JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0163<br />
Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 8A, pp. 35-43<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
BỒI DƯỠNG VÀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TOÁN HỌC<br />
CHO HỌC SINH TIỂU HỌC<br />
<br />
Nguyễn Tiến Trung<br />
Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br />
<br />
Tóm tắt. Trong bài báo này, tác giả trình bày một số phân tích về khái niệm năng lực, năng<br />
lực toán học, một số năng lực toán học. Tiếp đó, tác giả trình bày về vấn đề giáo dục toán<br />
học ở tiểu học theo hướng tiếp cận năng lực và một số ví dụ minh hoạ cho việc thực hiện<br />
nhiệm vụ giáo dục tiếp cận năng lực trong dạy học môn Toán ở Tiểu học. Các ví dụ về bài<br />
toán có nội dung hình học, đại lượng và đo đại lượng, thời gian, phép chia hết, . . . , qua đó<br />
có thể có những gợi mở nhất định cho việc dạy học môn Toán theo hướng tiếp cận năng<br />
lực: bồi dưỡng, phát triển năng lực vận dụng toán học vào thực tiễn; năng lực thu thập và<br />
xử lí thông tin toán học; năng lực giải toán.<br />
Từ khóa: Năng lực, năng lực toán học, giáo dục toán học ở Tiểu học.<br />
<br />
1. Mở đầu<br />
Năng lực là thuật ngữ được dùng sử dụng cả trong khoa học và trong ngôn ngữ hàng ngày,<br />
đặc biệt là trong quá trình đổi mới giáo dục hiện nay. Tuy vậy, hiện vẫn còn nhiều nhà khoa học<br />
băn khoăn, chưa thống nhất cách hiểu về khái niệm năng lực và dạy học tiếp cận năng lực. Từ đó,<br />
sẽ khó đi đến thống nhất về việc dạy học theo tiếp cận năng lực. Hơn nữa, trong dạy học môn Toán<br />
ở Tiểu học, cấp đầu tiên của giáo dục phổ thông, cũng cần có những định hướng cụ thể thiết thực<br />
về việc dạy học theo tiếp cận năng lực. Bài báo này trình bày một số phân tích về các quan điểm<br />
khác nhau và thống nhất cách hiểu về khái niệm năng lực, năng lực toán học (của học sinh tiểu<br />
học) và dạy học tiếp cận năng lực. Tiếp đó, tác giả trình bày một số ví dụ và phân tích cụ thể về<br />
việc dạy học toán theo hướng bồi dưỡng, phát triển một số năng lực toán học thành phần của cho<br />
học sinh tiểu học. Những ví dụ này một mặt cung cấp những bình luận và phân tích cụ thể về dạy<br />
học toán ở Tiểu học theo tiếp cận năng lực, một mặt sẽ cung cấp những định hướng, ý tưởng cho<br />
các nhà khoa học, giáo viên tiểu học trong công tác giảng dạy và nghiên cứu trong bối cảnh mới:<br />
dạy học theo tiếp cận năng lực.<br />
<br />
2. Nội dung nghiên cứu<br />
2.1. Một số phân tích về khái niệm năng lực<br />
Có nhiều tài liệu cho rằng năng lực thuộc vào phạm trù khả năng [2, 4, 6, 7]; một số tác giả<br />
cho rằng năng lực là thuộc tính hay thuộc tính độc đáo của cá nhân cho phép cá nhân thực hiện<br />
Ngày nhận bài: 15/8/2015. Ngày nhận đăng: 27/10/2015.<br />
Liên hệ: Nguyễn Tiến Trung, e-mail: trungnt@hnue.edu.vn<br />
<br />
<br />
<br />
35<br />
Nguyễn Tiến Trung<br />
<br />
<br />
thành công hoạt động nhất định [7, 8, 10], cũng có những tài liệu gắn năng lực với các dạng hoạt<br />
động khác nhau, chẳng hạn như năng lực giáo tiếp thì liên quan đến hoạt động nói, nghe, . . . Tuy<br />
nhiên, chúng tôi thấy nhìn chung có sự thống nhất cách hiểu về khái niệm năng lực, được trình bày<br />
trong Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể: Năng lực là khả năng thực hiện thành<br />
công hoạt động trong một bối cảnh nhất định nhờ sự huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và<br />
các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí. Năng lực của cá nhân được đánh giá<br />
qua phương thức và kết quả hoạt động của cá nhân đó khi giải quyết các vấn đề của cuộc sống [1].<br />
Hơn nữa, việc định nghĩa như trên tránh được một số hạn chế gặp phải ở các hướng quan<br />
niệm về năng lực nêu trên. Chẳng hạn, nếu nói năng lực là khả năng, thì khi nói học sinh A có<br />
năng lực tính toán, tức hiểu là có khả năng tính toán thì có thể hiểu là học sinh này có thể tính tốt<br />
được nhưng không phải lúc nào cũng tính toán được, bởi khả năng ấy có thể xảy ra hoặc không<br />
xảy ra. Nếu coi năng lực là thuộc tính tâm lí, chúng ta sẽ rất khó để chỉ ra, về mặt thực tiễn trong<br />
dạy học các thuộc tính tâm lí ấy một cách tường minh, dễ hiểu, rõ ràng. Nếu quan niệm năng lực<br />
theo [1] trình bày như trên, giáo viên và học sinh sẽ dễ hiểu và tiếp cận hơn với những triển khai<br />
dạy và học trong quá khứ và hiện tại: dạy kiến thức và kĩ năng.<br />
Tóm lại, theo cách quan niệm về năng lực nêu trên, được trình bày trong [1], cần chú ý đến<br />
hai vấn đề về năng lực: thứ nhất, năng lực đươc hình thành, phát triển và có thể được đánh giá<br />
thông qua hoạt động và kết quả hoạt động của học sinh; thứ hai, kiến thức và kĩ năng của học sinh<br />
là cơ sở quan trọng cho sự hình thành, phát triển năng lực.<br />
Trong giáo dục phổ thông, có thể phân chia năng lực thành hai nhóm năng lực: nhóm các<br />
năng lực chung và nhóm các năng lực đặc thù môn học.<br />
- Năng lực chung là năng lực cơ bản, thiết yếu mà bất kỳ một người nào cũng cần có để<br />
sống, học tập và làm việc. Các hoạt động giáo dục (bao gồm các môn học và hoạt động trải nghiệm<br />
sáng tạo), với khả năng khác nhau, nhưng đều hướng tới mục tiêu hình thành và phát triển các năng<br />
lực chung của học sinh [1]. Nhóm các năng lực chung bao gồm các năng lực: tự học, tự quản lí,<br />
giải quyết vấn đề, sáng tạo, giao tiếp, hợp tác, sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông, sử<br />
dụng ngôn ngữ, và tính toán.<br />
- Năng lực đặc thù môn học (của môn học nào) là năng lực mà môn học (đó) có ưu thế hình<br />
thành và phát triển (do đặc điểm của môn học đó). Một năng lực có thể là năng lực đặc thù của<br />
nhiều môn học khác nhau [1].<br />
Từ các phân tích trên, dưới đây chúng tôi trình bày về khái niệm năng lực toán học và một<br />
số năng lực thành phần của năng lực toán học.<br />
<br />
2.2. Năng lực toán học và các năng lực toán học thành phần<br />
Theo [6], “Năng lực toán học là khả năng của một cá nhân biết lập công thức (formulate),<br />
vận dụng (employ) và giải thích (explain) toán học trong nhiều ngữ cảnh. Nó bao gồm suy luận<br />
toán học và sử dụng các khái niệm, phương pháp, sực việc và công cụ để mô tả, giải thích và dự<br />
đoán các hiện tượng. Nó giúp cho con người nhận ra vai trò của toán học trên thế giới và đưa ra<br />
phán đoán và quyết định của công dân biết góp ý, tham gia và suy ngẫm”.<br />
Theo [6], năng lực toán học là “khả năng của một cá nhân có thể nhận biết và hiểu vai trò<br />
của toán học trong đời sống, phán đoán và lập luận dựa trên cơ sở vững chắc, sử dụng và hình<br />
thành niềm đam mê tìm tòi khám phá toán học để đáp ứng những nhu cầu trong đời sống của cá<br />
nhân đó với vai trò là một công dân có ý thức, có tính xây dựng và có hiểu biết”.<br />
Theo [2], năng lực toán học phổ thông là khả năng nhận biết ý nghĩa, vai trò của kiến thức<br />
toán học trong cuộc sống; vận dụng và phát triển tư duy toán học để giải quyết các vấn đề của thực<br />
tiễn, đáp ứng nhu cầu đời sống hiện tại và tương lai một cách linh hoạt; là khả năng phân tích,<br />
<br />
36<br />
Bồi dưỡng và phát triển năng lực Toán học cho học sinh tiểu học<br />
<br />
<br />
suy luận, lập luận, khái quát hoá, trao đổi thông tin hiệu quả thông qua việc đặt ra, hình thành và<br />
giải quyết các vấn đề toán học trong các tình huống, hoàn cảnh khác nhau, trong đó chú trọng quy<br />
trình, kiến thức và hoạt động.<br />
Trong [9], tác giả Trần Luận cho rằng “năng lực toán học là những đặc điểm tâm lí đáp ứng<br />
được yêu cầu hoạt động học toán và tạo điều kiễn lĩnh hội các kiến thức, kĩ năng trong lĩnh vực<br />
toán học tương đối nhanh, dễ dàng và sâu sắc trong những điều kiện như nhau”.<br />
Từ những trình bày ở trên, theo [1, 2, 8 - 10] chúng ta có thể quan niệm: Năng lực toán học<br />
là khả năng thực hiện thành công hoạt động trong một bối cảnh nhất định nhờ sự huy động tổng<br />
hợp các kiến thức, kĩ năng về môn Toán và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin,<br />
ý chí.<br />
Theo đó, năng lực toán học của học sinh tiểu học bao gồm một số năng lực thành phần<br />
như sau:<br />
+) Năng lực thu thập và xử lí thông tin toán học (thể hiện thông qua hoạt động thu thập các<br />
kiến thức, thông tin có liên quan đến môn Toán, nhớ các khái niệm, công thức,... và xử lí được<br />
thông tin trong môn Toán);<br />
+) Năng lực tính toán, giải toán (thể hiện thông qua hoạt động thực hiện các phép toán bằng<br />
số và cả biến đổi các biểu thức đại số, giải toán có lời văn, giải các bài toán liên quan đến số, hình<br />
học, đại lượng và đo đại lượng, thống kê, . . . );<br />
+) Năng lực tư duy toán học (bước đầu, thể hiện thông qua hoạt động phân tích, tổng hợp,<br />
khái quát hoá, tương tự khoá, lập luận logic, phản biện và sáng tạo);<br />
+) Năng lực giao tiếp toán: thể hiện thông qua hoạt động trong quá trình học toán, bao gồm:<br />
năng lực giao tiếp về toán (đề cập đến quá trình HS suy nghĩ, giải quyết vấn đề và HS nêu được<br />
lí do tại sao chọn phương án đó để giải quyết bài toán); năng lực giao tiếp trong toán (đề cập đến<br />
việc HS sử dụng ngôn ngữ, các kí hiệu và các biểu diễn toán học nào là hợp li với vấn đề đặt ra);<br />
năng lực giao tiếp với toán (đề cập đến việc HS sử dụng kiến thức toán để giải quyết vấn đề theo<br />
cách hiểu của HS).<br />
+) Năng lực vận dụng toán học vào thực tiễn (thể hiện thông qua hoạt động vận dụng toán<br />
vào các bài toán có nội dung thực tiễn, gần gũi với đời sống của học sinh, giải quyết các bài toán,<br />
vấn đề thực tiễn);<br />
+) Năng lực sáng tạo toán học (năng lực này thường có ở học sinh giỏi toán, các nhà toán<br />
học, thể hiện thông qua hoạt động phát hiện, hiểu và kiến tạo được các cấu trúc, quy luật toán học<br />
mới. Chẳng hạn như phát hiện, kiến tạo được một công thức, tìm được một lời giải mới không theo<br />
lối mòn đã được học, . . . ).<br />
<br />
2.3. Dạy học theo hướng tiếp cận năng lực người học<br />
Dạy học hướng vào năng lực hay theo hướng tiếp cận năng lực nghĩa là trong quá trình dạy<br />
học cần chú ý tới các vấn đề sau:<br />
Thứ nhất, dạy học theo hướng tiếp cận năng lực cần quan tâm tới hoạt động học và kết quả<br />
hoạt động học của học sinh; đánh giá năng lực của học sinh phải thông qua hoạt động và kết quả<br />
hoạt động thực tiễn của học sinh. Chẳng hạn, trong quá trình dạy học giáo viên cần đặt ra các câu<br />
hỏi: Học sinh làm được gì, làm như thế nào sau khi học xong một kiến thức hay một số kiến thức<br />
nào đó? Cùng với việc kiến tạo tri thức cho mình, học sinh vận dụng các tri thức, kĩ năng đó trong<br />
các tình huống mà cuộc sống hàng ngày em có thể gặp phải như thế nào?<br />
Thứ hai, dạy học theo hướng tiếp cận năng lực vừa phải chú trọng trang bị kiến thức, kĩ<br />
năng cho học sinh, vừa phải và hình thành thái độ hành vi ứng xử đúng đắn cho học sinh. Chẳng<br />
<br />
<br />
37<br />
Nguyễn Tiến Trung<br />
<br />
<br />
hạn, cùng với việc dạy học môn Toán, giáo viên hướng dẫn, tổ chức cho học sinh rút ra những bài<br />
học về cuộc sống, cài đặt các bài toán có định hướng về giáo dục phẩm chất, trách nhiệm của học<br />
sinh với gia đình, bạn bè, gia đình, xã hội, . . .<br />
Thứ ba, dạy học môn Toán ở Tiểu học theo hướng tiếp cận năng lực là quá trình dạy học tập<br />
trung vào việc bồi dưỡng, phát triển một số năng lực toán học thành phần như đã trình bày ở trên.<br />
Để góp phần làm sáng tỏ thêm về mặt lí luận cũng như thực tiễn dạy học, dưới đây chúng<br />
tôi trình bày một số ví dụ về việc dạy học theo hướng bồi dưỡng, phát triển năng lực toán học cho<br />
học sinh tiểu học.<br />
<br />
2.4. Một số ví dụ về việc dạy học theo hướng bồi dưỡng, phát triển năng lực<br />
toán học cho học sinh tiểu học<br />
Chúng tôi tìm kiếm, thiết kế một số bài tập và có những phân tích, định hướng về hoạt động<br />
dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh.<br />
Bài toán 1. Để chuẩn bị cho chương trình khai giảng, chào mừng năm học mới, cô giáo có<br />
một yêu cầu dành cho các nhóm học sinh như sau: Mỗi nhóm sẽ có một nửa tờ giấy A0 màu đỏ,<br />
với kích thước là 40 × 60 cm. Hãy cắt tờ giấy A0 đã cho thành các lá cờ hình chữ nhật nhỏ với<br />
kích thước là 9 × 12 cm sao cho được nhiều lá cờ nhất.<br />
Phân tích. Bài toán này góp phần giúp giáo viên bồi dưỡng, phát triển cũng như đánh giá<br />
năng lực vận dụng toán học vào thực tiễn, năng lực tư duy toán học và năng lực tính toán (viết theo<br />
thứ tự ưu tiên). Đối với bài toán này, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh thành các nhóm thảo<br />
luận, tìm phương án thực hiện nhiệm vụ được giao. Bài toán cho học sinh một yêu cầu hoạt động.<br />
Để hoàn thành hoạt động này, từng nhóm học sinh phải thực hiện hai hoạt động thành phần là:<br />
Hoạt động 1. Xây dựng phương án cắt giấy trên giấy nháp (bao gồm hai hoạt động thành<br />
phần là xác định một phương án cắt và tiếp đó xác định phương án nào cho nhiều lá cờ hơn, cho<br />
nhiều lá cờ nhất)<br />
Hoạt động 2. Hoạt động cắt hình theo phương án đã lựa chọn.<br />
Giáo viên có thể đánh giá năng lực của học sinh thông qua kết quả các hoạt động 1, 2.<br />
Có thể xảy ra một số trường hợp như sau: Trường hợp 1, Học sinh cắt được 20 lá cờ; Trường<br />
hợp 2, Học sinh cắt được 18 lá cờ; Trường hợp 3, Học sinh cắt được 21 lá cờ; Trường hợp 4, Học<br />
sinh cắt được 17 lá cờ.<br />
Trong đó, trường hợp 1, 2, 3, 4 tương ứng với các hình 1, hình 2, hình 3, hình 4 dưới đây.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 1 Hình 2<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
38<br />
Bồi dưỡng và phát triển năng lực Toán học cho học sinh tiểu học<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 3 Hình 4<br />
Khi yêu cầu các nhóm học sinh đọc số cờ cắt được và cách làm, giáo viên có thể tổ chức<br />
cho học sinh tranh luận, hợp tác để nghĩ tới, tìm một phương án tối ưu (số hình lớn nhất). Đôi khi,<br />
phương án đó cũng có thể đặt vấn đề từ Trường hợp 2, chỉ có 18 lá cờ.<br />
Chú ý rằng, học sinh còn có thể có các phương án đề xuất khác nhau, nhưng phương án<br />
trình bày trong hình 3 là phương án tốt nhất (cắt được nhiều hình nhất). Vấn đề là cách tổ của giáo<br />
viên sao cho học sinh được tranh luận, phân tích để có cảm giác chưa hài lòng với hai phương án<br />
cắt ở hình 1, hình 2. Chẳng hạn, có thể so sánh tổng diện tích các hình chữ nhật nhỏ ở các phương<br />
án trên hình 1, hình 2 với diện tích của mảnh giấy như đề bài đã cho: Hiệu của số lớn trừ số bé là<br />
một số lớn hơn 108cm2 , tức là lớn hơn một hình chư nhật nhỏ! Có cơ hội nào để cắt tiết kiệm giấy<br />
hơn không?... Như vậy, có thể hướng dẫn cho học sinh xác định số lượng tối đa các miếng bìa có<br />
thể cắt được thông qua việc thực hiện phép chia có dư diện tích mảnh giấy cho diện tích hình chữ<br />
nhật nhỏ. Cụ thể ta có phép chia có dư (40 × 64) : 108 = 22 (dư 24) nên ta có thể cắt tối đa được<br />
22 lá cờ. Cũng cần chú ý thêm nữa rằng, có thể có được hình tối đa như vậy nhưng lại không cắt<br />
được số hình như tính toán!<br />
Bài toán 2. Lớp 3A có 35 học sinh, mỗi bàn có thể xếp nhiều nhất hai học sinh.<br />
a) Lớp học đó cần ít nhất bao nhiêu bàn?<br />
b) Đầu học kì II, lớp có 5 bạn chuyển đến. Khi đó, theo em, cần kê thêm bao nhiêu bàn nữa<br />
để đủ cho các bạn ngồi học?<br />
Phân tích. Bài toán này góp phần giúp giáo viên bồi dưỡng, phát triển cũng như đánh giá<br />
năng lực thu thập và xử lí thông tin toán học, năng lực tư duy toán học, năng lực vận dụng toán<br />
học vào thực tiễn (viết theo thứ tự ưu tiên). Bài toán cho học sinh hai yêu cầu hoạt động. Để hoàn<br />
thành hoạt động này, từng nhóm học sinh phải thực hiện hai hoạt động thành phần là:<br />
Hoạt động 1. Xác định số bàn học cần chuẩn bị để đủ cho lớp học.<br />
Hoạt động 2. Xác định số bàn học cần chuẩn bị để đủ cho lớp học trong điều kiện có thêm<br />
5 bạn mới của lớp.<br />
Giáo viên có thể đánh giá năng lực của học sinh thông qua kết quả các hoạt động 1, 2.<br />
Chẳng hạn, kiến thức cần kiểm tra học sinh ở đây là phép chia có dư, nhưng vấn đề thực tiễn cần<br />
giải quyết ở hai mức độ khác nhau là: Với hoạt động 1, học sinh phải xác định được số bàn là 17<br />
+ 1 = 18 bàn (bởi phép chia 35 : 2 = 17 (dư 1)); Với hoạt động 2, học sinh phải xác định được số<br />
bàn bằng (35 + 5) : 2 = 20 chứ không phải là 18 + 3 = 21 bàn (bởi lớp đã có 18 bàn, thêm 5 bạn<br />
mới, tương tự như cách làm ở câu a) thì cần thêm 3 bàn nữa). Có thể thấy, mức độ vận dụng kiến<br />
thức ở hai câu vào vấn đề thực tiễn là khác nhau, từ hoạt động 1 lên hoạt động 2.<br />
Bài toán 3. Một ông chủ cửa hàng bán cà phê cần cắt thay toàn bộ kính cho các bàn cà phê<br />
trong quán. Quán của ông có 12 bàn cà phê hình tròn, mỗi bàn có đường kính 1,2m. Báo giá tốt<br />
nhất mà ông chủ nhận được từ một số công ti như sau:<br />
<br />
39<br />
Nguyễn Tiến Trung<br />
<br />
<br />
Bảng 1. Báo giá kính làm bàn, vách ngăn của Công ti TNHH Đầu tư Window Việt Nam<br />
STT Quy cách sản phẩm Đơn vị tính Đơn giá<br />
1 Kính thường 10 li (mm) Việt Nhật m 2 380.000<br />
2 Kính thường 12 li (mm) Việt Nhật m2 490.000<br />
Kính 8 li (mm) temper trắng trong (kính cường lực)<br />
3 m2 580.000<br />
- Việt Nhật<br />
Kính 10 li (mm) temper trắng trong (kính cường<br />
4 m2 650.000<br />
lực) - Việt Nhật<br />
Kính 12 li (mm) temper trắng trong (kính cường<br />
5 m2 680.000<br />
lực) - Việt Nhật<br />
Kính gián an toàn 10,38 li (mm) trắng trong (làm<br />
6 m2 650.000<br />
vách kính)<br />
Kính gián an toàn 12,38 li (mm) trắng trong (làm<br />
7 m2 720.000<br />
vách kính)<br />
<br />
a) Với tiêu chí tiết kiệm nhất, em sẽ tư vấn cho ông chủ cửa hàng cà phê chọn loại kính nào?<br />
b) Với tiêu chí đã chọn, tổng kinh phí mà ông chủ cửa hàng cà phê phải trả là bao nhiêu?<br />
Phân tích. Bài toán này góp phần giúp giáo viên bồi dưỡng, phát triển cũng như đánh giá<br />
năng lực xử lí thông tin toán học, năng lực vận dụng toán học vào thực tiễn, năng lực tư duy toán<br />
học và năng lực tính toán (viết theo thứ tự ưu tiên). Bài toán cho học sinh hai yêu cầu hoạt động.<br />
Để hoàn thành hoạt động này, từng nhóm học sinh phải thực hiện hai hoạt động thành phần là:<br />
Hoạt động 1. Chọn loại kính: Có thể chọn một trong hai phương án, ở dòng 2 và dòng 5<br />
(yêu cầu kính 12mm), tuy vậy, nếu đọc kĩ đề bài, thì học sinh chỉ có thể chọn phương án ở dòng 5<br />
(vì yêu cầu là kính cường lực).<br />
Hoạt động 2. Xác định chi phí đầu tư của ông chủ quán cà phê.<br />
Giáo viên có thể đánh giá năng lực của học sinh thông qua kết quả các hoạt động 1, 2.<br />
Chẳng hạn, với hoạt động 1, nếu học sinh không xác định đúng thì chứng tỏ không kiểm tra hết<br />
các yêu cầu công việc trong đề bài; Với hoạt động 2, học sinh phải xác định được diện tích của<br />
từng mặt bàn, từ đó xác định được tổng diện tích của 10 bàn và suy ra tổng chi phí phải trả đề cắt<br />
kính. Ở hoạt động 2 này, có thể có nhiều học sinh sẽ mắc sai lầm, sai lầm này chỉ có thể thấy được<br />
trong thực tế, chứ không thể thấy được trong sách vở, như sau:<br />
Diện tích một mặt bàn là:<br />
0.6 × 0.6 × 3, 14 = 1, 1304m2<br />
Diện tích 10 mặt bàn là:<br />
1, 1304 × 10 = 11, 304m2<br />
Tổng số tiền (tổng chi chi phí) là (nếu chọn<br />
phương án ở dòng 5):<br />
11, 304 × 680000 = 7686720đ<br />
Tuy vậy, cần phải thấy được một thực tế là, công<br />
ti cắt kính tính diện tích kính để thu tiền bằng cách như<br />
bên đây.<br />
Tức là, người mua phải trả tiền cho cả phần diện<br />
tích kính cắt đi, không sử dụng được, thừa đi (phần trắng<br />
Hình 5<br />
40<br />
Bồi dưỡng và phát triển năng lực Toán học cho học sinh tiểu học<br />
<br />
<br />
như trên hình 4). Do vậy, phải tính chi phí như sau:<br />
Diện tích một mặt bàn là:<br />
1, 2 × 1, 2 = 1, 44m2<br />
Diện tích 10 mặt bàn là:<br />
1, 44 × 10 = 14, 4m2<br />
Tổng số tiền (tổng chi phí) là (nếu chọn phương án ở dòng 5):<br />
14, 4 × 680000 = 9792000 đ<br />
Đây là một bài toán thực tiễn, một vấn đề thực tiễn mà có thể trong cuộc sống học sinh, bố<br />
mẹ hay người thân của học sinh có thể gặp phải. Để giải quyết nó, cần nắm chắc được thực tiễn,<br />
cách giải quyết vấn đề (ở đây là cách tính toán của công ti cung cấp kính) của thực tiễn cuộc sống<br />
để có thể vận dụng được kiến thức toán trong quá trình giải quyết vấn đề. Đây cũng là một bài học<br />
thú vị về thực tiễn cuộc sống dành cho các em!<br />
Bài toán 4. Có hai bố con đang ngồi chơi trước gương<br />
vào buổi tối. Để nhắc khéo người con trai của mình về thời gian<br />
biểu học tập đã xác lập, người bố chỉ vào ảnh của chiếc đồng<br />
hồ trong gương như dưới đây và hỏi: Đố con biết bây giờ là<br />
mấy giờ.<br />
a) Em có thể trả lời giúp bạn được không?<br />
b) Em hãy ra một số đề xác định giờ tương tự như trên.<br />
c) Có những cách làm nào để giải được bài toán của bạn<br />
trong câu chuyện và cả những bài toán mà em vừa đặt ra?<br />
Phân tích. Bài toán này góp phần giúp giáo viên bồi<br />
dưỡng, phát triển cũng như đánh giá năng lực xử lí thông tin Hình 6<br />
toán học, năng lực vận dụng toán học vào thực tiễn, năng lực tư<br />
duy toán học và năng lực tính toán và trí tưởng tượng không gian (viết theo thứ tự ưu tiên). Đây là<br />
bài toán với ý tưởng lấy trong tài liệu [5], để kiểm tra học sinh về khả năng xem giờ. Bài toán cho<br />
học sinh ba yêu cầu hoạt động. Để hoàn thành hoạt động này, từng nhóm học sinh phải thực hiện<br />
hai hoạt động thành phần là:<br />
Hoạt động 1. Xem giờ thông qua gương.<br />
Hoạt động 2. Ra đề bài tập tương tự.<br />
Hoạt động 3. Xác định nguyên tắc, cách xem giờ nhanh trong gương.<br />
Đối với bài toán này, có nhiều cách hướng dẫn học sinh<br />
thực hiện tìm lời giải. Chẳng hạn, có thể yêu cầu học sinh lấy<br />
đồng hồ điện tử để bàn, đặt trước gương, quay các kim để nhìn<br />
trong gương giống với hình vẽ trên (hình 5); hoặc cũng có thể<br />
đặt đồng hồ trước gương rồi quay sao cho đồng hồ có hình dạng<br />
như trong hình 5 (trừ các con số là không ngược được) thì nhìn<br />
hình trong gương sẽ xác định được mấy giờ. Chúng tôi còn ghi<br />
nhận được một cách làm nữa của học sinh, ngoài dự kiến là các<br />
em dùng cách làm theo kiểu đối xứng như hình dưới đây (hình<br />
6). Như vậy, ngoài việc dạy các em xem giờ, thì cũng cần giúp<br />
các em đưa ra nhận xét về tính đối xứng của các ảnh các đồ vật<br />
qua gương, chẳng hạn như tay phải thì sang bên trái, tay trái Hình 7<br />
trong gương ở bên phải.<br />
<br />
<br />
41<br />
Nguyễn Tiến Trung<br />
<br />
<br />
Bài toán 5. Trong một quán cà phê có đủ hai loại bàn khác nhau, loại bàn 3 chân và loại<br />
bàn 4 chân. Người ta đếm thấy có tất cả 36 chân bàn. Hỏi có tất cả bao nhiêu bàn mỗi loại?<br />
Phân tích. Bài toán này góp phần giúp giáo viên bồi dưỡng, phát triển cũng như đánh giá<br />
năng lực xử lí thông tin toán học, năng lực tư duy toán học, năng lực tính toán và năng lực vận<br />
dụng toán học vào thực tiễn (viết theo thứ tự ưu tiên). Đây là bài toán liên quan đến phương trình<br />
bậc nhất hai ẩn dạng 3x + 4y = 36 nhưng thực tế học sinh tiểu học có thể giải được bằng phép thử<br />
chọn. Vấn đề ở đây là hướng dẫn học sinh sao cho có cách thử phù hợp, tiết kiệm thời gian, chẳng<br />
hạn thử chọn như một trong hai bảng dưới đây:<br />
<br />
Bảng 1 Bảng 2<br />
Số chân Số chân<br />
Số bàn Số bàn<br />
của loại Số bàn 4 chân của loại Số bàn 3 chân<br />
3 chân 4 chân<br />
bàn 4 chân bàn 3 chân<br />
1 33 Không tính được 1 32 Không tính được<br />
2 30 Không tính được 2 28 Không tính được<br />
3 27 Không tính được 3 24 8<br />
4 24 6 4 20 Không tính được<br />
5 21 Không tính được 5 16 Không tính được<br />
6 18 Không tính được 6 12 4<br />
7 15 Không tính được 7 8 Không tính được<br />
8 12 3 8 4 Không tính được<br />
9 9 Không tính được 9 0 0<br />
10 6 Không tính được<br />
11 3 Không tính được<br />
12 0 0<br />
<br />
<br />
Như căn cứ bảng trên, ta có thể lưu ý cho học sinh một số điều như sau:<br />
+) Nếu thử với bàn 4 chân thì số lần thử nhỏ hơn. Như vậy, tiết kiệm thời gian và công sức<br />
hơn.<br />
+) Thường thì, khi học sinh thử đến dòng thứ 4 (ở bảng thứ nhất), dòng thứ 3 (ở bảng thứ<br />
hai) học sinh sẽ dừng lại.<br />
+) Đối với dòng thứ 12 ở Bảng 1, dòng thứ 9 ở Bảng 2 ta có các phương án là thiếu một loại<br />
bàn nào đó (bốn chân hoặc ba chân). Tuy vậy, theo đề bài thì phải có đủ cả hai loại bàn nên các<br />
phương án trên đều bị loại.<br />
+) Như vậy, kết quả của bài toán gồm hai trường hợp thoả mãn: 4 bàn 3 chân, 6 bàn 4 chân<br />
và 8 bàn 3 chân và 3 bàn 4 chân.<br />
+) Từ đó, có thể tổ chức cho học sinh rút ra được kinh nghiệm là phải thử đầy đủ các trường<br />
hợp, để khảo sát hết các trường hợp có thể xảy ra, để đảm bảo không thiếu kết quả.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
42<br />
Bồi dưỡng và phát triển năng lực Toán học cho học sinh tiểu học<br />
<br />
<br />
3. Kết luận<br />
Năng lực toán học có thể và được bồi dưỡng, phát triển cho học sinh thông qua khả năng<br />
khai thác và thiết kế các bài học của giáo viên. Những bài toán trình bày ở trên có thể được giáo<br />
viên khai thác giúp cho giờ học thêm hấp dẫn, gây được sự chú ý và hứng thú học tập của học sinh<br />
và giúp cho học sinh thấy được sự gần gũi giữa toán học và đời sống, vai trò của toán học trong đời<br />
sống cũng như góp phần rèn luyện một số phẩm chất của người công dân tương lai. Giáo viên tiểu<br />
học cũng có thể tìm kiếm các vấn đề, tình huống mà học sinh của mình, gia đình, cuộc sống hàng<br />
ngày, các vấn đề đơn giản trong cuộc sống có thể được giải quyết thông qua các kiến thức đơn giản<br />
trong chương trình toán tiểu học để khai thác, sử dụng trong quá trình dạy học tiếp cận năng lực.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2015. Chương trình Giáo dục phổ thông tổng thể (Dự thảo), trong<br />
chương trình giáo dục phổ thông mới.<br />
[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2012. PISA và các dạng câu hỏi. Nxb Giáo dục Việt Nam.<br />
[3] Đặng Quốc Bảo, Phạm Minh Mục, 2015. Năng lực và phát triển năng lực cho học sinh. Tạp<br />
chí Khoa học Giáo dục, Số 117, tháng 6 năm 2015, tr 8; 25.<br />
[4] Hoàng Hoà Bình, 2015. Năng lực và cấu trúc của năng lực. Tạp chí Khoa học Giáo dục, Số<br />
117, tháng 6 năm 2015. tr. 4-7.<br />
[5] Terry Chew, 2015. Đánh thức tài năng toán học (Unleash The Maths Olimbian in you!), 01<br />
(7-8 tuổi). Người dịch: Bùi Thu Hà, Nxb Thế giới.<br />
[6] Nguyễn Thị Phương Hoa (Chủ biên), Vũ Hải Hà (Đồng chủ biên), Nguyễn Thị Thu Hà, Trần<br />
Hoàng Anh, Vũ Thị Kim Chi, Vũ Bảo Châu, 2014. PISA và những vấn đề giáo dục Việt Nam,<br />
tập 1 – Những vấn đề chung về PISA. Nxb Đại học Sư phạm.<br />
[7] OECD, 2002. Definition and Selection of Competencies: Theoritical and Conceptul<br />
Foundation.<br />
[8] Trần Luận, 2011. Về cấu trúc năng lực toán học của học sinh. Kỉ yếu hội thảo quốc gia về<br />
giáo dục toán học ở trường phổ thông, Nxb Giáo dục, tr. 87-100.<br />
[9] Bùi Văn Nghị, Nguyễn Tiến Trung, 2015. Dạy học bất phương trình bậc nhất ở trung học cơ<br />
sở theo hướng phát triển năng lực người học. Tạp chí Khoa học Giáo dục, Số đặc biệt 3/2015,<br />
tr. 2-4; 15.<br />
[10] Nguyễn Tiến Trung, Bùi Gia Hiếu, 2015. Dạy học bất đẳng thức ở lớp 10 trung học phổ<br />
thông theo hướng tiếp cận năng lực. Tạp chí Khoa học Giáo dục, Số 117, tháng 6 năm 2015.<br />
tr 22-25.<br />
ABSTRACT<br />
Training and development mathematical competency to primary students<br />
In this paper, we present an analisis of the concept of competency, mathematical<br />
competency, some mathematical competence components. Next, the author presents the education<br />
in elementary mathematics towards approaching competency and a number of examples<br />
illustrating the implementation of educational mission competency approach in teaching<br />
Mathematics in Primary. The example of the problem with geometry content, quantities and<br />
measurements of time, allows divisible, ..., which may have certain orientation for teaching math<br />
approach towards competency: fostering and developing the competency to appli mathematics<br />
to practical; competency to collect and process mathematical information; problem-solving<br />
competency.<br />
Keywords: Competency, mathematical competency, mathematics education in primary.<br />
<br />
43<br />