intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Triết học: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:102

52
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích một số vấn đề lý luận chung về văn hóa và bản sắc văn hóa, về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, luận văn làm rõ sự cần thiết phải giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Triết học: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------- TRẦN HUY TẠO GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG XHCN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SỸ Chuyên ngành: Triết học Hà Nội - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------- TRẦN HUY TẠO GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG XHCN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SỸ Chuyên ngành: Triết học Mã số: 60220301 Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Ngô Đình Xây Hà Nội – 2015
  3. LỜI CẢM ƠN Luận văn hoàn thành là kết quả của ba năm nghiên cứu và học tập tại Khoa Triết học trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Trong quá trình hoàn thiện luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, các anh chị khóa trước và các bạn trong lớp. Vì vậy, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo của Khoa Triết học cùng toàn thể các học viên trong tập thể lớp Cao học Triết K20. Đặc biệt, tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đên PGS. TS. Ngô Đình Xây – người định hướng khoa học, hướng dẫn tận tình, luôn động viên, giúp đỡ hết mực, đã giúp tôi hoàn thành luận văn này. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song luận văn không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất định. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô để luận văn được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn ! Hà Nội ngày 27 tháng 5 năm 2015 Trần Huy Tạo
  4. MỤC LỤC 1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 3 2. Lịch sử nghiên cứu ........................................................................................ 4 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................... 7 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 8 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 8 6. Những đóng góp mới của luận văn ............................................................... 9 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ..................................................... 9 8. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 9 B. NỘI DUNG ................................................................................................ 10 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA, BẢN SẮC VĂN HÓA VÀ KINH TẾ THỊ TRƢỜNG .................................................. 10 1.1. Văn hóa và bản sắc văn hóa ..................................................................... 10 1.1.1. Khái niệm văn hóa .......................................................................... 10 1.1.2. Khái niệm bản sắc văn hóa ............................................................. 16 1.1.3. Biểu hiện của bản sắc văn hóa Việt Nam và việc giữ gìn phát huy nó............................................................................................................... 20 1.2. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam .................. 28 1.2.1. Quan niệm về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ................................................................................................... 28 1.2.2. Đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ........................................................................................................... 36 1.2.3. Tác động của kinh tế thị trường tới vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc ....................................................................................................... 44 Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 53 1
  5. Chƣơng 2: HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP GIỮ GÌN, PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM ......... 54 2.1. Hiện trạng giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ............................. 54 2.1.1. Kết quả của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay ............................................................................................ 55 2.1.2. Hạn chế của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay ............................................................................................ 68 2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam ........................................................................................ 72 2.3. Vấn đề đặt ra trong giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa ........................ 74 2.3.1. Xu hướng xem nhẹ bản sắc văn hóa dân tộc .................................. 74 2.3.2. Xu hướng tiếp thu thiếu chọn lọc các nền văn hóa khác nhau trên thế giới ...................................................................................................... 77 2.3.3. Xu hướng phục cổ ........................................................................... 78 2.4. Một số giải pháp để giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam ............. 80 2.4.1. Giải pháp chung .............................................................................. 80 2.4.2. Giải pháp cụ thể .............................................................................. 85 Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 90 KẾT LUẬN .................................................................................................... 91 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 93 2
  6. A. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trên cơ sở nhận thức sâu sắc giá trị của văn hóa trong quá trình phát triển, Đảng ta xác định tiến hành đồng bộ và gắn kết chặt chẽ ba lĩnh vực: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt cùng với việc xây dựng văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội nhằm tạo nên sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của đất nước. Theo đó, nội dung xây dựng văn hóa được xác định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” và là một định hướng quan trọng để đất nước phát triển bền vững. Tuy nhiên, trong quá trình tiến hành xây dựng và phát triển kinh tế cũng như quá trình xây dựng nền văn hóa mới dường như chúng ta vẫn còn quá đề cao vai trò của kinh tế và chưa thấy được sự tác động to lớn của văn hóa đối với kinh tế. Chúng ta đã quá ưu tiên cho phát triển kinh tế mà chưa nhận thức rõ được sự tác động trở lại của văn hóa đối với kinh tế và quả thật trong quá trình phát triển vừa qua bên cạnh những mặt đạt được về tốc độ tăng trưởng kinh tế chúng ta đang phải đối mặt với những tác động tiêu cực về các vấn đề xã hội trong đó có vấn đề văn hóa. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hóa dựa vào chuẩn mực của nó là chân, thiện, mỹ (cái đúng, cái tốt, cái đẹp) để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động không ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề, sản xuất hàng hóa với số lượng ngày càng nhiều với chất lượng ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu không ngừng tăng lên của xã hội; mặt khác, văn hóa sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống, của đạo lý, dân tộc để hạn chế xu hướng sùng bái hàng hóa, sùng bái tiền tệ, nghĩa là hạn chế xu hướng tiêu cực của hàng hóa và đồng tiền “xuất hiện với tính cách là lực lượng có khả năng xuyên tạc bản chất con người, cũng như những mối liên hệ khác”. Hạn chế những tiêu cực này chỉ có thể là văn hóa và chủ yếu bằng văn hóa. 3
  7. Cho đến nay, vấn đề mối quan hệ giữa văn hóa với sự phát triển đất nước không phải một đề tài đã cũ. Bởi vì, với mỗi một vấn đề, tùy thuộc vào từng thời điểm khác nhau, ở các lĩnh vực khác nhau chúng ta phải có cách tiếp cận và đánh giá cụ thể. Thực tế chứng minh rằng vấn đề này đang được tiếp tục nghiên cứu một cách sâu sắc, song hiện nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống từ góc nhìn của triết học văn hóa và giá trị học. Chính vì vậy, chúng tôi quyết định chọn vấn đề “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ Triết học của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu Thực tế cho thấy, những biến đổi mạnh mẽ của nền kinh tế sẽ có tác động to lớn đến đời sống tinh thần của con người. Vì vậy, vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc được đặt ra bức thiết trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Đối với Việt Nam, vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc đã được chú ý từ lâu. Song cũng như nhiều quốc gia khác, chỉ từ cuối những những năm 80 của thế kỷ XX trở lại đây thì vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc được chú ý quan tâm hơn cả về số lượng và chất lượng. Nghiên cứu về vấn đề này, trước hết phải kể đến một số công trình cơ bản sau: - “Phát triển văn hóa giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc kết hợp tinh hoa của văn hóa nhân loại”, Phạm Minh Hạc, Nxb Khoa học Xã Hội, Hà Nội, 1996. Tác phẩm khái quát căn bản về văn hóa và phát triển, khẳng định vai trò của văn hóa. 4
  8. - “Vấn đề văn hóa và phát triển” của GS.VS Hoàng Trinh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996 đã đề cập đến vai trò của văn hóa với phát triển và đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tác giả còn nhấn mạnh yếu tố truyền thống trong sự phát triển, trong quá trình hiện đại hóa. - “Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của nhóm tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn – Phạm Văn Đức – Hồ Sỹ Quý (đồng chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001. Các tác giả đã nêu bật các giá trị truyền thống và tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến các giá trị truyền thống ở nước ta hiện nay. - “Kỷ yếu hội thảo khoa học “Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hoá” được tổ chức tại Hà Nội vào tháng 5/2001. Các bài tham luận đều tập trung làm rõ thực chất của toàn cầu hoá và những thách thức cũng như cơ hội của toàn cầu hoá đối với việc giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam đồng thời bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống đó trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. - “Bước đầu tìm hiểu sự biến đổi giá trị truyền thống Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa”, Hoàng Thị Ngát, Khóa luận tốt nghiệp, năm 2006, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội. Khóa luận đề cập đến một số vấn đề lý luận về giá trị truyền thống Việt Nam, về toàn cầu hóa. Bước đầu khảo sát sự biến đổi một số giá trị truyền thống Việt Nam dưới tác động của toàn cầu hóa. Sau cùng là đưa ra những giải pháp về kinh tế - xã hội, giáo dục, pháp luật nhằm giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống trong giai đoạn hiện nay. - “Những cơ hội và thách thức đối với các giá trị truyền thống Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa”, Võ Hoàng Anh, Luận văn thạc sỹ triết 5
  9. học, năm 2007, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội. Luận văn khắc họa rõ toàn cầu hóa và ảnh hưởng của nó đến các giá trị truyền thống, cũng như giá trị truyền thống Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa với những nội dung khá đặc sắc, sâu rộng, thiết thực. - “Kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa”, Mai Thị Qúy, Tạp chí triết học (số 6). - “Vấn đề kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta”, Nguyễn Văn Lý, năm 1999, Tạp trí triết học (số 24). - “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong qúa trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thái Nguyên hiện nay”, Lê Thị Kim Hưng, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội. Luận văn khái quát một số vấn đề về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Trên sơ sở đó, luận văn tiếp tục trình bày thực trạng và một số kiến nghị giải pháp về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thái Nguyên hiện nay. Các công trình nghiên cứu trên đều đã đi vào khai thác song chưa cụ thể và hệ thống những đặc điểm chung về bản sắc văn hóa, về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, về sự biến đổi cũng như những giải pháp nhất định trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Kế thừa những thành tựu nghiên cứu tích cực của những người đi trước kết hợp với những tìm tòi, nghiên cứu của bản thân, trong luận văn này, tác giả cố gắng phân tích làm rõ hơn sự cần thiết phải giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định 6
  10. hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay và nêu ra một số giải pháp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích một số vấn đề lý luận chung về văn hóa và bản sắc văn hóa, về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, luận văn làm rõ sự cần thiết phải giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Trình bày một số vấn đề lý luận về văn hóa, bản sắc văn hóa và những biểu hiện của bản sắc văn hóa Việt Nam - Trình bày một số vấn đề lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và những tác động của kinh tế thị trường tới việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. - Phân tích thực trạng việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay và xác định một số vấn đề đặt ra trong quá trình này. - Từ đó, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. 7
  11. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu - Luận văn nghiên cứu bản sắc văn hóa dân tộc trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu: - Luận văn tập trung phân tích và làm rõ sự cần thiết phải giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. - Luận văn đã lựa chọn và chỉ tập trung nghiên cứu một số giá trị văn hóa cơ bản làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam như: chủ nghĩa yêu nước, tinh thần nhân ái, ý thức cố kết cộng đồng, truyền thống hiếu học, kho tàng văn hóa dân gian đặc sắc. - Phạm vi thời gian: luận văn khảo cứu, xem xét việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, giới hạn từ khi đổi mới (từ năm 1986) đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên những nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa và vai trò của văn hóa. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp, phương pháp luận chung nhất của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử như: phương pháp logic và lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp quy nạp, diễn dịch, đối chiếu, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa, … nhằm đạt mục đích và nhiệm vụ mà luận văn đã đề ra. 8
  12. 6. Những đóng góp mới của luận văn Luận văn hệ thống hóa và phân tích ở góc độ triết học chính trị - xã hội về việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay. Đề xuất một số yêu cầu và giải pháp mang tính định hướng trong việc giữ gìn và phát huy các bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Ý nghĩa lý luận Trên cơ sở hệ thống hóa và phân tích dưới góc độ triết học, luận văn làm rõ ý nghĩa lý luận của vấn đề, tức là làm rõ tính tất yếu của mối quan hệ tương hỗ giữa văn hóa và kinh tế; đồng thời chỉ ra tính hợp lý trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. - Ý nghĩa thực tiễn Luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu, học tập các văn kiện Đảng, các chuyên đề về chủ nghĩa xã hội và phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đóng góp thêm ý kiến cho việc tiếp tục đổi mới tư duy lý luận của Đảng trong quá trình lãnh đạo công cuộc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được trình bày trong 2 chương với 6 tiết. 9
  13. B. NỘI DUNG Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA, BẢN SẮC VĂN HÓA VÀ KINH TẾ THỊ TRƢỜNG 1.1. Văn hóa và bản sắc văn hóa 1.1.1. Khái niệm văn hóa Lịch sử phát triển của văn hóa gắn liền với lịch sử phát triển của loài người. Khi con người xuất hiện thì lịch sử văn hóa cũng bắt đầu. So với lịch sử hình thành và phát triển của văn hóa, thuật ngữ văn hóa xuất hiện muộn hơn. Đến thời cận đại từ “Văn hóa” mới trở thành một thuật ngữ khoa học. Văn hóa là khái niệm được dùng phổ biến trong đời sống xã hội, thuật ngữ này không những có nhiều nghĩa trong ngôn ngữ hàng ngày mà còn trong các ngành khoa học khác nhau. Việc xác định nội hàm khái niệm này còn nhiều ý kiến, vì trên thế giới hiện nay, có hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa. Song, về cơ bản đều thống nhất coi văn hóa là những gì mà con người sáng tạo để hình thành nên các giá trị, các chuẩn mực xã hội trong quá trình lao động, hoạt động thực tiễn. Các giá trị chuẩn mực đó tác động, chi phối, điều chỉnh đời sống tâm lý, hành vi, đạo đức và các hoạt động trên mọi lĩnh vực có sự hiện diện của con người. Lược khảo một số quan niệm tiêu biểu về văn hóa trong lịch sử, chúng ta bắt gặp những quan niệm trước Mác, quan niệm mac-xit, những quan niệm của các nhà khoa học cận và hiện đại, quan niệm của tổ chức UNESSCO, quan niệm của Hồ Chí Minh…với những nội hàm đúng đắn, có giá trị nhất định. Những quan niệm trước C.Mác về văn hóa cũng khá đa dạng. Phương Đông với điển hình là Trung Quốc, từ cổ đại đến cận đại, đều cho rằng văn hóa là chế độ, văn trị, giáo hóa, lễ nhạc, điển chương. Điển hình như Lưu 10
  14. Hướng cũng từng đề cập: “Bậc thánh nhân trị thiên hạ, trước dùng văn đức, sau mới dùng vũ lực. Phàm dùng đến võ đối phó với kẻ không phục tùng, giáo hóa bằng văn mà không chịu thay đổi thì sau mới trừng phạt. Văn hóa ở đây là giáo hóa đối lập với vũ lực”. Ở phương Tây, thời cổ đại, coi văn hóa với tư cách là một từ, đã xuất hiện từ trước Công nguyên trong ngôn ngữ Latinh (từ nghĩa khai khẩn, vỡ hoang đất đai… mở rộng sang cày cấy, gieo trồng, chăm sóc…và thêm “vun trồng tinh thần”). Thời kỳ Phục hưng thế kỷ XV – XVI, văn hóa có thêm nghĩa chỉ năng lực sáng tạo của con người, đề cao con người. Cùng với sự phát triển của xã hội và khoa học, khái niệm văn hóa mở rộng ra các lĩnh vực khác nhau như: xây dựng thể chế, cải tạo xã hội, thành đối tượng nghiên cứu của một số ngành khoa học xã hội nhân văn như: Nhân loại học, Dân tộc học, xã hội học… Các nhà khai sáng Pháp cũng quan tâm đến văn hóa và có những quan niệm mới, khác về văn hóa (Vonte dùng khái niệm văn minh để miêu tả các thời kỳ phát triển của khoa học, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, nhà nước., Rútxô quan niệm văn hóa là hiện tượng xã hội…). Sang thế kỷ XIX, từ nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau các nhà khoa học hướng tới xác định văn hóa như đối tượng nghiên cứu của một ngành khoa học độc lập. Năm 1871, E.B.Tylor công bố công trình văn hóa nguyên thủy, coi văn hóa là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục cùng với những khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội. Những quan niệm sau C.Mác, của các nhà khoa học về văn hóa đề cập đến rất nhiều định nghĩa văn hóa. Chẳng hạn, theo nhà ngôn ngữ học người 11
  15. Pháp Jacques Derida: Văn hóa chính là cái tên chúng ta đặt cho điều bí ẩn không cùng với những ai ngày nay đang tìm cách suy nghĩ về nó… Năm 1982, tại Mêhicô, Hội nghị thế giới về chính sách văn hóa vì sự phát triển đã nêu ra định nghĩa: “Theo nghĩa rộng, ngày nay văn hóa có thể được coi là toàn bộ các đặc tính đặc biệt về tâm hồn, vật chất, trí tuệ và tình cảm được đặc trưng cho một xã hội hay một nhóm xã hội. Nó không chỉ bao gồm nghệ thuật và văn học, mà cả lối sống, các quyền cơ bản của nhân loại, các hệ thống giá trị truyền thống và tín ngưỡng”[35, Tr.23] .Trong định nghĩa này, văn hóa được quan niệm là toàn bộ các giá trị tinh thần nhưng nhấn mạnh đến đặc điểm có khả năng đặc trưng cho một xã hội hoặc một cộng đồng người. Điều đó có nghĩa là trong quan hệ xã hội, trong phát triển phải tôn trọng bảo tồn và phát huy những đặc điểm có tính riêng biệt đó. Về căn bản, có thể liệt kê dưới đây ba định nghĩa nổi bật nhất, đó là định nghĩa của chủ nghĩa Mác- Lênin, của UNESSCO và của Hồ Chí Minh. Trong thập kỷ thế giới vì sự phát triển văn hóa (1988 – 1997), Phederico Mayo – Tổng giám đốc UNESSCO lúc đó đưa ra quan niệm: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và các thị hiếu – những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”. Định nghĩa này tiếp cận văn hóa dưới góc độ hoạt động và văn hóa là hệ thống giá trị chuẩn mực đồng thời nhấn mạnh đặc tính dân tộc của văn hóa. UNESSCO thừa nhận văn hóa là cội nguồn trực tiếp của phát triển xã hội, có vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết xã hội. Nó không những là yếu tố nội sinh của sự phát triển, mà còn là mục tiêu động lực cho sự phát triển xã hội. Văn hóa giúp cho con người tự hoàn thiện, nó quyết định tính cách riêng của một xã hội, làm cho dân tộc này khác dân tộc khác. Với ý nghĩa đó, văn hoá có mặt trong bất cứ hoạt động nào của con người, dù đó là 12
  16. hoạt động sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần hay trong quan hệ giao tiếp ứng xử xã hội, trong thái độ đối với thiên nhiên. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, nền tảng của lịch sử là hoạt động lao động của con người và quá trình con người sáng tạo ra lịch sử cũng là quá trình con người sáng tạo văn hoá, văn hóa bắt nguồn từ lao động. Những quan niệm về văn hóa được trình bày trong nhiều tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”(1844), “Góp phần phê phán khoa Kinh tế chính trị”(1859), “Nguồn gốc của gia đình,của chế độ tư hữu và Nhà nước”(1884)… C.Mác viết: “Chúng ta buộc phải bắt đầu bằng việc xác định tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người, và do đó là tiền đề của mọi lịch sử, đó là: người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất. Hơn nữa, đó là một hành vi lịch sử, một điều kiện cơ bản của mọi lịch sử mà (hiện nay cũng như hàng ngàn năm về trước) người ta phải thực hiện hàng ngày, hàng giờ, chỉ nhằm để duy trì đời sống con người”[37, Tr 39 - 40]. Theo C.Mác, khởi điểm của hành vi trong lịch sử là văn hóa. Văn hóa là hành vi quan trọng trong quá trình sản xuất vật chất, là cái để con người phân biệt với con vật. “Con vật chỉ xây dựng theo kích thước và nhu cầu của loài của nó, còn con người thì có thể sản xuất theo kích thước của bất cứ loài nào và ở đâu cũng biết vận dụng bản chất cố hữu của mình vào đối tượng; do đó con người cũng xây dựng theo quy luật của cái đẹp”[36, Tr 137]. Bàn đến văn hoá và sự phát triển của văn hoá, chủ nghĩa Mác còn thừa nhận, với tư cách là một hệ giá trị, văn hoá bị chi phối bởi những điều kiện lịch sử, bởi năng lực thực hiện “ lực lượng bản chất người”. Mỗi bước tiến của lịch sử là một bước tiến tương ứng của văn hoá. Như vậy có thể nói việc con người tạo ra “thiên nhiên thứ hai” theo quy luật của cái đẹp là cái thuộc tính bản 13
  17. chất, quy định cái văn hoá trong hoạt động của con người. Nếu tự nhiên là cái nôi đầu tiên của sự hình thành và phát triển con người thì văn hoá là cái nôi thứ hai. Nếu tự nhiên là cái quyết định sự tồn tại của con người với tư cách là một thực thể sinh vật thì văn hoá là phương thức bộc lộ, phát huy những năng lực bản chất người gắn liền với các hoạt động sống của con người. Con người là thước đo của mỗi giá trị, còn văn hóa là thước đo nhân tính, sự sáng tạo và thái độ của con người trước hiện thực. Quan niệm của Mác, Ănghen về văn hóa đã được Lênin kế thừa và phát triển. Ông đề ra nguyên tắc quan trọng trong quá trình xây dựng nền văn hoá mới: tính đảng, tính nhân dân, tính dân tộc và tính nhân loại trong văn hoá; xác định sự nghiệp văn hoá là một bộ phận trong guồng máy cách mạng vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Xác định tính kế thừa biện chứng của sự phát triển văn hóa, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong văn hóa. Ở đây, Lênin đã hiểu văn hóa theo nghĩa rộng, là những giá trị chung nhất, tồn tại và phát triển qua nhiều chế độ xã hội, nhiều giá trị có ý nghĩa vĩnh hằng, văn hóa luôn gắn liền với sự phát triển và toàn diện con người, hoàn thiện xã hội. Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về văn hóa đã được chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm, văn hóa không chỉ bao gồm kết quả của sự sáng tạo mà còn là phương thức sử dụng những thành quả đó: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”[38, Tr 431]. Quan điểm đó của Người đã khái quát được nội dung rộng nhất của phạm trù văn hoá, chỉ ra văn 14
  18. hoá không chỉ bao hàm các hoạt động tinh thần của con người mà còn bao hàm trong đó cả những hoạt động vật chất, những giá trị tinh thần và phương thức sinh hoạt của con người. Người cũng chỉ ra nguồn gốc sâu xa của văn hoá đó chính là nhu cầu sinh tồn của con người, với tư cách là chủ thể hoạt động của đời sống xã hội. Nó biểu hiện sự thống nhất của yếu tố tự nhiên, yếu tố xã hội trong con người, biểu hiện khả năng và sức sáng tạo của con người. Trên cơ sở các quan niệm trên, dưới góc độ Triết học, có thể hiểu văn hóa là toàn bộ những hoạt động sáng tạo và những giá trị vật chất, tinh thần của người dân một nước, một dân tộc đạt được trong quá trình dựng nước và giữ nước. Văn hóa đặc trưng cho dân tộc, nó bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động. Và ngày nay, trong bối cảnh mới, Đảng và Nhà nước luôn quán triệt vận dụng cách hiểu đúng đắn về văn hóa với ý nghĩa “văn hoá là một lĩnh vực thực tiễn của đời sống xã hội, nó cũng có quy luật vận động phát triển riêng, trong đó tính dân tộc được coi là thuộc tính cơ bản của văn hoá, phản ánh mối quan hệ giữa dân tộc và văn hoá trong điều kiện dân tộc đã hình thành”. Do đó, khái niệm văn hóa bao hàm trong nó tính chất nhân văn. Văn hóa có ý nghĩa quan trọng trong cải tạo xã hội, hòa nhập với tự nhiên, xây dựng cuộc sống hợp lý của con người. Đồng thời văn hóa có một cơ chế vận hành được quy định từ sự tồn tại của con người trong các vùng địa văn hóa với các hoạt động sáng tạo lâu đời của họ để duy trì, phát triển và tạo nên truyền thống. Ở đây chúng ta cần tránh nhầm lẫn giữa các khái niệm: văn hiến, văn minh, văn hóa. Văn hiến: “văn” trong văn hiến là (cái đẹp) về tư liệu, điển chương, chế độ… “hiền” là người hiền tài, là người thông thạo điển chương, chế độ… Theo GS. Đào Duy Anh: “văn hiến là sách vở” và “nhân vật tốt trong một đời”. Văn hiến: là truyền thống tinh thần lâu đời và tốt đẹp, là giá 15
  19. trị tinh thần do những người có đức, có tài chuyển tải, là một xã hội đạt tới một trình độ nhất định về mặt tinh thần. Văn hiến thể hiện tính dân tộc và tính lịch sử. Văn minh : “văn” là vẻ đẹp, “minh” là sáng, văn minh có nghĩa chỉ tia sáng của đạo đức, biểu hiện ở chính trị, pháp độ, văn học, nghệ thuật. Văn minh được xem là một khái niệm đặc trưng cho trình độ của con người, mặt kỹ thuật của hoạt động người trong việc chiếm lĩnh thế giới nói chung. Trong khi đó, cái được coi là cốt lõi của văn hóa, là phẩm chất nhân đạo trong sự phát triển, theo V.M.Roodin thì “văn hóa…là các giá trị vật chất và xã hội của bất kỳ nhóm người nào (các thiết chế, tập quán, tâm thế, phản ứng trong ứng xử), không phụ thuộc vào việc đó là người man rợ hay người văn minh”. Bởi vậy, văn minh thường mang tính khách quan, phổ biến hơn, đặc trưng cho một khu vực rộng lớn, một thời đại hoặc cả nhân loại (mang màu sắc phân chia, phản ánh sự biến động trong hoạt động người), còn văn hóa là nói đến tính chủ thể, tính độc đáo (mang màu sắc trung tính và phản ánh cái ổn định, yên tĩnh tương đối trong hoạt động người). Văn minh là cơ sở của văn hóa, ở chừng mực, văn hóa là bản chất của văn minh. Văn hóa hoàn toàn không phải là thành tố thụ động của nền văn minh… Chúng tự phê phán lẫn nhau trong thống nhất. 1.1.2. Khái niệm bản sắc văn hóa Bản sắc văn hóa theo nghĩa ban đầu “bản của một sự vật” là cái gốc, cái căn bản, cái cốt lõi, cái hạt nhân của sự vật; còn “sắc của một sự vật” là cái biểu hiện ra bên ngoài của sự vật đó. Khái niệm bản sắc: bản sắc của một sự vật là những đặc điểm riêng biệt chỉ có ở sự vật ấy. Theo cách hiểu mỗi sự vật có nhiều thuộc tính (tính chất, đặc điểm, dấu hiệu, nét…) trong đó có những thuộc tính chung và những thuộc tính riêng, những thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Nói đến bản sắc 16
  20. của mỗi sự vật trước hết là nói đến thuộc tính riêng của sự vật ấy, song thuộc tính riêng ấy gắn bó chặt chẽ với thuộc tính chung. Những tính cơ bản của một sự vật chính là bản sắc của sự vật ấy, nhằm phân biệt giống và khác nhau giữa sự vật ấy với sự vật khác. “Bản sắc” là một từ Hán -Việt, “bản” nguyên nghĩa là cái gốc, “sắc” nguyên nghĩa là màu sắc, sắc đẹp, “bản sắc” là màu gốc, sắc thái gốc, “bản sắc văn hoá” là sắc thái gốc của một nền văn hóa. Tương đồng với cách dùng identité (thẻ căn cước) của tiếng Pháp và nhiều ngôn ngữ châu Âu trong cấu trúc identité culturelle - thẻ căn cước văn hoá để chỉ cái riêng độc đáo của mỗi nền văn hoá, dấu ấn được ghi lại từ cội nguồn văn hoá dân tộc. Nói đến văn hóa là nói đến khía cạnh bản sắc của nó. Bản sắc chính là văn hóa ở phương diện đa dạng sắc thái biểu đạt của cộng đồng khác nhau của cùng một bản thể người thống nhất về mặt tộc loại, thường về mặt tinh thần. Bản sắc của một cộng đồng chính là sự khẳng định tính chủ thể của cá nhân hay cộng đồng đó. Như vậy, bản sắc chính là văn hóa, song không phải bất cứ yếu tố văn hóa nào cũng được xếp vào bản sắc. Người ta chỉ coi những yếu tố văn hóa nào giúp phân biệt một cộng đồng văn hóa này với một công đồng văn hóa khác là bản sắc. Theo tác giả Phạm Thái Việt, khái niệm bản sắc có hai quan hệ cơ bản: thứ nhất, nó là dấu hiệu để phân biệt các cộng động với nhau (quan hệ bên ngoài) và thứ hai, nó chỉ tính đồng nhất mà mỗi cá thể trong một cộng đồng văn hóa phải có (quan hệ bên trong). Nội hàm khái niệm bản sắc bao hàm một số biểu hiện cơ bản sau: - Bản sắc luôn gắn với quá trình hình thành, vận động và phát triển của đối tượng. - Bản sắc được thể hiện thông qua sự đồng nhất, lặp lại ở hàng loạt đối tượng, sự vật, hiện tượng cùng hệ thống. 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0