intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Các điều kiện kinh tế - xã hội cho sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:101

27
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là nhận rõ những điều kiện về kinh tế - xã hội để hình thành và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp đẩy nhanh sự chín muồi các điều kiện trên ở Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Các điều kiện kinh tế - xã hội cho sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ================================= ĐẶNG THỊ TRANG CÁC ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI CHO SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2012
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ================================= ĐẶNG THỊ TRANG CÁC ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI CHO SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM Luận văn thạc sĩ chuyên ngành : Kinh tế Chính trị Mã số: 60 31 01 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phí Mạnh Hồng HÀ NỘI -2012
  3. DANH MỤC BẢNG Bảng 1.1: So sánh khái quát các thời đại kinh tế ......................................................13 Bảng 1.2: Các nhân tố và mối tương tác, động thái của một hệ thống đổi mới quốc gia..................................................................................24 Bảng 1.3: Đánh giá SWOT .......................................................................................41 Bảng 1.4: Chỉ số KBE của Hàn Quốc*, năm 2000 ....................................................42 Bảng 1.5: Chỉ tiêu R&D đã thực hiện và dự tính ......................................................43 Bảng 2.1: Ma trận KAM tính cho Việt Nam.............................................................47 Bảng 2.2: Tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo, năm 2011 ................................61 Bảng 2.3 : Thứ bậc, Điểm đánh giá Chỉ số Đổi mới /Sáng tạo của Việt nam và các nước xung quanh .....................................................................66
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................3 1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................................3 2. Tình hình nghiên cứu...........................................................................................4 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài ............................................................................7 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................7 5. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................8 6. Đóng góp của luận văn ........................................................................................8 7. Kết cấu của luận văn............................................................................................9 Chương 1. CÁC ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI CẦN THIẾT CHO SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ TRI THỨC ...................10 1.1 Bản chất và đặc trưng của kinh tế tri thức .......................................................10 1.1.1 Sự xuất hiện nền kinh tế tri thức trên thế giới ..........................................10 1.1.2 Bản chất nền kinh tế tri thức .....................................................................12 1.1.3 Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức .....................................14 1.2 Các điều kiện kinh tế - xã hội có tính chất tiền đề cho việc hình thành, phát triển kinh tế tri thức. ...............................................................................................21 1.2.1 Các điều kiện chung. .................................................................................22 1.2.2 Cơ hội và thách thức đối với các nước đang phát triển trong việc xác lập các điều kiện hình thành nền kinh tế tri thức. ....................................................30 1.3 Những kinh nghiệm từ quá trình phát triển nền kinh tế tri thức ở một số nước và bài học đối với Việt Nam..................................................................................33 1.3.1 Kinh nghiệm của Singapore .....................................................................33 1.3.2 Kinh nghiệm của Trung Quốc ..................................................................37 1.3.3 Kinh nghiệm của Hàn Quốc..................................................................... 41 1.3.4 Một số bài học ...........................................................................................45 Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM .........................47 2.1 Phân tích các điều kiện cơ bản hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam ................................................................................................47 2.1.1 Môi trường thể chế....................................................................................52 1
  5. 2.1.2 Nguồn nhân lực và hệ thống giáo dục đào tạo .........................................61 2.1.3 Năng lực khoa học, công nghệ và hệ thống đổi mới quốc gia..................65 2.1.4 Cơ sở hạ tầng thông tin và truyền thông ...................................................68 2.2 Đánh giá chung ................................................................................................71 2.2.1 Những kết quả tích cực .............................................................................71 2.2.2 Những hạn chế. .........................................................................................74 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY CÁC ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM ..........................................................................................................78 3.1. Quan điểm về việc chuẩn bị các điều kiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. ...................................................................................................78 3.1.1 Coi việc tích cực chuẩn bị các điều kiện để phát triển kinh tế tri thức là cách tận dụng tốt nhất cơ hội phát triển mà thời đại mang lại ...........................78 3.1.2 Tích cực hội nhập quốc tế .........................................................................80 3.1.3. Thực sự coi con người là nguồn nhân lực số một trong phát triển đất nước .................................................................................................................. 82 3.2 Các giải pháp cơ bản .......................................................................................82 3.2.1 Tiếp tục hoàn thiện môi trường thể chế hướng đến kinh tế tri thức .........82 3.2.2 Tăng cường đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng công nghệ – thông tin hiện đại. .........................................................................83 3.2.3 Đổi mới căn bản giáo dục - đào tạo để phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao. ...................................................................................................88 3.2.4 Tăng cường hệ thống đổi mới quốc gia để sử dụng có hiệu quả tri thức phục vụ phát triển. .............................................................................................93 KẾT LUẬN ..............................................................................................................95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................97 2
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kinh tế tri thức là một nền kinh tế toàn cầu đang diễn ra rất mạnh, lan toả nhanh và làm biến đổi sâu sắc các quá trình sản xuất, cách thức kinh doanh và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội loài người. Đây không chỉ là cách mạng trong kỹ thuật, trong kinh tế mà còn là cách mạng trong các khái niệm, trong tư duy, trong cách sống, cách làm việc, trong các quan hệ xã hội…Một phương thức sản xuất của cải mới - khởi phát từ các nước phát triển, khác hẳn với các phương thức cũ dần xuất hiện. Đi đôi với quá trình biến đổi lực lượng sản xuất, từ kinh tế công nghiệp chuyển lên nền kinh tế tri thức, là quá trình toàn cầu hóa; và trên thực tế đang hình thành nền kinh tế tri thức toàn cầu. Đó là xu thế phát triển tất yếu khách quan, lôi cuốn tất cả các quốc gia, không loại trừ ai, cho dù là ở những mức độ không đồng đều. Kinh tế tri thức đặt ra cho các nước đang phát triển những cơ hội và thách thức hoàn toàn mới: làm sao để nắm lấy thời cơ, phát triển kinh tế tri thức để rút ngắn khoảng cách so với các nước phát triển. Nhiều nước đã đề ra “chiến lược đi tắt vào kinh tế tri thức”, “chiến lược công nghiệp hoá dựa vào tri thức”, “sử dụng tri thức cho phát triển”,... Trong bối cảnh chuyển tiếp đặc biệt ấy của lịch sử thì việc hình thành và phát triển kinh tế tri thức cũng đã và đang đòi hỏi cần được thực hiện ở ngay chính Việt Nam. Nhưng hình thành và phát triển kinh tế tri thức lại cần phải có những điều kiện nhất định của nó. Câu hỏi đặt ra là liệu Việt Nam có thể và có khả năng tiếp cận nền kinh tế tri thức hay không khi đất nước đang ở trong bối cảnh xuất phát điểm thấp, là một nước nông nghiệp nghèo nàn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Lúc này bài toán “kinh tế tri thức” không còn có thể giải quyết bằng những phương pháp cũ truyền thống, chúng ta không thể tiến hành công nghiệp hoá xong rồi mới phát triển kinh tế tri thức như các nước phát triển. Bởi lẽ, chúng ta không thể chờ đợi các điều kiện cho sự hình thành kinh tế tri thức ở nước ta tự nó chín muồi được. Do vậy, con đường duy nhất, nút gỡ duy nhất 3
  7. của chúng ta hiện nay là vừa đi tắt đón đầu tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vừa phải chuẩn bị và xây dựng những điều kiện kinh tế - xã hội cho sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức. Vậy những điều kiện là gì và xây dựng các điều kiện đó như thế nào lại là một vấn đề cấp bách. Do đó, việc tìm hiểu, nhận diện, phân tích và đánh giá những điều kiện về kinh tế - xã hội để hình thành và phát triển kinh tế tri thức, những mặt được và chưa được ở Việt Nam nhằm tìm ra những giải pháp chiến lược bảo đảm cho đất nước tiến nhanh và vững chắc trở thành vấn đề thực tiễn cực kì quan trọng. 2. Tình hình nghiên cứu Mặc dù những ý tưởng về sự xuất hiện một nền “kinh tế mới” “kinh tế hậu công nghiệp” đã được đề cập từ những năm 70, 80 của thế kỉ XX trong một số công trình của các nhà tương lai học (điển hình là bộ sách “Cú sốc tương lai”, “Làn song thứ ba”của Alvin Toffler), song phải đến những năm 90 của thế kỉ XX, vấn đề kinh tế tri thức mới thực sự thu hút sự quan tâm đặc biệt của giới khoa học và các nhà hoạch định chính sách ở nhiều quốc gia, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Nhiều học giả nổi tiếng và các tổ chức quốc tế đã công bố những công trình nghiên cứu về kinh tế tri thức, trong đó một số tài liệu đã được biên tập và dịch ra tiếng Việt như: Cuốn “Kinh tế tri thức- Xu thế mới của xã hội thế kỉ XXI”, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2000 do Ngô Quý Tùng biên soạn; Lester Thurow (2000): "Sáng tạo của cải”; Damel Cohen và Michèle Debonneuil (2001): "Nền kinh tế mới”, chương trình Diễn đàn kinh tế Việt- Pháp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Ở nước ta vấn đề kinh tế tri thức cũng ngày càng được nhiều người quan tâm. Những năm vừa qua, nhiều Hội thảo khoa học, đề tài và bài báo bàn luận về kinh tế tri thức ở những góc độ khác nhau. Có thể liệt kê một số hoạt động như: Ban Khoa Giáo TW, Bộ KH, CN &MT, Bộ ngoại giao đồng chủ trì hội thảo “Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, năm 2000. Các nhà khoa học trong hội thảo đưa ra những vấn đề chung của kinh tế tri thức và đặt ra bài toán phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Tác giả Đặng Mộng Lân viết cuốn “Kinh tế tri thức, những khái niệm và vấn đề cơ bản”, Nxb Thanh niên, năm 2002; Phạm Quang 4
  8. Phan, “Những vấn đề cơ bản về kinh tế tri thức”, Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài khoa học, Hà Nội, 2002; PGS.TS Lưu Ngọc Trịnh chủ biên cuốn “Bước chuyển sang nền kinh tế tri thức ở một số nước trên thế giới hiện nay”, Nxb Giáo dục, năm 2002 tổng kết những bài học kinh nghiệm của các nước trong phát triển kinh tế tri thức và bài học đối với Việt Nam; Tác giả Nguyễn Kế Tuấn chủ biên cuốn“Phát triển kinh tê tri thức, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam”, NXB Chính trị Quôc gia, Hà Nội, 2004. Nghiên cứu kinh tế tri thức nhiều năm, cho đến năm 2006, PGS.TS Phí Mạnh Hồng chủ trì đề tài “Một số vấn đề cơ bản về kinh tế tri thức – Cơ hội và thách thức đặt ra cho Việt Nam”. Cho đến năm 2009GS Đặng Hữu chủ biên cuốn“Phát triển kinh tế tri thức gắn với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam”, Nxb Khoa học xã hội. Sau đây tác giả xin trình bày tóm tắt nội dung cơ bản một số công trình nghiên cứu tiêu biểu của các nhà khoa học: Cuốn “Kinh tế tri thức- Xu thế mới của xã hội thế kỉ XXI”, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2000 được tác giả Ngô Quý Tùng biên soạn, và Nguyễn Đình Phong, Trần Văn Long, Nguyễn Thị Tiểu Như biên dịch. Tác giả đã trình bày về nguồn gốc, nội hàm và đặc điểm của kinh tế tri thức; về xu thế mới – tri thức hoá kinh tế thế giới; Công nghệ kĩ thuật cao - yếu tố cơ bản hàng đầu hình thành kinh tế tri thức và mối quan hệ giữa kinh tế tri thức với các vấn đề trọng đại của thế giới. Tác giả cũng phân tích tám ngành công nghệ kĩ thuật cao chủ yếu của nền kinh tế tri thức như: Công nghệ thông tin, Công nghệ sinh học, Công nghệ nguồn năng lượng mới và năng lượng tái sinh, Công nghệ vật liệu mới… Hội thảo “Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam” do Ban Khoa Giáo TW, Bộ KH, CN &MT, Bộ ngoại giao đồng chủ trì diễn ra năm 2000. Hội thảo đã tập trung nhấn mạnh và làm rõ khái niệm, bản chất và xu hướng phát triển của kinh tế tri thức; phân tích và đánh giá các yếu tố hình thành và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam như khoa học công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực, hệ thống giáo dục đào tạo, vai trò của Nhà nước... Trên cơ sở đó các tác giả đã đề ra những chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn tới. 5
  9. Năm 2002 Nxb Giáo dục xuất bản cuốn sách “Bước chuyển sang nền kinh tế tri thức ở một số nước trên thế giới hiện nay” của PGS.TS Lưu Ngọc Trịnh (chủ biên). Đây thực sự là một công trình nghiên cứu công phu, với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu trong đó các tác giả đã đưa ra nhiều cách tiếp cận khác nhau về cách hiểu về nền kinh tế tri thức; những đặc trưng chủ yếu; những điều kiện cơ bản để hình thành nền kinh tế tri thức…Từ đó nghiên cứu bước chuyển sang kinh tế tri thức ở một số nước và đưa ra những gợi mở cho Việt Nam. Tác giả Đặng Mộng Lân viết cuốn “Kinh tế tri thức, những khái niệm và vấn đề cơ bản”, Nxb Thanh niên, năm 2002. Tác giả đã giới thiệu các khái niệm cơ bản xuất phát của kinh tế tri thức; sự xuất hiện của kinh tế tri thức…; và đề cập đến vấn đề quan trọng đối với các nước đang phát triển đó là phát triển dựa trên tri thức. Nghiên cứu kinh tế tri thức dưới một góc nhìn khác, PGS.TS Phí Mạnh Hồng đã chủ trì đề tài trọng điểm “Một số vấn đề cơ bản về kinh tế tri thức – Cơ hội và thách thức đặt ra cho Việt Nam”, công bố năm 2006. Đề tài đã làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản liên quan đến kinh tế tri thức, đặc biệt là logic hình thành nó như một thời đại kinh tế mới; giới thiệu và cập nhật một số kinh nghiệm quốc tế về tiếp cận kinh tế tri thức; làm rõ những vấn đề mà xu hướng phát triển kinh tế tri thức đặt ra cho Việt Nam; từ đó đề xuất một số giải pháp chiến lược nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt Nam. Năm 2009, Nxb Khoa học xã hội xuất bản cuốn “Phát triển kinh tế tri thức gắn với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam” do GS Đặng Hữu chủ biên cùng với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu trong nước. Các tác giả đã làm rõ các vấn đề vai trò của tri thức đối với sự phát triển; sự ra đời của nền kinh tế tri thức; các chỉ số đánh giá mức độ phát triển của nền kinh tế tri thức; thực trạng nền kinh tế tri thức Việt Nam nhìn từ góc độ phát triển dựa trên tri thức. Trong góc nhìn này, các tác giả nêu lên vấn đề Việt Nam tất yếu phải phát triển kinh tế tri thức để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và đưa ra một số giải pháp nhất định cho vấn đề trên. Ngoài ra còn có rất nhiều bài viết của các nhà khoa học đăng trên các tạp chí. 6
  10. Chẳng hạn: bài viết của TS Trần Đình Thiên “Kinh tế tri thức và vấn đề lựa chọn mô hình phát triển ở Việt Nam” đăng trên tạp chí Cộng sản, số 22 tháng 11/2000. Tác giả đã khẳng định rằng sự xuất hiện của kinh tế tri thức không vượt khỏi sơ đồ của C.Mác về sự tiến hoá lịch sử thông qua “lược đồ ba hình thái của C. Mác”. Từ đó tác giả đưa ra một số gợi ý về lựa chọn mô hình phát triển của Việt Nam dưới tác động của xu hướng chuyển sang nền kinh tế tri thức… Như vậy, các công trình nghiên cứu trên đề cập ở những mức độ khác nhau về nền kinh tế tri thức. Tất cả các công trình này được tác giả kế thừa và sử dụng như là những ý kiến gợi mở cho sự nghiên cứu của mình. 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài * Mục đích: Nhận rõ những điều kiện về kinh tế - xã hội để hình thành và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp đẩy nhanh sự chín muồi các điều kiện trên ở Việt Nam. * Nhiệm vụ: - Phân tích và đánh giá những điều kiện kinh tế - xã hội cần thiết để hình thành và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. - Đề xuất một số giải pháp cơ bản tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Về đối tượng: Đề tài lấy các điều kiện kinh tế - xã hội để hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam làm đối tượng nghiên cứu. * Về phạm vi nghiên cứu: + Về học thuật: Tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về các điều kiện hình thành và phát triển kinh tế tri thức. Trong các yếu tố đó, tác giả tập trung nghiên cứu một số vấn đề về nguồn nhân lực, giáo dục đào tạo, môi trường thể chế, 7
  11. năng lực khoa học và hệ thống đổi mới quốc gia, cơ sở hạ tầng thông tin và truyền thông. + Phạm vi lãnh thổ: Địa bàn quốc gia Việt Nam + Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu từ năm 2001 đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong suốt quá trình triển khai đề tài, tác giả chú trọng sử dụng các phương pháp trừu tượng hoá khoa học, phương pháp phân tích, tổng hợp trên tinh thần biện chứng, gắn lí luận với thực tiễn, logic kết hợp với lịch sử khi nghiên cứu. Trong đó đặc biệt chú trọng phương pháp thu thập các dữ liệu, số liệu. Thu thập các dữ liệu, số liệu là phương pháp quan trọng, định hướng cho toàn bộ luận văn. Những số liệu thu thập được giúp tác giả có những cơ sở thực tiễn cơ bản nhất liên quan tới đề tài nghiên cứu gồm: các điều kiện hình thành kinh tế tri thức, kinh nghiệm của các nước trong phát triển kinh tế tri thức, những mặt được và chưa được trong việc xác lập các điều kiện hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam. Công trình sử dụng số liệu của Tổng cục Thống kê, các công trình, dự án, bài viết trên các sách báo, tạp chí và từ mạng Internet để phân tích và đánh giá các điều kiện hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam. 6. Đóng góp của luận văn - Góp phần làm rõ những điều kiện tiên quyết chi phối sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức nói chung và vận dụng kết quả trên để phân tích, đánh giá mức độ chín muồi của các điều kiện này ở Việt Nam. - Đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy sự ra đời và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam thông qua việc tác động vào các điều kiện nói trên. - Các kết quả nghiên cứu là những luận cứ có tính khoa học, do vậy có thể làm tài liệu tham khảo tốt phục vụ cho giảng dạy và học tập. Ngoài ra, các kết quả này còn là tư liệu tham khảo tốt cho các địa phương, ban ngành trong xem xét đánh giá vai trò của các yếu tố hình thành nền kinh tế tri thức. 8
  12. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, cấu trúc luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Các điều kiện kinh tế - xã hội cần thiết cho sự ra đời và phát triển của kinh tế tri thức. Chương 2: Thực trạng về các điều kiện để hình thành và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Chương 3: Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. 9
  13. Chương 1. CÁC ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI CẦN THIẾT CHO SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ TRI THỨC 1.1 Bản chất và đặc trưng của kinh tế tri thức 1.1.1 Sự xuất hiện nền kinh tế tri thức trên thế giới Quá trình phát triển lực lượng sản xuất của loài người có thể chia ra làm ba thời kỳ: thứ nhất là nền kinh tế nông nghiệp hay là nền kinh tế sức lao động với đặc trưng chủ yếu là sản xuất bằng lao động thủ công, năng suất lao động rất thấp, đất đai là tài nguyên chủ yếu; thứ hai là nền kinh tế công nghiệp, dựa chủ yếu vào máy móc và tài nguyên thiên nhiên; thứ ba là nền kinh tế tri thức, bắt đầu hình thành từ đầu thập kỷ 80, là nền kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức, tri thức và công nghệ thông tin trở thành yếu tố sản xuất quan trọng hơn cả vốn và sức lao động. Năm 1983, trước tình hình kinh tế Nhật Bản đuổi kịp và vượt Mỹ, Tổng thống Mỹ Reagen đã lập ra Uỷ ban nghiên cứu sức cạnh tranh công nghiệp để tìm cách nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Mỹ. Qua khảo sát, Uỷ ban này phát hiện trong nền kinh tế Mỹ đã xuất hiện một số nhân tố mới có ảnh hưởng vượt xa ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ XVIII đối với kinh tế nước Anh. Đó là các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm về tin học, mới ra đời 5 – 10 năm, tuy dùng rất ít nguyên vật liệu, lao động và tiền vốn nhưng có hiệu quả kinh tế rất cao, phát triển nhanh, có tác động lôi kéo toàn bộ nền kinh tế. Loại doanh nghiệp tri thức này chưa có ở Nhật Bản. Qua nghiên cứu, Uỷ ban đề ra chiến lược nâng sức cạnh tranh kinh tế bằng cách điều chỉnh cơ cấu kinh tế, chú trọng phát triển công nghệ cao, nhất là công nghệ tin học, phát triển các doanh nghiệp tri thức và các ngành dịch vụ, tăng cường đầu tư vào khoa học- kỹ thuật và giáo dục để nâng cao nguồn nhân lực. Uỷ ban không chấp nhận các biện pháp nâng sức cạnh tranh kinh tế thường được sử dụng như phá giá đồng tiền, tăng thuế nhập khẩu... Trong nhiều năm qua, Mỹ đã áp dụng chiến lược này và thực tế cho thấy, sức cạnh tranh kinh tế của Mỹ luôn đứng đầu thế giới, ngày càng bỏ xa Nhật Bản và các nước công nghiệp phát triển khác. Đây là một cuộc cách mạng cơ cấu kinh tế, đánh 10
  14. dấu việc Mỹ bắt đầu tiến sang thời kỳ kinh tế tri thức. Và trong thời gian qua, nền kinh tế tri thức cũng đã được phổ biến dần ra toàn thế giới. Điều này thể hiện ở chỗ đa số các nước đầu đã tăng vốn đầu tư cho công nghệ kỹ thuật cao và các yếu tố cơ bản của nền kinh tế tri thức đang xuất hiện ngày càng nhiều và có những đóng góp lớn vào nền kinh tế. Tuy nhiên, tình hình chuyển sang nền kinh tế tri thức của các nước này còn chậm hơn so với Mỹ. So với sự chuyển biến từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp, sự chuyển biến từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức có ý nghĩa hơn: trước hết đó là sự chuyển đổi từ một nền sản xuất dựa vào vốn tài nguyên, lao động là chính sang nền sản xuất dựa vào tri thức là chính, thứ hai là sự thay đổi trên mọi lĩnh vực mà trước hết là công nghệ. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã thúc đẩy nhanh hơn sự ra đời nền kinh tế tri thức. Các công nghệ cao, trước hết là công nghệ thông tin là nguồn gốc của sự biến đổi lớn lao hiện nay. Trước kia, sự xuất hiện máy hơi nước, động cơ điện đã mở đầu cuộc cách mạng công nghiệp, thúc đẩy sự ra đời nền kinh tế công nghiệp, với nội dung chủ yếu là thay thế lao động chân tay bằng máy móc. Đó là cuộc cách mạng sâu sắc nhưng diễn ra chậm chạp trong thời gian rất dài. Còn trong nền kinh tế tri thức, các ngành công nghệ cao như công nghệ sinh học, nổi bật là công nghệ gen, công nghệ tế bào, công nghệ vi sinh đã cho phép con người tạo được các loại thuốc chữa trị các bệnh hiểm nghèo, kéo dài tuổi thọ, tạo các giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao theo ý muốn; công nghệ vật liệu, nổi bật là vật liệu composit có thể tạo ra những vật liệu theo ý muốn của con người, có sức chịu lực, chịu nhiệt, chịu ăn mòn, lão hoá, phù hợp với mọi điều kiện khác nhau; công nghệ năng lượng với những năng lượng mới đảm bảo an toàn cao và sạch nhất; và đặc biệt là công nghệ thông tin. Công nghệ thông tin là động lực chủ yếu nhất thúc đẩy sự ra đời và phát triển của kinh tế tri thức. Ngày nay, thông tin trở thành nhu cầu thiết yếu của con người, là tài nguyên quan trọng nhất của nền kinh tế. Ở những nước phát triển như Mỹ, Tây Âu, kinh tế thông tin (những ngành kinh tế dựa trên việc xử lý thông tin) chiếm khoảng 45% - 55% GDP. Công nghệ thông tin ngày càng trở thành nhân tố hàng đầu trong việc làm 11
  15. biến đổi xã hội. Một bước nhảy vọt trong công nghệ thông tin là sự ra đời của mạng máy tính. Mạng máy tính phát triển nhanh hình thành siêu xa lộ thông tin và Internet. Trong lịch sử nhân loại, chưa có một lĩnh vực khoa học – công nghệ nào phát triển nhanh và tác động sâu rộng, mạnh mẽ đến toàn xã hội như công nghệ thông tin. Nhờ có sự phát triển nhanh của xa lé thông tin mà có thương mại điện tử, chính phủ điện tử, thư viện điện tử, học tập, làm việc từ xa, chữa bệnh từ xa... Những công nghệ ấy đang làm thay đổi mạnh mẽ, sâu sắc xã hội loài người. Máy tính và mạng máy tính ngày nay có thể thay thế một phần lao động trí óc của con người, nâng cao tri thức, phát triển khả năng tư duy, sáng tạo, từ đó đẩy nhanh, mạnh sự đổi mới công nghệ, đổi mới tổ chức quản lý. Nếu như cơ khí giúp con người trong các lao động chân tay thì máy tính lại giúp con người trong lao động trí óc. Chính vì vậy, công nghệ thông tin là nhân tố quyết định đối với việc chuyển nền kinh tế thế giới từ nền kinh tế hậu công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. 1.1.2 Bản chất nền kinh tế tri thức Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải và nâng cao chất lượng cuộc sống.[5, tr. 17] Trong nền kinh tế tri thức, chiếm hữu nhân tài và tri thức quan trọng hơn nhiều so với chiếm hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên như dầu mỏ hay đất đai đang bị cạn kiệt do kinh tế công nghiệp gây ra. Kinh tế tri thức thông qua nguồn tài nguyên trí lực để khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách khoa học, hợp lý chứ không ỷ lại vào nguồn tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy, nền kinh tế của các nước dựa vào chủ quyền đối với nguồn tài nguyên thiên nhiên để phát triển như các nước Trung Đông nếu không đồng thời tăng cường đầu tư vào nguồn tài nguyên trí lực sẽ rất dễ bị tấn công trong thời đại kinh tế tri thức. Trong sản xuất, kinh tế tri thức lấy các ngành sản xuất kỹ thuật cao làm nền tảng, các ngành sản xuất kỹ thuật cao lại lấy khoa học kỹ thuật cao làm chỗ dựa. Trong nền kinh tế tri thức vẫn còn nông nghiệp và công nghiệp nhưng hai ngành này chiếm tỷ lệ thấp trong cơ cấu kinh tế, cũng giống như trong nền kinh tế công 12
  16. nghiệp vẫn còn nông nghiệp nhưng chiếm tỷ lệ nhỏ trong cơ cấu kinh tế. Trong nền kinh tế tri thức đa số là các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ. Đó có thể là những ngành mới như công nghệ thông tin (công nghệ phần cứng và công nghệ phần mềm), công nghệ năng lượng mới và năng lượng tái sinh, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học... và cũng có thể là những ngành truyền thống (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ) được cải tạo bằng khoa học, công nghệ cao. Ví dụ, sản xuất ôtô là một ngành công nghiệp truyền thống nhưng nếu áp dụng khoa học công nghệ cao sản xuất ra loại ôtô thông minh không cần người lái có độ an toàn cao thì ngành sản xuất ôtô có thể coi là ngành kinh tế tri thức. Tương tự, những trang trại sản xuất nông nghiệp dựa vào công nghệ sinh học cho năng suất cao, tự động điều khiển và hầu như không cần người lao động, cũng có thể coi là thành phần của kinh tế tri thức Bảng 1.1: So sánh khái quát các thời đại kinh tế Kinh tế nông Kinh tế công nghiệp Kinh tế tri thức nghiệp 1. Đầu vào quan trọng Lao động, đất đai, Công nghệ, máy Tri thức, công của sản xuất vốn móc, thiết bị nghệ cao, thông tin Điều khiển, kiểm 2. Các quá trình chủ Trồng trọt, chăn Chế tạo, gia công soát, xử lý thông yếu nuôi tin Sản phẩm đáp ứng 3. Đầu ra của sản xuất Lương thực Của cải, hàng hoá nhu cầu ngày càng cao của cuộc sống Nông nghiệp là Công nghiệp và dịch Các ngành kinh tế 4. Cơ cấu kinh tế chủ yếu vụ là chủ yếu tri thức thống trị Sử dụng súc vật, Cơ giới hoá, điện 5. Công nghệ thúc Khoa học công cơ giới hoá đơn khí hoá, chuyên môn đẩy phát triển nghệ cao giản hoá 6. Cơ cấu xã hội Nông dân Công nhân Công nhân tri thức 13
  17. 7. Tỷ lệ đóng góp của KHCN cho tăng < 10% > 30% > 80% trưởng kinh tế 8. Đầu tư cho giáo < 1% GDP 2% – 4% GDP > 6%GDP dục 9. Tầm quan trọng Nhỏ Lớn Rất lớn của giáo dục 10. Vai trò của Nhỏ Lớn Rất lớn truyền thông 11. Kết cấu sức lao động: - Nông nghiệp Trên 50% 10 – 20% Dưới 10% - Công nghiệp Khoảng 15 -20% Trên 30% Dưới 20% - Công nghệ cao 10 -15% Trên 40% 12. Trình độ tổ chức Đơn giản Phức tạp Rất phức tạp xã hội 13. Mức độ toàn cầu Thấp Khá cao Rất cao hóa kinh tế thế giới Nguồn: “ Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt nam”. Kỷ yếu hội thảo khoa học, 21 – 22/6/2000, trang 2 1.1.3 Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức 1.1.3.1 Tri thức trở thành yếu tố chủ yếu nhất của nền kinh tế. Đặc trưng này bắt nguồn từ chính bản chất của kinh tế tri thức, nói lên nó là một giai đoạn mới, phân biệt với các giai đoạn lịch sử trước đó trong các cách thức sản xuất và sáng tạo của cải của xã hội loài người. Giờ đây khi tri thức đóng vai trò số một dẫn dắt sự phát triển, thì lợi thế hay năng lực cạnh tranh của các nền kinh tế, của các doanh nghiệp không còn nằm ở khả năng sở hữu các nguồn lao động rẻ, dồi dào xong lại thiếu kĩ năng hoặc tri thức sáng tạo cao. sự giàu có về nguồn tài 14
  18. nguyên thiên nhiên như đất đai, rừng, khoáng sản, biển…cũng trở lên ít quan trọng hơn. Những quốc gia sở hữu nguồn giàu mỏ khổng lồ như các nước ở Trung Đông vẫn không phải là quốc gia phát triển. Nhưng những mảnh đất nghèo tài nguyên như Nhật Bản, Singapore…lại là nơi tạo ra những chuyện thần kì về phát triển kinh tế. Sự khác biệt này cho thấy, lợi thế phát triển lâu dài nằm ở nguồn nhân lực có kĩ năng cao hơn là nguồn lao động giản đơn, giá rẻ hay khối lượng vốn, trữ lượng tài nguyên thiên nhiên dồi dào. Đương nhiên là nguồn nhân lực được đào tạo tốt, thích ứng với mục tiêu đuổi bắt và hấp thụ công nghệ là chủ yếu sẽ khác với nguồn nhân lực có kĩ năng cao, có khả năng sáng tạo tri thức mới là chủ yếu. Cũng như sự phát triển nhanh của những nước đi sau khác với sự phát triển của các quốc gia dẫn đầu trong nền kinh tế thế giới. Càng tiến dần sang nền kinh tế tri thức, khả năng sáng tạo tri thức của đội ngũ nhân lực càng trở thành nhân tố quyết định trong phát triển. Yếu tố trí tuệ quan trọng hơn yếu tố vật liệu tự nhiên trong tư liệu sản xuất. Trong nền kinh tế tri thức, mối tương quan giữa các yếu tố cơ bản cấu thành tư liệu sản xuất có sự thay đổi rất lớn. Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong các nền kinh tế trước, đối tượng lao động chủ yếu là những bộ phận của tự nhiên, trong nền kinh tế tri thức, đối tượng lao động ngày càng là sản phẩm của lao động, của khoa học, công nghệ mà hàm lượng vật liệu tự nhiên trong đó ngày càng giảm. Do vậy, đó sẽ là một nền kinh tế tiết kiệm tài nguyên, không phụ thuộc một cách tiên quyết vào nguồn tài nguyên thiên nhiên, mà phụ thuộc chủ yếu vào tài nguyên con người với năng lực trí tuệ cao. Lao động quá khứ được kết tinh trong máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu... Liên quan tới những nhân tố này, trong nền kinh tế tri thức, có hai điểm đáng chú ý. Một là, hàm lượng trí tuệ trong những nhân tố đó ngày một gia tăng, Hai là, nhiều máy móc do lao động quá khứ đó được vật hoá thực hiện. Khi tính đến hai sự kiện đó, chúng ta thấy dường như vai trò của lao động sống có sự suy giảm tương đối. Nhưng, nếu xét tới sự phát triển thẳng tiến của sản xuất, lao động sống vẫn có giá trị quyết định - "quyết định" không phải theo nghĩa chiếm tỷ trọng lớn so với lao động 15
  19. quá khứ khi tạo ra sản phẩm ở chu kỳ mới, mà theo nghĩa không có lao động sống và mọi lao động vật hoá không thể phát huy vai trò của mình trong quá trình sản xuất. Máy móc hiện đại như thế nào chăng nữa cũng do con người làm ra và vận hành, cải tiến nó. Mặt khác, trình độ của máy móc, thiết bị, trình độ trí tuệ được kết tinh trong chúng lại đóng vai trò quyết định hiệu quả của lao động sống, quy định xu hướng vận động của chính lao động sống. Chỉ trong chừng mực đáp ứng nhu cầu đó, chu kỳ sản xuất tiếp theo mới có sự phát triển tương ứng với xu thế khách quan của lực lượng sản xuất. 1.1.3.2 Cơ cấu các ngành kinh tế chuyển đổi ngày càng nhanh theo hướng tăng nhanh giá trị gia tăng. Sự thay đổi về đối tượng sở hữu, về tổ chức việc quản lý quá trình sản xuất có tác động rất lớn tới sự chạy đổi cơ cấu của nền kinh tế tri thức. Theo lý luận về kết cấu các ngành (khu vực) sản xuất của kinh tế truyền thống, cơ cấu nền kinh tế bao gồm: ngành sản xuất thứ nhất là nông nghiệp, ngành sản xuất thứ hai là công nghiệp và ngành sản xuất thứ ba là dịch vụ. Dịch vụ đang nói ở đây là một khái niệm rộng, bao gồm dịch vụ đối với các ngành sản xuất vật chất và bao gồm các loại dịch vụ đối với đời sống và tiêu dùng của nhân dân (như thương nghiệp, tiền tệ, vận tải, thông tin, thậm chí cả những hoạt động của khoa học, giáo dục, những hoạt động của Chính phủ, toà án... đều được gọi là ngành sản xuất thứ ba). Sự phân loại ngành sản xuất thứ nhất, thứ hai, thứ ba và sự ra đời, sự tiến triển của các ngành đó cũng phản ánh một xu thế lịch sử, tức cái sau hơn cái trước - cả về chất lượng và tốc độ. Riêng về tốc độ, chúng ta thấy rằng ngành sản xuất thứ hai có nhịp độ phát triển nhanh hơn so với ngành sản xuất thứ nhất, ngành sản xuất thứ ba có nhịp độ tăng trưởng nhanh hơn ngành thứ hai. Tình hình thực tế hiện nay của các nước phát triển là tỷ trọng ngành sản xuất thứ ba có thể chiếm tới 66,7% GDP. Dư luận chung hiện nay cho thấy, nhịp độ tăng trưởng của giáo dục và khoa học trong ngành sản xuất thứ ba là hết sức nhanh, vị trí ngày càng quan trọng. Cho nên có thể tách giáo đục, khoa học từ ngành sản xuất thứ ba ra thành ngành sản xuất thứ tư. 16
  20. Theo thống kê của Tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế ( OECD), tỷ lệ đóng góp của ngành dịch vụ Hoa Kỳ vào GNP từ 50% tăng lên 80%, trong đó 63% dịch vụ là thuộc dịch vụ kỹ thuật cao. Cũng theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, 64% của cải thế giới hiện nay là do “vốn nhân lực" cấu thành. Trên 80% công việc trong các ngành của Hoa Kỳ về bản chất là công việc "lao động trí óc". Trong nền kinh tế tri thức, hàm lượng tri thức trong các yếu tố sản xuất ngày càng tăng, các ngành kinh tế tri thức (những ngành dựa vào các thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ) và cả những ngành truyền thống (như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, được cải tạo bằng ứng đụng thành tựu khoa học và công nghệ) ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế quốc dân. Sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất, tiên tiến nhất, tiêu biểu cho nền kinh tế tri thức. Ở những nước công nghiệp phát triển cao (ở Bắc Mỹ và Tây Âu), những ngành chủ yếu dựa vào công nghệ thông tin đó chiếm khoảng 45% đến 50% GDP. 1.1.3.3 Tốc độ biến đổi cao. Đặc điểm quan trọng bật nhất của kinh tế tri thức là tốc độ biến đổi cực kỳ cao. Nó thể hiện ở tốc độ sản sinh tri thức, tốc độ thay đổi giá cả, tốc độ ứng dụng các phát minh khoa học vào thực tiễn và hệ quả đi liền là tốc độ biến đổi của đời sống trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội ngày càng cao. Tốc độ sản sinh tri thức ngày càng nhanh, thời gian cần thiết để tăng gấp đôi lượng tri thức của nhân loại càng thu hẹp. Ngày nay, tốc độ sản sinh tri thức của loài người đang tăng theo cấp số nhân. Theo một số tính toán, sau mỗi 15 năm, lượng tri thức của loài người được nhân đôi và với cấp độ chất lượng khác hẳn. Và quãng thời gian đó hiện nay đang rút ngắn hơn nhiều. Tri thức của loài người ở thế kỷ 19 cứ 50 năm thì tăng gấp đôi; vào giữa thế kỷ 20, cứ 10 năm tăng gấp đôi và đến những năm 1970 cứ 5 năm tăng gấp đôi và tới những năm 1980 cứ 3 năm tăng gấp đôi. Tốc độ biến đổi giá cả của các sản phẩm càng mới càng nhanh. Sự phát triển như vũ bão của công nghệ tin học và truyền thông rút ngắn ngày càng nhanh thời gian chọn lọc, đánh giá, sử dụng và sáng tạo thông tin, khiến cho giá trị sử dụng tri 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2