông tin.
Phạm Thị Nguyên Chi. (2013). Biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5
- 6 tuổi tại góc tạo hình (tr.36). Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục. Ngành
giáo dục học. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố
Hồ Chí Minh.
Phạm Thu Hương. (2007). Tiềm năng sáng tạo và biểu hiện của nó trong vận động
theo nhạc của trẻ Mẫu giáo 5- 6 tuổi. Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục. Ngành
105
giáo dục học. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ
Chí Minh.
Phan Lan Anh. (2010). Sử dụng bộ chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi.
Phan Thị Thu Hiền. (2002). Con đường phát triển sức sáng tạo ở trẻ em. Tạp chí
Giáo dục Mầm non (1).
Prentice Hall (1991), The arts in early childhood, Australia.
Rogatkina, J. (2000). Nào cùng vẽ, cùng sáng tạo, cùng tưởng tượng. Tạp chí
GDMN (6).
Trần Hiệp và Đỗ Long. (1990). Sổ tay tâm lý học. Hà Nội: Nxb KHXH.
Trần Trọng Thủy. (2000). Sáng tạo: Một chức năng quan trọng của trí tuệ. Thông
tin khoa học giáo dục (tr.2, 45) (81).
Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam. (1999). Đại từ điển Tiếng Việt
(tr.161, 1807). Nxb Văn hóa – Thông tin.
Ưng Thị Châu, Nguyễn Lăng Bình, Lê Đức Hiền. (1998). Tạo hình và phương pháp
hướng dẫn hoạt động tạo hình cho trẻ (tr.136). Hà Nội: Nxb Giáo dục.
Vụ Giáo dục mầm non. (2005). Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên mầm
non chu kì II 2004 – 2007 (tr.28). Hà Nội: Nxb Giáo dục.
Vwgotsky, L.X. (1985). Trí tưởng tượng và sáng tạo tuổi thiếu nhi. Nxb Phụ nữ.
Xaculina, N.P and Comarova,T.X. (1992). Phương pháp dạy hoạt động tạo hình.
Nxb Giáo dục.
DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1 ................................................................................................................ 1
PHỤ LỤC 2 ................................................................................................................ 5
PHỤ LỤC 3 ................................................................................................................ 6
PHỤ LỤC 4 ................................................................................................................ 7
PHỤ LỤC 5 ................................................................................................................ 8
PHỤ LỤC 6 .............................................................................................................. 10
PHỤ LỤC 7 .............................................................................................................. 20
PL1
PHỤ LỤC 1
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN GIÁO VIÊN MẦM NON
( Dành cho Giáo viên trực tiếp dạy trẻ )
Nhằm đánh giá khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi thông qua
hoạt động vẽ theo ý thích tại các trường mầm non trên địa bàn TP. Bến tre, chúng
tôi thực hiện đề tài: “Biện pháp phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 - 6
tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích”. Rất mong Cô vui lòng cho ý kiến về một số
vấn đề dưới đây:
Những thông tin Cô cung cấp chỉ phục vụ nghiên cứu, xin trân trọng cảm
ơn sự hợp tác và giúp đỡ nhiệt tình của quý Cô!
Xin Cô vui lòng cho biết ý kiến của mình bằng cách đánh dấu (X) vào
những ý chọn
Phần 1: Thông tin cá nhân
+ Giáo viên lớp:………Trường:………………………...............
+ Trình độ chuyên môn:
Sơ cấp Trung cấp Cao đẳng Đại học Sau đại học ………………………
Phần 2: Nội dung khảo sát
Câu 1: Cô vui lòng cho biết, việc phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ mẫu
giáo 5 - 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích quan trọng ở mức nào?
a. Rất quan trọng
b. Quan trọng
c. Ít quan trọng
d. Không quan trọng
Câu 2: Theo Cô, tranh vẽ TYT của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi được xem là có
sáng tạo khi:
a. Vẽ theo những biểu tượng đã được học.
b. Vẽ theo sự hướng dẫn của giáo viên
c. Vẽ theo mẫu đã có sẵn
d. Vẽ theo sự bắt chước bạn
e. Vẽ theo ý nghĩ, sở thích riêng của trẻ.
PL2
Câu 3: Trong lớp Cô, hoạt động vẽ theo ý thích được tổ chức mấy lần trong
tháng?
a. 1 lần
b. 2 lần
c. 3 lần
d. 4 lần
e. Ý kiến khác .................................................................................................
Câu 4: Xin Cô vui lòng đánh giá mức độ các biểu hiện khả năng sáng tạo
trong tranh vẽ của trẻ 5 - 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích ở lớp Cô đang công
tác:
Mức độ
Các biểu hiện Trung Cao Thấp bình
Sự mới lạ của tên tranh vẽ
Thay đổi thành phần các hình ảnh trong tranh
vẽ
Nội Thay đổi hình dáng hình ảnh trong tranh vẽ
dung Thay đổi sự liên kết giữa các yếu tố trong tranh
vẽ
Bố cục Tranh vẽ hài hòa, cân đối
Sử dụng luật phối cảnh thể hiện
chiều sâu trong tranh
Thể hiện màu sắc tự tạo Màu
Hình sắc Thể hiện màu sắc hài hòa, phù hợp
thức nội dung
Hình vẽ Đối tượng thể hiện dưới dạng hoạt
động
Đối tượng thể hiện tư thế phù hợp,
giàu hình tượng
PL3
Câu 5: Xin cô vui lòng đánh giá mức độ quan trọng của các tiêu chí sau trong
quá trình tổ chức hoạt động vẽ theo ý thích nhằm giúp trẻ phát triển khả năng sáng
tạo:
Mức độ
Các tiêu chí Quan Trọng Ít quan trọng Không quan trọng
Tạo hứng thú cho trẻ
Quan sát mẫu
Gợi nhớ những hình ảnh mà trẻ đã quan sát
Thể hiện ý tưởng và sáng tạo theo cách riêng
Đánh giá sản phẩm tạo hình
Câu 6: Hiện nay, Cô thường sử dụng biện pháp nào để phát triển khả năng
sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích?
Mức độ
Các biện pháp Thường Ít sử Không
sử dụng dụng sử dụng
Tổ chức cho trẻ tiếp xúc, quan sát sự vật, hiện tượng trong MTXQ
Tổ chức cho trẻ xem tác phẩm nghệ thuật ở triển lãm tranh
Tổ chức cho trẻ miêu tả nhận xét sản phẩm của mình và của bạn.
Sử dụng câu hỏi gợi mở để trẻ suy nghĩ và tưởng tượng
Hướng dẫn, luyện tập kỹ năng tạo hình cho trẻ
Sử dụng hình thức vẽ ngoài giờ học như: vẽ ngoài trời, vẽ ở hoạt động góc, nhóm chơi tạo hình
PL4
Câu 7: Cô vui lòng cho biết nguyên nhân ảnh hưởng đến khả năng sáng tạo
cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích?
Giáo viên sử dụng chưa thường xuyên các biện pháp phát triển khả năng
sáng tạo cho trẻ trong HĐVTYT
Giáo viên chưa thấy tầm quan trọng của việc phát triển khả năng sáng tạo
cho trẻ trong hoạt động vẽ theo ý thích
Giáo viên gò bó, áp đặt trẻ khi tổ chức hoạt động
Giáo viên không có nhiều thời gian để tổ chức thực hành, luyện tập
Kỹ năng vẽ của trẻ hạn chế
Trẻ không đủ thời gian thực hiện sản phẩm
g. Số lượng trẻ quá đông
Câu 8: Cô có đề xuất, kiến nghị gì khi tổ chức hoạt động vẽ theo ý thích cho
trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi nhằm phát triển khả năng sáng tạo?
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
Xin chân thành cám ơn Cô!
PL5
PHỤ LỤC 2
PHIẾU QUAN SÁT NHỮNG BIỂU HIỆN SÁNG TẠO CỦA TRẺ MG 5-
6 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG VẼ THEO Ý THÍCH
Họ và tên trẻ: …………………………………………………………
Ngày tháng năm sinh: ………………………………………………...
Học tại lớp:………………………Trường……………………………
Ngày quan sát:………………………………………………………...
Không STT Biểu hiện sáng tạo của trẻ Đồng ý đồng ý
1 Mạnh dạn, tự tin
Tích cực, hứng thú tham gia vào hoạt động 2
Trẻ dể dàng và nhanh chóng tạo ra bức tranh từ gợi ý 3 của giáo viên
4 Độc lập trong khi vẽ
Biết tự mình nêu lên những ý tưởng mới lạ, không 5 làm theo khuôn mẫu của giáo viên
Người quan sát
PL6
PHỤ LỤC 3
PHIẾU DỰ GIỜ
Ngày dự: …………………………………………………………
Lớp: ……………………………………………….......................
Trường:…………………………..................................................
Hoạt động:………………………………………………………..
Đề tài:.............................................................................................
Giáo viên:.......................................................................................
Hoạt động Hoạt động của giáo viên Hoạt động của trẻ Nhận xét
Hoạt động 1
Hoạt động 2
Hoạt động 3
PL7
PHỤ LỤC 4
Một số bài tập tạo hình giúp phát triển khả năng sáng tạo ở trẻ.
Vườn của Ba
Ba của bạn Lan được một người bạn cho rất nhiều hạt giống về nhiều loại cây
ăn quả, nhiều loại rau và nhiều loại hoa khác nhau. Ba bạn đã đem hạt giống gieo
trong vườn. Sau một tháng, những cây xanh, rau và hoa sẽ mọc ra như thế nào nhỉ?
Con hãy phát huy trí tưởng tượng, vẽ những vườn cây xanh và hoa cho thật đẹp
nhé! (giáo viên gợi ý thêm về ông mặt trời, mây, chú chim, con cò, …)
Thỏ qua sông
Thỏ con vác một túi cà rốt ra chợ, nhưng đường đến chợ rất xa. Thỏ phải đi bộ
một đoạn đường rất dài và phải qua một con sông rộng. Làm thế nào qua được sông
mà không bị ướt gạo bây giờ? Em hãy nghĩ cách giúp thỏ con được không? (GV gợi
ý cho trẻ vẽ các phương tiện giao thông đường bộ, đường thủy, đường hàng không
và vẽ dòng sông, thỏ, chiếc cầu, … )
Nhà nhiếp ảnh tài ba
Gà trống có sở thích là chụp ảnh, gà trống chụp nhiều cảnh đẹp về khu rừng và
các bạn của gà trong rừng đó các con. Cô rất thích những bức ảnh của bạn gà. Các
con có muốn xem bạn gà đã có những ảnh đẹp nào không? Lớp mình cùng xem với
Cô và Cô sẽ cho các con vẽ lại bức ảnh mà con thích nhé!
Ước mơ của Hoa
Bạn Hoa rất thích nghe mẹ kể chuyện, bạn thích nhất là truyện: cô bé quàng
khăn đỏ, Tích chu, Ba cô gái, Sự tích cây vú sữa và Hoa có một mơ ước được vẽ về
câu chuyện đó. Nhưng Hoa không biết vẽ như thế nào? Các con có thể giúp bạn
Hoa thực hiện được mơ ước này không? Hãy thử tưởng tượng ra và vẽ nhé!
PL8
PHỤ LỤC 5
Một số trò chơi giúp rèn kỹ năng và phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ.
Trò chơi: Xếp hình
Mục đích: Trẻ nhận biết các dạng hình học, nhận biết màu và biết sắp xếp các
hình tạo thành một đối tượng hoặc nhiều đối tượng có bố cục đẹp.
Chuẩn bị: Các hình học bằng bìa carton nhiều kích thước khác nhau (hình
vuông, hình tròn, hình tam giác, hình chữ nhật, hình bầu dục …)
Giấy. Bút màu, màu nước, bút lông, bút kim tuyến.
Cách chơi: Trẻ xếp các hình thành nhiều đối tượng riêng lẻ khác nhau hoặc
xếp hình thành một bức tranh có bố cục. Yêu cầu trẻ nói tên hình, màu sắc. Sau đó,
yêu cầu trẻ vẽ lại các hình mà trẻ đã xếp (VD: ông mặt trời: trẻ chọn hình tròn màu
đó hoặc vàng, tia năng là hình chữ nhật xếp xung quanh.)
Trò chơi: Sự biến đổi của màu sắc
Mục đích: Trẻ biết kết hợp ba màu cơ bản thành nhiều màu sắc khác nhau,
phát triển khả năng phán đoán, quan sát và óc sáng tạo ở trẻ.
Chuẩn bị: Ba hộp màu cơ bản, khay màu, bút lông, nước, khăn, vỏ chai nhựa, giấy
Cách chơi: Mỗi trẻ ba màu cơ bản, bút lông, khay màu, cho trẻ ngồi theo nhóm,
mỗi nhóm cô chuẩn bị chai nhựa đựng nước, khăn lau bút, lau tay đủ cho các trẻ. Yêu
cầu trẻ kết hợp hai màu với nhau và đoán xem sẽ xuất hiện màu gì? Cho trẻ thực hành
pha màu mới và nêu kết quả. Sau đó, trẻ sử dụng các màu đã pha vẽ tranh theo ý thích.
Trò chơi: Ai khéo thế
Mục đích: Cũng cố kỹ năng vẽ, tô màu, tạo bố cục cho bức tranh đẹp, hoàn chỉnh.
Chuẩn bị: Các bức tranh vẽ đối tượng còn thiếu một vài bộ phận; Bút màu,
màu nước, bút lông
Cách chơi: Cô vẽ đối tượng còn thiếu một vài bộ phận. Trẻ quan sát phát hiện
ra bộ phận còn thiếu, trẻ vẽ các bộ phận còn thiếu và vẽ thêm nhiều chi tiết khác để
tạo ra bức tranh có bố cục và tô màu cho tranh.
Trò chơi: Thi ai vẽ nhanh, vẽ đẹp
PL9
Mục đích: Cũng cố kỹ văng vẽ các hình học, khắc sâu biểu tượng về các dạng
hình học
Chuẩn bị: Gấy, nguyên vật liệu dùng để vẽ
Cách chơi: Cô vẽ lên các tờ giấy các hình học ( hình vuông, hình tròn, chữ
nhật, …). Yêu cầu trẻ tưởng tượng những hình này sẽ biến thành hình gì tùy vào
từng trẻ vẽ thêm hình, đường nét vào
VD: cô vẽ hình tròn vào tờ giấy, trẻ có thể vẽ thành ông mặt trời, đầu con thỏ,
mặt người, …
Cô vẽ hình vuông trẻ vẽ thêm hình tam giác làm mái nhà, hình vuông nhỏ làm
của sổ, hình chữ nhật làm cửa ra vào …
Trò chơi: Ai nhanh - ai khéo
Mục đích: Rèn luyện tư duy hình tượng; Cũng cố các kỹ năng vẽ, tô màu
Chuẩn bị: Các câu đố
Cách chơi: Cô đọc câu đố, kết thúc câu đố trẻ đoán và vẽ hình vào giấy, tô
màu phù hợp
Vd: Quả gì ruột đỏ, lấm tấm hạt đen, mời bạn nếm xem, ngọt ơi là ngọt
Quả gì ở trên giàn, từng chùm chín mọng mang toàn chưa O
Con gì gáy ò,ó o; sáng sớm tinh mơ; gọi người thức dậy…
Con gì có đôi tay dài, thích ăn củ cà rốt …
Chú ý: Sau mỗi trò chơi cho trẻ trưng bày sản phẩm và nhận xét
PL10
PHỤ LỤC 6
Đề tài: Vẽ quà tặng Ba, Mẹ
Tranh vẽ lớp đối chứng
PL11
Đề tài: Vẽ quà tặng Ba, Mẹ
Tranh vẽ lớp thử nghiệm
PL12
Đề tài: Vẽ tự do (Chủ điểm: thực vật)
Tranh vẽ lớp đối chứng
PL13
Đề tài: Vẽ tự do (Chủ điểm: thực vật)
Tranh lớp thử nghiệm
PL14
Đề tài: Vẽ tự do (Chủ điểm: Phương tiện giao thông)
Tranh vẽ lớp đối chứng
PL15
Đề tài: Vẽ tự do (Chủ điểm: Phương tiện giao thông)
Tranh vẽ lớp thử nghiệm
PL16
Vẽ tự do (Chủ điểm: Động vật)
Tranh vẽ lớp đối chứng
PL17
Vẽ tự do (Chủ điểm: Động vật)
Tranh vẽ lớp thử nghiệm
PL18
Vẽ tự do (Vẽ theo truyện bé yêu thích)
Truyện Quả bầu tiên
Truyện Sự tích quả dưa hấu
Truyện Ba cô gái
Tranh vẽ lớp đối chứng
PL19
Vẽ tự do (Vẽ theo truyện bé yêu thích)
Truyện Cô bé quàng khăn đỏ
Truyện Sự tích cây vú sữa
Truyện Cậu bé mũi dài
Tranh vẽ lớp thử nghiệm
PL20
PHỤ LỤC 7
Kết quả xử lý thống kê trước thử nghiệm
Đề tài: “Vẽ quà tặng người thân”
Nhom
Mean
Std. Deviation
Std. Error Mean
N
Tentranhve
Doi chung
1.40
.498
.091
30
Thu nghiem
1.37
.490
.089
30
noidung
Doi chung
1.37
.490
.089
30
Thu nghiem
1.33
.479
.088
30
bocuc
Doi chung
1.27
.450
.082
30
Thu nghiem
1.33
.479
.088
30
mausac
Doi chung
1.37
.490
.089
30
Thu nghiem
1.33
.479
.088
30
hinhve
Doi chung
1.30
.466
.085
30
Thu nghiem
1.20
.407
.074
30
tongdiem
Doi chung
6.70
.952
.174
30
Thu nghiem
6.57
.858
.157
30
Group Statistics
PL21
Levene's Test for Equality of Variances
t-test for Equality of Means
95% Confidence Interval of the Difference
F
Sig.
t
df
Sig. (2- tailed)
Mean Difference
Std. Error Difference
Lower
Upper
Tentranhve Equal variances
.269
.606
.261
58
.795
.033
.128
-.222
.289
assumed
.261 57.984
.795
.033
.128
-.222
.289
Equal variances not assumed
noidung
.282
.598
.266
58
.791
.033
.125
-.217
.284
Equal variances assumed
.266 57.972
.791
.033
.125
-.217
.284
Equal variances not assumed
bocuc
1.226 .273
-.555
58
.581
-.067
.120
-.307
.174
Equal variances assumed
-.555 57.765
.581
-.067
.120
-.307
.174
Equal variances not assumed
mausac
.282
.598
.266
58
.791
.033
.125
-.217
.284
Equal variances assumed
.266 57.972
.791
.033
.125
-.217
.284
Equal variances not assumed
hinhve
3.180 .080
.885
58
.380
.100
.113
-.126
.326
Equal variances assumed
.885 56.960
.380
.100
.113
-.126
.326
Equal variances not assumed
tongdiem Equal variances
.088
.768
.570
58
.571
.133
.234
-.335
.602
assumed
.570 57.385
.571
.133
.234
-.335
.602
Equal variances not assumed
Independent Samples Test
PL22
Kết quả xử lý thống kê sau thử nghiệm
Vẽ tự do (Chủ điểm: thực vật)
Nhom
N
Mean
Std. Deviation Std. Error Mean
Tentranhve
Doi chung
1.30
.466
.085
30
Thu nghiem
1.60
.498
.091
30
noidung
Doi chung
1.30
.466
.085
30
Thu nghiem
1.57
.504
.092
30
bocuc
Doi chung
1.27
.450
.082
30
Thu nghiem
1.57
.504
.092
30
mausac
Doi chung
1.37
.490
.089
30
Thu nghiem
1.67
.479
.088
30
hinhve
Doi chung
1.37
.490
.089
30
Thu nghiem
1.63
.490
.089
30
tongdiem
Doi chung
6.60
1.070
.195
30
Thu nghiem
8.03
1.066
.195
30
Group Statistics
PL23
Levene's Test for Equality of Variances
t-test for Equality of Means
95% Confidence Interval of the Difference
F Sig.
t
df
Sig. (2- tailed)
Mean Difference
Std. Error Difference
Lower
Upper
Tentranhve Equal variances assumed 2.417 .125
-2.408
58
.019
-.300
.125
-.549
-.051
-2.408 57.743
.019
-.300
.125
-.549
-.051
Equal variances not assumed
noidung Equal variances assumed 3.863 .054
-2.128
58
.038
-.267
.125
-.518
-.016
-2.128 57.649
.038
-.267
.125
-.518
-.016
Equal variances not assumed
bocuc
Equal variances assumed 6.176 .016
-2.432
58
.018
-.300
.123
-.547
-.053
-2.432 57.264
.018
-.300
.123
-.547
-.053
Equal variances not assumed
mausac
Equal variances assumed
.282 .598
-2.397
58
.020
-.300
.125
-.551
-.049
-2.397 57.972
.020
-.300
.125
-.551
-.049
Equal variances not assumed
hinhve
Equal variances assumed 0.000 1.000 -2.107
58
.039
-.267
.127
-.520
-.013
-2.107 58.000
.039
-.267
.127
-.520
-.013
Equal variances not assumed
tongdiem Equal variances assumed
.298 .587
-5.197
58
.000
-1.433
.276
-1.985
-.881
-5.197 57.999
.000
-1.433
.276
-1.985
-.881
Equal variances not assumed
Independent Samples Test
PL24
Kết quả xử lý thống kê sau thử nghiệm
Vẽ tự do (Chủ điểm: Phương tiện giao thông)
Nhom
Mean
Std. Deviation
Std. Error Mean
N
Tentranhve
Doi chung
1.27
.450
.082
30
Thu nghiem
1.53
.507
.093
30
noidung
Doi chung
1.40
.498
.091
30
Thu nghiem
1.67
.479
.088
30
bocuc
Doi chung
1.30
.466
.085
30
Thu nghiem
1.57
.504
.092
30
mausac
Doi chung
1.27
.450
.082
30
Thu nghiem
1.57
.504
.092
30
hinhve
Doi chung
1.30
.466
.085
30
Thu nghiem
1.60
.498
.091
30
tongdiem
Doi chung
6.53
1.196
.218
30
Thu nghiem
7.90
.885
.162
30
Group Statistics
PL25
Independent Samples Test
95% Confidence Interval of the Difference
Sig. (2- tailed)
Mean Difference
Std. Error Difference
Lower Upper
F
Sig.
t
df
Tentranhve Equal variances assumed 7.552
.008 -2.154
58
.035
-.267
.124
-.514
-.019
-2.154 57.177
.035
-.267
.124
-.515
-.019
Equal variances not assumed
noidung
Equal variances assumed 1.069
.305 -2.112
58
.039
-.267
.126
-.519
-.014
-2.112 57.914
.039
-.267
.126
-.519
-.014
Equal variances not assumed
bocuc
Equal variances assumed 3.863
.054 -2.128
58
.038
-.267
.125
-.518
-.016
-2.128 57.649
.038
-.267
.125
-.518
-.016
Equal variances not assumed
mausac
Equal variances assumed 6.176
.016 -2.432
58
.018
-.300
.123
-.547
-.053
-2.432 57.264
.018
-.300
.123
-.547
-.053
Equal variances not assumed
hinhve
Equal variances assumed 2.417
.125 -2.408
58
.019
-.300
.125
-.549
-.051
-2.408 57.743
.019
-.300
.125
-.549
-.051
Equal variances not assumed
tongdiem
Equal variances assumed 3.392
.071 -5.032
58
.000
-1.367
.272
-1.910
-.823
-5.032 53.430
.000
-1.367
.272
-1.911
-.822
Equal variances not assumed
Levene's Test for Equality of Variances t-test for Equality of Means
PL26
Kết quả xử lý thống kê sau thử nghiệm
Vẽ tự do (Chủ điểm: Động vật)
Nhom
Mean
Std. Deviation
Std. Error Mean
N
Tentranhve
Doi chung
1.27
.450
.082
30
Thu nghiem
1.57
.504
.092
30
noidung
Doi chung
1.27
.450
.082
30
Thu nghiem
1.67
.479
.088
30
bocuc
Doi chung
1.23
.430
.079
30
Thu nghiem
1.53
.507
.093
30
mausac
Doi chung
1.23
.430
.079
30
Thu nghiem
1.50
.509
.093
30
hinhve
Doi chung
1.30
.466
.085
30
Thu nghiem
1.57
.504
.092
30
tongdiem
Doi chung
6.30
.915
.167
30
Thu nghiem
7.77
1.135
.207
30
Group Statistics
PL27
Levene's Test for Equality of Variances
t-test for Equality of Means
95% Confidence Interval of the Difference
Sig. (2- tailed)
Mean Difference
Std. Error Difference
Lower Upper
F
Sig.
t
df
Tentranhve Equal variances assumed
6.176
.016
58
.018
-.300
.123
-.547
-.053
- 2.432
57.264
.018
-.300
.123
-.547
-.053
Equal variances not assumed
- 2.432
noidung
Equal variances assumed
1.226
.273
58
.002
-.400
.120
-.640
-.160
- 3.333
57.765
.002
-.400
.120
-.640
-.160
Equal variances not assumed
- 3.333
bocuc
Equal variances assumed
10.933
.002
58
.016
-.300
.121
-.543
-.057
- 2.470
56.487
.017
-.300
.121
-.543
-.057
Equal variances not assumed
- 2.470
mausac
Equal variances assumed
11.528
.001
58
.032
-.267
.122
-.510
-.023
- 2.193
56.448
.032
-.267
.122
-.510
-.023
Equal variances not assumed
- 2.193
hinhve
Equal variances assumed
3.863
.054
58
.038
-.267
.125
-.518
-.016
- 2.128
57.649
.038
-.267
.125
-.518
-.016
Equal variances not assumed
- 2.128
tongdiem Equal variances assumed
1.743
.192
58
.000
-1.467
.266 -2.000
-.934
- 5.509
55.508
.000
-1.467
.266 -2.000
-.933
Equal variances not assumed
- 5.509
Independent Samples Test
PL28
Kết quả xử lý thống kê sau thử nghiệm
Vẽ tự do (Vẽ theo truyện bé yêu thích)
Nhom
N
Mean
Std. Deviation Std. Error Mean
Tentranhve
Doi chung
1.17
.379
.069
30
Thu nghiem
1.43
.504
.092
30
noidung
Doi chung
1.30
.466
.085
30
Thu nghiem
1.60
.498
.091
30
bocuc
Doi chung
1.30
.466
.085
30
Thu nghiem
1.57
.504
.092
30
mausac
Doi chung
1.27
.450
.082
30
Thu nghiem
1.53
.507
.093
30
hinhve
Doi chung
1.33
.479
.088
30
Thu nghiem
1.67
.479
.088
30
tongdiem
Doi chung
6.37
1.033
.189
30
Thu nghiem
7.80
1.243
.227
30
Group Statistics
PL29
Levene's Test for Equality of Variances
t-test for Equality of Means
95% Confidence Interval of the Difference
F
Sig.
t
df
Sig. (2- tailed)
Mean Difference
Std. Error Difference
Lower Upper
Tentranhve Equal variances assumed 19.969
.000
-2.316
58
.024
-.267
.115
-.497
-.036
-2.316 53.854
.024
-.267
.115
-.498
-.036
Equal variances not assumed
noidung Equal variances assumed 2.417
.125
-2.408
58
.019
-.300
.125
-.549
-.051
-2.408 57.743
.019
-.300
.125
-.549
-.051
Equal variances not assumed
bocuc Equal variances assumed 3.863
.054
-2.128
58
.038
-.267
.125
-.518
-.016
-2.128 57.649
.038
-.267
.125
-.518
-.016
Equal variances not assumed
mausac Equal variances assumed 7.552
.008
-2.154
58
.035
-.267
.124
-.514
-.019
-2.154 57.177
.035
-.267
.124
-.515
-.019
Equal variances not assumed
hinhve Equal variances assumed
.000
1.000
-2.693
58
.009
-.333
.124
-.581
-.086
-2.693 58.000
.009
-.333
.124
-.581
-.086
Equal variances not assumed
tongdiem Equal variances assumed 1.331
.253
-4.857
58
.000
-1.433
.295
-2.024 -.843
-4.857 56.129
.000
-1.433
.295
-2.024 -.842
Equal variances not assumed
Independent Samples Test