intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử: Sự lệch chuẩn đạo đức công vụ ở một bộ phận cán bộ, công chức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:167

14
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài "Sự lệch chuẩn đạo đức công vụ ở một bộ phận cán bộ, công chức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay" nhằm làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực trạng sự lệch chuẩn đạo đức công vụ của một bộ phận CB, CC trong điều kiện KTTT ở Việt Nam, luận án đề xuất một số giải pháp chủ yếu để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục lệch chuẩn đạo đức công vụ ở một bộ phận CB, CC ở Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử: Sự lệch chuẩn đạo đức công vụ ở một bộ phận cán bộ, công chức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH LÊ THỊ NAM AN SỰ LỆCH CHUẨN ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ Ở MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ HÀ NỘI - 2022
  2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH LÊ THỊ NAM AN SỰ LỆCH CHUẨN ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ Ở MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ Mã số: 922 90 02 Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS,TS. TRẦN SỸ PHÁN 2. TS. TRẦN SỸ DƯƠNG HÀ NỘI - 2022
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả luận án Lê Thị Nam An
  4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 6 1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến công vụ, đạo đức công vụ, sự lệch chuẩn đạo đức công vụ 6 1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng lệch chuẩn đạo đức công vụ ở một bộ phận cán bộ, công chức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc phục 23 1.3. Giá trị khoa học của các công trình đã tổng quan có liên quan đến đề tài và những vấn đề luận án cần tiếp tục giải quyết 30 Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ LỆCH CHUẨN ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ Ở MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 32 2.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài luận án 32 2.2. Sự lệch chuẩn đạo đức công vụ ở một bộ phận cán bộ, công chức Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường - khái niệm, tiêu chí đánh giá 68 Chương 3: SỰ LỆCH CHUẨN ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ Ở MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN 76 3.1. Thực trạng lệch chuẩn đạo đức công vụ ở một bộ phận cán bộ, công chức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay 76 3.2. Nguyên nhân của thực trạng sự lệch chuẩn đạo đức công vụ ở một bộ phận cán bộ, công chức hiện nay 100 Chương 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU KHẮC PHỤC SỰ LỆCH CHUẨN ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ Ở MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 114 4.1. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm khắc phục mặt trái của nền kinh tế thị trường tác động đến đạo dức công vụ 114
  5. 4.2. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ngang tầm nhiệm vụ 120 4.3. Nâng cao hiệu quả giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, công chức Việt Nam hiện nay 128 4.4. Nâng cao ý thức tự rèn luyện đạo đức công vụ của cán bộ, công chức 141 4.5. Mở rộng dân chủ, phát huy vai trò của nhân dân, coi dư luận xã hội, truyền thông, báo chí là một kênh thông tin để ngăn ngừa, điều chỉnh, khắc phục lệch chuẩn đạo đức công vụ 148 KẾT LUẬN 149 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CB, CC : Cán bộ, công chức CMĐĐCV : Chuẩn mực đạo đức công vụ ĐĐCV : Đạo đức công vụ KTTT : Kinh tế thị trường
  7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong cấu trúc nhân cách của con người nói chung, người cán bộ, công chức (CB, CC) nói riêng, thành tố đạo đức đóng một vai trò hết sức quan trọng. Đạo đức được coi là “nền tảng”, là “hạt nhân”, là yếu tố “chưng cất” của nhân cách con người nói chung, người CB, CC nói riêng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói rằng, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng, không có đạo đức cách mạng thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Trung thành với những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong công tác cán bộ, Đảng ta coi trọng cả đức và tài, “trong đó đức là gốc”. Để đưa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng lên tầm cao mới, gắn liền với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá XIII, Đảng ta rất coi trọng việc “xây dựng Đảng về đạo đức, đề cao trách nhiệm nêu gương, ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các cấp”. Bên cạnh đại đa số CB, CC có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có tư duy đổi mới, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện, trình độ, năng lực được nâng lên, phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao v.v thì hiện vẫn còn không ít CB, CC làm việc thiếu tính chuyên nghiệp; ý thức tổ chức kỷ luật không cao; ý thức, tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân thấp; không tích cực phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Đặc biệt một số CB, CC vi phạm các quy định về bảo vệ bí mật Đảng, Nhà nước đến mức phải kỷ luật, xử lý hình sự. Tại Đại hội lần thứ XIII (năm 2021), một lần nữa Đảng ta chỉ rõ “Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức suy thoái đạo đức, lối sống và vi phạm đạo đức công vụ (ĐĐCV)” [34, tr.78]. Để có được đội ngũ CB, CC “vừa hồng, vừa chuyên”, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới; Để nâng cao chất lượng dịch vụ công; Để xây dựng nền hành
  8. 2 chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch có năng lực kiến tạo phát triển, liêm chính, phục vụ nhân dân, trên cơ sở những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân v.v. đòi hỏi phải đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng; nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên, công chức; thực hiện thường xuyên, sâu, rộng, có hiệu quả việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị; khắc phục tình trạng lệch chuẩn đạo đức theo xu hướng xấu, tiêu cực đang diễn ra trong một bộ phận CB, CC nước ta hiện nay. Trong những năm gần đây, vấn đề ĐĐCV đã thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, các nhà lãnh đạo, quản lý ở nhiều nước với các chế độ chính trị khác nhau. Đã có không ít cuốn sách, các bài đăng trên các tạp chí khoa học bàn đến các vấn đề liên quan đến ĐĐCV. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu về sự lệch chuẩn ĐĐCV một cách hệ thống - nhất là trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa. Với ý nghĩa đó, tác giả luận án lựa chọn vấn đề “Sự lệch chuẩn đạo đức công vụ ở một bộ phận cán bộ, công chức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận án tiến sĩ triết học của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích Trên cơ sở làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực trạng sự lệch chuẩn ĐĐCV của một bộ phận CB, CC trong điều kiện KTTT ở Việt Nam, luận án đề xuất một số giải pháp chủ yếu để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục lệch chuẩn ĐĐCV ở một bộ phận CB, CC ở Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ Thứ nhất, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. Thứ hai, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về sự lệch chuẩn ĐĐCV trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay.
  9. 3 Thứ ba, phân tích thực trạng sự lệch chuẩn ĐĐCV ở một bộ phận CB, CC trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay và nguyên nhân của thực trạng. Thứ tư, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm ngăn chặn, hạn chế, khắc phục sự lệch chuẩn ĐĐCV ở một bộ phận CB, CC trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Sự lệch chuẩn ĐĐCV ở một bộ phận CB, CC trong điều kiện KTTT ở Việt Nam 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian: từ năm 2001 đến nay1. - Phạm vi nghiên cứu về mặt không gian: trên phạm vi cả nước - Phạm vi khảo sát: luận án chủ yếu tập trung phân tích thực trạng sự lệch chuẩn ĐĐCV (theo chiều hướng tiêu cực) của CB, CC trong lĩnh vực dân sự 4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về: đạo đức, đạo đức cộng vụ, chuẩn mực đạo đức công vụ (CMĐĐCV) của CB, CC trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay. Luận án kế thừa các kết quả, tư tưởng, quan điểm của các công trình nghiên cứu đã được công bố có liên quan trực tiếp đến luận án. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra, chúng tôi sử dụng nhất quán và có hệ thống các phương pháp nghiên cứu khoa học phổ biến là: - Phương pháp lý luận: Luận án sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, với hạt nhân là phương pháp luận 1 Lý do chúng tôi chọn mốc thời gian từ năm 2001 đến nay vì căn cứ vào Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng ta xác định mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là cơ sở để chúng tôi phân tích thực trạng sự lệch chuẩn ĐĐCV ở một bộ phận CB, CC trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay.
  10. 4 duy vật biện chứng của triết học Mác- Lênin để ngiên cứu về sự lệch chuẩn ĐĐCV ở một bộ phận CB, CC trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay. - Phương pháp lịch sử và lôgíc: Phương pháp này được sử dụng trong luận án để nhằm luận giải vấn đề sự lệch chuẩn ĐĐCV một cách nhất quán và có hệ thống, đó là việc nêu ra khái niệm CMĐĐCV, sự lệch chuẩn ĐĐCV; biểu hiện và thực trạng sự lệch chuẩn ĐĐCV trong nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; các giải pháp gắn với nguyên nhân và thực trạng. - Phương pháp phân tích và tổng hợp: Đây là phương pháp phổ biến trong nghiên cứu khoa học, việc sử dụng phương pháp phân tích giúp cho chúng tôi làm rõ các tiêu chí đánh giá sự lệch chuẩn ĐĐCV, làm rõ được thực trạng sự lệch chuẩn ĐĐCV, từ đó đề xuất các giải pháp một cách có hệ thống dựa trên thực trạng và nguyên nhân, từ đó xây dựng được kết luận của từng vấn đề, từng chương trong luận án và kết luận chung toàn bộ luận án. - Phương pháp thống kê: Được sử dụng trong chương 1 và 3 của luận án nhằm tập hợp, đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và thực trạng sự lệch chuẩn ĐĐCV ở một bộ phận CB, CC trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay. - Phương pháp dự báo khoa học: Được sử dụng chủ yếu trong chương 4 nhằm đưa ra các giải pháp trong việc ngăn chặn, hạn chế, khắc phục sự lệch chuẩn ĐĐCV ở một bộ phận CB, CC trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Thứ nhất, luận án làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về sự lệch chuẩn ĐĐCV ở một bộ phận CB, CC (theo chiều hướng tiêu cực) trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay; nêu lên các tiêu chí và chỉ ra biểu hiện của sự lệch chuẩn ĐĐCV ở một bộ phận CB, CC trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay; Thứ hai, luận án chỉ ra thực trạng lệch chuẩn ĐĐCV theo xu hướng tiêu cực ở một bộ phận CB, CC trong điều kiện KTTT ở nước ta hiện nay. Thứ ba, luận án đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm khắc phục sự lệch chuẩn ĐĐCV ở một bộ phận CB, CC trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay.
  11. 5 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Luận án làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về CMĐĐCV, sự lệch chuẩn ĐĐCV trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay. Luận án nêu lên thực trạng, đề xuất giải pháp khắc phục sự lệch chuẩn đạo đức ở một bộ phận CB, CC trong điều kiện KTTT ở nước ta hiện nay. Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, giảng dạy các môn đạo đức học nói chung, ĐĐCV nói riêng. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình khoa học đã được công bố của tác giả có liên quan đến đề tài, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương 12 tiết.
  12. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG VỤ, ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ, SỰ LỆCH CHUẨN ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ 1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến công vụ, đạo đức công vụ, chuẩn mực đạo đức công vụ Vấn đề công vụ, ĐĐCV, CMĐĐCV đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu cũng như chính phủ nhiều nước khác nhau trên thế giới quan tâm. Không ít kết quả nghiên cứu liên quan đến các vấn đề này đã được công bố. Trong số đó, có thể kể đến một số công trình sau: Thứ nhất, các công trình nghiên cứu đến công vụ Cuốn Thuật ngữ Hành chính của Học viện Hành chính Quốc gia [56] là công trình khoa học của Trường Đại học tổng hợp Stellenbosch, Nam Phi có đề cập đến khái niệm công vụ. Theo đó, công vụ “bao gồm các cơ quan khác nhau của chính phủ, như các bộ, ngành của nhà nước, các tổ chức doanh nghiệp, các tập đoàn và doanh nghiệp của chính phủ là các cơ quan chịu trách nhiệm về việc tạo điều kiện và thực thi pháp luật, chính sách công và các quyết định của chính phủ” [56, tr.1]. Quan niệm này tiếp cận khái niệm công vụ ở góc độ các hoạt động của chính phủ, hoạt động của bộ máy hành chính. Công trình “Đạo đức công vụ của CB, CC, viên chức hiện nay” của Thân Minh Quế [103], tác giả khẳng định, “công vụ là một loại hoạt động mang tính quyền lực- pháp lý được thực thi bởi đội ngũ CB, CC nhà nước hoặc những người khác khi được nhà nước trao quyền nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trong quá trình lý toàn diện các mặt hoạt động của đời sống xã hội” [103, tr.14]. Cuốn “Đạo đức công chức trong thực thi công vụ” của tác giả Ngô Thành Can [12], tác giả cho rằng, “công vụ có thể được xem là một loại lao động mang tính quyền lực và pháp lý do đội ngũ công chức thực hiện, sử dụng ngân sách nhà nước để tiến hành các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước trong việc quản lý toàn diện các mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của một
  13. 7 quốc gia” [12, tr.34]. Quan niệm này khẳng định chủ thể của hoạt động công vụ là công chức Nhà nước, thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước. Các quan niệm trên về công vụ cho thấy, công vụ là hoạt động tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, do các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền đảm nhiệm theo quy định của pháp luật để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, nhằm phục vụ xã hội và nhân dân. Thứ hai, các công trình nghiên cứu đến ĐĐCV Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt ra nguyên tắc tối thượng của hành vi công vụ, đó là thượng tôn pháp luật. Song điều đó không đồng nghĩa với việc hạ thấp vai trò của ĐĐCV. Hơn nữa, trong điều kiện KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa, đặt ra nhiều yêu cầu về năng lực và phẩm chất đạo đức của đội ngũ CB, CC. Vì vậy, vấn đề ĐĐCV được phản ánh khá sâu sắc qua nhiều công trình nghiên cứu sau đây: Cuốn Nghiên cứu, so sánh quy định về ĐĐCV của một số quốc gia và Việt Nam của Đỗ Thị Ngọc Lan [66], gồm ba chương, tác giả đưa ra các khái niệm công vụ, ĐĐCV ở chương 1. Những nghiên cứu này tập hợp, so sánh ĐĐCV của một số quốc gia và khuyến nghị cho hệ thống quản lý công vụ ở Việt Nam. Tác giả cũng nêu ba thành tố của bộ quy tắc ứng xử của ĐĐCV ở Việt Nam bao gồm: giá trị cốt lõi, các nguyên tắc ĐĐCV, cụ thể hóa các quy tắc ứng xử. Đây là tài liệu tham khảo cho chúng tôi trong việc nghiên cứu về nội dung các CMĐĐCV. Cuốn “Đạo đức công chức trong thực thi công vụ” của Ngô Thành Can [12] gồm năm chương. Trong chương 2, các tác giả nêu lên khái niệm đạo đức công chức và khẳng định tính tất yếu của việc xây dựng đạo đức công chức trong nền KTTT ở nước ta; chương 3 làm rõ thực trạng đạo đức trong thực thi công vụ, chương 4 nêu lên những chuẩn mực và nguyên tắc xây dựng đạo đức công chức Việt Nam; chương 5 nêu một số giải pháp chủ yếu xây dựng đạo đức trong điều kiện KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, trong chương 4, các tác giả nêu lên các giá trị ĐĐCV là trung thành, đáng tin cậy; tinh thần đoàn kết; có lòng tự trọng, có trách nhiệm; thái độ, và hành vi ứng xử tích cực. Điều này thể hiện tính phổ biến của ĐĐCV. Chúng tôi nhận thấy đây là cuốn sách có nhiều kiến thức phong phú, trình bày có hệ thống và có nhiều giá trị lý luận và thực tiễn.
  14. 8 Cuốn “Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền KTTT với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý nước ta hiện nay” của Nguyễn Chí Mỳ [91], tác giả đề cập đến một nội dung cấu thành của ĐĐCV, đó là đạo đức mới - đạo đức cách mạng. Trong các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng đạo đức mới cho cán bộ lãnh đạo, quản lý có sự tác động sâu sắc của nền KTTT. Điều này giúp cho tác giả luận án nhận thức rõ ngoài tính phổ biến của các chuẩn mực đạo đức, còn có tính đặc thù của các chuẩn mực đạo đức cho các đối tượng CB, CC. Tính đặc thù này thể hiện rõ hơn trong đạo đức nghề nghiệp của CB, CC. Cuốn “Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay” của Nguyễn Thế Kiệt [64] đã chỉ ra thực trạng biến đổi, suy thoái đạo đức của cán bộ quản lý, lãnh đạo ở nước ta trước sự tác động của KTTT. Từ đó, việc nâng cao đạo đức cho đội ngũ cán bộ quản lý, lãnh đạo là vấn đề cấp thiết trong giai đoạn đổi mới. Cùng một góc nhìn về ĐĐCV, bài "Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay" của tác giả Trần Văn Phòng [99] nghiên cứu về đặc thù của đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị, tác giả nêu ra các tiêu chuẩn của người cán bộ, lãnh đạo quản lý trong bối cảnh hiện nay, trước những yêu cầu của sự nghiệp cách mạng và sự tác động củ nền KTTT. Trong khuôn khổ bài viết, tác giả đề ra các tiêu chuẩn đạo đức cơ bản của người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay, làm căn cứ cho việc tuyển chọn, đánh giá cán bộ, xây dựng Đảng, phát triển Đảng. Ba công trình nghiên cứu trên của các tác giả Nguyễn Chí Mỳ, Nguyễn Thế Kiệt, Trần Văn Phòng tuy chỉ đề cập đến đạo đức của cán bộ quản lý, lãnh đạo nhưng đã gợi ý cho chúng tôi, trong việc đề cập đến sự lệch chuẩn ĐĐCV nói chung, cần xem xét đến tính đặc thù của sự lệch chuẩn đó. Bởi hoạt động công vụ gắn với quyền lực, vì vậy yêu cầu về tính chuẩn mực đạo đức của người cán bộ lãnh đạo, đặc biệt là lãnh đạo chính trị càng phải cao hơn rất nhiều. Nhưng nếu xây dựng, gìn giữ chuẩn mực đạo đức từ những chuẩn mực phổ biến nhất, thì sẽ đồng thời hạn chế được những lệch chuẩn mang tính đặc thù đó. Trong bài “Hoàn thiện thể chế ĐĐCV trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Trần Quốc Hải [44] cho rằng, chúng ta đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định về ĐĐCV, công chức, song việc vi phạm ĐĐCV vẫn rất nặng nề.
  15. 9 Do đó, cần phải hoàn thiện thể chế ĐĐCV, trong đó cần ban hành các quy định cụ thể về tiêu chuẩn đạo đức cho các loại CB, CC. Quan điểm này là cơ sở giúp cho tác giả luận án kế thừa trong việc xây dựng các giải pháp nhằm khắc phục lệch chuẩn ĐĐCV. Với bài “Về ĐĐCV trong Luật công vụ” của tác giả Lưu Kiếm Thanh [113] khẳng định quan điểm của mình, ĐĐCV cần phải có vị trí tương xứng trong Luật công vụ. Bởi vì, khi các tiêu chuẩn đạo đức không được phản ánh một cách cụ thể trong khuôn khổ pháp lý và các quy định thì thật khó mà xác định đâu là tiêu chuẩn, đâu là nguyên tắc bắt buộc về hành vi của tất cả công chức. Nó cho thấy tính phức tạp của ĐĐCV. Vì hoạt động công vụ mang tính quyền lực - pháp lý cho nên CB, CC thực hiện ĐĐCV trong Luật công vụ là điều phải làm, thực hiện ĐĐCV được xã hội thừa nhận là điều nên làm. Đây là mảng nghiên cứu khá cụ thể và cần thiết, chúng tôi cũng coi đây là một căn cứ để đưa ra các CMĐĐCV của CB, CC và các tiêu chí đánh giá sự lệch chuẩn ĐĐCV. Cùng quan điểm với Lưu Kiếm Thanh, Bùi Huy Tùng có bài“Phát huy vai trò của pháp luật đối với ĐĐCV” [114]. Tác giả cho rằng, ĐĐCV là giá trị được thể hiện ở cả hai phương diện: chuẩn mực đạo đức và quy phạm pháp luật. Theo tác giả, cần thể chế hóa các quy phạm đạo đức thành pháp luật và tăng cường giáo dục ý thức pháp luật gắn với ĐĐCV cho CB, CC. Đồng thời cần phải đấu tranh kiên quyết với các vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức của CB, CC. Bài viết nhấn mạnh vai trò điều chỉnh hành vi của cả pháp luật và đạo đức đối với CB, CC, đề cao công tác giáo dục ý thức đạo đức và ý thức pháp luật cho CB, CC. Những quan điểm của các tác giả là cơ sở lý luận để chúng tôi tham khảo, làm rõ các đặc điểm của ĐĐCV trong luận án. Đồng thời, bài viết cũng gợi mở cho chúng tôi những suy nghĩ khi nghiên cứu về các giải pháp nhằm ngăn chặn, hạn chế, khắc phục sự lệch chuẩn ĐĐCV trong điều kiện KTTT. Muốn tăng cường kiểm soát quyền lực của CB, CC trong điều kiện KTTT, cần phải tăng cường vai trò của pháp luật, bằng cách xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, đề cao tính thượng tôn pháp luật trong thực thi công vụ. Về bài “Đạo đức công chức trong thực thi công vụ” của tác giả Cao Minh Công [19] đã nêu lên quan điểm để xây dựng nền hành chính hiệu quả cần có đội
  16. 10 ngũ công chức chính quyền chuyên nghiệp và có đạo đức. Công chức cần có các cam kết đạo đức cụ thể; có ý thức phục vụ lợi ích cộng đồng; đảm nhận các trách nhiệm nghiệp vụ của mình với nhân dân, với đồng nghiệp, với người đồng nhiệm; cam kết nâng cao chất lượng phục vụ. Bài viết giúp chúng tôi nhận ra vai trò to lớn của điều chỉnh đạo đức trong thực thi công vụ. Những ranh giới giữa cái tốt và cái xấu, cái thiện và cái ác, cái nên làm và không nên làm, cái lợi ích vật chất đơn thuần và các giá trị về phẩm hạnh trong điều kiện KTTT thường rất mỏng manh. Do đó, cơ chế điều tiết từ bên trong, suy nghĩ về sự hổ thẹn khi các tiêu chuẩn đạo đức không đạt được của cá nhân CB, CC luôn có thế mạnh riêng, giúp họ đạt tới việc hoàn thành nhiệm vụ. Với bài “Tiêu chuẩn công chức và vấn đề năng lực trong quá trình tiếp tục cải cách công vụ, công chức” của tác giả Trần Anh Tuấn [121] đã nêu lên tiêu chuẩn công chức và những vấn đề đặt ra đối với tiêu chuẩn cụ thể của công chức, đồng thời nêu lên một số ý kiến nhằm hoàn thiện tiêu chuẩn công chức gắn với các yếu tố năng lực. Tác giả phân định các yếu tố năng lực chung như: năng lực soạn thảo văn bản, năng lực xây dựng chính sách, năng lực phối hợp trong công vụ, năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ theo nhóm...; các yếu tố năng lực chuyên biệt của công chức lãnh đạo, quản lý như: năng lực lãnh đạo, điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ; năng lực tham mưu chiến lược và điều hành công việc, năng lực bao quát với năng lực biết tập trung cho công việc chính yếu, quan trọng; năng lực tập hợp, đoàn kết công trong cơ quan được gia lãnh đạo, quản lý...Bài viết thể hiện khá rõ về các tiêu chuẩn của người công chức, cũng là góc nhìn để chúng tôi tiếp cận nghiên cứu về lý luận CMĐĐCV. Trong bài, “Bàn thêm về đạo đức và ĐĐCV” của tác giả Đỗ Thị Ngọc Lan [65] đã nêu các khái niệm “đạo đức” và “công vụ”. Tác giả cho rằng, công vụ là hoạt động công quyền, còn ĐĐCV là đạo đức của công chức thể hiện qua hành vi ứng xử đúng của công chức trong mối quan hệ với đồng nghiệp, với tổ chức và công dân trong khi thực thi công vụ. Tác giả cũng đã trình bày các đặc điểm của ĐĐCV, đó là một dạng đạo đức xã hội, thể hiện bản chất chính trị của giai cấp cầm quyền, các nguyên tắc của ĐĐCV phải được đề ra cụ thể trong mối quan hệ với pháp luật...Công trình này làm rõ thêm các lý luận về
  17. 11 ĐĐCV, giúp cho tác giả luận án có cơ sở xây dựng quan điểm của mình trong phần lý luận về ĐĐCV. Bài “Đạo đức công vụ” của nhóm tác giả Minh Hoàng, Thu Hường, An Nhiên, Khôi Nguyên và Tâm Thành [54] nêu lên các quan điểm về CB, CC, công vụ, đạo đức và ĐĐCV, hệ thống quản lý ĐĐCV, mối quan hệ giữa nền công vụ và các lĩnh vực khác...Nhóm tác giả lấy ví dụ về nền công vụ hoạt động hiệu quả, đó là nền công vụ Đức, trên các mặt như tổ chức hành chính, nhân sự hành chính, quyền và nghĩa vụ của công chức, hệ thống chức nghiệp và chính sách đãi ngộ. Theo nhóm tác giả, ĐĐCV là những giá trị đạo đức và chuẩn mực pháp lý được áp dụng cho CB, CC hoạt động trong lĩnh vực công vụ. Những nghiên cứu này giúp cho tác giả luận án có những kiến giải về ĐĐCV, những trăn trở trong việc xác định nội hàm của khái niệm ĐĐCV. Theo đó, cần làm rõ xem chuẩn mực đạo đức và chuẩn mực pháp lý là hai chuẩn mực khác biệt rõ ràng, hay đồng quan điểm với tác giả trên, rằng ĐĐCV bao gồm cả những giá trị đạo đức và chuẩn mực pháp lý. Nhưng theo chúng tôi, đặc trưng của đạo đức là điều chỉnh bằng lương tâm, đặc trưng của pháp luật là điều chỉnh bằng cưỡng chế. Do đó, trong nội hàm của khái niệm ĐĐCV vẫn là những điều nên làm và mong muốn được làm vì lợi ích chung. Đạo đức công vụ không xâm phạm “biên giới” của pháp luật, không bao gồm các quy định bắt buộc phải làm. Khi thực hiện đúng các chuẩn mực pháp lý trong thực thi công vụ tức là CB, CC đã thực hiện đúng ĐĐCV. Khi các điều bắt buộc phải làm trong quy phạm pháp luật được thực hiện bởi lương tâm, trách nhiệm và động cơ tốt đẹp từ bên trong của CB, CC, đó là ĐĐCV. Đạo đức công vụ chỉ là những giá trị đạo đức, nhưng giá trị tối thiểu của ĐĐCV là thực hiện pháp luật về công vụ. Cũng như quan điểm “pháp luật là đạo đức tối thiểu, đạo đức là pháp luật tối đa”, thực hiện pháp luật là nền tảng của ĐĐCV. Bài “Đạo đức công vụ trong cải cách hành chính” của tác giả Phạm Nhẫn [95], bài viết khẳng định vấn đề công vụ và ĐĐCV là một trong những nội dung chính của cải cách hành chính. Tác giả cho rằng, biện pháp để cải cách hành chính là luật hóa, thể chế hóa, cụ thể hóa nội hàm và biện pháp chế tài liên quan đến công vụ, ĐĐCV. Thậm chí, nhiều nước có hẳn cả luật về ĐĐCV. Như vậy,
  18. 12 tác giả đã phân tích đạo đức và ĐĐCV dưới góc độ hẹp, trong vấn đề thuộc về Nhà nước, là công việc của Chính phủ. Do đó, tác giả cho rằng ĐĐCV được đề cao thì uy tín Nhà nước cũng gia tăng. Chúng tôi hoàn toàn tán thành quan điểm này, bởi đây cũng là quan điểm chung, cái nhìn có tính phổ biến trong nghiên cứu ĐĐCV trên phạm vi toàn cầu. Nói tới công vụ là nói tới nền hành chính, nói tới công việc phục vụ người dân thông qua việc giải quyết các vấn đề về đất đai, hôn nhân, kinh doanh, lao động v.v.. Những thủ tục hành chính cần được đổi mới để tránh phiền hà cho người dân. Nhưng theo chúng tôi, ở Việt Nam, do tính đặc thù về thể chế chính trị, các cơ quan của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội là một hệ thống chính trị thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cho nên việc sử dụng quyền lực có sự liên kết và thống nhất với nhau. Trên cơ sở đó, có thể thấy rằng công vụ không chỉ là công việc của công chức trong các cơ quan của Nhà nước và Chính phủ, mà phạm vi được mở rộng hơn. Công vụ là hoạt động do CB, CC trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện. Điêu 2 của Luật CB, CC đã quy định cụ thể điều này. Bài “Trung Quốc và nỗ lực nâng cao ĐĐCV” của Trung Sơn [110] đã phân tích tình hình chống tham nhũng, lãng phí, cải thiện ĐĐCV trong Đảng Cộng sản Trung quốc và quan chức Chính phủ, cũng như vai trò của nhân dân và dư luận xã hội trong cuộc chiến chống tham nhũng. Bài viết cho thấy một biểu hiện của suy thoái đạo đưc công vụ, đó là tệ nạn tham nhũng. Tác giả nêu lên thực trạng, năm 2013, Trung Quốc đã xử lý 3657 vụ tham nhũng, trong đó có 1481 vụ liên quan đến việc không làm tròn nhiệm vụ, lạm dụng quyền lực. Các nỗ lực nâng cao ĐĐCV được đề cập đến là: đội ngũ kiểm tra, kỷ luật của Đảng Cộng sản Trung Quốc; sự hợp tác, hỗ trợ từ người dân thông qua các trang mạng xã hội, sự hỗ trợ từ các cơ quan truyền thông như Tân Hoa xã, Nhân dân nhật báo, các cổng thông tin điện tử như Sina, Sohu, Netease... [110, tr.26]. Bài viết cho thấy tình trạng vi phạm đạo đức khá nặng nề ở Trung Quốc những năm gần đây. Trong bài “Thực hành ĐĐCV theo tư tưởng Hồ Chí Minh” của tác giả Bùi Đình Phong [98] đã nêu lên sự cần thiết và nội dung của việc thực hành ĐĐCV theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Tác giả nhấn mạnh, tùy theo tính
  19. 13 chất nghề nghiệp, vị trí công tác, chức vụ được giao...mà ĐĐCV có những yêu cầu, đòi hỏi khác nhau. Chẳng hạn, đạo đức của người cán bộ, lãnh đạo, quản lý khác đạo đức của người cán bộ không giữ chức vụ. Đạo đức của cấp tướng khác đạo đức của chiến sĩ...bài viết nhấn mạnh một nội dung trong các CMĐĐCV, đó là học tập và làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Chúng tôi cho rằng đây cũng là một tài liệu tham khảo tốt cho việc nghiên cứu của chúng tôi. Bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức và phẩm chất người lãnh đạo” của Trương Quỳnh Hoa [51] có hai nội dung chính: tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về phẩm chất của CB, CC lãnh đạo. Tác giả khẳng định, trong quá trình học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh, CB, CC cần nắm rõ những tư tưởng đạo đức của Người, vận dụng cho phù hợp với vị trí và công việc của mình, đi tới hành động cụ thể. Bài viết là cơ sở cho tác giả luận án làm rõ nội dung của CMĐĐCV, trong đó có các tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐĐCV. Trong bài “Yếu tố ảnh hưởng và yêu cầu xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Trương Quốc Chính [13] phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến xây dựng đạo đức công chức bao gồm kinh tế, chính trị, truyền thống - văn hóa, đồng thời, nêu lên yêu cầu đảm bảo hài hòa giữa tính nhân văn trong đạo đức công chức với đòi hỏi tính pháp quy của việc thực hiện công vụ. Những vấn đề lý luận trong bài viết cũng là động lực để chúng tôi tìm hiểu sâu hơn về lý luận ĐĐCV. Bài viết cũng giúp cho chúng tôi xác định nội dung cần trình bày trong luận án. Đó là, chúng tôi nghiên cứu sự lệch chuẩn trong điều kiện KTTT, với ý nghĩa những lệch chuẩn ĐĐCV biểu hiện ra trong điều kiện KTTT như thế nào, nặng nề hơn so với thời kỳ bao cấp ra sao, gây thiệt hại về kinh tế - xã hội như thế nào, chứ không nghiên cứu theo chiều hướng sự tác động của KTTT gây lệch chuẩn ĐĐCV. Sự lệch chuẩn ĐĐCV là trung tâm nghiên cứu của chúng tôi, nhưng sự lệch chuẩn ĐĐCV chỉ được xét trong điều kiện KTTT. Kinh tế thị trường không phải là chủ thể nghiên cứu, mà chỉ là phạm vi nghiên cứu, tuy nhiên những đặc điểm, mối liên hệ giữa nền KTTT ở Việt Nam, và từ năm 2001 được Đảng ta gọi là nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa cũng được đề cập đến, để làm rõ hơn sự lệch chuẩn ĐĐCV.
  20. 14 Cũng với chủ đề này, tác giả Nguyễn Tiến Hiệp có bài viết “Những yếu tố tác động đến ĐĐCV ở nước ta hiện nay” [47]. Tác giả nêu lên mười một yếu tố tác động đến ĐĐCV và mười đề xuất nhằm nâng cao ĐĐCV ở nước ta hiện nay. Các yếu tố ảnh hưởng đến ĐĐCV có thể kể đến như nền KTTT, tâm lý xã hội, dư luận xã hội, bản thân cán bộ công chức, sự tác động của gia đình... Bài “Nâng cao ĐĐCV cho đội ngũ công chức hiện nay” của tác giả Trần Sỹ Phán [96] đã nêu lên yêu cầu cấp thiết của việc nâng cao ĐĐCV cho đội ngũ công chức và đề xuất các giải pháp nâng cao ĐĐCV cho đội ngũ công chức ở Việt Nam hiện nay. Công trình này là tài liệu cho tác giả tham khảo phần thực trạng và đề xuất các giải pháp khắc phục lệch chuẩn ĐĐCV. Bài viết chú trọng cung cấp các giải pháp để nâng cao ĐĐCV của đội ngũ công chức, cũng là tài liệu tham khảo cho chúng tôi trong việc đề xuất các giải pháp ngăn chặn, khắc phục sự lệch chuẩn ĐĐCV. Cùng góc độ nghiên cứu với bài viết trên, bài “Đạo đức công vụ và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao ĐĐCV cho CB, CC nước ta hiện nay” của tác giả Vũ Văn Điệp [35], đưa ra quan niệm về công chức, công vụ, ĐĐCV và các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao ĐĐCV cho CB, CC nước ta hiện nay. Hai bài viết này đã cung cấp những cơ sở lý luận, để từ đó chúng tôi tham khảo khi đề xuất các giải pháp ngăn chặn, hạn chế, khắc phục sự lệch chuẩn ĐĐCV ở một bộ phận CB, CC trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng có sự khác biệt giữa các giải pháp nâng cao ĐĐCV của CB, CC với giải pháp ngăn ngừa, hạn chế, khắc phục sự lệch chuẩn ĐĐCV. Giải pháp nâng cao ĐĐCV có tính bao quát hơn so với giải pháp ngăn ngừa, hạn chế, khắc phục sự lệch chuẩn ĐĐCV. Công trình “Đạo đức công vụ của đội ngũ CB, CC Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp” của tác giả Hồ Trọng Hoài và cộng sự [55] là một công trình công phu trong việc trình bày lý luận về ĐĐCV, chỉ ra các nguyên nhân gây biến đổi ĐĐCV và đề xuất những giải pháp khắc phục các nguyên nhân đó. Đây là công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ, với nhiều kiến giải có sức thuyết phục. Tuy các tác giả không đi sâu nghiên cứu sự lệch chuẩn ĐĐCV nhưng chúng tôi coi đây là tài liệu cần thiết trong quá trình nghiên cứu của
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2