intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Chủ nghĩa xã hội khoa học: Tính tự quản của làng Việt Nam truyền thống đồng bằng sông Hồng trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:131

55
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn phân tích những biểu hiện cơ bản tính tự quản của làng đồng bằng sông Hồng trong điều kiện kinh tế thị trường, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp cơ bản nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực trong tính tự quản của làng ở đồng bằng sông Hồng hiện nay. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Chủ nghĩa xã hội khoa học: Tính tự quản của làng Việt Nam truyền thống đồng bằng sông Hồng trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------ NGUYỄN THỊ VÂN TÍNH TỰ QUẢN CỦA LÀNG VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học Hà Nội - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------ NGUYỄN THỊ VÂN TÍNH TỰ QUẢN CỦA LÀNG VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG HIỆN NAY Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học Mã số: : 60 22 03 08 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS TS Ngô Thị Phƣợng Hà Nội - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn “Tính tự quản của làng Việt Nam truyền thồng đồng bằng sông Hồng trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay”là công trình nghiên cứu của tôi dƣới sự hƣớng dẫn của PGS. TS Ngô Thị Phƣợng. Tôi xin chịu mọi trách nhiệm nếu lời cam đoan trên không trung thực. Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2015 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Vân
  4. LỜI CẢM ƠN Trong thời gian nghiên cứu và thực hiện luận văn, bên cạnh những nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn và các thầy cô giáo trong khoa Triết học. Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc nhất đến tất cả các thầy cô giáo đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn này. Đặc biệt, với lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất, tôi xin trân trọng cảm ơn cô giáo –PGS TS. Ngô Thị Phượng đã trực tiếp chỉ bảo, hướng dẫn khoa học và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Do thời gian nghiên cứu còn hạn chế, luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự đóng góp của quý thầy cô cùng toàn thể bạn đọc. Xin trân trọng cảm ơn! TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Thị Vân
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .................................................... 3 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ............................................................. 5 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 6 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ................................................... 6 6. Đóng góp mới của đề tài ............................................................................... 6 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài .......................................................... 7 8. Kết cấu........................................................................................................... 7 Chƣơng 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ LÀNG VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG VÀ TÍNH TỰ QUẢN CỦA LÀNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG ...................... 8 1.1. Khái quát về làng Việt Nam truyền thống ................................................. 8 1.2. Tính tự quản và cơ sở hình thành tính tự quản của làng đồng bằng sông Hồng ................................................................................................................ 23 1.3. Đánh giá chung về tính tự quản của làng đồng bằng sông Hồng ............ 50 Chƣơng 2: TÍNH TỰ QUẢN CỦA LÀNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG HIỆN NAY: BIỂU HIỆN CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP .............................................................................. 56 2.1. Kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam hiện nay .................................................. 56 2.2. Biểu hiện cơ bản tính tự quản của làng đồng bằng sông Hồng trong điều kiện kinh tế thị trƣờng hiện nay ...................................................................... 68 2.3. Một số giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của tính tự quản của làng đồng bằng sông Hồng trong điều kiện kinh tế thị trƣờng hiện nay ........................................................................................................... 99 KẾT LUẬN ................................................................................................... 115 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 117
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ CNTB Chủ nghĩa tƣ bản CNXH Chủ nghĩa xã hội HĐND Hội đồng nhân dân TBCN Tƣ bản chủ nghĩa UBND Ủy ban nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Làng Việt Bắc Bộ là nơi bao đời nay cƣ dân Việt cƣ trú, lao động, sản xuất, tổ chức mọi sinh hoạt văn hóa, sinh hoạt tinh thần đồng thời là nơi cố kết quan hệ dòng tộc, láng giềng. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, làng luôn là pháo đài kiên cố để chống giặc ngoại xâm cùng mọi yếu tố ngoại lai để bảo vệ sự bình yên cho đất nƣớc. Làng và văn hóa làng chính là chỗ dựa vững chắc cho cả dân tộc. Văn hóa làng là hệ thống những giá trị hình thành từ lâu đời trong toàn bộ các hoạt động sản xuất vật chất và sinh hoạt văn hóa tinh thần. Nó đã tạo ra những đặc trƣng riêng trong tính cách của con ngƣời Việt Nam. Thế giới đầy màu sắc của văn hóa làng đƣợc quy ƣớc thành lệ làng, đúc kết trong hƣơng ƣớc và bộc lộ một cách phong phú qua mọi sinh hoạt vật chất và tinh thần. Tất cả chắt lọc lại, tạo nên bản sắc văn hóa làng, mà trong đó tính cộng đồng và tính tự quản của làng là những giá trị nổi bật nhất. Tính tự quản hình thành ngay từ khi làng xuất hiện. Nó tạo nên tính bền vững của làng Việt Nam truyền thống, Nhờ vậy mà dù có trải qua 1000 năm Bắc thuộc và gần 100 năm đô hộ của thực dân Pháp nhƣng dân tộc Việt Nam vẫn giữ vững đƣợc chủ quyền, làm thất bại mọi âm mƣu đồng hóa của các thế lực bên ngoài. Văn hóa Việt Nam vẫn đƣợc lƣu truyền và gìn giữ, khẳng định mình trƣớc sóng gió lịch sử. Tất cả là nhờ vào làng và văn hóa làng với sức sống mãnh liệt của nó. Ngày nay, văn hóa làng nói chung và tính tự quản của làng nói riêng vẫn tiếp tục khẳng định giá trị của mình và có những đóng góp to lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển nông thôn theo hƣớng hiện đại. Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, nông thôn nƣớc ta đã đạt đƣợc nhiều thành tựu to lớn, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đều có những biến chuyển tích cực. Kinh tế thị trƣờng đã đem đến sự tăng trƣởng kinh tế với tốc độ cao, đời sống nhân dân đƣợc cải thiện, vị thế của Việt Nam không ngừng đƣợc 1
  8. nâng cao trên trƣờng quốc tế. Ở một đất nƣớc với trên 70% dân cƣ sinh sống ở nông thôn nhƣ nƣớc ta thì công cuộc đổi mới kinh tế với những thành tựu của nó đƣợc thể hiện rõ tại các làng xã. Trong những năm qua, cùng với sự đổi mới chung của đất nƣớc, nông nghiệp và nông thôn nƣớc ta đã đạt đƣợc những thành tựu quan trọng, bộ mặt nông thôn đã có những biến đổi sâu sắc theo chiều hƣớng tích cực. Trong quá trình đó, thực hiện chủ trƣơng của Đảng về phát triển nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phối hợp với các địa phƣơng tiến hành xây dựng thí điểm một số mô hình nông thôn mới ở quy mô xã, thôn, ấp, bản trên phạm vi cả nƣớc. Nhờ đó, nông thôn Việt Nam ngày càng đạt đƣợc những thành tựu to lớn. Những kết quả đạt đƣợc một phần nhờ vào ý thức của ngƣời nông dân trong đó tính tự quản đóng vai trò quan trọng. Tuy nhiên, kinh tế thị trƣờng với mặt trái của nó đang có nguy cơ phá vỡ những giá trị văn hóa truyền thống. Lũy tre làng không còn là vành đai cát cứ nhƣng tính cục bộ, địa phƣơng chủ nghĩa, “phép vua thua lệ làng”, tệ cƣờng hào ở nông thôn lại trỗi dậy. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự xáo trộn các mối quan hệ trong làng và giữa các làng, làm nảy sinh hàng loạt vấn đề về ý thức đoàn kết cộng đồng, diện mạo văn hóa, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Tệ nạn xã hội đang có cơ hội và điều kiện chuyển dịch về nông thôn. Một số tục lệ có xu hƣớng quay lại với tập tục rƣờm rà, tốn kém xen lẫn cả mê tín dị đoan… Chính vì vậy, việc giữ gìn, phát huy và xây dựng những giá trị văn hóa của làng có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực do kinh tế thị trƣờng mang lại. Trong những giá trị văn hóa đó, đặc biệt chú trọng đến tính tự quản bởi nó là động lực trực tiếp để xây dựng làng xã nói riêng và đất nƣớc nói chung. Trải qua quá trình phát triển cùng với sự phát triển của đất nƣớc, tính tự quản của làng cũng có những biến đổi và những biểu hiện khác nhau. Vấn đề đặt ra 2
  9. là cần có những giải pháp để phát huy tối ƣu mặt tích cực và khắc phục những hạn chế của nó. Đồng bằng sông Hồng là một trong những trọng điểm kinh tế và biểu trƣng cho nền kinh tế trồng lúa nƣớc của Việt Nam. Văn hóa vùng đồng bằng sông Hồng là đặc thù của văn hóa Việt Nam. Dƣới tác động của kinh tế thị trƣờng, tính tự quản của làng có nhiều biến đổi theo hai chiều hƣớng tích cực và tiêu cực. Những biến đổi đó tác động không nhỏ tới xây dựng nông thôn mới hiện nay. Do vậy, tôi chọn vấn đề: “Tính tự quản của làng Việt Nam truyền thống đồng bằng sông Hồng trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Liên quan đến đề tài luận văn, đã có nhiều công trình đƣợc công bố. Các công trình đó đƣợc phân chia theo các nhóm vấn đề sau: Thứ nhất, về làng xã, có một số công trình tiêu biểu: - Nguyễn Thừa Hỷ: Sự phát triển và cấu trúc đẳng cấp trong các làng xã cổ truyền Việt Nam, trong: Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, H.1978. Trong công trình này, tác giả đã tái hiện lại lịch sử nông thôn nƣớc ta, phân tích rõ cơ cấu tổ chức ở một số làng truyền thống ở Việt Nam. - Phan Đại Doãn: Mấy vấn đề về làng xã, Tạp chí Dân tộc học, số 2/1991. Tác giả đã nêu bật đƣợc những nét đặc trƣng cơ bản của làng Việt Nam, trong đó tính cộng đồng và tính tự quản là hai đặc trƣng, chi phối mọi sinh hoạt của làng xã. - Phan Đại Doãn: Nhà nƣớc và xã hội- từ thực tế nông thôn Việt Nam ngày nay, Tạp chí Xã hội học, số 3/1995. Bài viết này của tác giả đã giúp ngƣời đọc hình dung đƣợc mối quan hệ không thể tách rời giữa nhà nƣớc và xã hội nông thôn. Nhà nƣớc đƣợc duy trì là nhờ vào xã hội nông thôn, ngƣợc lại, xã hội nông thôn muốn ổn định phải nhờ sự quản lý của Nhà nƣớc. 3
  10. - Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang: Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay, đề tài KX 07-02,H.1996. Trong đề tài, tác giả đã khái quát những nếp sống, thói quen, giá trị đạo đức mang tính truyền thống của con ngƣời Việt Nam hình thành từ lâu đời và mối quan hệ của nó với xã hội hiện nay, sự duy trì, biến đổi và những giá trị mới đang hình thành. - Nguyễn Quang Ngọc: Làng- thôn trong hệ thống thiết chế chính trị- xã hội nông thôn, trong: Quản lý xã hội nông thôn nước ta hiện nay- Một số vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, H.1996. Tác giả đã xét làng với tƣ cách là một đơn vị nhỏ nhất trong hệ thống thiết chế chính trị- xã hội ở nông thôn, việc quản lý làng có ảnh hƣởng quan trọng trong quản lý xã hội nói chung. Tác giả đã phân thích thực trạng xã hội nông thôn đồng thời đƣa ra những giải pháp cụ thể đối với những vấn đề cấp bách ở nông thôn nƣớc ta. - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Con đường làng xã Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, H.2001. Công trình đã khái quát hóa tiến trình hình thành làng xã từ buổi đầu xuất hiện cho đến ngày nay. Trong quá trình phát triển có những yếu tố đƣợc duy trì nhƣng có những yếu tố đƣợc biến đổi cho phù hợp với xã hội hiện đại. Thứ hai, về kinh tế thị trường, có một số công trình tiêu biểu sau: - Phan Thanh Khôi- Lƣơng Xuân Hiến: Một số vấn đề về kinh tế- xã hội trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng đồng bằng sông Hồng, Nxb Lý luận chính trị, 2006. Công trình đã nêu rõ thực trạng kinh tế- xã hội của vùng đồng bằng sông Hồng khi chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng, những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết cho vùng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Phạm Thị Khanh: Phát triển thị trường nông thôn góp phần đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng, Nxb Chính trị quốc gia, 2007. Tác giả đã trình bày thực trạng của thị trƣờng nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng, nguyên nhân của những thành tựu và 4
  11. khó khăn trong quá trình đáp ứng vốn phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn đồng bằng sông Hồng và đƣa ra bốn giải pháp chủ yếu để phát triển thị trƣờng nông thôn. - Phạm Ngọc Quang: Vai trò của Nhà nƣớc trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số 798, 2009. - Nguyễn Xuân Cƣờng, Nguyễn Ngọc Bảo: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, 2015. Tác giả đã trình bày nội dung các văn kiện của Đảng về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, tình hình 5 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa X. Mục tiêu, yêu cầu, chủ trƣơng và giải pháp tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Ngoài các công trình nghiên cứu trên, còn có các bài viết, bài báo trên các tạp chí liên quan đến vấn đề kinh tế thị trƣờng. Các công trình trên đã khái quát những đặc điểm của kinh tế thị trƣờng và những nét đặc trƣng tiêu biểu của nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta Nhƣ vậy, cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về làng và kinh tế thị trƣờng dƣới các góc độ khác nhau: lịch sử, kinh tế- xã hội, tổ chức quản lý… Những công trình đó giúp cho tác giả hiểu rõ thêm những vấn đề có liên quan đến làng xã và kinh tế thị trƣờng. Tuy nhiên, chƣa có công trình độc lập nào nghiên cứu về: “Tính tự quản của làng Việt Nam truyền thống đồng bằng sông Hồng trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay”. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn - Mục đích của luận văn: Luận văn phân tích những biểu hiện cơ bản tính tự quản của làng đồng bằng sông Hồng trong điều kiện kinh tế thị trƣờng, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp cơ bản nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực trong tính tự quản của làng ở đồng bằng sông Hồng hiện nay. 5
  12. - Nhiệm vụ của luận văn: + Trình bày quan niệm và đặc trƣng của làng Việt Nam truyền thống, trình bày khái niệm tự quản và cơ sở hình thành tính tự quản của làng đồng bằng sông Hồng, chỉ ra ƣu điểm và hạn chế của tính tự quản của làng đồng bằng sông Hồng. + Trình bày khái quát về kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam. + Phân tích những biểu hiện tính tự quản của làng đồng bằng sông Hồng trong điều kiện kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam hiện nay. + Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực trong tính tự quản của làng ở đồng bằng sông Hồng hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tƣợng nghiên cứu: tính tự quản của làng đồng bằng sông Hồng - Phạm vi nghiên cứu: Tình tự quản của làng ở một số tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị trƣờng và làng Việt Nam. Đồng thời, luận văn cũng kế thừa những thành quả của những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn. - Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phƣơng pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phƣơng pháp phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử, phƣơng pháp thống kê. 6. Đóng góp mới của đề tài Luận văn làm rõ những biểu hiện tính tự quản của làng đồng bằng sông Hồng, đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực trong tính tự quản của làng trong điều kiện kinh tế thị trƣờng hiện nay. 6
  13. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài - Ý nghĩa lý luận: Luận văn làm rõ thêm những biểu hiện cơ bản tính tự quản của làng đồng bằng sông Hồng trong điều kiện kinh tế thị trƣờng hiện nay. - Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu những vấn đề liên quan tới làng xã Việt Nam và kinh tế thị trƣờng. 8. Kết cấu Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chƣơng, 6 tiết. 7
  14. Chƣơng 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ LÀNG VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG VÀ TÍNH TỰ QUẢN CỦA LÀNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG 1.1 Khái quát về làng Việt Nam truyền thống 1.1.1 Quan niệm về làng Việt Nam truyền thống Trong đời sống xã hội Việt Nam cổ truyền, “làng xã có vị trí hết sức đặc biệt: “Làng là đơn vị cơ bản hình thành quốc gia dân tộc. Nƣớc (quốc gia) chỉ là tổng số, là kết quả của sự liên kết các làng, xã, là “liên làng”, “siêu làng”. Làng có vai trò gắn kết cá nhân- gia đình- làng xã- Tổ quốc. Làng là nhân tố giữ vai trò quyết định trong quá trình dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc, “còn làng thì còn nƣớc” [49; tr. 7]. Làng là khái niệm chỉ đơn vị tụ cƣ của ngƣời Việt Nam từ buổi đầu dựng nƣớc. Nghiên cứu về ngƣời Việt Nam không thể tách rời việc nghiên cứu về làng ở Việt Nam. Cho đến nay, khái niệm làng đƣợc bàn đến ở nhiều góc độ khác nhau. Theo PGS. TS Nguyễn Đăng Dung: “… làng xã phải là nơi đồng quê nhiều gia đình ở quy tụ thành khu đƣợc gọi là xóm, các xóm phân biệt nhau bằng các lũy tre xanh. Trên đƣờng đi vào thƣờng có các cổng xây hoặc tre, đến đêm tối có thể đóng lại đƣợc, để phòng ngừa trộm cƣớp. Hai ba, bốn hoặc có khi là năm, sáu xóm họp thành một thôn gọi là làng” [ 49; tr.151]. Khái niệm này đã cho ta cái nhìn bao quát và tổng thể về làng. Tác giả đã đi từ đơn vị nhỏ nhất là gia đình rồi đến xóm, tập hợp các xóm tạo thành làng. Thông qua khái niệm, tác giả cũng chỉ ra tên gọi tƣơng đồng với làng là thôn. Tùy theo mỗi vùng miền, địa phƣơng mà làng có những cách gọi khác nhau. Giáo sƣ Từ Chi thì định nghĩa về làng mang tính tổng quát: Làng xã là một đơn vị tụ cƣ, đơn vị kinh tế, đơn vị tín ngƣỡng và sinh hoạt cộng đồng. Giáo sƣ đã xem xét làng ở nhiều góc độ khác nhau. Khái niệm này cho thấy sự đa dạng của đơn vị làng. Làng không chỉ đơn thuần đƣợc xem xét dƣới một lĩnh vực mà ở tổng thể nhiều mặt, nhiều khía cạnh khác nhau. 8
  15. Giáo sƣ Phan Đại Doãn cho rằng: “Làng là một điểm dân cƣ, một hình thức công xã nông thôn, có cơ sở hạ tầng cùng cơ cấu tổ chức xã hội riêng, lệ tục riêng… rất chặt chẽ và hoàn chỉnh” [49; tr. 38 ]. Định nghĩa này có những nét tƣơng đồng với Giáo sƣ Bùi Xuân Đính khi cho rằng: làng là đơn vị tụ cƣ truyền thống của ngƣời nông dân Việt, có địa vực riêng, có cơ sở hạ tầng cùng cơ cấu tổ chức riêng, tục lệ riêng…nhƣng chặt chẽ và hoàn chỉnh nhất. Cả hai định nghĩa này đều nói lên sự khác biệt, đặc trƣng riêng của làng với những đơn vị xã hội khác tạo nên tính khu biệt đặc thù. Theo nhà nghiên cứu Hà Văn Tấn: “Làng là một đơn vị cộng cƣ có một vùng đất chung của cƣ dân nông nghiệp, một hình thức tổ chức xã hội nông nghiệp tiểu nông tự cấp, tự túc, mặt khác là mẫu hình xã hội phù hợp, là cơ chế thích ứng với sản xuất tiểu nông, với gia đình- tông tộc gia trƣởng, đảm bảo sự cân bằng và bền vững của xã hội nông nghiệp ấy. Làng đƣợc hình thành, đƣợc tổ chức chủ yếu dựa vào hai nguyên lý cội nguồn và cùng chỗ. Một mặt, làng có sức sống mãnh liệt, mặt khác, xét về cấu trúc, làng là cấu trúc động, không có bất biến. Sự biến đổi của làng là do sự biến đổi chung của đất nƣớc qua tác động của những mối liên hệ làng và siêu làng” [85; tr.130]. Khái niệm này bao trùm mọi yếu tố của làng và xét đến cả nguồn gốc hình thành của nó. Nhƣ vậy, làng là một sản phẩm của quá trình định cư và cộng cư của người Việt. Làng từ một cộng đồng tụ cư trở thành một đơn vị kinh tế- xã hội hoàn chỉnh, một đơn vị kinh tế tự cung, tự cấp của người nông dân. Làng là một đơn vị hành chính cơ sở của tổ chức nhà nước, một không gian sinh hoạt văn hóa độc lập của người Việt Nam. Đồng thời làng là một thiết chế xã hội, trong đó các thành viên liên kết với nhau dựa trên quan hệ huyết thống hoặc địa vực cư trú nhất định và có quan hệ lợi ích chung với nhau. Làng có cơ sở kinh tế, có thiết chế tổ chức tương đối độc lập, có nền văn hóa riêng tạo thành 9
  16. bản sắc riêng của làng. Nhƣ vậy, làng là sự tổng hòa của các yếu tố kinh tế- chính trị- văn hóa- xã hội, tạo thành sự thống nhất trong tổ chức làng. Làng đƣợc hình thành vào đầu thời kỳ dựng nƣớc, là sản phẩm của nền nông nghiệp lúa nƣớc ở Việt Nam. Ban đầu, làng ra đời là do sự chuyển hóa của các công xã thị tộc, cùng với sự cộng cƣ, khai thác đất đai tại một khu vực của những gia đình nông dân, dựa trên quan hệ láng giềng. Bƣớc vào thiên niên kỉ thứ II TCN, làng xuất hiện ở những miền đất đai của bộ lạc Văn Lang. Đến thiên niên kỉ I TCN làng đƣợc thành lập trong cả nƣớc, lối sống ở hang nguyên thủy đã căn bản lùi hẳn về phía sau. Tiến ra đồng bằng rộng lớn, bộ phận dân cƣ quan trọng thời Hùng Vƣơng sinh tụ quây quần thành từng cụm, tạo thành làng. Các làng mọc lên, nối nhau và lan rộng. Con ngƣời đã bắt đầu khai phá các đồng bằng phì nhiêu rộng lớn ở các khu vực châu thổ hạ lƣu các con sông. Nhiều cánh đồng tƣơi tốt dần thay thế cho những bụi rậm hoang vắng, cƣ dân ngày càng đông hơn và tạo thành xã hội rộng lớn hơn. Đấy là những đỉnh gò đồi, chân núi và doi đất vừa cao ráo vừa tiện phòng ngự. Từ đó có thể xuống ruộng, lên nƣơng, vào rừng, ra sông để cấy hái, săn bắt và đánh cá. Nguồn nƣớc cũng ở gần, tạo môi trƣờng thuận lợi để ngƣời dân sinh sống. Dòng sông lớn và những nhánh sông đã trở thành đầu mối của việc đi lại, vận chuyển và giao tiếp. Khi dân cƣ ngày càng đông, làng đƣợc thành lập nhiều hơn. Dân trong làng đông đúc thì đƣợc nhà nƣớc cho phép tách ra thành lập làng mới theo lệ tách làng, hoặc đứng ra xin phép nhà nƣớc cho tách làng thành làng mới. Nhiều làng đƣợc thành lập do dân di cƣ. Ngoài ra, phần lớn số làng thành lập về sau là do công cuộc di dân tự động, hoặc có tổ chức của nhà nƣớc nhƣ chính sách khai hoang, lập đồn điền, điền trang thái ấp, chính sách khẩn hoang lập dinh điền. Cũng có một số làng ra đời do chủ trƣơng lập ấp trại của chính quyền đô hộ thời Bắc thuộc. 10
  17. Do điều kiện tự nhiên, điều kiện lịch sử và đặc điểm của quá trình hình thành, làng ở miền Bắc và miền Trung thƣờng có xu hƣớng co cụm, mang tính phòng thủ cao, còn làng ở miền Nam thƣờng trải dài theo hai bờ kênh rạch, sự giao lƣu trao đổi kinh tế có phần năng động, văn hóa thoáng mở hơn, và ảnh hƣởng của Nho giáo cũng nhạt hơn so với các làng xã miền Bắc. Sự ra đời của làng Việt Nam là một tất yếu, nhằm đối phó với môi trƣờng tự nhiên và môi trƣờng xã hội. Xuất phát từ một nền nông nghiệp lúa nƣớc với tính thời vụ cao nên ngƣời nông dân thƣờng có xu hƣớng sống quây quần lại nhằm giúp đỡ nhau trong sản xuất và chống chọi với thiên nhiên. Đặc biệt, công tác trị thủy đòi hỏi phải có sức mạnh tổng hợp nên mọi ngƣời đã gắn kết, hợp tác với nhau, cùng lao động và chung sống trong những địa vực nhất định. Bên cạnh đó, sự liên kết của ngƣời dân để tạo thành làng còn xuất phát từ nhu cầu đối phó với trộm cƣớp, những thế lực thù địch. Cá nhân nào tách khỏi làng sẽ phải đƣơng đầu với vô vàn rủi ro và nguy hiểm. Làng tạo thành khuôn khổ xã hội cơ bản cho dân chúng ở nông thôn. Nhƣ vậy, làng là một tổ chức quần cƣ tự nhiên của những ngƣời dân Việt, là nơi những ngƣời dân Việt sống và đoàn kết với nhau chống thiên tai, địch họa, để lao động, sản xuất và tổ chức đời sống văn hóa vật chất và tinh thần. Làng là nơi thỏa mãn hầu hết những nhu cầu cơ bản của mỗi ngƣời dân. Làng có giới hạn lãnh thổ và môi trƣờng văn hóa- tín ngƣỡng xác định. Làng Việt Nam truyền thống đƣợc bao bọc bởi lũy tre xanh, đây là biểu tƣợng cho tính chất “kín” hay tính “tự trị” của làng Việt. Giáo sƣ Trần Ngọc Thêm cho rằng rặng tre bao kín quanh làng, trở thành một thứ thành lũy kiên cố bất khả xâm phạm đốt không cháy, trèo không đƣợc, đào đƣờng hầm thì vƣớng rễ không qua. Lũy tre là một đặc điểm quan trọng làm cho làng xóm Việt Nam khác hẳn ấp lí Trung Hoa, có thành quách đắp bằng đất bao bọc. Bởi vậy lũy tre có thể coi là bức tƣờng rào kiên cố để ngăn cách làng với thế giới bên ngoài. 11
  18. Ở mỗi thôn xóm Việt Nam, cùng với lũy tre xanh là cổng làng. Đây là chiếc cầu nối giữa làng với bên ngoài. Mỗi làng không chỉ có một cổng mà đôi khi còn có nhiều cổng, nhƣ cổng tiền, cổng hậu hay cổng chính, cổng phụ để thuận tiện cho việc đi làm đồng. Có thể coi đó là biểu tƣợng cho tính chất “hở” của làng. Nhƣ vậy, làng Việt Nam truyền thống là một tổ chức “nửa kín”, “nửa hở”, vừa “tĩnh”, vừa “động”. 1.1.2 Đặc trưng của làng Việt Nam truyền thống Thứ nhất, sản xuất nông nghiệp tự cung, tự cấp, khép kín Nền kinh tế trong các làng Việt Nam truyền thống là nền kinh tế trọng nông, phân tán và sản xuất tự cung, tự cấp. “Mảnh đất cỏn con, ngƣời nông dân và gia đình anh ta; cạnh đó lại một mảnh đất cỏn con khác, một nông dân khác và một gia đình khác. Một nhóm những đơn vị ấy tập hợp thành một làng, một nhóm làng tập hợp thành một tỉnh” [63, tr.264]. Mỗi làng Việt Nam dƣờng nhƣ là một “bầu trời riêng” về kinh tế. Sự trao đổi liên làng, liên xã, liên vùng diễn ra yếu ớt và không liên tục. Mỗi gia đình trong làng thƣờng sản xuất ra nhiều loại sản phẩm, nhƣng mỗi sản phẩm chỉ có một ít, trƣớc hết phục vụ cho nhu cầu trong gia đình: một lƣợng thóc gạo, hoa màu đủ ăn một cách tiết kiệm trong năm, một ít rau dƣa, cây quả đủ để hái dùng cho các bữa ăn hàng ngày, một con bò hay con trâu để cày bừa, một vài con lợn, một đàn gà vịt đủ để dùng trong các ngày lễ, tết, cƣới hỏi, tang ma, giỗ chạp…Tất cả nhằm mục đích tự cung tự cấp, chỉ có một phần nhỏ dƣ thừa để trao đổi, bán ra để mua một số vật dụng cần thiết mà trình độ “công nghệ” của gia đình không thể sản xuất đƣợc nhƣ dao kéo, cày bừa, cuốc thuổng… Nền kinh tế tự cung tự cấp kéo dài hàng nghìn năm đã kìm hãm sự giao lƣu kinh tế giữa các vùng, củng cố thêm tính độc lập khép kín giữa các làng. Nhà nghiên cứu Huỳnh Khái Vinh đã nhận xét: “Hoạt động sống của con ngƣời nhƣ thế nào thì họ là nhƣ thế ấy. Do đó, họ là nhƣ thế nào, điều đó ăn khớp với sản xuất 12
  19. của họ, với cái mà họ sản xuất ra cũng nhƣ với cách họ sản xuất. Do đó, những cá nhân là nhƣ thế nào, điều đó phụ thuộc vào những điều kiện vật chất của sự sản xuất của họ” [94, tr.30]. Chính nền kinh tế tự cung tự cấp đó đã làm tăng sự cố kết cộng đồng làng, vì thế giao thƣơng, trao đổi liên làng không có điều kiện để xảy ra. Hầu nhƣ ở các làng đều có các hoạt động sản xuất tƣơng tự giống nhau, bao gồm các hoạt động nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, buôn bán nhỏ và khai thác sản vật tự nhiên để tự sản xuất những sản phẩm cho nhu cầu tiêu dùng cơ bản nhất của dân cƣ trong làng. Trong cấu trúc kinh tế ấy, sản xuất nông nghiệp là hoạt động căn bản nhất và luôn đƣợc xem là “nghề gốc” của đa số các hộ dân cƣ. Hoạt động nông nghiệp bao trùm và chi phối đến tất cả các hoạt động kinh tế khác. Sản xuất lúa gạo và lƣơng thực là phƣơng thức sản xuất và sinh sống vừa có ý nghĩa sinh tồn vừa có ý nghĩa truyền thống của hầu hết các làng xã trong suốt chiều dài lịch sử. Tƣ tƣởng “dĩ nông vi bản” đã trở thành ý thức hệ phổ biến, hầu nhƣ bất di bất dịch, kể cả đối với tầng lớp quan lại phong kiến, cũng nhƣ đối với ngƣời nông dân và các tầng lớp dân cƣ khác. Bên cạnh các làng thuần nông là cơ bản, thì trong nền kinh tế xã hội truyền thống, các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và thƣơng nghiệp cũng xuất hiện từ rất sớm, gắn liền với hoạt động nông nghiệp và hỗ trợ, bổ sung cho nông nghiệp. Ở khu vực đồng bằng sông Hồng xuất hiện rất nhiều những làng nghề nhƣ các làng chuyên về làm giấy, dệt vải, đúc đồng, làm gốm, đan lát… Việc trao đổi, giao lƣu buôn bán đƣợc thực hiện tại các chợ làng. Nhìn chung, nền kinh tế ở các làng Việt Nam truyền thống là nền sản xuất nhỏ, lạc hậu, khả năng tích lũy thấp. Hoạt động sản xuất của dân cƣ chủ yếu dựa vào tập quán, kinh nghiệm và thói quen. Do trình độ sản xuất lạc hậu nên phần lớn các hoạt động sản xuất và sinh hoạt của dân cƣ lệ thuộc rất nhiều vào các yếu tố và điều kiện tự nhiên. Bên cạnh đó, các làng xã cũng luôn phải tìm cách cải tạo các yếu tố tự nhiên, thích ứng và đối phó với những 13
  20. tác động bất lợi của tự nhiên (gió bão, lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh…) để bảo vệ sản xuất và cuộc sống. Do đó, mọi thành viên trong làng đều gắn bó với nhau, tạo thành một khối đoàn kết, bền vững. Ngƣợc lại, làng cũng trở thành thực thể đại diện cho dân cƣ thực hiện các nghĩa vụ kinh tế đối với Nhà nƣớc (nhƣ thu nộp thuế, huy động nhân công đắp đê chống lũ lụt…). Mỗi làng đều có tài sản, công quỹ và các khoản thu đóng góp cho các hoạt động chung của làng. Tài sản đó chủ yếu là ruộng đất. Ngoài ruộng đất công thuộc sở hữu của nhà nƣớc do làng quản lý, làng còn có một loại ruộng khác thuộc toàn quyền sở hữu của làng. Đó là bản xã công điền công thổ. Ở miền Bắc trƣớc đây, hầu nhƣ làng nào cũng có loại ruộng này (trừ làng làm nghề đánh cá), với số lƣợng không nhiều từ vài mẫu đến vài ba chục mẫu. Nguồn gốc của bản xã công điền công thổ có thể là ruộng của vua ban cho làng khi sắc phong Thành Hoàng để làng dùng vào việc tế lễ; có thể làng tự ý trích một phần ruộng công của nhà nƣớc, những ruộng đó lâu dần trở thành ruộng của làng; có thể là ruộng tƣ nhân cúng cho làng để đƣợc làng khói hƣơng sau khi chết (ruộng hậu); có thể do dân làng góp tiền mua, hoặc làng lấy tiền bán chức sắc để mua…Ngoài ra, trong làng thƣờng có một bộ phận đất đai không ghi trong sổ điền bạ nhƣ đất bến, bãi, đất chợ, ao, đầm, khe, suối, gò đồi…Số ruộng đất này thƣờng cho thuê hoặc bán đấu giá lấy tiền dùng vào việc chung. Sự tồn tại của một bộ phận ruộng đất công do làng quản lý và những ruộng đất thuộc sở hữu của làng cho phép làng bằng cách này hay cách khác tạo ra một nguồn quỹ làng, không những để hỗ trợ cho những ngƣời dân làng nộp sƣu thuế mà còn là nguồn tài chính để tổ chức và hỗ trợ các sinh hoạt cộng đồng trong làng. Thứ hai, đời sống văn hóa tinh thần mang đậm dấu ấn của nền văn hóa gốc nông nghiệp Làng Việt Nam có một đời sống văn hóa vô cùng đa dạng và đặc sắc. Do nhận thức cũng nhƣ sự phát triển thấp kém của trình độ sản xuất đã làm 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2