Các đế chế và vương quốc cổ đại trên thế giới: Phần 2
lượt xem 34
download
Mời các bạn cùng tham khảo Tài liệu Tìm hiểu các đế chế và một số vương quốc cổ đại trên thế giới qua phần 2 sau đây. Tài liệu chủ yếu tập hợp lại và tường thuật lịch sử các đế chế theo châu lục và trình tự thời gian. Đó cũng là các đế chế và vương quốc thuộc thời cổ đại chứ không thuộc lịch sử cận đại và lịch sử mới.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Các đế chế và vương quốc cổ đại trên thế giới: Phần 2
- VUƠNG QUỐC CỦA NGƯỜI KYRGYZ Người Kyrgyz phát tích từ vùng phía tây Mồ Hovsgol của Mông Cổ (lức là ờ thượng lun sông Ẻnhixêy - con sông chày từ miền nam Sibcri về phía bắc và đổ vào Bẩc Băng Dưomg). Tuy làm nghề du mục chăn thà, nhưng họ cũng săn bẳt thú và đánh cá. Họ có nghề rèn sắt nổi tiếng, song do là một bộ tộc nhỏ nên từ thời kỳ đế chế Hungnô họ phái phụ thuộc vào các liên minh bộ tộc lớn. Từ sau năm 840, người Kyrgyz quật khởi chống lại nhũng cuộc tấn công cướp phá triền miên cùa người Duy Ngô Nhĩ rồi nhanh chóng mờ mang lãnh ihổ xuống phía tây nam (qua phần lãnh thổ phía tây Mông cổ ngày nay) cho dến dày núi Thiên Sơn ở Tân Cương và Đông Turkestan, nơi họ cai trị trong vòng 200 năm. Sau khi lật đổ được ách cai trị của người Duy Ngô Nhĩ. người Kyrgyz chi kiểm soát ưên danh nghĩa đe chế Duy Ngô N h ĩ , đặc biệt là vùng phía đông đế chế này. Quyền lực và ánh hường của họ rút cuộc bị đế chế Khiết Đan đè bẹp khi Khiết Dan từ miền Đông Mông cồ tiến về phía tây. Ngày nay, nhiều người Kyrgyz sống ờ nước Tuva, một nước cộng hòa tự trị cúa Liên bang Nga, giáp với biên giới tây bắc Mông c ổ . Một bộ phận người Kyrg>'Z khác bị đế chế Mông c ồ dồn đuối và phải di cư về phía tây nam, nơi họ tạo thành đa số dân cư Kyrgyz. 96
- KHIÉT ĐAN (LIÊU) Trong giai đoạn hỗn loạn diễn ra sau khi quốc gia Duy Ngô Nhĩ sụp dồ. quyền lực được chuyển về chò những người được gọi là "Người tiền - Mông cồ” ờ các vùng phía đông Mông Cồ và Mân Châu ngày nay. Khiết Đan cùng là một dân tộc du mục ờ vùng này, vốn nam ưong nhà nước liên minh cùa người Tiên Ty vào thế kỳ II SCN. Người Khiết Đan có bàn sẳc văn hóa dân tộc đặc thù và có chữ viết riêng. Khi nhà nước Bắc Ngụy (một liên minh cùa các bộ tộc sống định cư và là láng giềng của người Khiết Đan) dược thành lập thì người Khiết Đan từ chối không theo Bắc Ngụy và vi thế họ đă phái trá giá đẳt trong nhiều thế kỳ tiếp theo. Người Khiết Dan phải hứng chịu các cuộc tấn công liên lục từ bèn ngoài vào và mọi nỗ lực giành độc lập của họ đều bị người Thồ Nhĩ K ỳ ờ phía tây và Trung Quốc ờ phía đông đè bẹp. Thậm chí cả người Koguryo ờ Triều tiên cũng muốn thống trị họ. Tuy người Khiết Dan tham gia vào các liên minh chính trị nhưng vẫn không tránh khỏi bị thống trị. Năm 696 SCN , khi người Đột Quyết bị nhà Đưòng tấn công thì người Khiết Đan cũng chịu những cuộc tấn công ciia quốc gia Duy Ngô Nhĩ đương thời là liên minh cùa nhà Dường. Vào đầu thế kỷ X , khi Duy Ngô Nhĩ suy yếu và nhà Dường sụp đồ, lập tức người Khiết Đan thành lập triều đại riêng cùa mình (tức nhà Liêu, thành lập năm 947) và khẳng dịnh quyền lực ở miền bắc Trung Quốc. Họ tiến vào vùng phía 97
- C Á C DẾ CH Ề VÀ MỘT SÔ VlX>H6 QUÒC có ĐẠI TRÊN THẺ G IỞ Ĩ đông và tmng tâm Mông cổ, írong đó có địa điểm chiến lược quan trọng là thung lũng Orhon và đóng đô ờ thung lũng này. Tiến về phía tây và phía nam, họ kiểm soát được Con đưòmg Tơ lụa và nắm được nguồn hàng hóa là muối vá các loại công cụ đồ sắt. Họ cũng mờ mang quan hệ thương mại và ngoại giao với cả Nhà nước Hồi Giáo và Đế chế Ba Tư. Sau khi tiếp xúc với người Trung Quốc, trong xã hội
- KHMER Vào thời cồ đại, một bộ lạc Mon cổ ở vùng hợp lưu của sông Mẻkong và sông Sêmun tiếp nhận các yếu tố văn hóa mới và phát triển thành dân tộc Khmer. Ngôn ngừ Khmer dần dần hình thành và cộng đồng Khmer lớn mạnh sau khoảng vài ba thế kỳ và bẳt đầu mỡ mang lănh thổ. Từ thế kỳ IX đến thế kỷ X III, nhà nước Khmer phát triền phồn vinh ở khu vực Tonle Sap và được coi là mạnh nhất ở Đông Nam Á khi đó. Hình thức của nhà nước Khmer khác với các nhà nước Đông Nam Á ở những thời kỳ ừước. Người Khmer coi vua là “Trờ i" và họ phát triển một hệ Uiống thủy lợi phức tạp vào bậc nhất thế giới, về tồng thể, dân cư Khmer tách ra thành hai nhánh là nhánh cùa thị tộc Bhavavarman (Kambu - Mcra) ờ phía bắc dày núi Đăngréc và nhánh của thị tộc Soma ở phía nam dãy núi này (trung lưu sông Mêkông). Trung tâm nhánh phía bẳc ờ Vatphu và trung tâm nhánh phía nam ờ Sambor. Em trai vua Bhavavarman là Mahendravarman và con trai chinh phục Phù Nam; nhưng sau đó cháu cùa Bhavavarman là Isanavarman không rút quân từ Phù Nam về Biển Hồ Tonlesap nữa mà cho xây kinh dô mới là Inasapura. về sau, quyền lực chính trị trong triều đinh Angkor (Khm er) phân liệt. Năm 628, con trai của Isanavarman là Sivaddata thành lập quốc gia riêng 99
- CÁCĐÌ CH Ề VÀ MỌT sô V U tỉH G QUỎC cố ĐẠI TRẼN THỂ G IÓ I là Jyesthapura ở vùng Prachinpuri (trên cao nguyên Khorat). Ngoài ra. một vua khác là Bhavarman II cũng thành lập quốc gia của mình ờ phía nam. Đến thế kỷ V III, nhà nước hùng mạnh Srividjaia cùa người Java tấn công và chiếm Thủy Chân Lạp. Người Java hai lần tấn công Sambor và đến năm 787 thì chiếm được vùng này, bắt vua Sambor mang về Java và cho quân lính ỡ lại cai trị. Sau đó, toàn bộ Chân Lạp lệ thuộc Java cho đến năm 802 là nãm Chân Lạp mạnh trờ lại. Đến nâm 802, một người trong hoàng tộc Khmer trốn về được từ Java và lên ngôi vua, lấy vương hiệu là Jayvarman II, mờ ra thời kỳ Angkor. Jayvarman II thu phục các lãnh chúa rồi lui về tây bắc Biển Hồ và xây dựng kinh đô Ankor ờ đó. Năm 994, vua Rajendravarman II lên ngôi, thống nhất Cămpuchia rồi tiến đánh Champa. Sang thế kỳ IX (năm 802) vua Suryavarman thành lập một ưiều đại mới ờ Campuchia, mở rộng bá quyền đến tận sông Menam và đẩy lui người Mon lừng chiếm cứ thung lũng này. Năm 1082 Campuchia lại có ưiều đại mới mà nó phát triển đến đinh điềm dưới ưiều vua Suryavarrman II là người xây dụng Angkor Vat. Sau khi Suryavarman II qua đời, đất nước suy yếu. Năm 1177, Champa đánh chiếm Angkor nhung sau đó Campuchia mạnh trở iại và thôn tính Champa. 20 năm sau Campuchia lại bắt dầu suy thoái. Trước ửiế kỷ X II, Cămpuchia chủ yếu mờ rộng ảnh hưởng về phía tây sang luxi vực sông Mênam. Trong thế kỳ X II, Cămpuchia có nhiều xung đột với Champa. Khi các quốc gia 100
- CÁC ĐẾ CHẺ VÀ MỘT sò VUdMG QUỎC cỏ Đ Ạ Ĩ TRỀH T H Ỉ G IỚ I Thái phát triển mạnh ờ lưu vực sông Mênam ưong ửiế kỷ X lll thì lãnh thồ Cămpuchia ứiu hẹp dần và phải lo đối phó với các thế lực bên ngoài hơn là lo mở mang lânh ứiổ. Sau năm 1432, người Thái nhiều lần tấn công Angkor khiến triều đình Cămpuchia phải rút về phía đông nam và thành lập thủ đô mới, lúc đầu ở Basan, sau chuyển về Pursat, Lovek, và cuối cùng là về Phnompenh. Đến thế kỷ X V I, Campuchia có chiến tranh với Thái Lan ưong 78 năm và từ đó Campuchia không còn khống ché được Phù Nam nữa. Trong những thời gian sau, người Thái vẫn tiến vào Campuchia và nhiều người Khmer chạy về phía nam xuống đồng bằng sông Cửu Long. 101
- SRIVUAYA Srivijaya là một đế chế mạnh trên dào Sumatra (Indonesia) và có ảnh hưởng đến phần lớn Đông Nam Á . Đế chế này tồn lại từ thế kỳ V II đến thế kỷ X III và suy tàn trước sự bành trướng của một đế chế khác là đế chế Majapahit trên đảo Java (Inđônêsia). Srivijaya là trung tâm phổ biến Phật giáo quan trọng từ thế kỳ V III đến thế kỷ X II. “ S ri” Irong tiếng Phạn có nghĩa là “ Soi sáng", còn V ijaya có nghTa là "Chiến thắng" hay "Tuyệt diệu". Đe chế Srivijaya do Dapunta Hyang Ọri Yacanaca sáng lập. Đến khoảng năm 500, các cơ sở của dế chế Srivijaya bắt đầu được thành lập ở xung quanh Palembang khi Dapunta Hyang Ọri Yacanaca chi huy một đạo quân 20.000 người, chủ yếu là bộ binh và một sổ chiến thuyền, đi từ Minanga Tamvvan đến vùng Palcmbang và Jambi trên đào Sumatra. Ba vùng đất chủ yếu của đế chế này là: Vùng đất kinh đô nằm ở cừa sông ờ Palembang; Vùng lưu vực sông (về sau là trung tâm cùa đế chế) và Các vùng hay nổi loạn nằm ờ một số cửa sông khác. Nhà vua Srivijaya trực tiếp cai trị vùng kinh đô còn những vùng ngoại biên thi do các thủ lĩnh địa phương trung thành với hoàng gia cai trị. Vua Srivijaya thường chinh phạt các vùng xa xôi (như Batang Hari ở Jambi). Một số vua Srivijaya gà các công chúa cho các hoàng từ cùa hoàng tộc Sailendra ờ Trung 102
- :Ã C Đ ẻ CHẺ VÀ MỌT sỏ VƯŨNG QUỐC cồ Đ Ạ I TRẼN THẺ G IỚ I Java.Cư dân Srivijaya chủ yếu theo Phật giáo. Srivijaya lúc này có 15 vùng Dân chúng chù yếu làm nông nghiệp và sống trong những ngôi nhà gỗ. Vào khoảng năm 680, dưới thời vua Jayanasa. vương quốc giàu có Malayu sáp nhập vào Srivijaya. Vua Jayanasa chiếm cứ phần lớn vùng đất phía nam Sumatra. Đến cuối thế kỳ V II, Jayanasa mờ một chiến dịch quân sự vào Bhumi Java và từ đó Srivijaya đủ mạnh để khống chế nền thương mại ở Eo biển Malacca, Eo biển Sunda, một số vùng biển Nam Á - Thái Bình Dương, Biển Java và Eo biển Karimata. Cuối thế kỷ V II, Srivijaya bao gồm hai vương quốc trên đào Sumatra và ba vương quốc trên đảo Java. Đến cuối thế kỷ V III, nhiều vương quổc ở tây Java như Tarumanagara và Holing cùng nằm trong vòng ảnh hường của Srivijaya. Sừ sách cũng chép rằng, cai trị ờ miền Trung Java vào thời đó có một gia tộc Phật giáo có quan hệ với Srivijayavà và đó có thể là gia tộc Sailendra. Cũng trong thế kỳ này, vùng Langkasuka trên bán đảo Malay Irở thành một phần lãnh thổ của Srivijaya. Một thời gian sau, hai vương quốc có thương mại phát triển là Pan Pan và Tram bralinga ở bẳc Langkasuka cũng bị Srivijaya khống chế. 23. Pongfong (Pahang), Tongyanong (Terengganu), Lingyasikia (Langkasuka), Kilantan (Kelantan), ỉ‘ 0 Ì0an (Dungun, Đ ông bán đảo M alay - một đô thị trong quốc gia Terengganu), iilo tin g (Chcrating), Tsienmai (Se m aw e , Đán đảo M alay), Pata (Sungai Paka, Đắc bán đáo M alay), Tanm aling (Tam bralinga, Ligor hay Nakhon Si Thamm arat, Nam Thái Lan), Kialohi (Grahi» (K rab i) B ắ c bản đào M alay), Palinĩong (Palem bang), Sinto (Su nda), Lanwuii (Lamuri ớ vùng A ceh ), Kienpi (Jam b i) and Silan (Cămpuchia). 103
- CÁC ĐẺ CHẺ VÁ MpT sỏ VUONG QUỎC có Đ Ạ I TRẼN THẺ G IỚ I Srivijaya kicm soát và bành trướng ờ hai trung tâm buôn bán chù yếu tại Đông Nam Á là đào Java và bán đảo Malay. Trong thế kỷ V II, có một giai đoạn các cảng ở phía đông bán dào Dông dương bắt đầu thu hút nhiều thương gia đến. Vua Srivijaya là Dhaimaselu mờ các cuộc tấn công vào các thành phố ven biền ở Đông Dưcmg và chiếm thành phố Indrapura trong một thời gian ngắn. Srivijaya khống chế các vùng Cămpuchia ngày nay cho đcn khi vua Khmer Jayavaiman II lèn ngôi. Vua Samaratungga (kế ngôi Dharmasetu), cai trị từ năm 792 dến năm 835 và khác với vua tiền bổi Samaratungga ít tiến hành các hoạt động quân sự để bành trướng lãnh thổ mà ông coi trọng củng cố vị thế của Srivijaya trên đảo Java. ông tự thân coi sóc việc xây dựng công trình Phật giáo v ĩ đại Borobudur; công trinh này được hoàn ihành năm 825 dưới thời của ông. Srivijaya là một cơ sở quan trọng cùa Phật giáo Mật Tông. Nhiều nhà sư và học giả từ các nơi khác ở châu Á đã dến đây; ví dụ vào thế kỷ X I một học giả Phật giáo người Bengan là Atisha đã đến Srivijaya. về sau, ông đóng vai trò quan trọng trong việc phát triền Phật giáo Mật Tông ờ Tây Tạng. Dến Ihế kỳ V II, Srivijaya kiểm soát được các tuyến giao thông quốc tế chở hương liệu di qua Srivijaya và và bắt các tàu qua đây phải đóng thuế. Nền thương mại cùa các địa phương cũng bị kiểm soát. Hải cảng Palembang của S rivijaya là một thương điếm quan trọng đối với thị trường Trung Quốc, Malay, và Ân Dộ. Srivijaya giúp phổ cập nền văn hóa Malay trên đảo Sumatra và Tây Borneo. Từ năm 820 đến năm 850, thủ lĩnh vương quốc Jambi cũ giành lại độc lập. Cũng vào thời gian này, thủ lĩnh Balaputradewa của hoàng tộc Sailendra, người bị ưục xuất khỏi Java, nẳm ngai vàng 104
- CẢC DÉ CHẺ VÀ MỌT số Vư DNG QUÒC cổ dại trên th ẻ g iờ i của Srivijaya. Năm 902, Balaputradevva một cử sứ đoàn sang Trung Quốc. Vào nửa đầu thế kỷ X , thương mại trên biến Dông Nam Á phồn vinh. Các thành phố phát Irien nhất ở Srivijaya là Palembang, Muara Jambi và Kedah. Vào cuối thế kỳ X , xung đột giữa Srivijaya và vương quốc Medaniĩ trên đảo Java trờ nên căng thẳng, mà nguyên nhân có thể là do Srivijaya muốn đòi lại các vùng đất của gia tộc Sailendra trên đào Java. Nãm 990, vua Dharmavvangsa của Medang mở cuộc tấn công bằng hài quàn chống lại Srivijaya và lấn công Palembang nhưng không thành công. Do đó, vua Chulananivvarmadewa của Srivijaya phài nhờ Trung Quốc trợ giúp. Rút cuộc vương quốc Medang sụp đồ kéo theo một giai đoạn bất ổn kéo dài.Vào những thời kỳ sau, thù đô của Srivijaya đóng ờ Malayu Muaro Jambi. Đến thể kỷ X II, lãnh thồ cùa Srivijaya bao gồm các phần của Sumatra, bán đảo Malay. Tây Java, Sulavesi, quần đảo Moluccas, Bornco và các vùng Sulu và Visayas ở Philípin. Ảnh hường cùa Srivijaya suy sút dần vào thế kỷ X I. Srivijaya thường xuyên xung đột với các vương quốc khác trên đào Java và sau đó bị các vương quốc này (đầu tiên là Singliasari và sau đó là Majapahit) kliuất phục. Nãm 1025, thủ lĩnh Rạịcndra cùa vương quốc Chola ở Nam Án Dộ chinh phục vùng Kcdah từ tay Srivijaya và chiếm vùng này một thời gian. Sau đo, trong vòng 20 năm, Chola tiếp tục chinh phục một số vùng L'ên đào Sumaira và bán đảo Malay. Các cuộc chinh phục này tuy không kéo dài, song cũng làm cho Srivijaya thêm suy yếu. Lúc này ở Inđônêsia có hai vương quốc chù yếu là SrivijEya ờ phía tây và Kediri ờ phía đông. Nẽm 1288, trong cuộc chinh phục của Pamalayu, quốc gia Singhasari (kế tiếp Kediri) chinh phục nhà nước Melayu, trong 105
- C Ã CĐ É CHẺ VẢ MỌT sò VUONG QUÒC có D Ạ I TRÊN THẺ G IỚ I đó CÓ các vùng Palembang, Jambi và phần lớn lãnh thổ của Srivijaya. Vào năm 1293, quốc gia Majapahit (kế tiếp Singhasari) chinh phục phần lớn Sumatra. Đến cuối thế kỳ X III, vương quốc Pasai ờ bẳc Sumatra chuyển theo nồi giáo. Vào thời gian này Srivijaya là chư hầu của đế chế Khmer trong một giai đoạn ngẳn và sau đó là chư hầu của vương quốc Sukhothai. Nhiều hoàng tử chạy khỏi Srivijaya đã cổ gẳng khôi phục lại quốc gia này. Năm 1324, một hoàng tử của Srivijaya là Sang N ila Utama thành lập nước Singapore (Temasek) cổ đại và sống tại đó 48 năm. Đến năm 1401, cháu cửa ông là Paduka Sri Maharạịa Paramesvvara bị trục xuất khỏi Temasek sau cuộc xâm lăng vào đây cùa quốc gia Majapahit; ông chạy lên phía bắc và năm 1402 ông thành lập quốc gia Hồi giáo Malacca. 106
- MAJAPAHIT Majapahit là một “ đế chế quần đào” có thù dô đặt trên đảo Java, tồn tại từ khoảng năm 1293 đến khoáng năm 1500. Mạịapahit đạt đinh cao vinh quang dưới thời vua Hayam Wuruk (trị vì từ năm 1350 đến 1389) với các vùng lãnh thổ (trừ ở Inđônêsia) có tại Singapore, Malaysia, Brunei, Nam Thái Lan, Philípin và Đông Tim or. Majapahit là một trong những đe chế lớn cuối cùng ờ khu vực Đông Nam Á và là một trong những đế chế hùng mạnh nhất trong lịch sứ cùa Inđônêsia và có ảnh hưởng vượt ra ngoài Inđônêsia. Sau khi đánh bại vương quốc Melayu trên đào Sumatra năm 1290, vương quốc Singhasari trở thành một trong những thế lực khu vực mạnh nhất. Hoàng dế I lốt Tất Liệt của đế chế Nguyên Mông đòi Singhasari cống nạp nhưng bị vua Kertanegara cự tuyệt. Năm 1293, Hốt Tất Liệt đưa 1000 tàu chiến đến đào Java. Nhưng cũng lúc dó vua Kertanagara bị Quận công Jayakatwang cùa vương quốc Kediri, nước chư hầu cùa Singhasari, tiếm ngôi và giết hại. Tuy vậy Jayakatwang cũng không giết mà đã tha bổng con rể vua Kertanagara là Raden W ijaya và cấp cho Raden W ijaya vùng đấl Tarik. Tại đây một ngôi làng được dựng nên, có tên gọi là Majapahit (tên quả cùa một loại cây ở đây). Khi quân Nguyên Mông đến Java, Radcn W ijaya liên minh với họ và đánh bại Jayakatwang, 107
- CÁC DỀ CHÈ VÀ MỌT sò VUCMG QUỎC có Đ Ạ I TRÉN THẺ G IỚ I nhưng về sau Raden W ijaya bất ngờ tấn công các đạo quân Nguyên Mông, buộc các đạo quân này rút khỏi Inđônêsia. Raden W ijaya đóng đô ở Majapahit năm 1293 và năm đó cũng được coi là thời điểm ra đời cùa Majapahit. Dù vậy, vương quốc mới được thành lập phải đương đầu nhiều cuộc nổi loạn. Vua Wijaya qua đời năm 1309 và Thái tử Jayanegara được chọn làm vua, nhưng nagy sau đó đã bị sát hại. Công chúa Tribhuvvana trờ thành nữ vương, cai trị đất nước với sự trợ giúp cùa Tể tướng Gajah Mada. Dưới thời bà, Mạịapahit phát triền mạnh và trờ nên nối tiếng trong khu vực. Nữ vương Tribhuvvana cai quản vương quốc Majapahit cho đến khi qua đời năm 1350 và truyền ngôi cho Thái tử Hayam VVuruk. Vua Ilayam VVuruk (hay còn gọi là vua Rajasanagara) cai trị Mạịapahit từ năm 1350 đến năm 1389. Trong giai đoạn này, Mạịapahit hùng mạnh và chinh phục được nhiều vùng lãnh thổ. Một số quốc gia ở đảo Sumatra, Bán đào Malay, Bomeo, Sulavesi, Quần đảo Nusa Tenggara, Maluku, Niu Ghinê, và một số vùng của Philippines thuộc về Majapahit. Majapahit lập quan hệ với Chămpa, Cămpuchia, Thái Lan, Nam Buima và Việt Nam; cừ các sứ đoàn sang Trung Quốc. Các tuyến thương mại trên vùng biển Inđônêsia được chú trọng phát triển và khai thác. Khi Majapahit được thành lập, các thương gia Hồi giáo bắt dầu đến Indônêsia. Năm 1377, quân đội Mạịapahit trấn áp một cuộc nổi dậy ờ Palembang. Sau khi vua Hayam NVuruk qua đời năm 1389, quyền lực Mạịapahit suy yếu do cuộc tranh giành ngai vàng giữa các con ông. Rút cuộc, NVikramavvardhana kế ngôi. Lúc này, người Hồi giáo và người Trung Quốc đặt các cơ sở của họ 108
- CÁC ĐỀ CHẾ VÀ MỌT sò VƯCNG QUÒC có Đ Ạ I TRÊN THẺ G IỚ I ở Semarang, Demak, Tuban, Ampel và một vài địa phương khác trên đảo Java. Công chúa Suhita kế vị vua Wikramawardhana và cai trị từ năm 1426 đến năm 1447. Năm 1447, bà qua đời và em trai bà là Kertawijaya kế ngôi rồi làm vua đến năm 1451. Sau đời vua Kertawijaya là đời vua Rajasawardhana (qua đời năm 1453), sau đó Girisavvardhana (con trai vua Kertavvijaya) lên ngôi năm 1456 và cai trị đất nước cho đến năm 1466 là năm ông để lại ngai vàng cho Thái tứ Singhavvikrainavvardhana. Năm 1468, hoàng từ Kertabhumi nổi loạn và tuyên bố là vua cùa Mạịapahit. Vào giữa thế kỷ X V , vương quốc Hồi giáo Malacca ở phía tây trồi dậy, sau đó kiểm soát được Eo biển Malacca và mở mang ảnh hưởng sang đảo Sumatra. Một số nước chư hầu và vùng thuộc địa cùa Mạịapahit dòi dộc lập. Vua Singhawikramawardhana dời đô về Daha {thù đô cũ của vương quốc Kediri cũ) và cai trị cho đến khi con trai ông lên ngôi (vua Ranawijaya, lên ngôi năm 1474). Vua Ranavvijaya cai trị từ năm 1474 đến năm 1519. Dế chế Majapahit bắt dầu suy tàn từ khoảng năm 1478 khi chiến tranh nồ ra với nhà nước Hồi giáo Demak. Demak chiến thắng Majapahit năm 1527. Khi kinh đô Daha của Mạịapahit thất thù năm 1527 Ihì Demak được coi như nhà nước kế tiếp Mạịapahit và trở thành nhà nước Hồi giáo đầu tiên trên đào Java. Demak cũng là một nước mạnh trong khu vực Dông Nam Á . Sau khi Mạịapahit thôi tồn tại thi trên đảo Java chỉ còn hai vương quốc Hindu giáo là Blambangan ở phía đông và Pajajaran ờ phía tây. Dần dần, các cộng đồng Hindu giáo rút lui về các vùng núi ờ phía đông đảo Java và đào Bali lân cận. 109
- MÔNG CỐ Thời tiổii SỪ cùa Mông cổ bắt đầu vào K ỷ nguyên Đá Cũ (hay Sơ kỳ Đồ đá, 2,5 triệu năm - 12.000 năm trước). Đến Trung kỳ Đồ đá (100.000 - 40.000 năm trước), số người hiện đại (homosaspien) ở Mông cổ đã đông đảo. Họ biết sừ dụng lừa và có nền nghệ thuật tượng hình sơ khai. Trong Hậu kỳ Dá cũ (40.000-10.000 năm Irước), nguời Mông cổ chủ yếu sống ưong nhũng ngôi nhà nằm ven sông hồ và họ chăn nuôi nhiều loài gia súc. Lần đầu tiên loài ngựa được thuần hóa. Bên cạnh nghề săn bắt súc vật, người Mông c ổ còn gieo trồng các loại ngũ cốc. Đen Hâu kỳ Đồ đá người Mông c ồ tiếp xúc với người Trung Quốc ở vùng dông nam phía dưới Mông cổ. Trong thời kỳ này, những người du mục vẫn còn chia thành người “tiền Mông cổ” ở phía đông và người “tiền Thố Nhĩ K ỳ ” ở phía tây. Khoảng những năm 1000 T C N , K ỷ nguyên Đồ đồng được bắt đầu ờ Mông Cồ. Công cụ đồ đá được thay thế bằng công cụ đồ đồng và hợp kim giữa đồng và thiếc. Nghề chăn nuôi gia súc phát ưiển mạnh và có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển cùa cơ cấu kinh tế, xã hội cũng như văn hóa. Lx)ài ngựa, được chăn nuôi nhiều nhất, giúp đầy nhanh sự tiến triển từ xã hội định cư sang xâ hội du mục. Nghề chế biến kim loại, chịu ảnh hưởng của Trung Quốc, phổ cập rộng rãi và đóng góp vào sự phái triển của phong cách nghệ thuật Karasuk với những hình tượng súc vật tà thực, dặc biệt là trên dao và dao găm. 110
- CÁC DẺ CHÊ VÀ MỌT s ỏ V lX ữ tG QUỎC c ò ĐẠI TRẼN THỀ G IỚ I Khi thời kỳ Đồ đồng chuyển sang thời kỳ Đồ sắt (thế kỳ V II SCN ) ửiì lối sống chăn thả du mục trờ nên áp đào. “Nền văn hóa thuần hóa ngựa'’ phát ứ^iển và vẫn tồn tại đầy sức sống cho đến ngày nay. Loài ngựa được thuần hóa đã giúp cho con người di chuyển tiện lợi hơn và nhanh hơn trên các ứiảo nguyên. Vào khoảng năm 500 SCN , các liên minh bộ tộc đầu tiên được thành lập. Lúc này, người Mông cổ phát minh ra bàn đạp và hàm thiếc ngựa. Các bộ tộc du mục mờ các cuộc đột kích vào cộng đồng người Trung Quốc định cư ở miền nam để cướp lúa mì, tơ lụa và các công cụ sản xuất. Trong những thế kỳ sau, nhờ có ngựa mà các bộ tộc sống ở thảo nguyên phân tán rộng hơn về các vùng phía tây Trung Á , Nga và Đông Âu. Một số họ đi đến khu vực Trung Đông như Iran và thậm chí họ còn đến tận Án Độ. Vào thời kỳ này, Mông c ổ là “chiếc nồi hầm” của các bộ tộc và sắc tộc khác nhau. Vào năm 2006, ngưòi ta tìm thấy dấu tích cùa người Scithy ở phía tây dãy núi Antai, chứng tò người Ản - Âu đã có mặt ờ Mông c ổ vào thời kỳ Đồ sắt. Vào cuối tiền sử, ờ Mông c ổ có ba tộc người chính là Thổ Nhĩ K ỳ , Mông c ổ , Mãn Châu, cùng thuộc nhánh ngôn ngữ Antai; trong các thế kỷ sau, các bộ tộc này cai trị lẫn nhau. G ia i đoạn đế chế ban đầu: Vùng dất Mông c ổ nguyên thùy nằm ở đông nam hồ Baican, giừa sông Onon và sông Kerunen. Ngoài ra, còn có các vùng giữa thượng lưu sông Nonni và sông Argun^'*. Không giống như những đế chế trước đây thưòng phân bổ ven rìa đất nước Mông c ổ , đế chế Mông Cổ xuất hiện ờ ngay vùng trung tâm, nơi lối sống truyền thống 24. Người M ông cố ngày nay là những người sống ớ Cộng hòa Nhân dân Mông C ố (truớc đây gọi là Ngoại Mông). 18 % dân số Nội Mông thuộc nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ngày nay là người Mông cổ. ớ Liên Xô cũ, c ó 2 dãn tộc nguồn gốc Mông C o là người Buryat và người Kalmyk. 111
- CÁC ĐẾ CBẺ VÀ MỘT s ò VUOMG QUỎC c ò Đ Ạ Ĩ TRẼN THÈ GXỚI cùa các bộ tộc là săn bắt súc vậl, chăn nuôi gia súc và đánh cá. Cùng với những đàn cừu dê, họ di chuyển theo mùa quanh thảo nguyên và tuy sống phân tán song họ vẫn độc lập với nhau. Họ ửiờ Thượng Đế và làm theo những chi dẫn cùa các Shaman. Khó mà biết được chính xác gốc tộc của người Mông Cổ, nhưng chắc chắn họ thuộc nhóm tộc Altaic (Thổ N hĩ K ỳ - Mông Cổ)‘ ^ sống ờ bình nguyên Mông c ồ và các cao nguyên Trung Á suốt một Thiên niên kỳ trước thời kỳ Thành Cát T ư Hãn, Ngay từ T C N , các bộ tộc Altaic đã xâm nhập vào Trung Quốc và một số trong đó là tổ tiên của người Mông cổ mà nồi bật nhất là người Hung Nô (được coi thuộc nhóm tộc Thổ Nhĩ K ỳ). Bên cạnh họ còn có các tộc người khác như Tiên T y , Tôba, Duy Ngô Nhĩ và Tácta■^ Khi đế chế Khiết Đan sụp đồ đầu thế kỳ X II, các bộ tộc Mông c ổ nồ lực thống nhất lại nhung không thành công do mâu thuẫn nội bộ và chủ nghĩa bè phái của tầng lớp quí tộc. Trước năm 1206, Thành Cát Tư Hãn là mộl trong những thù lĩnh tranh giành quyền lực cùng với các thù lĩnh khác ờ phía nam và đông nam Hồ Baican. ông là chắt của Hãn Habul ciia bộ tộc Mamag ở đông bắc vùng Hentitii. Hãn Habul bị giáng chức, còn danh vị dòng họ ông bị các quý tộc khác liếm đoạt. Khi cháu trai Habul là Hãn Yesuhei bị người Tácta đầu độc năm 1171 thì vợ và các con cùa Yesuhei bị trục xuất khỏi bộ tộc, nhung họ vẫn nuôi hy vọng khôi phục cơ đồ ờ một vùng ngoại biên nào đó. Người con thứ hai của Hãn Yesuhei là Thiết 25. Nhóm này gồm nguời Mông cố. Thồ Nhĩ Kỳ và Mân Châu. 26. Triều đại Liêu ờ Trung Quốc vẫn được co i có nguồn g ố c Mông cồ; nhà Liêu bị thay thế bàng nhà Kim, còn nhà Kim thi bị Thành C át T ư Hăn lật đô. 112
- CÁC DẺ CHỀ VÁ MỌT s ổ VUDHG QUỐC c 6 DẠI T R ÌN T B Ì G IÓ I MỘC Chân (Thành Cát T ư Hãn) khi đó mới 9 tuồi. Sự phàn bội và hắt hủi của những người cùng bộ tộc càng làm cho quyết tâm chinh phục thế giới cùa Thiết Mộc Chân thêm mãnh liệt. Tiếp theo, Thiết Mộc Chân học được cách thành lập liên minh. Với sự giúp đỡ cùa các chiến hữu của cha mình, cùa người anh ruột là Hãn Toghrul và bộ tộc Kereit, ông cứu thoát được người vợ bị bắt cóc là Borte từ tay bộ tộc Merkit ở phía bắc sông Selenga.Thế nhung, những công trạng của ông cũng khiến các chiến hừu và người bạn thủâ nhò là Jamuha ghen tị. Khi Thiết Mộc Chân được bầu làm Hãn cúa bộ tộc Borjigin thì Jamuha tấn công và đánh bại ông. Những năm sau, Thiết Mộc Chân lại một lần nữa thành lập liên minh với bộ tộc Kerit hùng mạnh, ông đánh bại được người Tácta cùng với sự trợ giúp của người Kim . Cuối cùng, ông thống lĩnh được các bộ tộc Kereit, Merkit và khuất phục được bộ tộc Naiman. Jamuha bị xử từ. Thờ i kỳ đính cao: Năm 1206, Hội nghị Thủ lĩnh các bộ tộc bầu Thiet Mộc Chân làm Đại Hãn của một liên minh các bộ tộc sống ở vùng sông Anon. Liên minh này không chi gồm người Mông c ổ mà còn cà người Đột Quyết (Thổ Nhĩ K ỳ). Đen năm 1206, Thành Cát T ư Hãn kiểm soát được lãnh địa cùa các bộ tộc nằm giừa dày núi Hùng Am phía đông và dây núi Antai phía tây và từ hồ Bai Can cho đến Vạn Lý Trưcmg Thành, òng đặt tên cho dân tộc mình là Mông cổ (Mongol Uls). Năm 1206 có thế được coi là năm mở dầu của triều đại Mông Cố. Một cách thận trọng, Thành Cát Tư Hãn phá vỡ cơ cấu bộ tộc lạc hậu và tạo ra một nhà nước chuyên chế tập trung có ngôn ngữ riêng và hệ thống liên lạc riêng dựa trên trên cơ sờ 113
- CÁC DỀ CBỄ V À MỘT s ô VUDHG QUÒC c ó đại tr ẽ n th ẻ GIỞX Bộ luật Yasa. Dưới thời Thành Cát Tư Hãn và các vua tiếp ửieo, quàn đội Mông c ổ tuy không đông nhưng đạt được những chiến tích lớn nhờ những chiến lược và sách lược khôn ngoan. Trước khi các cuộc chinh phục đầu tiên được mở màn, Thành Cát T ư Hãn đà lập đuợc liên minh với các nhóm tộc sổng ớ rìa phía lây Mông cổ như Oriat. Kyrgyz và Duy Ngô Nhĩ, nhờ đó tạo ra được một cơ cấu quân sự liên bộ tộc biết cách mờ các cuộc bao vây chiến lược và tiến hành các chiến dịch quân sự trong mùa đông. Thành Cát T ư Hãn nhanh chóng xây dựng một bộ máy quân sự có kỳ luật cao gồm kỵ binh và các đơn vị kỹ thuật. Thay cho ứn sát và biến kẻ địch thành nô lệ, ông sáp nhập các thủ lĩnh và binh lính của những thành phố mới đầu hàng vào quăn đội Mông cổ và biến họ thành những đội quân chư hầu đông đảo (từ 10 đến 19000) người, thậm chí cả một tumen (sư đoàn, một “trướng - horde” gồm nhiều tumen). Nhiều khi trong một đạo quân Mông cồ số người Mông c ồ thực sự rất ít, nhưng họ vẫn tạo thành hạt nhân của quân Mông c ố với một đường dây chi huy tinh giản. Những đơn vị này được vũ trang và luyện tập tốt, có tính cơ động cao, biết trinh sát thực địa, gày chiến tranh tâm lý và tổ chức hệ thống liên lạc trên lưng ngựa. Thế giới chưa từng biết đến một điều tương tự như vậy. Trong quân thì kỵ binh đóng vai trò chủ yếu, có tốc độ hành quân cao và bám sát nhau chặt chẽ. Khi lâm trận, quàn Mông Cổ chủ yếu dùng cung nò và chi sau khi đã phá vỡ thế trận của đối thủ mcri chuyển sang đánh giáp lá cà. Tuy nhiên, kiều dánh này thường thích hợp với địa hình bằng phăng hơn là rừng núi. Để tấn công thành ư ì, Mông c ổ sử dụng thợ thủ công 114
- C Á C DẾ CHẾ VÀ M pT sỏ vư^HG Q06c cổ DẠI TRÊN THẾ G IỚ I của những nước có kỹ thuật phát triển cao hom (như Trung Quốc, Arập hay Ba T ư ). Một kiểu đánh trận khác của quân Mông Cổ là kêu gọi đầu hàng: irước khi tấn công một thành phố, quân Mông cổ thường kêu gọi dân cư ở đó chịu đầu hàng để đôi lấy an toàn tính mạng, còn nếu chống lại thi toàn bộ họ sẽ bị tàn sát, chi có rất ít người, thường là các thương gia, mới được sống sót. Các cuộc chinh phục của Mông cổ: Sau khi đạt được sự thống nhất trong nước, Thành Cát T ư Hãn bẳt đầu các cuộc chinh phục. Đầu liên, ông tấn công vưomg quốc Tây Hạ ờ phía tây nam Mông cổ và bắc Trung Quốc. Tại đây, mộl chiến lược hăm thành kiểu mới dược áp dụng. Vua Tây Hạ đầu hàng và trờ thành chư hầu cúa Mông cổ. Trong chiến dịch thứ hai, Thành Cát T ư Hân vượt qua sa mạc Gôbi và Vạn Lý Trường Thành ớ phía tây nam dánh bại nước Kim hùng mạnh hơn. Thù đô Nam Kinh (Bắc Kinh) cùa Kim bị chiếm năm 1215, toàn bộ lành thổ vùng phía bắc sông Hoàng Hà rơi vào tay quân Mông cồ. Vua Kim chạy xuống phía nam sông Hoàng Hà đến thành phố Khai Phong và đóng dô ớ đó 20 nãm. Tiếp theo, Thành Cát T ư Hãn mờ các cuộc tiến công lên Trung Á . Năm 1218, nước Tây Liêu ở đông Turkistan bị sáp nhập vào Đe chế Mông cổ. Từ năm 1219 đến năm 1225, Thành Cát T ư Hăn mở các cuộc tấn công ác liệt vào vương quốc Khorezm‘ ^ ờ miền tây Turkistan và năm trên Con đưòmg lơ lụa. Năm 1218, khi quốc vương Hồi giáo ở đây ra lệnh giết hại một sứ đoàn gồm 200 27. Tiếng Hán lả Hoa Lạc Tư Mô, một đế chế lớn o Trung Á gồm Udabẽkistan. Tuốcm ênistan. Ảpghanistan và phần lớn lãnh thố cúa Iran ngày nay. 115
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam - Trần Quốc Vương (chủ biên)
31 p | 2076 | 603
-
Lịch sử Thái Lan
5 p | 390 | 103
-
Nhà Nguyễn - lịch sử thăng trầm của một dòng họ - 2
7 p | 220 | 47
-
Đề tài: tìm hiểu tên gọi Quảng Nam
26 p | 204 | 40
-
Lịch sử quân sự Việt Nam - Buổi đầu giữ nước (Tập 1)
74 p | 192 | 37
-
Các đế chế và vương quốc cổ đại trên thế giới: Phần 1
93 p | 135 | 35
-
Tìm hiểu về lịch sử Đông Nam Á (D.G.E. Hall): Phần 1
677 p | 58 | 10
-
Liên minh thứ ba
5 p | 68 | 9
-
Trận Lübeck
4 p | 73 | 8
-
cộng đồng asean 2015: quản lý hội nhập hướng tới thịnh vượng chung và việc làm tốt hơn
148 p | 58 | 7
-
Chính sách của Thái Lan đối với dân tộc thiểu số
9 p | 78 | 6
-
Giảng dạy nghe 2 tiếng Trung Quốc theo đường hướng nhiệm vụ tại trường Đại học Hùng Vương
7 p | 66 | 5
-
Mối quan hệ lịch sử và chuyển biến kinh tế - xã hội giữa Nhật Bản với Châu Á: Phần 1
264 p | 14 | 5
-
SMS - Ứng dụng SMS trong thư viện số
6 p | 94 | 4
-
Qua di tích Óc Eo và thư tịch cổ thử nhận diện nước Phù Nam
12 p | 53 | 3
-
Nghệ thuật Champa thế kỷ 11 và 12 trong mối quan hệ với đế chế Chola qua con đường hải thương
14 p | 77 | 1
-
Chính sách đối với các dân tộc thiểu số của vương triều Trần
8 p | 78 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn