1
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
Các thực tiễn hứa hẹn về học tập suốt đời tại các quốc gia Đông Nam Á
Biên tập: Rika Yorozu
Bộ ấn phẩm của UIL về chính sách và chiến lược phát triển học tập suốt đời: Quyển 4
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á Brunei Darussalam, Campuchia, Indonesia, CHDCND Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan, Timor-Leste và Việt Nam
BIÊN TẬP: RIKA YOROZU
BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT: TRUNG TÂM SEAMEO CELLL
BỘ ẤN PHẨM CỦA UIL VỀ CHÍNH SÁCH VÀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN HỌC TẬP SUỐT ĐỜI: QUYỂN 4
Xuất bản năm 2017
Viện Nghiên cứu về Học tập suốt đời của UNESCO Feldbrunnenstrasse 58 20148 Hamburg Đức
© VIỆN NGHIÊN CỨU VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI CỦA UNESCO
Viện Nghiên cứu về Học tập suốt đời của UNESCO (UIL) là một viện nghiên cứu quốc tế phi lợi nhuận thuộc tổ chức UNESCO. Viện tiến hành nghiên cứu, xây dựng năng lực, kết nối và xuất bản các ấn phẩm về học tập suốt đời với trọng tâm là giáo dục người lớn và giáo dục thường xuyên, các chương trình phổ cập văn hóa và giáo dục cơ bản không chính quy. Các ấn phẩm của Viện là nguồn tài nguyên tham khảo có giá trị cho các nhà nghiên cứu giáo dục, những người xây dựng kế hoạch, các nhà hoạch định chính sách và giới chuyên môn.
Mặc dù các chương trình của UIL được thiết lập tuân thủ đường lối do Đại hội đồng UNESCO vạch ra, Viện tự chịu trách nhiệm về các xuất bản phẩm của mình. UNESCO không chịu trách nhiệm về nội dung các xuất bản phẩm này. Các quan điểm, sự lựa chọn thông tin và ý kiến thể hiện là của các tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm chính thức của UNESCO hoặc Viện Nghiên cứu về Học tập suốt đời của UNESCO. Việc nêu tên những người tham gia và việc trình bày thông tin trong ấn phẩm này không hàm ý thể hiện bất kỳ quan điểm nào từ phía UNESCO hoặc Viện Nghiên cứu về Học tập suốt đời của UNESCO liên quan đến tình trạng pháp lý của bất kỳ quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nào, cũng như các cơ quan quản lý của các quốc gia này, hoặc liên quan đến việc giới hạn biên giới của bất kỳ quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nào.
Ấn phẩm này hiện có thể được truy cập mở theo giấp phép Attribution-ShareAlike 3.0 IGO (CC-BY-SA 3.0 IGO) ( http:// creativecommons.org/licenses/by-sa/ 3.0 / igo / ). Bằng việc sử dụng nội dung của ấn phẩm này, người dùng chấp nhận bị ràng buộc bởi các điều khoản sử dụng Tài nguyên Truy cập mở của UNESCO (http://en.unesco.org/open-access/terms-use- ccbysa-en ).
ĐIỀU PHỐI VIÊN DỰ ÁN: Rika Yorozu, UIL, và Khấu Hữu Phước, Trung tâm SEAMEO CELLL
BIÊN TẬP VĂN BẢN: Alec McAulay
THIẾT KẾ: Prestige Colour Solutions
Bản dịch tiếng Việt do Trung tâm SEAMEO CELLL thực hện.
ẢNH BÌA TRƯỚC: Bộ Giáo dục / Timor-Leste (phía trên bên trái), Bộ Giáo dục và Văn hoá / Indonesia (trên cùng bên phải), Bộ Giáo dục, Thanh niên và Thể thao/ Campuchia (dưới cùng bên trái), Bộ Giáo dục và Thể thao/ CHDCND Lào (dưới cùng bên phải)
ISBN: 978-92-820-1216-1
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
6
LỜI NÓI ĐẦU
7
8
GIỚI THIỆU
1. Tổng quan dự án 2. Nội dung chính và mục tiêu dự án 3. Phương pháp luận và cấu trúc báo cáo
8 8 8
CHƯƠNG 1: Khái niệm học tập suốt đời ở Đông Nam Á
10
1. Khung khái niệm về học tập suốt đời 2. Vượt qua thách thức: Hướng đến học tập suốt đời cho tất cả mọi người 3. Tầm nhìn về một xã hội học tập
10 12 14
CHƯƠNG 2: Các thực tiễn tốt về học tập suốt đời
16
1. Sự phát triển của một hệ thống giáo dục hướng đến hòa nhập và chất lượng tại Singapore 2. Khuyến khích học tập suốt đời ở Việt Nam 3. Hướng tới một hệ thống giáo dục quốc gia được người dân đón nhận ở CHDCNN Lào 4. Hòa nhập giới trong giáo dục tại Indonesia Sự ra đời của giáo dục thay thế ở Myanmar 5. 6. Chương trình Giáo dục Tương đương Quốc gia ở Timor-Leste 7. Học tập suốt đời dành cho giáo viên: Câu chuyện của Brunei Darussalam 8. Chương trình phát triển giáo viên thông qua giáo dục trực tuyến ở Philippines 9. Trung tâm học tập cộng đồng ở Thái Lan 10. Nghiên cứu về cách thức đánh giá trung tâm học tập cộng đồng ở Campuchia 11. Chương trình Trung học Mở ở Philippines 12. Hệ thống Đại học Mở ở Việt Nam 13. Chương trình học tập trực tuyến mở rộng cho cộng đồng quốc tế của Malaysia 14. Các chứng chỉ kỹ năng công nghiệp tại Brunei Darussalam 15. Chiến dịch Kỹ năng cho Tương lai của Singapore
16 20 23 24 26 29 32 34 36 39 41 43 46 48 49
CHƯƠNG 3: Kết luận và câu hỏi hướng dẫn
53
53 54
cho tất cả mọi người
1. Tầm nhìn: Xác định mục đích của giáo dục và của học tập suốt đời 2. Chính sách: Những cam kết nhất quán về mặt quản trị đối với học tập suốt đời 3. Chất lượng: Cung cấp các cơ hội học tập chất lượng mang tính hòa nhập và công bằng 4. Ghi nhận kết quả từ tất cả các hình thức học tập 5. Đánh giá: Thiết lập mục tiêu và các chỉ số để theo dõi và đánh giá học tập suốt đời 6. Các câu hỏi để thảo luận
55 55 56 56
Tài liệu tham khảo và đọc thêm
58
62
PHỤ LỤC: Các khuyến nghị và hành động chiến lược để triển khai
6
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
LỜI CẢM ƠN
Bản báo cáo này là phần tóm tắt của các báo cáo quốc gia về những thực tiễn tốt trong lĩnh vực học tập suốt đời ở các nước Đông Nam Á. Chủ trì nhóm viết báo cáo là Viện Nghiên cứu về Học tập suốt đời của UNESCO (Rika Yorozu) và Trung tâm Khu vực về Học tập suốt đời của tổ chức SEAMEO tại Việt Nam (Khấu Hữu Phước), với các thông tin được cung cấp bởi hai chuyên gia tư vấn là Chris Duke và Heribert Hinzen.
Đây là kết quả của một dự án hướng đến việc xây dựng một chương trình nghị sự về học tập suốt đời ở các nước Đông Nam Á, được khởi xướng bởi Arne Carlsen, nguyên Giám đốc UIL, và Lê Huy Lâm, Giám đốc SEAMEO CELLL, từ cuối năm 2015, nhằm thúc đẩy việc học tập suốt đời trở thành một nguyên tắc quan trọng của giáo dục trong khu vực. Cuộc họp lập kế hoạch cho dự án này, được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam vào tháng 3 năm 2016, đã thống nhất rằng việc phản ánh các thực tiễn tốt về học tập suốt đời trong các quốc gia thành viên SEAMEO sẽ là nguyên tắc tổ chức của dự án. Các thực tiễn tốt này đã được trình bày bởi các đại diện của 11 quốc gia tại một cuộc họp chuyên gia, cũng được tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, vào tháng Mười năm 2016. Các chuyên gia đã thảo luận và nhất trí về những định hướng chiến lược và biện pháp thực hiện nhằm xây dựng một khuôn khổ để phân tích các khuyến nghị và kế hoạch tương lai được đề xuất trong các báo cáo quốc gia.
Báo cáo này ghi nhận sự đóng góp của các chuyên gia từ các cơ quan nhà nước, trong cũng như ngoài khu vực, những người chịu trách nhiệm phản ánh các thực tiễn tốt về học tập suốt đời, soạn thảo báo cáo quốc gia và góp ý cho bản thảo. Các cơ quan này là: Viện Giáo dục kỹ thuật Brunei (Brunei Darussalam); Vụ Giáo dục không chính quy, Bộ Giáo dục, Thanh thiếu niên và Thể thao (Campuchia); Trung tâm Giáo dục mầm non và Phát triển giáo dục cộng đồng, Tây Java (Indonesia); Vụ Giáo dục không chính quy, Bộ Giáo dục và Thể thao (CHDCND Lào); Phòng Phát triển chính sách, Bộ Giáo dục đại học (Malaysia); Vụ Giáo dục thay thế, Bộ Giáo dục (Myanmar); Viện Đại học Mở Đại học Philippines (Philippines); Phòng Nghiên cứu và Đổi mới, Viện Nghiên cứu Học tập cho người lớn Singapore (Singapore); Văn phòng Giáo dục không chính quy và phi chính quy, Bộ Giáo dục (Thái Lan); Tổng cục Giáo dục thường xuyên, Bộ Giáo dục (Timor-Leste); và Đại học Mở Hà Nội (Việt Nam).
Ban biên tập đặc biệt cảm ơn các ông Chris Duke và Heribert Hinzen, những người đã đọc các báo cáo quốc gia, cho nhận xét từ góc độ chuyên gia và chuẩn bị một bản phân tích sơ bộ. Xin cảm ơn các đồng nghiệp tại UIL gồm Christiana Winter và Raúl Valdés-Cotera đã cho ý kiến nhận xét về các bản thảo. Xin cảm ơn những người đã nghiên cứu và viết bài về các thực tiễn tốt trong báo cáo này, dưới sự hướng dẫn của Rika Yorozu: Olesya Gladushyna (Brunei Darussalam, Campuchia, Indonesia, CHDCND Lào, Malaysia, Philippines, Singapore, Timor-Leste và Việt Nam), Ashely Stepanek (Campuchia, Myanmar và Thái Lan), Trần Bá Linh (Brunei Darussalam, Indonesia và Việt Nam), Adinda Laraswati (Indonesia) và Suehye Kim (Singapore).
Cuối cùng, xin ghi nhận nỗ lực của các văn phòng sở tại SEAMEO và UNESCO trong khu vực vì đã sử dụng báo cáo này trong công việc của họ với các chính phủ liên quan nhằm đảm bảo một cuộc đối thoại chính sách có nhiều bên tham gia hướng đến việc nâng cao chất lượng giáo dục qua lăng kính của học tập suốt đời.
7
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
LỜI NÓI ĐẦU H
Để đối phó với các thách thức về mặt kinh tế-xã hội của
ọc tập suốt đời là động lực để biến đổi thế giới của chúng ta nhằm đạt được các mục tiêu của Chương trình nghị sự 2030 về Phát triển Bền vững. Nhiều quốc gia và cộng đồng đã xem học tập suốt đời cho mọi người là điều cần thiết cho các mục tiêu giáo dục và khuôn khổ phát triển của họ. 11 quốc gia ở Đông Nam Á được trình bày trong báo cáo này - Brunei Darussalam, Campuchia, Indonesia, CHDCND Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan, Timor-Leste và Việt Nam– cũng không phải là ngoại lệ. UNESCO có các đối tác năng động trong khu vực này, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Tổ chức Bộ trưởng Giáo dục các quốc gia Đông Nam Á (SEAMEO), tạo điều kiện thúc đẩy sự hợp tác và học tập giữa các nước trong khu vực.
thế giới hiện đại, các quốc gia trên thế giới đã tìm đến học tập suốt đời làm chìa khóa giải quyết vấn đề lực lượng lao động có tay nghề, sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu của thị trường, và tiến đến một xã hội công bằng và gắn kết hơn; các quốc gia ở Đông Nam Á cũng không phải là ngoại lệ. Khu vực này đã củng cố cam kết của mình về học tập suốt đời thông qua Hiến chương ASEAN năm 2007, Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 15 vào năm 2009 và gần đây nhất là Bảy Lĩnh vực Ưu tiên của SEAMEO, được đề xuất thông qua đối thoại chiến lược cấp Bộ trưởng Giáo dục SEAMEO tại CHDCND Lào vào năm 2014 và được Hội đồng SEAMEO phê chuẩn vào năm 2015, đặc biệt là Ưu tiên 2: Giải quyết các rào cản đối với giáo dục hòa nhập và sự tiếp cận các cơ hội học tập cơ bản thông qua đổi mới trong các chương trình giáo dục. Tuy nhiên, trong thực tế, học tập suốt đời ở Đông Nam Á vẫn còn tồn tại những bất cập đáng kể về mặt khái niệm và thực tiễn tại 11 nước thành viên. Điều này đòi hỏi một phương cách hiệu quả để chia sẻ sự hiểu biết, chính sách và thực tiễn nhằm gắn kết và hỗ trợ các quốc gia Đông Nam Á trong việc thúc đẩy học tập suốt đời.
Viện Nghiên cứu về Học tập suốt đời của UNESCO (UIL) hỗ trợ các bộ giáo dục trong khu vực phát triển các chính sách và chiến lược về học tập suốt đời thông qua việc đánh giá và chia sẻ chính sách, bao gồm một loạt các hội thảo. Theo sau Hội thảo về Chính sách quốc gia trong lĩnh vực học tập suốt đời tại bảy nước ASEAN, diễn ra tại Hà Nội, Việt Nam, vào năm 2013, các kiến nghị chính sách đã được đề xuất nhằm phát triển và tăng cường hợp tác khu vực trong việc thúc đẩy học tập suốt đời cho mọi người. Nhằm tạo thêm thuận lợi cho tiến trình này, Viện đã hợp tác với Trung tâm Khu vực về Học tập suốt đời của tổ chức SEAMEO tại Việt Nam (SEAMEO CELLL) từ năm 2016 để phát triển và triển khai các cách tiếp cận học tập suốt đời mang tính tổng thể và toàn diện, kết nối nhiều lĩnh vực và phương thức học tập khác nhau. Trong nỗ lực giải quyết thách thức của một phương cách hiệu quả như vậy, SEAMEO CELLL đã đề xuất Dự án hàng đầu của họ: Hướng đến một chương trình nghị sự về học tập suốt đời tại các quốc gia Đông Nam Á, với sự hỗ trợ từ UIL. Dự án đã tổng kết các nghiên cứu tình huống về thực tiễn tốt từ mỗi nước Đông Nam Á nhằm mục đích cung cấp bằng chứng vững chắc cho các khuyến nghị chính sách và đối thoại khu vực về học tập suốt đời.
Báo cáo này là một nỗ lực đầu tiên để ghi nhận và chia sẻ những thực tiễn đầy hứa hẹn trong việc thúc đẩy học tập suốt đời tại 11 quốc gia Đông Nam Á. Đây là một cuốn trong loạt ấn phẩm của UIL về các chính sách và chiến lược học tập suốt đời, nêu bật sự liên quan ở cấp độ toàn cầu, tri thức và kinh nghiệm mà khu vực này đúc kết được. Bản báo cáo là kết quả của những cuộc thảo luận ở phạm vi quốc gia về các thực tiễn tốt trong lĩnh vực học tập suốt đời ở các nước tham gia dự án, và là kết quả của sự chia sẻ ở cấp quốc gia và khu vực nhằm tăng cường sự hợp tác và học hỏi lẫn nhau.
Tài liệu này là báo cáo tóm tắt 15 thực tiễn về học tập suốt đời đầy hứa hẹn tại 11 quốc gia Đông Nam Á. Các thực tiễn này được trích từ các báo cáo quốc gia mang tính định tính về điều kiện học tập suốt đời ở mỗi nước, được soạn thảo bởi một mạng lưới các chuyên gia do Hội đồng Quản trị Trung tâm SEAMEO CELLL đề cử và được củng cố bằng thông tin từ các nguồn thứ cấp. Hy vọng rằng các thực tiễn được trình bày trong báo cáo này, mặc dù mang đậm đặc trưng cụ thể của từng quốc gia, sẽ cung cấp những hiểu biết hoặc nguyên tắc thực sự hữu ích cho các nước trong và ngoài khu vực Đông Nam Á ngay cả khi chúng không thể được áp dụng trực tiếp.
Tôi hy vọng rằng bản báo cáo này sẽ làm phong phú thêm đối thoại chính sách ở các nước Đông Nam Á và xa hơn, và tạo ra những thay đổi tích cực cho sự hợp tác chặt chẽ giữa nhiều bộ ngành và sự hợp tác công lập – tư nhân trong việc mở rộng cơ hội học tập suốt đời có chất lượng và làm giảm nhẹ sự chênh lệch trong cộng đồng về phương diện giáo dục và phát triển. Tôi rất vui vì ấn phẩm này đã được xuất bản đúng vào thời điểm diễn ra SEAMEC 49, được tổ chức tại Jakarta, Indonesia. Thay mặt Ban thư ký SEAMEO, tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đối với UIL và các đối tác khác vì đã không ngừng hỗ trợ SEAMEO, và đánh giá cao SEAMEO CELLL vì sự tận tụy và nỗ lực của họ trong năm qua.
Ts. Gatot Hari Priowirjanto Giám đốc Ban Thư ký SEAMEO David Atchoarena Giám đốc, Viện Nghiên cứu về Học tập suốt đời của UNESCO
8
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
GIỚI THIỆU
1. TỔNG QUAN DỰ ÁN
• việc đề xuất các khuyến nghị về chính sách và chương trình để thúc đẩy học tập suốt đời.
Ở cấp độ từng quốc gia, kết quả mong đợi đầu tiên là mỗi quốc gia chuẩn bị kế hoạch hành động chiến lược để xây dựng chương trình nghị sự về học tập suốt đời thông qua:
• khởi xướng và tăng cường đối thoại đa phương và đa ngành về học tập suốt đời trong và giữa các bộ ngành chịu trách nhiệm về học tập suốt đời tại các quốc gia (ví dụ như giáo dục cơ bản, giáo dục dạy nghề và giáo dục đại học) cùng với các tổ chức nhà nước và tư nhân khác có tham gia vào việc xây dựng và triển khai các chính sách và chiến lược về học tập suốt đời. Các quốc gia Đông Nam Á đã có những bước tiến lớn trong việc cải thiện tiếp cận giáo dục cơ bản trong khu vực. Tuy nhiên, mặc dù tỷ lệ đi học nhìn chung tăng lên, và tỷ lệ bỏ học đã giảm nhưng vẫn còn những thách thức trong việc đảm bảo mục tiêu tổng quan “giáo dục chất lượng theo hướng công bằng và hòa nhập và thúc đẩy cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người” (Mục tiêu Phát triển Bền vững 4, một trong các Mục tiêu Phát triển Bền vững 2030 đã được quốc tế thống nhất). Để giải quyết thách thức này, các quốc gia Đông Nam Á cần phải học hỏi lẫn nhau về phương diện chính sách lẫn thực tiễn, củng cố việc thực hiện các chiến lược và đưa quan điểm của họ về học tập suốt đời vào thực tiễn.
• xác định, phân tích và tóm tắt các thực tiễn và chính sách thành công về học tập suốt đời trong các báo cáo quốc gia. • xác định các hành động của chính phủ nhằm nâng cao tính công bằng và chất lượng của học tập suốt đời. • học tập từ kinh nghiệm của các quốc gia Đông Nam Á khác.
3. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ CẤU TRÚC BÁO CÁO
Mục tiêu của báo cáo này là chia sẻ các chính sách và thực tiễn hứa hẹn thành công để thúc đẩy học tập suốt đời tại các quốc gia Đông Nam Á, và khuyến khích đối thoại chính sách công về học tập suốt đời ở cấp độ quốc gia và khu vực.
2. NỘI DUNG CHÍNH VÀ MỤC TIÊU DỰ ÁN
Để hỗ trợ tăng cường nỗ lực của các quốc gia Đông Nam Á đưa ra một chương trình nghị sự về học tập suốt đời đáp ứng hơn nữa tiêu chí hòa nhập và bình đẳng giới, Trung tâm Khu vực về Học tập suốt đời của Tổ chức Hội đồng Bộ trưởng Bộ Giáo dục các quốc gia Đông Nam Á (SEAMEO CELLL) và Viện Nghiên cứu về Học tập suốt đời của UNESCO (UIL) vào năm 2016 đã khởi xướng một dự án khu vực nghiên cứu và vận động chính sách cho học tập suốt đời. Dự án Hướng đến một chương trình nghị sự về học tập suốt đời tại các quốc gia Đông Nam Á nhằm thúc đẩy việc chia sẻ các thực tiễn tốt trong quá trình triển khai các cách tiếp cận học tập suốt đời mang tính tổng thể và toàn diện, kết nối các lĩnh vực và hình thức học tập khác nhau trong khu vực.
Trên cơ sở phân tích các báo cáo nhận được từ các “tổ chức điều phối cấp quốc gia” (national focal point), bản dự thảo đầu tiên của báo cáo này đã được xây dựng và trình bày lấy ý kiến tham vấn tại hội nghị chuyên gia tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 10/2016 (SEAMEO CELLL và UIL, 2016). Bản dự thảo sau đó đã được chỉnh sửa và phát triển trên cơ sở kết quả thảo luận tại cuộc họp chuyên gia và được viết lại sau khi nhận được bản báo cáo nghiên cứu đầy đủ của từng nước. Dự án được thực hiện bởi 11 quốc gia Đông Nam Á với sự phối hợp chặt chẽ với các thành viên hội đồng quản trị của SEAMEO CELLL và văn phòng đại diện UNESCO tại các nước: Brunei Darrusalam, Campuchia, Indonesia, CHDCND Lào, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan, Timor Leste và Việt Nam.
Đây là dự án khởi đầu sẽ được triển khai đến giữa năm 2018. UIL đã cung cấp khoản đầu tư và hỗ trợ kỹ thuật ban đầu cho SEAMEO CELLL. Mục tiêu của dự án là tăng cường hợp tác học hỏi lẫn nhau ở cấp khu vực thông qua:
1 Đối với Myanmar, mô tả về thực tiễn tốt trong báo cáo này dựa trên bài trình bày tại cuộc họp chuyên gia, Kế hoạch Phát triển Giáo dục Quốc gia (2016-20) và các
thư điện tử trao đổi với các chuyên gia trong nước.
Báo cáo này được xây dựng trên cơ sở báo cáo quốc gia do mười nước gửi đến trong khuôn khổ dự án, và các tài liệu cơ sở lý thuyết và nghiên cứu phong phú bao gồm cả những tài liệu chính thức từ tất cả các quốc gia SEAMEO và các tài liệu liên quan từ các cơ quan phát triển song phương và quốc tế1. Bản dự thảo báo cáo sau đó đã được gửi cho các tổ chức điều phối cấp quốc gia rà soát lại để đảm bảo tính chính xác của các thông tin và cách diễn giải. • việc lập các báo cáo và phổ biến các cách tiếp cận tổng thể và toàn diện về học tập suốt đời; • việc xây dựng một kênh chia sẻ tri thức trực tuyến về chính sách và thực tiễn về học tập suốt đời; và
9
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
L L L E C O E M A E S ©
Các thành viên Hội đồng Quản trị Trung tâm SEAMEO CELLL và các đại biểu tham dự cuộc họp chuyên gia về học tập suốt đời (Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 10/2016)
Bản dự thảo phân tích, và xem xét các yếu tố chủ chốt hỗ trợ thúc đẩy học tập suốt đời tại từng nước và trong mối tương quan so sánh với nước khác dựa vào bốn nền tảng của học tập suốt đời:
• Các thực tiễn về dạy và học mang tính hòa nhập và đảm bảo bình đẳng giới đặt người học ở vị trí trung tâm và hỗ trợ hiệu quả người học trong những giai đoạn chuyển tiếp trong quá trình học, làm việc và sinh hoạt trong suốt cuộc đời.
Báo cáo tổng hợp này bao gồm ba chương. Chương một đề cập đến các khái niệm về học tập suốt đời nói chung và khái niệm này được phản ánh trong các tài liệu quốc tế và quốc gia như thế nào. Chương hai giới thiệu một số thực tiễn tốt và có triển vọng được rút ra từ các báo cáo quốc gia nhằm giúp độc giả hiểu việc phát triển các chính sách mới và thực tiễn sáng tạo được thực hiện tại các nước nhằm tăng cường sự hòa nhập và nâng cao chất lượng thông qua việc không ngừng tăng cường chuyên môn của giáo viên và giảng viên. Chương ba trình bày các đề xuất hành động trong tương lai trên cơ sở kết quả kỳ họp chuyên gia năm 2016 và các khuyến nghị trong các báo cáo quốc gia. • Các hệ thống công nhận kết quả học tập từ hai hình thức không chính quy và phi chính quy để tạo ra hợp lực giữa các hình thức học tập khác nhau.
• Các thực tiễn liên kết các lĩnh vực phát triển kinh tế và xã hội khác nhau và tạo điều kiện cho tất cả các bên liên quan tham gia thúc đẩy học tập suốt đời. • Các chính sách và chiến lược thống nhất của chính phủ Nguyên văn các báo cáo quốc gia và tài liệu tham khảo về lĩnh vực học tập suốt đời được đăng tải trên Cổng thông tin trực tuyến về Học tập suốt đời ở Đông Nam Á (http://www. sea-lllportal.org). Cổng thông tin này là một trong những cấu phần của dự án. cho phép triển khai các thực tiễn này.
10
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
Chương 1: Khái niệm học tập suốt đời ở Đông Nam Á
Sự hội nhập khu vực diễn ra ở Đông Nam Á có hai đặc điểm mâu thuẫn nhau. Một mặt, nó thúc đẩy sự hợp tác và trao đổi hiệu quả giữa 11 nước đang cùng nhau phát triển thành một khu vực thống nhất và ngày càng quan trọng; mặt khác, nó gây ra sự quan ngại ở công dân của các quốc gia về tác động của dòng chảy tự do hàng hóa, dịch vụ và con người đối với bản sắc văn hóa và đặc tính riêng biệt của mỗi nước.
thay đổi, diễn giải lại và áp dụng ở các quốc gia và khu vực khác nhau. Tại Đông Nam Á, khái niệm này gắn với những truyền thống và cách thức học tập khác nhau, được hỗ trợ bởi các chính sách và chiến lược đặc biệt. Có rất nhiều định nghĩa về học tập suốt đời nhưng chúng đều có những điểm chung. Định nghĩa chặt chẽ đầu tiên nằm trong Báo cáo năm 1972 “Học để tồn tại” của Ủy ban UNESCO do Edgar Faure làm Chủ tịch. Tài liệu khái quát và viễn kiến này bàn về tính tổng thể của cuộc sống con người, giới thiệu các khái niệm “xã hội học tập” và “giáo dục suốt đời”, đặt trường học (giáo dục chính quy) trong một bối cảnh xã hội học tập rộng hơn, và xuyên suốt cuộc đời.
Từ năm 2000, các chỉ số giáo dục ở tất cả 11 quốc gia đều cho thấy những kết quả ấn tượng về sự tiến bộ và số lượng người đi học. Tuy nhiên, không có nhiều hệ thống giáo dục quốc gia trong khu vực giải quyết được đầy đủ các thách thức về hòa nhập, bình đẳng, và chất lượng. Khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng cho thấy sự phát triển kinh tế ở khu vực chưa mang đến lợi ích cho người nghèo (ASEAN Secretariat, 2015). Khu vực Đông Nam Á có bề dày văn hóa và lịch sử nhưng cũng phải hứng chịu nhiều thiên tai như động đất, bão tố làm ảnh hưởng đến mọi mặt của cuộc sống bao gồm cả chuyện đến trường. Trong bối cảnh này, học tập suốt đời là một khái niệm phổ biến trong lĩnh vực giáo dục và kinh doanh của khu vực. Chương này thảo luận những văn kiện quan trọng về học tập suốt đời của khu vực và toàn cầu và những cách thức giải quyết đa dạng trong các chính sách và chiến lược giáo dục quốc gia. 1. KHUNG KHÁI NIỆM VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI
UNESCO không phải là tổ chức quốc tế duy nhất thông qua ý tưởng về học tập suốt đời và thúc đẩy nó, Hội đồng Châu Âu và Tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế (Organisation for Economic Co-operation and Development - viết tắt OECD) đã đề cập đến vấn đề này trong tài liệu Giáo dục thường xuyên: Hướng đến một chiến lược về học tập suốt đời xuất bản năm 1974. Với sự trổi lên của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức trong vòng 20 năm qua, thuật ngữ “học tập suốt đời” đã được sử dụng với nghĩa hẹp hơn. Mặc dù thuật ngữ do Ủy ban Châu Âu, OECD, Ngân hàng Thế giới và các tổ chức quốc tế khác sử dụng thường tương tự nhau, viện dẫn các khía cạnh xã hội, dân sự cũng như kinh tế của học tập suốt đời, các tổ chức này chủ yếu tập trung vào lợi ích kinh tế của việc học. Họ coi việc tăng cường cung cấp các khóa đào tạo và giáo dục nghề là điều tối quan trọng để tăng cường tính cạnh tranh và phát triển nền kinh tế quốc dân, trong khi đó lại bỏ qua các lợi ích to lớn hơn của công tác giáo dục và đào tạo này. Mặc dù UNESCO chưa bao giờ phủ nhận lợi ích kinh tế của việc học tập, tổ chức này luôn tập trung vào một tầm nhìn toàn diện về học tập suốt đời và các lợi ích cá nhân và xã hội mà nó mang lại: tôn trọng nhân phẩm và cuộc sống, quyền bình đẳng, công bằng xã hội, đa dạng văn hóa và chia sẻ trách nhiệm về một tương lai bền vững (UNESCO, 2015).
Giáo dục chất lượng và thúc đẩy cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người là những mục tiêu chính của giáo dục toàn cầu trong Chương trình nghị sự 2030 về Phát triển Bền vững. Học tập suốt đời được mô tả trong Khuôn khổ Hành động về Giáo dục 2030 như sau: Học tập trong suốt cuộc đời đã có từ lâu trong lịch sử nhân loại. Khái niệm này có thể tìm thấy ở nhiều nền văn hóa, nền văn minh cổ đại và các tôn giáo ở Châu Á (Medel-Anoonuevo, 2001, trang 1). Mặc dù vậy, việc nắm bắt đầy đủ ý nghĩa của “học tập suốt đời cho tất cả mọi người” lại rất khó do khái niệm này thiếu tính ổn định, và việc huy động nguồn nhân lực và tài chính để thực hiện một tầm nhìn về học tập suốt đời lại đòi hỏi nhiều nỗ lực và thời gian. Chỉ đến khi học tập chính quy, không chính quy và phi chính quy được nhìn nhận là các cấu phần đầy đủ và quan trọng của toàn bộ hệ thống học tập của một quốc gia, và khi sự bình đẳng và chất lượng được đặt ở vị trí trung tâm của giáo dục và học tập, thì chúng ta mới đạt được sự phát triển tổng hợp và toàn diện như được hình dung trong Chương trình nghị sự 2030 về Phát triển Bền vững.
[Học tập suốt đời] có cội rễ trong việc tích hợp giữa học tập và đời sống, bao gồm các hoạt động học tập cho mọi Khái niệm học tập suốt đời là một khái niệm chính sách mới, được hình thành vào nửa cuối thế kỷ 20 và đến nay đã được
11
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
quy - như minh họa trong Bảng 1.1. Một khung trình độ xác nhận các kết quả học tập không chính quy và phi chính quy sẽ giúp người học tái tham gia giáo dục chính quy và hưởng lợi từ hình thức giáo dục này.
người ở mọi lứa tuổi (trẻ em, thanh thiếu niên, người già, các bé trai và gái, phụ nữ và đàn ông) ở mọi bối cảnh của cuộc sống (gia đình, trường học, cộng đồng, nơi làm việc…) thông qua nhiều hình thức khác nhau (chính quy, không chính quy, phi chính quy) để cùng đáp ứng các đòi hỏi và nhu cầu học tập khác nhau. Các hệ thống giáo dục thúc đẩy việc học tập suốt đời vận dụng cách tiếp cận toàn diện và đa ngành với sự tham gia của tất cả các tiểu ngành và các cấp độ để đảm bảo cung cấp cơ hội học tập cho tất cả các cá nhân. (UNESCO, 2016a, p. 30)
Khái niệm này còn có một ý nghĩa rộng hơn, đó là: một xã hội trong đó việc học tập không chỉ được chia sẻ và sở hữu bởi các cá nhân mà còn bởi các tổ chức và định chế; điều này cũng có nghĩa là các cá nhân có thể học hỏi từ kinh nghiệm của bản thân họ từ đó hành động hiệu quả hơn. Trong thời đại mà mọi thứ đều thay đổi nhanh chóng, trên toàn cầu và trong khu vực Đông Nam Á, nhận thức về ý nghĩa rộng của học tập suốt đời đang dần trở nên phổ biến. Học tập suốt đời là một nguyên tắc tổ chức giáo dục bao trùm tất cả các giai đoạn của cuộc đời và tất cả các hình thức học tập - giáo dục chính quy, không chính quy và phi chính
Giáo dục tiểu học (ISCED 1)
Giáo dục trung học bậc thấp (ISCED 2)
Giáo dục trung học bậc cao (ISCED 3)
Giáo dục đại học ngắn hạn (ISCED 5)
Giáo dục sau trung học dưới đại học (ISCED 4)
Giáo dục đại học bậc cử nhân hoặc tương đương (ISCED 6)
Giáo dục đại học bậc thạc sĩ hoặc tương đương (ISCED 7)
Giáo dục đại học bậc tiến sĩ hoặc tương đương (ISCED 8)
Giáo dục mầm non (ISCED 0) *
Giáo dục đặc biệt, giáo dục nghề và kỹ thuật, bồi dưỡng chuyên môn
Giáo dục thay thế
Học việc, học ứng dụng, thực hành tại nơi sinh sống
HỆ CHÍNH QUY: bằng cấp hoặc chứng chỉ được công nhận
HTVB Bậc 2
HTVB Bậc 3
HTVB Bậc 4
HTVB Bậc 5
HTVB Bậc 6
HTVB Bậc 7
HTVB Bậc 8
Hệ thống văn bằng (HTVB)** Bậc 1
Tập huấn kỹ năng nghề nghiệp, bồi dưỡng chuyên môn, thực tập
Chương trình dạy chữ cho thanh thiếu niên và người lớn
Nhà trẻ
Chương trình cho người không được đến trường
Tập huấn kỹ năng sống, chăm sóc sức khỏe và vệ sinh, kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ môi trường, sử dụng máy vi tính
HỆ KHÔNG CHÍNH QUY: bằng không chính quy hoặc không được cấp bằng
Chương trình phát triển văn hóa – xã hội, chương trình văn, thể, mỹ, thủ công mỹ nghệ
Tự học theo ý chí, theo định hướng của gia đình, theo định hướng của xã hội: học ở nơi làm việc, trong gia đình, ở cộng đồng địa phương, trong cuộc sống thường nhật
Chăm sóc trẻ tại nhà
PHI CHÍNH QUY: không có chứng nhận
Học tập ngẫu nhiên qua sách báo, vô tuyến, chuyến tham quan viện bảo tàng
Nguồn: UNESCO, 2016b, p. 8
* ISCED (International Standard Classification of Education): Cấp bậc giáo dục theo chuẩn quốc tế ** Hệ thống văn bằng: công nhận giá trị của giáo dục không chính quy và phi chính quy
Bảng 1.1. Cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người
12
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
2. VƯỢT QUA THÁCH THỨC: HƯỚNG ĐẾN HỌC TẬP SUỐT ĐỜI CHO TẤT CẢ MỌI NGƯỜI
Các thỏa thuận quốc tế quan trọng đã giúp định hình các chính sách quốc gia và khu vực về giáo dục và học tập suốt đời bao gồm (theo trình tự thời gian):
• Điều 26 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (1948) • Điều 13 của Công ước quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa (1976) • Công ước về Xóa bỏ mọi Hình thức Phân biệt đối xử với Phụ nữ (1979) – Phần III, Điều 10 • Khyến nghị 195 của ILO về phát triển nguồn nhân lực: giáo dục, đào tạo và học tập suốt đời (2004)
• Giáo dục 2030: Tuyên bố Incheon và Khung hành động thực hiện Mục tiêu Phát triển Bền vững số 4: Đảm bảo chất lượng giáo dục hòa nhập và công bằng và thúc đẩy học tập suốt đời cho tất cả mọi người (2015) 1 • Khuyến nghị của UNESCO về Giáo dục và Học tập cho Ngày nay số lượng trẻ em ở Đông Nam Á đi học nhiều hơn và thời gian tham gia giáo dục chính quy cũng lâu hơn so với các thế hệ trước đó. Do đó tỷ lệ biết chữ ở người trẻ (15-24) trong khu vực đạt mức cao, với sự bất bình đẳng giới trước đây bây giờ đảo ngược: người trẻ không biết chữ phổ biến ở nam giới hơn là nữ giới. Để biến mục tiêu phổ cập học tập suốt đời có chất lượng cho tất cả mọi người ở Đông Nam Á thành hiện thực, nhiệm vụ chính là phải chuyển đổi hệ thống giáo dục quốc gia: ưu tiên cho hòa nhập và bình đẳng, và đảm bảo sự tiếp cận giáo dục của những người thiệt thòi trong xã hội. Cách tiếp cận như vậy sẽ có tác động tích cực đến người học nói chung và giúp giảm bớt rào cản trong việc tham gia học tập. Người lớn (được chỉnh sửa vào năm 2015)
Các thỏa thuận này nhấn mạnh quyền giáo dục cho tất cả mọi người, hỗ trợ phát triển, và đánh giá các chính sách và chiến lược giáo dục quốc gia. Những thỏa thuận này và các tài liệu lý thuyết quan trọng khác, cùng với mô tả tóm tắt đều được đăng tải trên Cổng thông tin trực tuyến về Học tập suốt đời ở Đông Nam Á.
Các chiến lược để tăng cường hòa nhập nhắm đến các đối tượng nằm ngoài hệ thống nhà trường: trẻ em mầm non, trẻ em và thiếu niên bỏ học cũng như những thanh niên và người lớn có trình độ học vấn thấp. Cần gấp rút có các sáng kiến chiến lược để thu hút và khuyến khích khoảng 18,6 triệu trẻ em không đi học, thiếu niên và thanh niên ở độ tuổi trung học đến trường. Đồng thời, tại một số nước, giáo dục mầm non cần được mở rộng nhanh chóng để chuẩn bị cho trẻ em trước giai đoạn học tập ở nhà trường.
Việc cung cấp kiến thức và kỹ năng cho người lớn, đặc biệt là phụ nữ và những người thiệt thòi, cần được cải tiến thêm. Tỷ lệ biết chữ ở người lớn tại Đông Nam Á đã tăng 10% lên 94,5% từ năm 1990 đến năm 2015, một số nước như Timor- Leste và CHDCND Lào đã đạt được những tiến bộ đáng kể về xóa mù chữ cho người lớn từ năm 2000, với tỷ lệ biết chữ tăng lần lượt là 70% và 16% (UNESCO, 2017, p. 30). Tuy nhiên, hơn 25.7 triệu người trưởng thành vẫn còn không biết chữ, trong đó tỷ lệ mù chữ ở nữ rất ít được cải thiện. Số năm tham gia học tập ở nhà trường của người trưởng thành trên 25 tuổi trong khu vực dao động lớn, từ 4 đến 12 năm, và sự chênh lệch lớn giữa các quốc gia khiến ngày càng có nhiều người thừa nhận sự cần thiết phải giáo dục và đào tạo người trưởng thành để đáp ứng được nhu cầu của hàng triệu người về học tập suốt đời.
1 Các khung hành động phát triển giáo dục được thông qua trong chiến dịch Giáo dục cho mọi người tại Jomptien năm 1990 và Dakar năm 2000 cũng đã được tham khảo. 2 http://asean.org/?static_post=asean-socio-cultural-community-blueprint-2025 3 http://www.seameo.org/7PriorityAreas
Ở Đông Nam Á, cải thiện giáo dục và học tập suốt đời được coi là chìa khóa để phát triển bền vững và được thực hiện trong các lĩnh vực khác nhau (lao động, thanh niên, phát triển nông thôn) cũng như bởi các cá nhân (http://data. myworld2015.org/;Anon, 2017; ILO, 2016). Các chiến lược giáo dục chính hiện đang được đồng thuận ở các quốc gia Đông Nam Á là Bản Thiết kế Tổng thể về Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN 2025 và Bảy Lĩnh vực giáo dục ưu tiên của SEAMEO (2015-2035). Bản Thiết kế tập trung vào giáo dục phổ thông và đại học và không chú trọng nhiều vào giáo dục không chính quy và giáo dục học tập người lớn. Bảy lĩnh vực giáo dục ưu tiên gộp học tập suốt đời với giáo dục và đào tạo nghề và kỹ thuật, mặc dù tất cả các lĩnh vực này đều hướng đến việc cung cấp học tập suốt đời có chất lượng cho tất cả mọi người. Bản Tóm tắt các Khuyến nghị Chính sách Hà Nội về Thúc đẩy Học tập suốt đời cho tất cả mọi người được chia sẻ tại kỳ họp Hội đồng SEAMEO vào năm 2013 đã đưa ra các khuyến nghị rõ ràng về chính sách, pháp chế, tài chính và cung cấp các cơ hội và nâng cao chất lượng, tăng cường nhận thức và hợp tác khu vực (UIL et al., 2013). Việc cải tiến cơ chế chuyển đổi giữa các hình thức học tập khác nhau và sự công nhận kết quả học tập của hình thức
13
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
L L L E C O E M A E S ©
Đào tạo nghề tại thành phố Hồ Chí Minh
14
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
e r o p a g n
i
i
S , g n n r a e L t l
u d A r o f e t u t ti s n
I
©
Đào tạo lại và đào tạo nâng cao kỹ năng của hệ thống đào tạo và giáo dục thường xuyên tại Singapore
3. TẦM NHÌN VỀ MỘT XÃ HỘI HỌC TẬP
giáo dục không chính quy và học tập phi chính quy có thể giúp tăng lượng đăng ký tham gia học và tiếp tục học lên ở những người này. Một nghiên cứu về học tập suốt đời ở các quốc gia Đông Nam Á năm 2009 đã xác định 4 trở ngại chính đối với việc cải thiện lộ trình và cơ hội học tập: thiếu các hướng dẫn về việc đảm bảo chất lượng; thiếu sự tham gia của cộng đồng và người học; thiếu ngân sách; và thiếu thông tin về kinh nghiệm của các quốc gia khác (SEAMEO INNOTECH, 2014). Những khó khăn này vẫn còn tồn tại.
Các văn bản chiến lược và chính sách giáo dục quốc gia hiện tại ở Đông Nam Á cùng chia sẻ một tầm nhìn toàn diện về học tập suốt đời cho tất cả mọi người. Một số văn bản được sự hỗ trợ chính trị ở cấp cao nhất; một số văn bản được dự thảo sau khi vấn đề được xem xét toàn diện và tham vấn với các bên liên quan và các đối tác phát triển quốc tế. Ở những nước có tỷ lệ biết chữ ở người lớn thấp, học tập suốt đời có khuynh hướng gắn liền với giáo dục và cải thiện chất lượng cuộc sống của những người có trình độ học vấn thấp. Ở những quốc gia có GDP bình quân đầu người cao, học tập suốt đời gắn liền với việc giáo dục lên cao và đào tạo kỹ năng cho việc làm. Một cách tiếp cận mang tính nhân văn của học tập suốt đời là nâng cao sự hòa nhập của những đối tượng thiệt thòi, người khuyết tật, những người sống ở vùng sâu vùng xa, nhằm giảm khoảng cách phát triển. Hộp 1.1 liệt kê các văn bản chính sách quốc gia chọn lọc cùng với các tóm lược đặc điểm của học tập suốt đời thể hiện trong đó.
Năng lực ngày càng tăng của người dân, chính phủ, và nền kinh tế là động lực chính thúc đẩy phát triển trong khu vực. Các quốc gia như Indonesia, với tỷ lệ thanh niên được đào tạo cao, có tiềm năng trở thành trung tâm của các doanh nghiệp xã hội và sự đổi mới, và có thể cung cấp các giải pháp và sản phẩm thực tế cho phát triển bền vững (UNFPA, 2015). Tuyên bố của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Myanmar về việc cung cấp cho “tất cả sinh viên, thanh thiếu niên và người học người lớn… cơ hội giáo dục giúp cho họ có thể thực hiện được nguyện vọng về sự nghiệp và học tập suốt đời của mình” (Ministry of Education, Myanmar, 2017, p. 6) cho thấy mong muốn của các nhà lãnh đạo giáo dục trong khu vực.
Học tập suốt đời trong khu vực bắt nguồn chủ yếu từ lịch sử của giáo dục không chính quy (dạy chữ, các kỹ năng cơ bản và giáo dục thường xuyên) cho người lớn. Ngày nay, sự phát triển của học tập suốt đời còn do nhu cầu đào tạo và giáo dục nghề của các ngành kinh tế khác nhau ngày càng cao. Giáo dục và đào tạo thường xuyên cho thanh thiếu niên và người lớn giờ đây đã thu hẹp trọng tâm vào khía cạnh rất quan trọng này, do đó kéo ý nghĩa của học tập suốt đời xa rời nhà trường chính quy và chương trình sau học đường, và không chuẩn bị cho mọi người trở thành người học tự định hướng suốt đời.
Để hiện thực hóa mong muốn này, các quốc gia Đông Nam Á phải nắm bắt cơ hội tăng cường đầu tư vào học tập suốt đời. Phần lớn các quốc gia Đông Nam Á có tỷ lệ chi tiêu công cho giáo dục ở mức cao – trên 10%, dao động trong khoảng từ 4 đến 32%. Trong đó, một số quốc gia gặp khó khăn trong việc thuyết phục Bộ tài chính và các đối tác phát triển quốc tế tăng mức đầu tư để giảm bất bình đẳng trong giáo dục. Nếu việc tăng chi tiêu giáo dục công tương ứng với mức tăng thu nhập quốc dân của chính phủ tại một số quốc gia, và nếu hiệu quả trong chi tiêu được cải thiện, thì có thể thực hiện được đầy đủ các chương trình và dịch vụ cho học tập suốt đời. Trong các chính sách quốc gia gần đây, chính sách về học tập suốt đời thường được diễn đạt qua ngôn ngữ đầy cảm
15
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
hứng, tham vọng và lạc quan. Các chính sách này có thể đề cập đến chất lượng cuộc sống, sống khoẻ mạnh, cộng đồng địa phương mạnh mẽ và sự bền vững. Tuy nhiên với nguồn lực khan hiếm trong thực tiễn, đặc biệt đối với giáo dục và đào tạo sau bậc trung học và ngoài nhà trường, ý nghĩa của việc học tập suốt đời trên thực tế có xu hướng hẹp hơn. Ngay cả khi việc dạy chữ và kỹ thuật cần được quan tâm, các nhà hoạch định chính sách vẫn nên quan tâm tổng quát đến các nhu cầu và chương trình học tập để đảm bảo tính công bằng và sự tham gia của xã hội. Việc đạt được sự đồng thuận về chính sách học tập suốt đời của quốc gia là chưa đủ; sinh viên, giáo viên và cộng đồng nói chung cần phải hiểu và được tham gia vào việc thực hiện các mục tiêu và quy trình. Các chuyên gia làm việc trong các tổ chức làm công tác giảng dạy ví dụ như trung tâm học tập cộng đồng và các kênh học tập trực tuyến cũng cần không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn. Xã hội học tập cần được xây dựng và nuôi dưỡng ở Đông Nam Á, cũng như sự đa dạng trong các hình thức học tập suốt đời để đáp ứng được nhu cầu của địa phương cần được nhìn nhận, như được mô tả ở chương tiếp theo.
Hộp 1.1: Chiến lược và chính sách quốc gia về học tập suốt đời
• Kế hoạch Giáo dục Quốc gia 2016-2021 (Myanmar) của Bộ Giáo dục Myanmar: giáo dục thay thế được đưa vào lộ trình giáo dục cho việc làm và học tập suốt đời. (xem Sơ đồ 2.1) • Hệ thống Giáo dục Quốc dân cho Thế kỷ 21 Giai đoạn 2009-2017 (Brunei Darussalam) của Bộ Giáo dục và đào tạo: xây dựng chương trình thúc đẩy học tập suốt đời và mở rộng tiếp cận giáo dục đại học là một trong các định hướng chính sách.
• Kế hoạch Phát triển Philippines 2017-2022 của Cục Kinh tế và Phát triển Quốc gia: nhằm mục tiêu cung cấp học tập suốt đời cho tất cả mọi người để thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực. • Kế hoạch Chiến lược Giáo dục 2014-2018 (Campuchia) của Bộ Giáo dục, Thanh thiếu niên và Thể thao: phổ cập văn hóa và học tập suốt đời là một trong những chương trình ưu tiên.
• Kế hoạch Chiến lược Quốc gia về Giáo dục 2015- 2019 (Indonesia) của Bộ Giáo dục và Văn hóa: xác định giáo dục là một tiến trình trải dài suốt cuộc đời. Giáo dục cần được tổ chức thông qua một hệ thống mở chấp nhận tính linh hoạt của chương trình và thời gian hoàn thành thông qua các đơn vị học trình và lộ trình học tập. • Tư tưởng Nhà trường tư duy, Quốc gia học tập được Thủ tướng Singapore tuyên bố vào năm 1997: Hình dung một nền văn hóa quốc gia và môi trường xã hội thúc đẩy học tập suốt đời ở công dân Singapore. • Bản sửa đổi Luật Giáo dục Quốc gia 2017-2036 (Thái Lan) của Bộ Giáo dục: xác định khung chính sách giáo dục là nền tảng tạo ra cơ hội giáo dục cho tất cả mọi người trong suốt cuộc đời họ.
• Kế hoạch Chiến lược Quốc gia về Giáo dục 2011-2030 (Timor-Leste) của Bộ Giáo dục: một trong những nguyên tắc chính của đào tạo và giáo dục giáo viên là hiểu rõ giá trị của học tập suốt đời đối với việc nâng cao chất lượng giảng dạy.
• Kế hoạch Phát triển Giáo dục và Thể thao 2016- 2020 (CHDCND Lào) của Bộ Giáo dục và Thể thao: “Cải thiện hệ thống giáo dục để phát triển nguồn nhân lực có tri thức, kỹ năng, đạo đức, và các giá trị đúng đắn … yêu thích học tập suốt đời, yêu thích các phong tục tập quán, yêu thích tiến bộ và khoa học…” là một trong các mục tiêu chính đến năm 2025. • Bản Thiết kế Tổng thể về Hội nhập Văn hóa của Học tập suốt đời cho Malaysia 2011-2020 của Bộ Giáo dục Đại học: học tập suốt đời được xác định là cột trụ thứ ba của hệ thống phát triển nguồn nhân lực. • Đề án Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012-2020 (Việt Nam) được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tập trung vào việc xây dựng xã hội học tập trong đó mối liên hệ và chuyển giao giữa giáo dục chính quy và không chính quy hỗ trợ việc bình đẳng tiếp cận học tập suốt đời cho tất cả mọi người.
16
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
Chương 2: Các thực tiễn tốt về học tập suốt đời
Thách thức chung của chúng ta là làm thế nào thúc đẩy việc thực hiện và phát triển các cơ chế phối hợp phù hợp để có một mẫu số chung đồng thời không để mất bản sắc riêng của từng nước (Kim và Teter, 2015, tr.1)
ta có thể thấy các quốc gia có lịch sử, nền kinh tế, hệ thống chính trị và truyền thống khác nhau cùng thực hiện nhiệm vụ hướng đến một xã hội học tập như thế nào. Các mô tả đầy đủ hơn với đầy đủ bối cảnh có thể xem trong báo cáo của từng quốc gia. Ở đây, chúng tôi trình bày từ các ví dụ về hoạch định hệ thống giáo dục quốc gia đến các cách thức cung cấp cơ hội học tập suốt đời khác nhau thông qua các cộng đồng địa phương và trực tuyến.
Những lời này của Giám đốc Văn phòng khu vực UNESCO về Giáo dục ở Châu Á – Thái Bình Dương rất khớp với bức tranh về các thực tiễn tốt trong bối cảnh nhiệm vụ, chiến lược, và chương trình hoạt động đa dạng và năng động ở các quốc gia Đông Nam Á. Một số thực tiễn là một phần của những chương trình đang được tiến hành tại các quốc gia trong nỗ lực hướng đến lý tưởng chung: mọi công dân đều là những người học tích cực suốt cuộc đời, được hỗ trợ trong một xã hội học tập bởi các cơ cấu và hệ thống vững chắc chấp nhận sự khác biệt của từng địa phương trong một mục đích chung. Các quốc gia ở Đông Nam Á khác nhau về diện tích và sự thịnh vượng. Thời điểm học tập suốt đời trở thành tâm điểm chính sách quan trọng cũng khác nhau theo từng nước và tuỳ theo mức độ “phát triển” mà mỗi nước có những ưu tiên khác nhau. Trong dự án này, nhóm chuyên gia của từng nước được lựa chọn chủ đề và tiêu điểm để báo cáo.
Trước khi đọc các ví dụ, chúng ta cùng suy nghĩ chúng có thể sử dụng như thế nào. Do các quốc gia Đông Nam Á khác nhau, sẽ hoàn toàn sai lầm nếu chỉ đơn giản sao chép các thực tiễn này mà không điều chỉnh cho phù hợp bối cảnh ở mỗi nơi. Trong mỗi quốc gia cũng có nhiều sự khác biệt. Ngay cả các quốc gia giàu có nhất với nền kinh tế tiên tiến nhất cũng là nơi cư ngụ của những công dân, và những cộng đồng gặp nhiều khó khăn nhất. Do đó những nước “tiến bộ nhất” vẫn có thể học từ những nước “ít tiến bộ nhất”, và ngược lại cung cấp cho các nước này những bài học giải quyết khó khăn khi có nguồn tài chính tốt hơn và kinh nghiệm lâu dài.
Mặc dù tầm nhìn và mục tiêu quốc gia về học tập suốt đời phải phù hợp với mục tiêu toàn cầu là thúc đẩy học tập suốt đời cho tất cả mọi người, mỗi quốc gia đang lên kế hoạch, hỗ trợ tài chính và thực hiện các chương trình, dịch vụ giáo dục khác nhau cho học tập suốt đời.
1. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA MỘT HỆ THỐNG GIÁO DỤC HƯỚNG ĐẾN HOÀ NHẬP VÀ CHẤT LƯỢNG TẠI SINGAPORE
Phần trình bày mỗi thực tiễn bao gồm phần mô tả cách thực hiện, những kết quả đáng ghi nhận, và chính sách quốc gia hay khung thể chế hỗ trợ những thực tiễn này. Các độc giả quan tâm đến báo cáo cụ thể của từng quốc gia có thể xem phiên bản đầy đủ và các bài trình bày, cũng như có thể nghiên cứu các ví dụ thực tiễn hứa hẹn khác trên Cổng thông tin trực tuyến về Học tập suốt đời ở Đông Nam Á.
Chương này trình bày dưới dạng tóm tắt các thực tiễn tốt do các quốc gia tự lựa chọn và trình bày trong các báo cáo quốc gia gửi SEAMEO CELLL và UIL. Một số những thực tiễn này vẫn đang trong giai đoạn phát triển ban đầu, hoặc đang được thử nghiệm vài năm trước khi nhân rộng ra toàn quốc. Một số thực tiễn được áp dụng uyển chuyển theo từng địa phương dù đó là một chiến lược quốc gia chung; một số khác cho thấy toàn bộ hệ thống và cấu trúc đã được lên kế hoạch và phát triển đến khi hoàn chỉnh như thế nào. Một số báo cáo cho thấy các quốc gia mới xây dựng tầm nhìn và chiến lược phát triển học tập suốt đời đang tìm cách triển khai như thế nào. Trong khi đó, một số khác lại tập trung vào một số dự án hoặc ưu tiên cụ thể, chẳng hạn như hoà nhập giới và các hành động cụ thể phục vụ các mục tiêu ưu tiên. Tuy nhiên, mỗi trường hợp trình bày trong chương này đều có ích cho các nước khác có cùng mục tiêu dù xuất phát từ các nền tảng khác nhau. Đây là những chương trình đang diễn ra chứ không phải thực tiễn tốt đã hoàn thành và được đánh giá chi tiết. Qua các thực tiễn được trình bày tóm lược ở chương này, Tổng quan Phát triển con người thông qua giáo dục, đào tạo và các cơ hội học tập suốt đời là chìa khóa thúc đẩy nền kinh tế tri thức của Singapore. Chính phủ Singapore đã đầu tư mạnh cho giáo dục nhằm trang bị cho người dân những kiến thức và kỹ năng mang tính cạnh tranh cần thiết. Sự chuyển đổi về giáo dục của Singapore có thể được xem gồm bốn giai đoạn: giai đoạn giáo dục hướng đến sinh tồn (1959–1978), giai đoạn giáo dục hướng đến sự phát triển kiến thức và kỹ năng (1978–1997), giai đoạn giáo dục dựa trên năng lực và đáp ứng nguyện vọng
17
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
s t r A
l
a t i
i
g D e
l i
b o M ©
Học sinh ở Singapore học bằng công nghệ kỹ thuật số
cá nhân (1997–2011), và giai đoạn giáo dục lấy người học làm trung tâm và hướng đến các giá trị (2012–nay). Trước đà phát triển kinh tế và các nhu cầu phát triển của người dân, Singapore đã chuyển trọng tâm hệ thống giáo dục từ việc tăng cường sự tham gia của người học và tăng lượng đăng ký nhập học ở lứa tuổi đầu đời sang việc phát huy tất cả tiềm năng ở mỗi cá nhân thông qua đào tạo trước tuyển dụng (pre-employment training - viết tắt PET), và giáo dục và đào tạo thường xuyên (continuous education and training - viết tắt CET).
Trong giai đoạn này chính phủ đã có một tác động thúc đẩy đào tạo trong lĩnh vực dạy nghề và kỹ thuật qua việc thành lập Vụ Giáo dục Kỹ thuật thuộc Bộ Giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục kỹ thuật ở các trường trung học cơ sở cũng như trong đào tạo cho các ngành công nghiệp. Ngoài ra còn có những nỗ lực đào tạo lực lượng lao động người lớn không tay nghề và mù chữ trong thời gian đó. Chính phủ đã thành lập Ban Giáo dục Người lớn vào năm 1960 để lên kế hoạch, triển khai và giám sát các sáng kiến giáo dục người lớn từ giáo dục cơ bản đến đào tạo liên quan đến việc làm. Năm 1968, Ban Phát triển Kinh tế cũng thành lập một Cơ quan Phát triển Công nghiệp Kỹ thuật để đào tạo công nhân không có tay nghề. Trường Đại học Bách khoa Singapore do một nhóm doanh nhân thành lập năm 1954 cũng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp giáo dục kỹ thuật đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế Singapore.
Thực hiện Khi Singapore được tự điều hành chính phủ vào năm 1959, đất nước này chưa có hệ thống giáo dục quốc gia hoàn chỉnh, không có đủ trường học và đa số người dân không có tay nghề và mù chữ. Singapore cần nhanh chóng công nghiệp hóa để tạo việc làm cho người dân. Chính vì vậy, trong giai đoạn hướng đến sinh tồn từ năm 1959 đến năm 1978, mục tiêu hàng đầu là tăng số lượng trẻ em đến trường. Các chiến dịch đặc biệt đã được tiến hành để thu hút mọi học sinh đến trường học tập, và nhiều trường học mới đã được xây dựng tạo điều kiện cho người học dễ tiếp cận giáo dục hơn. Việc tuyển dụng giáo viên và đào tạo phát triển chuyên môn cũng được tăng cường để đảm bảo việc giảng dạy đạt chất lượng cao. Nhờ đó, số học sinh tiểu học và trung học tăng từ 315.000 vào năm 1959 đến hơn 520.000 vào năm 1968. Đến cuối giai đoạn này, Singapore đã đạt được mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học. Trong khoảng thời gian từ năm 1978 đến năm 1997, hệ thống giáo dục nước này bước vào giai đoạn hướng đến sự phát triển kiến thức và kỹ năng. Mặc dù mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học gần như hoàn thành, Singapore vẫn gặp phải những thách thức liên quan đến tỷ lệ bỏ học ở bậc trung học (khoảng 30% học sinh không tiếp tục học trung học) và trình độ tiếng Anh thấp. Khi nền kinh tế Singapore được công nghiệp hóa, người dân cần được giáo dục và đào tạo thích hợp để làm việc trong các ngành công nghiệp đòi hỏi kỹ thuật và đầu tư cao, chẳng hạn như kỹ thuật và ngành sản suất giá trị cao (highvalue manufacturing).
18
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
e r o p a g n
i
i
S , g n n r a e L t l
u d A r o f e t u t ti s n
I
©
Học tập cộng đồng ở Singapore thúc đẩy sự gần gũi trong cộng đồng
Năm 1979, Ban Giáo dục Người lớn được sát nhập với Ban Đào tạo Công nghiệp thành Ban Đào tạo Nghề và Công nghiệp (Vocational and Industrial Training Board - viết tắt VITB). Cùng năm này, Quỹ Phát triển Kỹ năng được thành lập để đáp ứng nhu cầu học tập cơ bản và phát triển chuyên môn của người lao động bằng cách tổ chức các khóa đào tạo giúp họ nâng cấp từ những công việc không đòi hỏi tay nghề với mức lương thấp lên những công việc đòi hỏi tay nghề cao với mức lương cao. Với Quỹ Phát triển Kỹ năng, một số sáng kiến đã được đưa ra thực hiện như Giáo dục Cơ bản cho Đào tạo Kỹ năng, các mô-đun Đào tạo Kỹ năng, mô-đun Bồi dưỡng Công nhân thông qua Giáo dục Trung học, các Kỹ năng Cốt lõi hướng đến Tính hiệu quả và Sự thay đổi, và Đào tạo kỹ năng Tư duy Độc lập. VITB được tái cơ cấu năm 1992, trở thành Viện Giáo dục Kỹ thuật, tiếp nhận các học sinh thiên về kỹ thuật đã hoàn tất bậc trung học phổ thông.
Trong bối cảnh này, giai đoạn giáo dục hướng đến sự phát triển kiến thức và kỹ năng đã tạo ra những thay đổi cấu trúc chính. Năm 1980, Viện Phát triển Chương trình của Singapore được thành lập để tái thiết kế và chuẩn hóa chương trình học thuật cũng như các tài liệu dạy và học. Nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người học và giải quyết tỷ lệ bỏ học cao, các trường học bắt đầu phân luồng học sinh dựa trên kết quả học tập chung. Điều này cho phép học sinh học tập và tiến bộ với nhịp độ phù hợp với khả năng của bản thân, nhờ đó giúp giảm thiểu việc bỏ học. Để giúp các trường đo lường hiệu quả và xác định các nhóm vấn đề cần giải quyết, công tác đánh giá các trường học đã được thực hiện trong các lĩnh vực như tổ chức trường học, chương trình học tập và hoạt động ngoại khóa. Ngoài ra, các chính sách tuyển dụng và giữ chân giáo viên đã được cải cách. Giáo viên được trả mức lương khá cạnh tranh, và Viện Giáo dục, sau này là Viện Giáo dục Quốc gia, đã cung cấp các khóa đào tạo và phát triển chuyên môn bài bản cho cả sinh viên sư phạm, giáo viên đã tốt nghiệp đại học cũng như lãnh đạo nhà trường. Nhà trường tư duy, Quốc gia học tập là tầm nhìn được Thủ tướng đương thời Goh Chok Tong đưa ra năm 1997, đánh
19
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
dấu sự bắt đầu của giai đoạn giáo dục dựa trên năng lực và đáp ứng nguyện vọng cá nhân. Hiển nhiên là trong một nền kinh tế tri thức, cần phải khuyến khích học sinh thuộc tất cả các bậc học (tiểu học, trung học, đại học và giáo dục và đào tạo thường xuyên) phát triển năng lực tìm tòi, sáng tạo, đổi mới cũng như các năng lực tư duy cấp độ cao. Bắt đầu từ năm 2008, việc phân luồng học sinh ở bậc tiểu học được thay thế bằng việc phân ban. Học sinh có thể theo đuổi một số môn học ở trình độ cao, trong khi vẫn tiếp tục học các môn khác ở trình độ vừa phải theo khả năng. Với việc đưa vào chương trình các kỹ năng tư duy cấp độ cao, năm 2010 Bộ Giáo dục đã giới thiệu một khung mới về Năng lực và Chuẩn đầu ra dành cho Sinh viên Thế kỷ 21, được thiết kế để đào tạo ra những thế hệ người học tự tin, có khả năng tự định hướng và trở thành những công dân tích cực. Khung này được thiết kế để những kỹ năng đạt được ở mỗi trình độ phản ánh kết quả giáo dục thường xuyên của từng người học.
đổi mới. Người ta cũng nhận ra là cần khơi dậy mạnh mẽ những giá trị trong sinh viên và cung cấp cho họ một nền giáo dục toàn diện, trọn vẹn để chuẩn bị cho họ trở thành những công dân trong một thế giới ngày càng thay đổi nhanh chóng. Trong khi theo học các chương trình hàn lâm có chất lượng, sinh viên cũng được khuyến khích mở rộng các trải nghiệm học tập và theo đuổi những sở thích và đam mê bên ngoài trường lớp. Các trường học có thể cung cấp các chương trình học ứng dụng cho phép sinh viên áp dụng những kiến thức học được vào thế giới bên ngoài học đường. Một kế hoạch tổng thể về giáo dục ngoài trời được đưa ra năm 2017 khuyến khích sinh viên học những kỹ năng và giá trị xã hội quan trọng thông qua các hoạt động đội nhóm ngoài trời như cắm trại. Giai đoạn mới của hệ thống giáo dục cũng dẫn đến một loạt các yêu cầu mới đối với giáo viên. Để hỗ trợ giáo viên đáp ứng các yêu cầu mới này, Học viện Giáo viên Singapore đã được tăng cường thành một diễn đàn nơi giáo viên có thể phát triển chuyên môn cũng như trao đổi ý tưởng và phương pháp giảng dạy. Hiểu rõ vai trò quan trọng của phụ huynh, Bộ Giáo dục cũng tăng cường giáo dục và hướng dẫn nghề nghiệp cho cha mẹ, và cấp quỹ hoạt động ban đầu cho các nhóm hỗ trợ phụ huynh ở trường học trong các hoạt động như hội trại cha mẹ và con cái. Chương trình các Kỹ năng cho Tương lai bắt đầu được thực hiện cuối năm 2014 như một phong trào quốc gia nhằm đem lại cho người dân Singapore cơ hội tối đa hóa tiềm năng, bất kể họ khởi điểm từ đâu.
Trong giai đoạn này, chính phủ cũng tiếp tục nâng cao CET. Chính phủ đã thành lập Quỹ hỗ trợ Phát triển Học tập Suốt đời năm 2001 để thực hiện cam kết thúc đẩy học tập suốt đời. Từ năm 2002, chính phủ bắt đầu các nỗ lực phát triển CET thông qua Bộ Nhân lực, và xây dựng phát triển một hệ thống CET toàn diện. Các cơ quan CET của quốc gia, chẳng hạn Viện Giáo dục Người lớn và Viện Tuyển dụng và Hỗ trợ Việc làm được thành lập để khuyến khích giáo dục và đào tạo thường xuyên ở các cá nhân và nhà tuyển dụng. Cơ quan Phát triển Nhân lực Singapore được thành lập năm 2003 để đi đầu trong việc phát triển lực lượng lao động hướng tới mục tiêu xây dựng lực lượng lao động có năng lực đáp ứng yêu cầu và điều kiện làm việc mới, có kỹ năng và khả năng thích ứng. Điều này giúp đẩy nhanh sự chuyển đổi từ hệ thống đào tạo người lớn các kỹ năng tập trung đáp ứng nhà tuyển dụng sang một hệ thống tập trung hơn vào nhu cầu từng cá nhân. Một sáng kiến quan trọng là Hệ thống Chứng chỉ Quốc gia về Kỹ năng cho Người lao động. Hệ thống này xác nhận các khóa học dựa trên những năng lực được công nhận trong các ngành công nghiệp và cấp cho người lao động chứng chỉ kỹ năng đa dụng. Năm 2008, chính phủ chuẩn bị một Kế hoạch Tổng thể 10 năm về Giáo dục và Đào tạo Thường xuyên để thiết lập một chương trình nghị sự chuẩn bị cho lực lượng lao động Singapore trước những thách thức trong tương lai.
Tác động Sinh viên Singapore luôn đạt kết quả tốt trong các kỳ thi quốc tế về đọc, toán và khoa học, ở cả bậc tiểu học và trung học. Kết quả mới nhất của Chương trình Nghiên cứu xu hướng Toán học và Khoa học Quốc tế (Trends in International Mathematics and Science Study - viết tắt TIMSS) năm 2015 và Chương trình Đánh giá Học sinh Quốc tế (Programme for International Student Assessment - viết tắt PISA) 2015 cho thấy bên cạnh việc nắm vững kiến thức nội dung, học sinh lớp 4, lớp 8 và sinh viên lứa tuổi 15 của Singapore cũng thể hiện khả năng phân tích và các kỹ năng lý luận vững chắc cho phép họ áp dụng kiến thức và các hiểu biết khái niệm để giải quyết vấn đề. Điều này tương xứng với chương trình học của Singapore là không chỉ tập trung vào việc giúp sinh viên xây dựng nền tảng kiến thức và kỹ năng vững chắc, mà còn nhấn mạnh đào tạo các kỹ năng tư duy bậc cao và áp dụng kiến thức và kỹ năng vào những tình huống mới.
Dựa vào thế mạnh này, từ năm 2012, hệ thống giáo dục bước vào giai đoạn giáo dục lấy người học làm trung tâm và hướng đến các giá trị, phản ánh việc tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng Singapore cũng đã cải thiện đáng kể trình độ học vấn của
20
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
2. KHUYẾN KHÍCH HỌC TẬP SUỐT ĐỜI Ở
VIỆT NAM
người lớn tuổi từ 25 trở lên, với tỷ lệ đạt trình độ trung học phổ thông tăng từ 13% năm 1990 lên 52% năm 2015. cứu vào việc thiết kế và thực hiện chính sách và thực tiễn giáo dục.
Tổng quan Việt Nam có một cơ chế đầy sáng tạo để thúc đẩy học tập suốt đời trên toàn quốc thông qua Hội Khuyến học Việt Nam. Hội Khuyến học Việt Nam là một tổ chức phi chính phủ có mạng lưới từ trung ương đến các địa phương gồm bốn cấp: trung ương, tỉnh, huyện và xã, có nhiệm vụ thúc đẩy và tạo điều kiện học tập cho tất cả mọi người, với mục tiêu cuối cùng là xây dựng một xã hội học tập. Khi nói đến quá trình phát triển các mô hình học tập ở các cấp cơ sở ở Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam nổi bật trong vai trò quan trọng của người khởi xướng và khuyến khích sự phát triển của các gia đình học tập, dòng họ học tập và cộng đồng học tập ở Việt Nam.
Chính sách hỗ trợ của chính phủ và khuôn khổ thể chế Chính phủ tích cực khuyến khích người dân theo đuổi học tập suốt đời, không chỉ thông qua con đường giáo dục chính quy mà cả giáo dục thường xuyên để liên tục trang bị, hoàn thiện cho mình trong một nền kinh tế toàn cầu có tốc độ phát triển nhanh. Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách quốc gia và chương trình hỗ trợ, giúp công dân học tập qua nhiều giai đoạn của cuộc đời. Bộ Giáo dục cung cấp một nền tảng giáo dục cơ bản vững chắc thông qua các bậc giáo dục tiểu học, trung học và sau trung học như một phần của đào tạo trước tuyển dụng (PET). Quá trình đào tạo này thậm chí vẫn tiếp tục với hệ thống giáo dục thường xuyên khi công dân bắt đầu đi làm. Các chương trình giáo dục thường xuyên được điều phối bởi Cục chuyên trách các Kỹ năng cho Tương lai của Singapore, một cục tác nghiệp thuộc Bộ Giáo dục, chịu trách nhiệm cả chương trình học chính quy và không chính quy được thiết kế để nâng cấp các kỹ năng và năng lực của người đi làm.
Thực hiện Hội Khuyến học Việt Nam được thành lập tại Hà Nội vào tháng 10 năm 1996 trước tình hình giảm sút thành tích học tập của ngành giáo dục (tỉ lệ bỏ học cao, mù chữ gia tăng). Hội được giao ba nhiệm vụ quan trọng vẫn còn phù hợp đến ngày nay:
• Tạo điều kiện học tập thuận lợi cho công dân Việt Nam, bất kể địa vị xã hội. • Hỗ trợ giáo viên và những người làm công tác đào tạo giáo viên, cũng như giảm thiểu việc giáo viên bỏ nghề. Chính phủ hỗ trợ mạnh mẽ việc đào tạo trước khi tuyển dụng và giáo dục thường xuyên nhằm đảm bảo chất lượng và tính bền vững của cả hai hệ thống, đồng thời trợ cấp đáng kể cho công dân. Các chính sách bao gồm Kế hoạch Tiết kiệm Giáo dục, Quỹ Phát triển Kỹ năng, và Quỹ hiến tặng Phát triển Học tập Suốt đời. Hệ thống Chứng chỉ Kỹ năng cho Người lao động Singapore phát triển, đánh giá và công nhận các năng lực lao động chính của cá nhân. • Cung cấp các dịch vụ tư vấn cho chính phủ về các vấn đề liên quan đến giáo dục.
Hướng đi sắp tới Singapore tiếp tục nỗ lực cải tiến hệ thống giáo dục bằng cách chú trọng mở ra các lộ trình học tập linh hoạt. Đồng thời, chính phủ cũng khuyến khích và hỗ trợ tất cả mọi bộ phận dân số tham gia vào quá trình học tập suốt đời. Các cơ sở giáo dục sẽ tiếp tục áp dụng công nghệ kỹ thuật số trong chương trình giảng dạy, cung cấp các phương thức giảng dạy đa dạng như học trực tuyến và hỗn hợp. Việc ghi nhận, xác nhận và công nhận kết quả học tập của giáo dục không chính quy và phi chính quy sẽ được tiếp tục thiết kế và quảng bá.
Những nhiệm vụ này đưa ra một thách thức lớn cho Hội Khuyến học Việt Nam, đặc biệt trong những ngày đầu khi các nguồn lực còn hạn chế; do đó cơ cấu nhân sự phải rất chọn lọc và hoạt động chỉ ở mức khiêm tốn. Tuy nhiên, Hội Khuyến học Việt Nam đã nhận được nhiều sự quan tâm từ chính phủ và xã hội. Nhờ đó Hội đã phát triển nhanh chóng; trong vòng chín năm hoạt động, tổ chức này đã có mặt ở tất cả các tỉnh thành, và năm năm sau đó có mặt ở mọi quận huyện. Tương ứng với sự lan toả đó, Hội cũng mở rộng các hoạt động sang nghiên cứu, xuất bản và thậm chí sang lĩnh vực trị liệu cho trẻ tự kỷ. Hiện nay Hội Khuyến học Việt Nam là đơn vị nòng cốt đóng góp cho Đề án Xây dựng Xã hội học tập Quốc gia. Việc thúc đẩy hệ thống giáo dục phải dựa trên cơ sở khoa học vững chắc. Do đó, cần nghiên cứu sự phát triển của lực lượng lao động từ góc độ giáo dục cũng như nghiên cứu các phương pháp sư phạm cho người lớn, sau đó áp dụng kết quả nghiên
21
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
nhiệm kỳ, một đại hội được tổ chức để đánh giá kết quả hoạt động của Hội Khuyến học Việt Nam và bầu ra ban chấp hành mới. Tham dự đại hội là tất cả ủy viên, đại diện của các Hội Khuyến học ở địa phương và khách mời.
Kinh phí hoạt động của Hội Khuyến học Việt Nam đến từ bốn nguồn: hội phí, kinh phí nhà nước (để thực hiện các dự án được giao), nguồn thu từ các dịch vụ và các nguồn tài trợ. Giống như các bộ trong chính phủ, Hội Khuyến học Việt Nam có một cấu trúc phân cấp bao gồm một văn phòng trung ương và các văn phòng địa phương ở các tỉnh thành, quận huyện và phường xã. Ngoài ra còn có 70 trung tâm và đơn vị chuyên môn cung cấp các dịch vụ giáo dục hỗ trợ Hội Khuyến học Việt Nam và cộng đồng, chẳng hạn như trung tâm Hand in Hand, một trung tâm trị liệu và giáo dục đặc biệt cho trẻ tự kỷ; Trung tâm đào tạo trực tuyến ITGO; và báo Khuyến học và Dân trí.
L L L E C O E M A E S ©
Họp thành viên Hội Khuyến học ở trung tâm học tập cộng đồng
Hội Khuyến học Việt Nam có một ban chấp hành với nhiệm kỳ 5 năm, riêng nhiệm kỳ đầu tiên có thời hạn 3 năm. Các ủy viên có nhiệm vụ soạn thảo chiến lược hoạt động cho nhiệm kỳ và bầu ra ban thường vụ hội và ban kiểm tra. Vào cuối mỗi Kết quả đạt được Trong hơn 20 năm qua Hội Khuyến học Việt Nam đã có sự phát triển đáng ghi nhận. Bắt đầu với 21 tổ chức hội ở các tỉnh vào năm 1996, hiện nay Hội Khuyến học Việt Nam đã có mặt ở tất cả 63 tỉnh thành và 637 quận huyện, 10.650
22
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
Tỉnh/Thành phố
Quận/Huyện
Phường/Xã
Số thành viên
Năm bắt đầu nhiệm kỳ
Bảng 2.1. Số lượng tổ chức Hội và số lượng thành viên đầu mỗi nhiệm kỳ (1996–2015)
1996
Số lượng Số lượng % Số lượng % %
2000
21 33% 100.000
2005
48 76% 500.000
2010
63 100% 629 99% 9.824 94% 3.500.000
2015
63 100% 637 100% 10.614 99% 7.500.000
63 100% 637 100% 10.650 99% 14.500.000
phường xã. Số thành viên gia tăng từ 100.000 đến 14,5 triệu, chiếm 16% tổng dân số. Đa số thành viên là cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên đã nghỉ hưu.
Hội Khuyến học Việt Nam và Đề án Quốc gia về Xây dựng Xã hội Học tập Hoạt động quan trọng nhất của Hội Khuyến học Việt Nam đến nay là đóng góp cho Đề án Quốc gia về Xây dựng Xã hội Học tập (XDXHHT). Trang web của Hội Khuyến học Việt Nam (http://www. hoikhuyenhoc.vn/) cung cấp những thông tin toàn diện về các chương trình và những thành tựu của Hội bằng tiếng Việt.
đó thử nghiệm các mô hình này ở 380 quận, thị xã và 3.408 phường, xã, thị trấn ở khắp 63 tỉnh thành. Tháng 7 năm 2015, một hội thảo quốc gia được tổ chức để đánh giá hiệu quả của các mô hình dựa trên bộ tiêu chí đã đề cập ở trên. Bộ tiêu chí đã được liên tục tham vấn bởi các chuyên gia giáo dục để hoàn thiện. Phiên bản cuối cùng được Thủ tướng thông qua tháng 11 năm 2015 và được ban hành vào tháng 12 để các gia đình, dòng họ và cộng đồng sử dụng nhằm mục đích tự đánh giá kể từ năm 2016. Hàng năm, ủy ban nhân dân xã, phường và thị trấn đánh giá và công nhận các gia đình, dòng họ và cộng đồng học tập dựa vào kết quả tự đánh giá này. Năm 2016, trên cơ sở các báo cáo từ 39 tỉnh, có tổng cộng 5,2 triệu gia đình, 24.300 dòng họ và 32.500 ấp, xã đã được công nhận là gia đình, dòng họ và cộng đồng học tập (chiếm khoảng 40% gia đình, 45% dòng họ và 49% ấp và xã trên cả nước).
Ngay cả trước khi có đề án XDXHHT, Hội Khuyến học Việt Nam đã chủ động thực hiện đề án riêng về xây dựng xã hội học tập ở cấp tỉnh trở xuống. Khi đề án XDXHHT được phát động vào năm 2005, Hội Khuyến học Việt Nam được Bộ Khoa học và Công nghệ ủy nhiệm thực hiện nghiên cứu cấp quốc gia về các mô hình thích hợp cho một xã hội học tập ở Việt Nam. Nghiên cứu này đã hoàn thành và được nghiệm thu năm 2009. Nghiên cứu đề xuất một mô hình xã hội học tập trong đó giáo dục không chính quy và giáo dục thường xuyên được phát triển cùng với giáo dục chính quy, giáo dục người lớn, và giáo dục trẻ em. Nghiên cứu cũng đề xuất việc phát triển các gia đình, dòng họ và cộng đồng học tập ở cấp độ thôn ấp hay khu phố. Hướng đi sắp tới Trong giai đoạn tới, Hội Khuyến học Việt Nam có kế hoạch mở rộng mô hình các gia đình, dòng họ, cộng đồng học tập trên cả nước để đến năm 2020, 70% các gia đình, 60% các dòng họ và 60% các ấp và làng trên toàn quốc được công nhận là gia đình, dòng họ và cộng đồng học tập. Hội Khuyến học Việt Nam và Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tiếp tục thực hiện các đề án và hoạt động để củng cố và tăng cường các trung tâm học tập cộng đồng tạo cơ hội thuận lợi cho người dân trong cộng đồng có thể học tập suốt đời.
Năm 2012, Hội Khuyến học Việt Nam được Thủ tướng phân công phụ trách một trong bảy cấu phần của đề án XDXHHT – thúc đẩy việc học tập suốt đời ở các gia đình, dòng họ và các cộng đồng. Đầu tiên Hội xây dựng một bộ tiêu chí đánh giá các mô hình gia đình, dòng họ và cộng đồng học tập, sau Hội Khuyến học Việt Nam ở tất cả các cấp – phối hợp với các cán bộ của Bộ Giáo dục và Đào tạo – sẽ tiếp tục đánh giá và xếp hạng các cộng đồng học tập ở cấp xã, phường, thị trấn theo bộ 15 tiêu chí chính và 54 tiêu chí phụ đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo chính thức phê duyệt và ban hành.
23
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
i
R D P o a L , s t r o p S d n a n o ti a c u d E f o y r t s i n M ©
Hội nghị chương trình nghị sự về học tập suốt đời ở CHDCND Lào
3. HƯỚNG TỚI MỘT HỆ THỐNG GIÁO DỤC
QUỐC GIA ĐƯỢC NGƯỜI DÂN ĐÓN NHẬN Ở CHDCND LÀO
một cuộc thảo luận mở về cách thức cấu trúc chính sách học tập suốt đời của quốc gia. Dựa trên gợi ý của các đại biểu tham dự cuộc họp lần thứ hai, Vụ Giáo dục Không chính quy đã soạn bản thảo chính sách học tập suốt đời của CHDCND Lào và kêu gọi các bên liên quan tham gia đóng góp ý kiến.
Với sự hỗ trợ của DVV International và UNESCO, Vụ Giáo dục Không chính quy đã khởi xướng dự án xây dựng một chính sách học tập suốt đời. Dự án mời một chuyên gia tư vấn xây dựng chính sách quốc gia về học tập suốt đời trong hai giai đoạn: giai đoạn nghiên cứu tài liệu và giai đoạn thâm nhập thực tế.
Các hoạt động chuẩn bị bao gồm việc rà soát và phân tích kỹ các tài liệu và văn bản chính sách liên quan đến học tập suốt đời trong khu vực và quốc tế. Theo đó, các sáng kiến học tập suốt đời ở Châu Á, cụ thể tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam đã được nghiên cứu, và các tài liệu giáo dục vì sự phát triển bền vững, giáo dục công dân toàn cầu, cộng đồng kinh tế ASEAN và các vấn đề khác cũng được tham khảo để có cái nhìn thấu đáo về sự phát triển học tập suốt đời trên góc độ toàn cầu.
Tổng quan CHDCND Lào thúc đẩy việc kết hợp giáo dục chính quy, không chính quy và phi chính quy nhằm mục đích đảm bảo sự tiếp cận bình đẳng trong giáo dục cho mọi người dân, tạo ra một xã hội thịnh vượng, và xây dựng nền giáo dục bền vững và có tính cạnh tranh toàn cầu. Giáo dục phi chính quy phần lớn thông qua việc học tập lẫn nhau giữa các thế hệ, chủ yếu là các kỹ năng nông nghiệp và thủ công mỹ nghệ vốn đã có từ lâu trên đất nước này. Khái niệm giáo dục không chính quy được tiếp nhận vào những năm 1990 khi chính phủ đưa ra nhiều chương trình giáo dục để cung cấp cơ hội học tập cho những người không đến trường, và nâng cao năng lực cho người lớn nhằm tạo ra một lực lượng lao động có tay nghề cao hơn. Tuy nhiên, dù có nhiều chương trình phổ cập văn hóa, chương trình tương đương, và các chương trình học tập chuyên môn thường xuyên, đất nước này còn thiếu một khung chính sách toàn diện cho học tập suốt đời. Do đó, Vụ Giáo dục Không chính quy thuộc Bộ Giáo dục và Thể thao đã bắt đầu triển khai xây dựng chính sách về học tập suốt đời của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, lấy việc tiếp cận đa ngành làm nguyên tắc chung trong việc hoạch định và thực hiện chính sách.
Giai đoạn thứ hai là giai đoạn phỏng vấn và đối thoại với các nhà hoạch định chính sách Lào, các cán bộ giáo dục, nhân viên tình nguyện trong giáo dục không chính quy và các bên liên quan khác từ các đối tác phát triển quốc tế như DVV International, German Cooperation và World Renew. Tiềm năng của ngành giáo dục ở nước này cũng như dữ liệu nhân khẩu học được xem xét và sử dụng trong quá trình soạn thảo chính sách.
Từ các kết quả tìm được, bản dự thảo đầu tiên đã được trình bày tại một hội thảo để các cán bộ của Bộ Giáo dục và Thể thao đóng góp ý kiến về nội dung. Sau đó một hội thảo kỹ thuật đã được tiến hành để các chuyên gia soạn thảo chính sách góp ý về cấu trúc, định dạng và các yếu tố kỹ thuật khác Thực hiện Để triển khai khái niệm học tập suốt đời trong nước, Vụ Giáo dục Không chính quy đã tổ chức cuộc họp đầu tiên về chương trình nghị sự về học tập suốt đời cho nhân viên của Bộ và các bên liên quan ngoài Bộ vào tháng 3 năm 2012. Mục đích của cuộc họp là nâng cao nhận thức và hiểu biết về các đặc điểm cơ bản của học tập suốt đời trong giới hoạch định chính sách Lào và các bên liên quan khác. Cuộc họp lần thứ hai được tổ chức vào tháng 12 năm 2013 với mục đích thu hút sự tham gia của các đại diện thuộc bộ và ngành giáo dục cấp tỉnh trong
24
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
học cũng là cơ sở pháp lý cho bản thảo chính sách về học tập suốt đời.
của bản thảo chính sách. Vụ Giáo dục Không chính quy sau đó điều chỉnh bản thảo và trình bày tại cuộc họp cuối trước đại diện các văn phòng tỉnh thuộc Bộ Giáo dục và Thể thao và các bên liên quan khác. Một số gợi ý và góp ý của các đại biểu tham dự cuộc họp này đã được đưa vào bản hoàn thiện cuối cùng. Hướng đi sắp tới Các hoạt động chiến lược cụ thể được đưa ra nhằm thúc đẩy học tập suốt đời ở CHDCND Lào là:
• Phổ biến dự thảo chính sách đến các cơ quan trung ương và địa phương cũng như các bên liên quan. • Trình bản thảo chính sách chính thức để chính phủ thông qua. • Nâng cao hiểu biết chính sách quốc gia về học tập suốt đời ở tất cả các cấp.
4. HÒA NHẬP GIỚI TRONG GIÁO DỤC TẠI
INDONESIA
• Tổ chức các hội thảo thông tin và các tập huấn hướng dẫn về kế hoạch hành động và thực hiện chính sách học tập suốt đời tại CHDCND Lào.
Kết quả đạt được Dự thảo chính sách tập trung vào việc thiết lập các cơ chế giúp nhiều người tiếp cận giáo dục hơn và khuyến khích các nhóm mục tiêu tham gia vào các chương trình và hoạt động học tập suốt đời. Chương trình nghị sự quy định phải tăng cường năng lực cho các cơ sở giáo dục có tham gia cung cấp dịch vụ học tập suốt đời, thông qua việc phát triển giáo viên và cơ sở hạ tầng, giới thiệu các phương thức học tập linh hoạt, biên soạn sách giáo khoa cho học sinh và tài liệu hướng dẫn giảng dạy dành riêng cho các khóa học không chính quy. Hơn nữa, chính sách nhấn mạnh phải điều chỉnh chương trình học cho phù hợp với mọi trình độ và hình thức học tập và đáp ứng các nhu cầu kinh tế xã hội của khu vực và quốc tế.
Một phần quan trọng khác của bản dự thảo chính sách là sự chủ động tham gia vào việc triển khai học tập suốt đời của các bên liên quan và đối tác phát triển tại địa phương. Chính sách dự thảo cũng nhằm mục đích thiết lập một hệ thống quản lý hiệu quả và lâu dài cho học tập suốt đời bằng cách thành lập các ủy ban cấp quốc gia, tỉnh thành và quận huyện chịu trách nhiệm thúc đẩy học tập suốt đời. Ngoài ra, chính sách này dự kiến sẽ cải tiến toàn diện hệ thống đo lường và đánh giá khi áp dụng các chiến lược mới về học tập và giảng dạy, và cải cách toàn bộ hệ thống ghi nhận, xác nhận và công nhận cho giáo dục chính quy, không chính quy và phi chính quy.
Tổng quan Bộ Giáo dục và Văn hoá Indonesia có hơn mười năm kinh nghiệm trong việc đưa hoà nhập giới vào giáo dục thông qua việc xây dựng các chính sách và chương trình nhằm giải quyết các trải nghiệm, nguyện vọng, nhu cầu và các vấn đề của cả hai giới. Hoà nhập giới là nâng cao vai trò và chất lượng cuộc sống của trẻ em gái và phụ nữ trong gia đình, cộng đồng và quốc gia nhằm nâng cao vị thế phụ nữ. Một thành công lớn được thể hiện qua sự bình đẳng giới trong tuyển sinh ở tất cả các cấp học, và hoạt động của các nhóm công tác về hoà nhập giới trong giáo dục ở 72% phòng giáo dục quận huyện và sở giáo dục tỉnh thành. Một bài học quan trọng hơn là hoà nhập giới đã giúp thay đổi cách suy nghĩ của các bên liên quan đến giáo dục. Giờ đây họ nhìn nhận giáo dục một cách toàn diện và tích hợp, mang lại lợi ích cho nam và nữ.
Thực hiện Hoà nhập giới lần đầu được tiến hành trong tiểu ngành giáo dục không chính quy. Trung tâm Hoạt động phụ nữ được thành lập trong những năm đầu thập niên 2000 nhằm thúc đẩy Chương trình nâng cao vị thế phụ nữ qua năm chương trình giáo dục nhắm đến phụ nữ: xoá bỏ mù chữ cho phụ nữ, giáo dục gia đình (với quan điểm bình đẳng giới), đào tạo phụ nữ làm lãnh đạo, khóa đào tạo nhằm nâng cao vị thế cho phụ nữ và các khóa kỹ năng mềm.
Các chính sách hỗ trợ và khung thể chế Căn cứ Luật Giáo dục số 133/2015, chính phủ hỗ trợ công dân Lào lĩnh hội kiến thức và kỹ năng thông qua giáo dục chính quy và không chính quy. Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội Quốc gia năm năm lần thứ tám giai đoạn 2016-2020 nhấn mạnh sự cần thiết phải cải cách giáo dục, trong đó tập trung vào việc mở rộng các cơ hội học tập, đặc biệt dành cho những người chịu thiệt thòi và người dân ở khu vực nông thôn. Chiến lược Xóa đói Giảm nghèo và Tăng trưởng Quốc gia đề ra một khuôn khổ để xây dựng và thực hiện các sáng kiến nhằm giảm tỷ lệ đói nghèo và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững thông qua nhiều chương trình giáo dục, chủ yếu liên quan đến đào tạo nghề. Các chính sách như Luật Giáo dục Kỹ thuật và Đào tạo Nghề và Nghị định về Giáo dục Đại Song song đó, một Nhóm Chuyên gia Công tác quốc gia về
25
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
a
i s e n o d n
I , e r u t l
i
u C d n a n o ti a c u d E f o y r t s i n M ©
Phong trào Giáo dục để nâng cao vị thế phụ nữ thiệt thòi: Dạy nghề thủ công tại địa phương
tính và xây dựng các trường học phù hợp giới tính). Năm 2015 hoà nhập giới được thúc đẩy khi Bộ xuất bản một sách thông tin về hoà nhập giới trong giáo dục cho từng tỉnh, cung cấp cái nhìn tổng quan về hoà nhập giới và phương pháp đánh giá hiệu quả của nó ở địa phương. Trong năm 2013, chương trình Nâng cao Khả năng Tiếp cận và Chất lượng Giáo dục cho trẻ em gái thông qua Giáo dục Mầm non dựa vào Cộng đồng và Hoà nhập giới cho những Năm đầu đời đã được khởi xướng.
hoà nhập giới đã được thành lập với các chức năng chính bao gồm chủ trương hoà nhập giới ở các bên liên quan trong Bộ Giáo dục và Văn hoá, phân tích các chính sách và chuẩn bị cơ sở dữ liệu phân tách theo giới tính, và thực hiện chương trình truyền thông, thông tin và giáo dục - một hình thức xã hội hoá cho bình đẳng giới thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Nhóm Chuyên gia Công tác tích cực cộng tác với Trung tâm Nghiên cứu Phụ nữ, các tổ chức phụ nữ và các tổ chức phi chính phủ trong việc thúc đẩy bình đẳng giới trên toàn quốc. Các nhóm chuyên gia công tác về hoà nhập giới cũng được thành lập ở cấp tỉnh, quận huyện và thành phố nhằm thúc đẩy thể chế hoá hoà nhập giới bằng cách tạo điều kiện và giám sát đơn vị hành chính tương ứng thông qua kế hoạch hành động rõ ràng cho công tác hoà nhập giới.
1 http://anggunpaud.kemdikbud.go.id/images/upload/images/rupa_rupa/
Việc thực hiện hoà nhập giới đã được tăng cường vào năm 2012 khi Bộ Giáo dục và Văn hoá công bố 10 cuốn cẩm nang về các vấn đề về giới trong giáo dục, mỗi quyển có một chủ đề riêng biệt 1 (ví dụ như biên soạn tài liệu giảng dạy phù hợp giới Vào năm 2016, chính phủ đã khởi động Phong trào Giáo dục Nâng cao vị thế Phụ nữ bị thiệt thòi trong Xã hội. Về cơ bản đây là một sự tái khẳng định và tăng cường tất cả các hoạt động hoà nhập giới hiện có. Chương trình này nhằm củng cố cam kết của chính quyền địa phương và các bên liên quan nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho phụ nữ, đặc biệt là các bà mẹ và phụ nữ bị thiệt thòi và xây dựng năng lực của phụ nữ. Chương trình tổng thể được triển khai tại 20 quận huyện và thành phố, đào tạo kỹ năng sống, giáo dục gia đình, giáo dục tương đương, đào tạo nghề ở làng xã và phát triển
26
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
thư viện cộng đồng. Hướng đi sắp tới 1. Cần có các quy định ở cấp bộ để kiên quyết thực thi Mục tiêu Phát triển Bền vững 4 và 5.
2. Cần thu thập có hệ thống dữ liệu phân tách theo giới tính cho tất cả các chỉ số tham gia và chỉ số hoạt động từ tất cả các đơn vị giáo dục ở tất cả các cấp hành chính.
3. Các chương trình đào tạo, tài liệu học tập và các gói đào tạo không được thiên lệch về giới hay khuôn mẫu giới. 4. Cần có thêm những cẩm nang tập huấn thực hành về hoà nhập giới.
5. Cần tăng cường việc phân bổ đồ chơi và đồ dùng học tập, vật tư cho thư viện và phòng thí nghiệm và công nghệ thông tin truyền thông, sao cho có sự bình đẳng về cơ hội trong quá trình học tập cho tất cả nam và nữ ở tất cả các môn học. 6. Cần khuyến khích giáo viên nhiều hơn để họ toàn tâm toàn ý nâng cao kết quả học tập của cả nam và nữ.
5. SỰ RA ĐỜI CỦA GIÁO DỤC THAY THẾ Ở
MYANMAR
Kết quả đạt được Hoà nhập giới trong học tập suốt đời đã đạt được tiến bộ tại các địa phương và quốc gia trong khoảng thời gian 2002 đến 2016. Đến năm 2014, các nhóm chuyên gia công tác về hoà nhập giới đã hoạt động ở khắp 33 tỉnh, và 72% các huyện và thành phố ở Indonesia (358 trong số 497) đang thực hiện kế hoạch hành động về hoà nhập giới, vượt qua mục tiêu đề ra trong kế hoạch chiến lược 2010-2014. Quan trọng hơn, các chỉ số giáo dục cho thấy sự cân bằng giới tính trong tỷ lệ nhập học đúng tuổi từ mẫu giáo đến đại học, ngoại trừ các trường dạy nghề và trường dành cho học viên khuyết tật, nơi mà nam học viên vẫn chiếm ưu thế. Tỷ lệ chuyển tiếp từ trung học cơ sở lên trung học phổ thông đã gia tăng đáng kể đối với cả nam lẫn nữ, dẫn đến sự gia tăng số năm học trung bình và tỷ lệ biết chữ cao trong thanh thiếu niên (15-24 tuổi). Đối với các vị trí giảng dạy và lãnh đạo, nữ giới còn nhiều hơn nam giới: 61% hiệu trưởng và 62% giáo viên là nữ.
Các chính sách hỗ trợ và khung thể chế Hoà nhập và bình đẳng luôn là đặc điểm của nền giáo dục Indonesia. Hiến pháp năm 1945 và các sửa đổi nêu rõ “mọi người đều có quyền phát triển bản thân thông qua việc đáp ứng các nhu cầu cơ bản của họ, tham gia vào giáo dục và hưởng lợi từ khoa học và công nghệ, nghệ thuật và văn hoá nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống”.
Tổng quan Giáo dục thay thế là khung giáo dục dành cho khoảng 2,1 triệu trẻ em và thanh thiếu niên không đi học hoặc đã bỏ học ở các trường chính quy tại Myanmar (số liệu của Viện thống kê UNESCO), cũng như 3,5 triệu người lớn có trình độ văn hoá thấp. Mục tiêu của khung này là cung cấp cơ hội học tập bình đẳng, có chất lượng cao và có bằng cấp cho các nhóm đối tượng mục tiêu và giúp họ phát triển năng lực để phát triển và duy trì xã hội Myanmar trong tương lai.
Hoà nhập giới bắt đầu vào năm 2000 với Chỉ thị số 9 của Tổng thống về Hoà nhập giới trong Phát triển Quốc gia. Nó được nhắc lại và triển khai trong Chương trình Phát triển Quốc gia 2000-2004, trong đó có 19 chương trình phát triển liên quan đến giới trong năm lĩnh vực, bao gồm giáo dục. Bộ Giáo dục và Văn hoá đã tăng cường hoà nhập giới theo Nghị định số 84, Hướng dẫn Giáo dục Hoà nhập giới ở cấp Trung ương, Tỉnh, Huyện và Thành phố.
Khung này được khởi xướng bởi Vụ Giáo dục Thay thế (DAE), mới được thành lập như một phần của chiến lược giáo dục thực hiện đến năm 2021, với mục tiêu cung cấp nhiều cơ hội cho mọi người theo đuổi nguyện vọng nghề nghiệp của bản thân và các mong muốn học tập suốt đời khác. Giáo dục thay thế là một trong chín “Chương trình chuyển đổi” trong kế hoạch chiến lược giáo dục quốc gia.
Hoà nhập giới còn được củng cố bởi cơ cấu thuận lợi về tài chính và hoạt động. Về mặt tài chính, hòa nhập giới nhận được sự quan tâm từ chính phủ, nhận được ngân sách chiếm 20% ngân sách quốc gia hàng năm. Nó được thực hiện bởi nỗ lực phối hợp chung của các nhóm công tác hoà nhập giới ở cấp trung ương, tỉnh và thành phố thông qua hợp tác với các tổ chức bên ngoài như Trung tâm Nghiên cứu Phụ nữ, các tổ chức phi chính phủ và các phương tiện thông tin đại chúng. Thực hiện Với nhận thức giáo dục là một quyền con người, chính phủ Myanmar đang thực hiện ba chiến lược chính cho giáo dục thay thế: tăng cường phối hợp và quản lý; mở rộng tiếp cận; và nâng cao chất lượng. Các chiến lược này áp dụng cho bốn chương trình đang được thực hiện ở tất cả các thị trấn Myanmar trong 5 năm tới, bao gồm: Giáo dục Tương đương
27
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
Hình 2.1. Sơ đồ giáo dục thay thế
Nguồn: National education strategic plan 2016–21, p. 162–163.
bậc Tiểu học (2 năm, học toàn thời gian), Giáo dục Tương đương bậc Trung học (3 năm, học toàn thời gian), chương trình Chứng chỉ Quốc gia cho Thanh niên (3 năm, học bán thời gian) và chương trình Phổ cập Văn hoá cho Người lớn (1 năm, học bán thời gian). Các lĩnh vực học tập bao gồm học chữ và nâng cao, học nghề và tạo thu nhập, công nghệ thông tin và truyền thông để giúp việc học tập được linh hoạt.
nhằm hỗ trợ họ học lên và/hoặc lựa chọn giữa hệ thống giáo dục chính quy và giáo dục thay thế dựa trên giấy chứng nhận hoàn tất chương trình. Việc mở rộng các lựa chọn đồng nghĩa với việc tăng số đối tác được phép cung cấp Chương trình Giáo dục Tiểu học Tương đương Hệ không chính quy (Non- Formal Primary Education Equivalency Programme - viết tắt NFPE EP) trước mắt dành cho những người bị thiệt thòi trong xã hội, đặc biệt là ở các vùng nông thôn. Các chương trình giáo dục thay thế khác đang được nhân rộng trên toàn quốc, bao gồm Chương trình Giáo dục Trung học Không chính quy.
Vụ Giáo dục Thay thế đang thắt chặt quan hệ đối tác với các nhà cung cấp dịch vụ phi chính phủ, bao gồm cả các đối tác từ cộng đồng và khu vực tư nhân, nhằm phân quyền hệ thống, nhờ đó hệ thống giáo dục có thể áp dụng phù hợp với tình hình từng địa phương, có tính linh hoạt và đáp ứng nhu cầu của người dân. Một chương trình trợ cấp cũng đang được xây dựng để giúp trang trải chi phí cho các đối tác, và Vụ Giáo dục Thay thế đang thực hiện chiến dịch nâng cao nhận thức cộng đồng để gây quỹ hiệu quả hơn. Ngoài ra, một cơ sở dữ liệu quốc gia đang được xây dựng để giúp phối hợp việc tài trợ cho phù hợp và nắm bắt những gì địa phương đang có để xác định các bước tiếp theo, với trọng tâm là đảm bảo chất lượng. Cơ sở dữ liệu sẽ được liên kết với hệ thống thông tin quản lý giáo dục quốc gia. NFPE EP được giám sát và quản lý bởi bốn ủy ban ở cấp trung ương, vùng hành chính và tiểu bang, thị trấn, và trung tâm học tập. Chương trình giảng dạy do ban chương trình thiết kế. Giáo viên được đào tạo sử dụng chương trình dưới dự giám sát và đánh giá của các đại biểu từ thị trấn và vùng hành chính. Trong số các bên liên quan có Bộ Giáo dục, các tổ chức phi chính phủ (bao gồm các tổ chức phi chính phủ quốc tế), các nhà tài trợ tư nhân và các thành viên của cộng đồng. Các nghiên cứu đang được tiến hành để tăng cường chương trình tương đương, chương trình phổ cập văn hoá cho người lớn, và các chương trình khác.
Bộ Giáo dục đang bắt đầu chương trình Giáo dục thay thế Đa tuyến để mở rộng các lựa chọn cho những người không có cơ hội học tập hoặc bỏ ngang việc học. Chương trình này Chứng chỉ Quốc gia cho Thanh niên hiện đang được thử nghiệm với vai trò là lộ trình giáo dục, đào tạo nghề nghiệp và kỹ thuật, giáo dục đại học và việc làm cho thanh thiếu niên
28
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
e e L .
H / O C S E N U ©
Các bé gái đang học theo chương trình giáo dục thay thế tại Myanmar
này, dữ liệu giáo dục thay thế sẽ được đưa vào cơ sở dữ liệu giáo dục cơ bản.
không theo học chính quy. Chứng chỉ này sẽ xác nhận việc hoàn tất các chương trình đào tạo ngắn hạn dành cho thanh thiếu niên (kết hợp học tập trên lớp, học nghề tại nơi làm việc, và tình nguyện) và việc học tập tại một số quốc gia.
Một hệ thống chứng chỉ quốc gia vững mạnh như Chứng chỉ Quốc gia cho Thanh niên mở ra và duy trì những lộ trình xác định cho cơ hội học tập, đào tạo và việc làm trong tương lai. Một số chứng chỉ khác được công nhận bởi Bộ Giáo dục là chứng chỉ của chương trình NFPE EP và Chương trình Phổ cập Văn hoá Cơ bản Mùa hè.
Cùng với các cơ quan khác, Vụ Giáo dục Thay thế đang xây dựng Khung Đánh giá Tiêu chuẩn Chất lượng Giáo dục Thay thế để thiết lập các tiêu chuẩn tối thiểu trong lĩnh vực dạy và học, bao gồm môi trường, phương pháp sư phạm, kết quả và nguồn lực, trong đó trọng tâm lớn nhất là việc học tập của học viên. Theo chiến lược này, các quan chức và thanh tra thị trấn sẽ sử dụng cơ sở dữ liệu của khung đánh giá để phân tích và báo cáo về hoạt động dạy và học. Thông qua cách tiếp cận Quan điểm của Bộ là việc cấp phát nhiều các chứng chỉ này không chỉ tăng cường tính năng và lợi ích của các lộ trình học tập, mà còn tăng tỷ lệ nhập học (vì người học thấy tính hiệu
29
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
quả cao hơn của các chương trình tiếp nối nhau).
học tập thay thế, và các biện pháp đảm bảo chất lượng dành cho trẻ em không đi học đúc kết từ các nghiên cứu thực chứng và các phân tích. Giáo dục hoà nhập cho trẻ em khuyết tật cần được nhấn mạnh trong nghiên cứu và cách tiếp cận này. Cần phải cải tiến và củng cố các phương pháp phối hợp đa ngành và các phương pháp ứng phó linh hoạt dưới sự lãnh đạo của Bộ GD. Một khía cạnh quan trọng của chất lượng là công tác đào tạo giáo viên; do đó, một chương trình quốc gia mới đang được thiết kế và thực hiện, trong đó yếu tố quan trọng là xác định rõ năng lực cần có của giáo viên và đưa vào các mô-đun chương trình được phát triển bởi các chuyên gia và các tổ chức.
• Tài chính: Dự toán chi phí cho giáo dục thay thế trong khoảng thời gian năm năm là 1,36 đến 1,49 nghìn tỷ Kyat (khoảng 1 tỷ đô la Mỹ), chiếm 9,5 - 9,7 % tổng chi phí ước tính của kế hoạch chiến lược. Cả chính phủ và các đối tác phát triển cần tăng nguồn tài chính cho ngành giáo dục để bù đắp khoảng cách tài chính 600 triệu USD và đạt được mục tiêu 3,1 tỷ USD được dự kiến trong các kịch bản khác nhau. Các giai đoạn tiếp theo trong việc phát triển khuôn khổ giáo dục thay thế tại Myanmar là: cải tiến và nhân rộng bốn chương trình ra khắp quốc gia (2017-2018), cung cấp, giám sát, cải tiến chương trình và nâng cao việc thực hiện chương trình (2018 đến 2019, 2020 đến 2021). Các nguyên tắc chính là đảm bảo ‘quyền sở hữu’ của các bên liên quan, năng lực và phát triển nguồn lực (học tập trong xã hội) và tính minh bạch.
• Nhân sự, năng lực và đối tác: Vụ Giáo dục Thay thế không có đủ nhân viên và năng lực để nghiên cứu, thiết kế và thực hiện bốn chương trình giáo dục thay thế. Do đó, Vụ đang ký hợp đồng với các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức dựa vào cộng đồng, và các tổ chức khác để hỗ trợ, đặc biệt là trong việc thực hiện các chương trình. Các trường đại học chuyên ngành giáo dục sẽ có trách nhiệm đào tạo giáo viên cho phân hệ giáo dục thay thế. Các đối tác cung cấp dịch vụ sẽ được Vụ Giáo dục Thay thế chứng nhận trước khi họ được cung cấp dịch vụ cho địa phương (nghĩa là họ sẽ phải đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng tối thiểu hiện đang được xây dựng). Các chính sách hỗ trợ và khung thể chế Luật Giáo dục Quốc gia năm 2014 xác định giáo dục không chính quy ở Myanmar là hệ thống linh hoạt, nằm ngoài hệ thống chính quy, và dựa trên chương trình đào tạo được nâng cấp. Luật này cũng thiết lập các chương trình tương đương với hệ thống giáo dục chính quy. Các cam kết chính sách quan trọng khác liên quan đến việc lên chương trình phổ cập văn hoá cơ bản; việc thực hiện của các đối tác địa phương, các đối tác phi chính phủ; và các cơ hội học tập liên tục, bao gồm việc tự học.
6. CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC TƯƠNG ĐƯƠNG
QUỐC GIA Ở TIMOR-LESTE
• Tài liệu giảng dạy và học tập: Quản lý chương trình, tài liệu giảng dạy và học tập (ví dụ các đầu đĩa DVDs về thực tiễn hay nhất) sẽ được Vụ Giáo dục Thay thế cung cấp cho các đối tác cùng với việc minh hoạ cách áp dụng. Vụ Giáo dục Thay thế đang phát triển các bài học có giáo án để phục vụ cho việc dạy và học của bốn chương trình nhằm giúp những người ít được đào tạo và /hoặc ít có kinh nghiệm có thể giảng dạy đúng chuẩn. Giáo dục thay thế cũng có trong dự thảo Luật Tiểu ngành Giáo dục Cơ bản trong đó ba cam kết chính sách chính đã được phác thảo, bao gồm tăng cường quản lý phù hợp thông qua việc thành lập các ủy ban điều phối giáo dục thay thế. Các cam kết khác hỗ trợ các tiêu chuẩn cho chuyển đổi tương đương giữa hệ thống giáo dục thay thế và chính quy, và nhiều lộ trình học tập cho những thanh thiếu niên không đi học.
Hướng đi sắp tới Kế hoạch Chiến lược Giáo dục 2016-2021 đưa ra các đề xuất sau:
• Chính sách, thể chế, chiến lược và phối hợp: Chính phủ cần được xem như là cơ quan đảm bảo quyền được giáo dục, với quyền hạn được thiết lập bởi chính sách, và các thể chế cùng với các khung hệ thống để đáp ứng nhu cầu học tập của tất cả những người dân Myanmar. Cần có các biện pháp chính sách cụ thể và phù hợp hơn, các chiến lược Tổng quan Chương trình Giáo dục Tương đương Quốc gia được đưa ra năm 2006 nhằm giúp một số lớn công dân Timor-Leste chưa hoàn thành giáo dục cơ bản có thể đạt được trình độ tương đương thông qua giáo dục không chính quy. Chương trình bao gồm hai cấp độ được chia thành các giai đoạn tương ứng với giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Sau khi hoàn thành
30
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
i
e t s e L - r o m T ,
i
n o ti a c u d E f o y r t s i n M ©
Giáo viên và cán bộ TTHTCĐ tham dự tập huấn tại Timor-Leste
mỗi cấp độ, học viên tốt nghiệp được cấp giấy chứng nhận tương đương với giấy chứng nhận của giáo dục chính quy. Bảng 2.2 trình bày cấu trúc của chương trình giáo dục tương đương quốc gia dựa trên Pháp lệnh số 30/2016 về việc thông qua chương trình giáo dục tương đương quốc gia.
Nhờ cách tiếp cận toàn diện trong việc thực hiện các chính sách chương trình và mô hình quản lý mà chương trình này đã thành công trên khắp Timor-Leste. Nhằm đảm bảo việc thực hiện chương trình một cách hiệu quả, các hoạt động cụ thể đã được phát triển như chuẩn bị các tài liệu học tập, tổ chức đào tạo giáo viên và thành lập các trung tâm học tập cộng đồng, cũng như xây dựng một hệ thống giám sát và đánh giá trực tuyến cho chương trình. Ngoài ra, chính phủ đã đưa ra các quy định rõ ràng về việc công nhận các kỹ năng và năng lực đạt được thông qua chương trình tương đương từ đó cho phép học viên chuyển đổi suôn sẻ sang hệ thống giáo dục chính quy.
Thực hiện Bộ Giáo dục chịu trách nhiệm quản lý chung Chương trình Giáo dục Tương đương Quốc gia. Bất kỳ tổ chức nhà nước hoặc tư nhân nào cũng có thể xin phép mở các khóa học trong khuôn khổ chương trình tương đương quốc gia được Mỗi cấp học có một chương trình cụ thể, tập trung vào ba chủ đề lớn: phát triển cá nhân và xã hội, phát triển ngôn ngữ, và phát triển khoa học. Chương trình giảng dạy cũng quy định số giờ và phương thức học tập (lên lớp toàn thời gian hay bán thời gian) cho từng môn học theo cấp độ chương trình. Phương thức lên lớp toàn thời gian đòi hỏi học viên phải luôn có mặt trên lớp, trong khi phương thức bán thời gian kết hợp việc học ở nhà với việc học trực tiếp với giáo viên. Đào tạo nghề gần đây đã được đưa vào chương trình học và sẽ được thực hiện phù hợp bối cảnh từng tổ chức hoặc trung tâm học tập cộng đồng cung cấp chương trình tương đương, dựa trên nhu cầu của người học và tiềm năng của cộng đồng địa phương.
Chương trình tương đương 3
Lớp 7 - 9
Giáo dục phổ thông cơ sở (Chu kỳ 3)
Giai đoạn V IV
Hệ thống giáo dục không chính quy
Lớp 5 - 6
Giáo dục tiểu học (Chu kỳ 2)
Giai đoạn III
Chương trình tương đương 2
Hệ thống giáo dục cơ bản chính quy
5 năm học
9 năm học
Mỗi giai đoạn kéo dài 1 năm
Chương trình tương đương 1
Lớp 1 - 4
Giáo dục tiểu học (Chu kỳ 1)
Giai đoạn II I
Bảng 2.2. Cấu trúc của Chương trình Giáo dục Tương đương Quốc gia
31
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
quy định trong pháp lệnh phê chuẩn chương trình tương đương quốc gia. Tuy nhiên, các tổ chức xin đăng ký phải chứng minh năng lực và khả năng chuyên môn cần thiết để đạt được các mục tiêu và kết quả dự kiến của chương trình. Trong khi đó, quan điểm chiến lược hiện tại của Tổng cục Giáo dục Thường xuyên là hỗ trợ các trung tâm học tập cộng đồng, được đặc biệt thành lập để dạy chương trình tương đương quốc gia và cũng là các tổ chức chính thức về mặt luật pháp cung cấp học tập dựa vào cộng đồng. tương đương có 48 lớp học trên cả nước, và cấp độ II có 9 lớp tại 9 TTHTCĐ, với trung bình 20 học sinh/lớp. Tổng cộng có 601 học viên đã tham gia vào chương trình tương đương, trong đó 106 người đã vượt qua kỳ thi quốc gia và được cấp bằng tốt nghiệp phổ thông cơ sở. Chương trình không chỉ tạo điều kiện cho ngày càng nhiều thanh thiếu nhiên và người lớn tiếp cận giáo dục cơ bản mà còn mang đến cơ hội việc làm cho giáo viên, do đó tác động tích cực đến sự năng động kinh tế xã hội của đất nước.
Các chiến dịch nâng cao nhận thức đã được triển khai để khuyến khích những người từ 15 tuổi trở lên có kỹ năng đọc viết căn bản nhưng chưa hoàn thành chương trình giáo dục cơ bản đăng ký học tiếp chương trình tương đương.
Giáo viên đóng vai trò rất quan trọng đối với việc thực hiện và sự thành công của chương trình tương đương. Do đó, chương trình trang bị cho giáo viên tài liệu hướng dẫn và tài liệu giảng dạy phản ánh nội dung và phương pháp dạy đã được phê duyệt. Ngoài ra, những giáo viên muốn dạy các khóa học của chương trình tương đương sẽ được đào tạo chuyên môn giúp họ làm quen với các mục tiêu của chương trình giảng dạy, với phương thức học tập linh hoạt, và với các chiến lược phù hợp phương pháp học tập của người lớn.
Các chính sách hỗ trợ và khung thể chế Khung học tập suốt đời của Timor-Leste dựa trên hai chính sách chính: Đạo luật Giáo dục Quốc gia quy định việc tổ chức học tập cho những công dân chưa được giáo dục trong độ tuổi chuẩn, và Luật Căn bản về Giáo dục định nghĩa “giáo dục thường xuyên” là một loại hình giáo dục tiểu học và trung học đặc biệt nhằm vào các cá nhân đã vượt quá độ tuổi chuẩn để theo học tiểu học và trung học cơ sở. Luật Căn bản về Giáo dục cũng đặt nền móng cho ba chương trình quy mô lớn trong giáo dục thường xuyên, đó là phổ cập văn hoá, giáo dục tương đương và các chương trình học tập dựa vào cộng đồng. Kế hoạch Chiến lược Quốc gia về Giáo dục 2011-2030 (http: // www.moe.gov.tl/pdf/NESP2011-2030.pdf) phác thảo tầm nhìn và phương pháp tiếp cận giáo dục thường xuyên trong nước và nêu rõ rằng giáo dục thường xuyên tập trung chủ yếu vào việc tổ chức chương trình tương đương quốc gia. Pháp lệnh số 30/2016 vừa được thông qua, phê chuẩn chương trình giáo dục tương đương quốc gia là tương đương giáo dục cơ bản.
Để theo dõi sự tiến bộ và có các biện pháp kịp thời trước các vấn đề nảy sinh trong chương trình tương đương quốc gia, một hệ thống giám sát và đánh giá trực tuyến đã được xây dựng. Các tổ chức tham gia giảng dạy chương trình giáo dục tương đương được tiếp cận với hệ thống này. Cán bộ lưu động của các tổ chức tham gia được tập huấn về cách sử dụng các ứng dụng phần mềm giám sát và đánh giá. Hệ thống này thu thập dữ liệu về học viên, giáo viên và các nhà cung cấp dịch vụ giáo dục thường xuyên/không chính quy tương ứng với các tiêu chí hoạt động được thiết lập cho hệ giáo dục không chính quy.
Hướng đi sắp tới Bộ Giáo dục dự định mở rộng các TTHTCĐ trên toàn quốc, cũng như cải tiến cơ chế tham gia của cộng đồng và mô hình tổ chức các khóa học, nhằm tăng cường tính hiệu quả và tiếp cận của chương trình. Các TTHTCĐ phải được trang bị đầy đủ để tạo môi trường học tập hứng thú. Chương trình tương đương sẽ được quảng bá mạnh hơn nữa cho các nhóm đối tượng mục tiêu vì cần phải nâng cao nhận thức về các chính sách liên quan đến việc ghi nhận và công nhận bằng cấp của chương trình tương đương quốc gia. Cần xây dựng cấp độ III của chương trình tương đương quốc gia, tương đương với chương trình trung học phổ thông và cho phép người học tiếp tục học hệ không chính quy sau khi hoàn tất trình độ giáo dục cơ bản tương đương. Kết quả đạt được Trong vài năm gần đây, 9 TTHTCĐ đã được thành lập, hoạt động tại 8 trong số 13 thành phố tự trị của cả nước. Các cộng đồng địa phương đã nhận khoản trợ cấp 2 lần, mỗi lần 10.000 đô la Mỹ để cải tạo cơ sở vật chất tại các TTHTCĐ và mua sắm đồ nội thất, thiết bị và tài liệu học tập cần thiết cho chương trình tương đương quốc gia và các sáng kiến giáo dục thường xuyên khác (World Bank, 2016). Cấp độ I của chương trình
32
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
7. HỌC TẬP SUỐT ĐỜI DÀNH CHO GIÁO VIÊN: CÂU CHUYỆN CỦA BRUNEI DARUSSALAM
đào tạo các chương trình giáo dục sau đại học, và một trong hai chương trình nêu trên cho phép các giáo viên theo học nâng cấp văn bằng đến trình độ tiến sĩ; trong khi đó chương trình còn lại cung cấp các khóa nghiên cứu chuyên sâu về các chủ đề chuyên ngành như dạy và học trong thế kỷ 21, cá nhân hoá phương pháp sư phạm, và công nghệ. Một ví dụ của chương trình đào tạo sau đại học là chuyên ngành Thạc sĩ Giảng dạy (MTeach). Đây là chương trình đào tạo giáo viên đầu tiên có tích hợp bài tập nghiên cứu làm một cấu phần trọng tâm. Chương trình phát triển chuyên môn thứ tư là một chương trình hành động do ILIA cung cấp có tên là Chương trình Lãnh Đạo Nhà trường Ba cấp. Nó dựa trên nghiên cứu về ba hành vi cốt lõi của một nhà lãnh đạo lấy việc học tập làm trung tâm (Tajuddin, 2015), và nhằm phát triển khả năng lãnh đạo cá nhân, lãnh đạo giáo viên và lãnh đạo nhà trường cho nhiều đối tượng, bao gồm những giáo viên có quan tâm và các cấp lãnh đạo quản lý nhà trường.
Tổng quan Trong khuôn khổ Lĩnh vực Ưu tiên số 5 thuộc Bảy Lĩnh vực Ưu tiên về Giáo dục của SEAMEO – với nội dung về chấn hưng giáo dục giáo viên – đất nước Brunei Darussalam cung cấp nhiều cơ hội học tập cho giáo viên cũng như những cá nhân chưa phải là giáo viên nhưng có mong muốn theo đuổi nghề giáo. Những cơ hội này được thể hiện dưới hình thức các chương trình phát triển chuyên môn hoặc đào tạo sư phạm ngắn hạn, trong đó tận dụng tất cả các phương thức, từ giáo dục chính quy đến phi chính quy. Bằng con đường giáo dục chính quy, các giáo viên có thể tham gia các khóa học phát triển phương pháp sư phạm và kỹ năng lãnh đạo hoặc đăng ký theo học các chương trình sau đại học lên đến trình độ tiến sĩ. Mặt khác, phương thức học tập không chính quy và phi chính quy có thể được áp dụng kết hợp trong các khoá đào tạo sư phạm dành cho tình nguyện viên của Chương trình Can thiệp Giáo dục hoặc cho các sinh viên năm thứ ba đang thực hiện giảng tập tại các trường. Học tập suốt đời dành cho giáo viên tại Brunei Darussalam được sự quan tâm của cả nước, bao gồm cả chính phủ và hoàng gia, và do đó nhận được nguồn lực từ nhiều cơ quan chính phủ và phi chính phủ.
Thực hiện Việc học tập suốt đời dành cho giáo viên ở Brunei Darussalam được nhiều cơ sở giáo dục đại học khác nhau đảm nhiệm, mỗi cơ sở phục vụ cho một nhóm đối tượng cụ thể và đáp ứng nhu cầu của nhóm đối tượng này. Phần báo cáo tiếp theo sẽ trình bày việc triển khai thực hiện bốn chương trình phát triển chuyên môn và hai chương trình đào tạo sư phạm.
Những cá nhân không phải là giáo viên cũng có thể được đào tạo sư phạm ở Brunei Darussalam thông qua hai chương trình: Chương trình Can thiệp Giáo dục và chương trình trợ giảng. Tuy nhiên, không giống như các chương trình phát triển chuyên môn cho giáo viên đương nhiệm, các chương trình này có xu hướng hướng đến các phương thức học tập không chính quy và phi chính quy. Chương trình Can thiệp Giáo dục là một dự án thường niên được khởi xướng vào năm 2006, trong đó các thành viên trong cộng đồng, bao gồm sinh viên đại học hoặc sau đại học và các tình nguyện viên, làm công việc giảng dạy và hướng dẫn giúp ôn thi cho những học sinh tiểu học đến từ các gia đình có thu nhập thấp. Chương trình này là nỗ lực chung của nhiều bên: được tổ chức và tài trợ bởi Quỹ Sultan Haji Hassanal Bolkiah, trong khi các tình nguyện viên được ILIA tuyển chọn và sau đó được đào tạo trong các khóa tập huấn do SHBIE tổ chức.
Trong năm 2009, chương trình Generation Next, còn gọi là GenNext, đã được thực hiện tại Universiti Brunei Darussalam (UBD). Chương trình này áp dụng phương pháp tiếp cận giáo dục lấy học sinh làm trung tâm, tạo nền tảng cho việc học tập suốt đời của họ sau này. Các sinh viên năm ba, bao gồm cả sinh viên trao đổi tại UBD, được yêu cầu tham gia vào chương trình có tên là “năm học khám phá”, trong đó họ có thể được phân công làm trợ giảng. Chương trình này cung cấp cho sinh viên trường UBD, cũng như những sinh viên nước ngoài nhận học bổng của Bộ Giáo dục cơ hội làm trợ giảng tại các trường Dưới sự giám sát của Bộ Giáo dục, nhiệm vụ phát triển chuyên môn chính quy chủ yếu được phân công cho Học viện Giáo viên Brunei Darussalam (BDTA), Học viện Giáo dục Sultan Hassanal Bolkiah (SHBIE) và Học viện Lãnh đạo, Đổi mới và Tiến bộ/ Viện nghiên cứu Lãnh đạo, Cải cách và Tiến bộ (ILIA). Chương trình đầu tiên bao gồm các khóa đào tạo ngắn hạn được BDTA thiết kế nhằm trang bị cho giáo viên những kỹ năng và năng lực được nhiều lãnh đạo nhà trường xác định là bắt buộc. Chính chương trình này là lý do khiến Bộ Giáo dục quyết định thành lập BDTA vào năm 2014. Hai chương trình phát triển chuyên môn khác do Học viện Giáo dục Sultan Hassanal Bolkiah cung cấp. Học viện này là nơi
33
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
trong thời gian họ nghỉ hè. Các thực tập sinh được SHBIE đào tạo về lý thuyết và thực hành giảng dạy cơ bản, cũng như kỹ năng giao tiếp và quản lý lớp học.
Chương trình Can thiệp Giáo dục và chương trình trợ giảng kết hợp các phương thức học tập không chính quy và phi chính quy khi mà những cá nhân không phải là giáo viên vừa tiếp thu kiến thức từ những khóa đào tạo bài bản (phương thức học tập không chính quy) vừa tích lũy kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy hoặc làm trợ giảng của họ (phương thức học tập phi chính quy). Vào năm 2009, Hệ thống Giáo dục Quốc gia cho thế kỷ 21 (SPN21) bắt đầu có hiệu lực, mở đầu cho một số thay đổi quan trọng về giáo dục, bao gồm phương pháp tiếp cận sư phạm tiên tiến bên cạnh nhiều chương trình đào tạo giáo sinh, bồi dưỡng giáo viên và nâng chuẩn giáo viên. Hệ thống giáo dục mới cũng thúc đẩy việc sử dụng công nghệ thông tin trong giáo dục cơ bản và giáo dục đại học, triển khai hệ thống giám sát nâng cao và giúp giáo viên nhìn thấy con đường sự nghiệp rõ ràng. Trong Kế hoạch Chiến lược 2012-2017, Bộ Giáo dục nhấn mạnh sự cần thiết phải nâng cao năng lực của giáo viên và vạch ra một số sáng kiến phát triển chuyên môn cho giáo viên ở Brunei.
Kết quả đạt được SHBIE đã thành công trong việc đào tạo những giáo viên không ngừng nghiên cứu để phát triển và duy trì hiệu quả việc giảng dạy và học tập trên lớp. Có thể thấy điều này qua các sinh viên tốt nghiệp ngành MTeach, những người đã trình bày kết quả nghiên cứu của mình tại các hội nghị và xuất bản bài báo trên các tạp chí quốc tế như Tạp chí Khoa học Quản lý và Giáo dục Châu Á, Tạp chí IIUM về Nghiên cứu Giáo dục và Tạp chí Quốc tế về Nghiên cứu Giáo dục Đương đại.
Một sự hợp tác chặt chẽ giữa khối công lập – tư nhân đã được hình thành nhằm cùng nhau lập kế hoạch, tài trợ và cung cấp các chương trình học tập suốt đời. Việc hợp tác tích cực giữa Bộ Giáo dục và các tổ chức giáo dục thúc đẩy việc thực hiện học tập suốt đời thông qua nhiều chương trình. Ví dụ, dưới sự bảo trợ của Bộ Giáo dục, Universiti Brunei Darussalam và SHBIE đã tiến hành nghiên cứu toàn diện các chính sách và thực tiễn học tập suốt đời thành công trên quy mô toàn quốc và đã thu hoạch được nhiều sáng kiến dựa trên các khái niệm về học tập suốt đời từ các bộ ngành khác nhau (như Bộ Y tế và Văn hoá, Thanh niên và thể Thao) cũng như từ các công ty tư nhân. Các cơ hội học tập suốt đời cho giáo viên ở Brunei Darussalam góp phần nâng cao chất lượng dạy và học, cũng như thu hút sự quan tâm của giới trẻ dành cho nghề dạy học thông qua chương trình trợ giảng.
Bên cạnh đó, giáo dục luôn là ưu tiên hàng đầu đối với chi tiêu công: trong năm tài chính 2016/17 Bộ Giáo dục nhận phần phân bổ ngân sách quốc gia lớn thứ hai, chiếm 13% tổng phân bổ ngân sách (Thien, 2016). Sự cam kết cho giáo dục ở một mức cao như vậy vẫn được duy trì bất chấp đà suy thoái kinh tế thế giới gần đây, tạo cơ sở tài chính vững chắc cho hệ thống giáo dục.
Các chính sách hỗ trợ và khung thể chế Học tập suốt đời cho giáo viên ở Brunei Darussalam được hậu thuẫn bởi các chính sách thuận lợi cho giáo dục. Kế hoạch Tầm nhìn Brunei 2035 (Brunei Visions 2035) đề cao tầm quan trọng của giáo dục vì giáo dục sẽ thúc đẩy nâng tầm Brunei thành một quốc gia có vị thế nhờ vào dân trí cao và kỹ năng thuần thục, dựa trên những tiêu chuẩn quốc tế khắt khe nhất.
Việc cung cấp các cơ hội học tập suốt đời cho giáo viên phù hợp với mục tiêu chiến lược quốc gia nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Để khuyến khích giáo viên tiếp tục học nâng cao trình độ, nhiều học bổng được chính phủ trao tặng nhằm khuyến khích họ đạt bằng cấp tại một cơ sở giáo dục trong nước hoặc ở nước ngoài. Bên cạnh đó, chính phủ Brunei cũng đã ban hành chương trình bồi dưỡng chuyên môn bắt buộc cho giáo viên (100 giờ mỗi năm) để nâng cao kỹ năng sư phạm và năng lực chuyên môn. Hướng đi sắp tới Trong quá trình thực hiện SPN21 (Hệ thống Giáo dục Quốc gia Thế kỷ 21), Bộ Giáo dục đã từng đưa ra các kế hoạch chiến lược bao gồm nhiều sáng kiến trong năm lĩnh vực quan trọng đi kèm với các mục tiêu và chỉ tiêu hoạt động chính. Các lĩnh vực này là: chất lượng giáo viên; chất lượng trường học và các cơ sở giáo dục; thành tích và thành công của sinh viên - học sinh; tỉ lệ tham gia giáo dục; và chất lượng giáo dục sau cấp trung học. Ngoài các lĩnh vực nêu trên, Bộ Giáo dục cũng có kế hoạch cải tiến trong các lĩnh vực khác: phát triển chuyên môn ở các cấp; đảm bảo lãnh đạo hiệu quả ở các cấp; nâng cao
34
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
chất lượng giảng dạy và học tập; và chú trọng đến sức khoẻ, an toàn, an ninh và môi trường ở tất cả các cấp. Bộ Giáo dục cũng đang tích cực triển khai chương trình phát triển chuyên môn thường xuyên được thực hiện thông qua BDTA để hình thành một đội ngũ giảng dạy có khả năng xây dựng một nền giáo dục toàn diện, nhằm tạo ra lớp sinh viên-học sinh thành đạt có thể đáp ứng được nhu cầu phát triển năng động và bền vững của đất nước (Norjidi, 2017).
Tổng quan Chương trình Phát triển Giáo viên thông qua giáo dục trực tuyến (eTDP) là một dự án phát triển chuyên môn thường xuyên cho giáo viên tiểu học và trung học tại khu đô thị Mauban ở tỉnh Quezon của Philippines. Viện Đại học Mở Đại học Philippines (UPOU) đã đưa eTDP vào vận hành năm 2005 với mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục ở khu đô thị này bằng cách tạo cơ hội cho giáo viên tiếp thu kiến thức mới và nâng cao kỹ năng của mình thông qua một mô hình học tập hỗn hợp. Để loại bỏ những khó khăn về tài chính và khắc phục những trở ngại trong việc tiếp cận công nghệ của các nhóm đối tượng mục tiêu, UPOU đã xây dựng một cơ chế tài trợ nhằm tạo ra động lực và hỗ trợ giáo viên tiếp tục học tập nâng cao trình độ. Việc xây dựng mối hợp tác chiến lược giữa trường đại học, doanh nghiệp và chính quyền cho phép dự án có thể huy động nguồn lực hiệu quả, đạt được các mục tiêu đề ra và duy trì tính bền vững.
y t i s r e v i
n U n e p O s e n
i
p p
i l i
h P e h t f o y t i s r e v i
n U ©
Giáo viên tham dự chương trình eTD ở Philippines
Thực hiện UPOU, với vai trò là cơ quan điều phối, đã thiết lập quan hệ chặt chẽ với các cấp chính quyền và doanh nghiệp tư nhân Khung chính sách và thực tiễn hiện tại đang góp phần vào sự tiến bộ của hệ thống giáo dục Brunei cũng như sự phát triển của giáo viên. Yêu cầu đặt ra là phải thường xuyên giám sát và đánh giá kết quả của các sáng kiến giáo dục. Việc này cần được thực hiện bằng cách phối hợp với các chuyên gia trong và ngoài nước nhằm đảm bảo có được một phương pháp tiếp cận toàn diện trong việc phát triển hệ thống giáo dục quốc dân. 8. CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO VIÊN THÔNG QUA GIÁO DỤC TRỰC TUYẾN Ở PHILIPPINES
35
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
để chuyên phục vụ cho người tham gia eTDP sử dụng máy tính và truy cập internet. Trung tâm này được đặt bên trong Trung tâm Điện tử Cộng đồng do chính phủ thành lập. Trung tâm mẹ này là một cơ sở công cộng cung cấp các khóa học về sử dụng máy tính và cũng có thể được sử dụng cho các khóa học của UPOU.
Kết quả đạt được Kể từ khi bắt đầu được vận hành vào năm 2005, đã có năm đợt giáo viên tham gia eTDP với tổng số học viên là 164 thầy cô. Trong giai đoạn 2009-2013, giáo viên từ các đô thị vùng đảo gần đó cũng đã tham gia chương trình.
có tham gia vào việc thực hiện eTDP. Ví dụ, tổ chức tư nhân Quezon Power (Philippines) đóng vai trò tổng phụ trách chương trình, bao gồm việc thu thập và phân tích dữ liệu cho khâu thiết kế dự án, phân bổ kinh phí học bổng và theo dõi tiến độ cũng như kết quả của chương trình. Khu vực công lập do chính quyền thành phố đại diện: Chính quyền địa phương Mauban và Văn phòng Quốc hội Quận 1 của tỉnh Quezon sẽ cấp kinh phí xây dựng quỹ học bổng cho giáo viên và tham gia vào việc giám sát và đánh giá chương trình, còn sở Giáo dục Quezon hỗ trợ việc lựa chọn ứng viên nhận học bổng cũng như đảm bảo rằng kết quả học tập chương trình eTDP sẽ được công nhận tại nơi mà họ đang công tác. Công ty Điện thoại đường dài Philippine, công ty viễn thông lớn nhất trong nước, hỗ trợ về cơ sở hạ tầng dưới dạng thiết bị máy tính để lắp đặt tại các trung tâm kiểm tra eTDP và trường học nơi các giáo viên tham gia chương trình đang công tác nhằm tạo điều kiện cho họ truy cập vào các khóa học và kỳ thi trực tuyến.
Trong khuôn khổ của eTDP, UPOU phụ trách thiết kế chương trình cho các khóa đào tạo chính quy và không chính quy về khoa học, toán học, nghiên cứu ngôn ngữ, giảng dạy và khoa học xã hội. Để thực hiện các khóa học, UPOU sử dụng mô hình học tập hỗn hợp bao gồm các bài học và buổi học trực tuyến được tổ chức trong khuôn viên nhà trường. Để khuyến khích giáo viên đăng ký và đảm bảo tiến độ học tập của họ, ban điều hành dự án eTDP đã đưa ra ba loại hỗ trợ tài chính nhằm giúp giáo viên khắc phục khó khăn trong nỗ lực tiếp tục con đường học vấn của họ:
• Học bổng dành cho giáo viên theo học chương trình sau đại học từ xa về ngành giảng dạy tại UPOU. Học bổng bao gồm học phí và trợ cấp hàng tháng.
Vào năm 2015, người ta đã tiến hành một đợt đánh giá chương trình, sử dụng bảng câu hỏi và các cuộc thảo luận về nhóm khảo sát. Mục đích của đợt đánh giá này là để xác định tác động của chương trình đối với sự phát triển bản thân và phát triển nghề nghiệp của các giáo viên tham gia cũng như đối với sự phát triển của cộng đồng. Các giáo viên cho biết họ đã có khả năng áp dụng các kiến thức và kỹ năng học được thông qua eTDP và điều này giúp họ nâng cao chất lượng giảng dạy. Họ bắt đầu tích cực sử dụng ICT trong lớp học cho các hoạt động như thuyết trình, giảng bài, kể chuyện và các bài tập thực hành. Công nghệ số đã tiết kiệm thời gian chuẩn bị của giáo viên cho các lớp học đồng thời tăng cường sự tương tác giữa giáo viên và học sinh, và giữa học sinh với nhau. Các giáo viên cũng báo cáo rằng kết quả học tập eTDP của họ đã được ghi nhận tại nơi công tác, và rằng họ đã được đề bạt hoặc giao những nhiệm vụ mới (ví dụ như giáo viên chuyên trách, cán bộ quản lý nhà trường, điều phối viên cấp quận/huyện). Thêm vào đó, việc nâng cao năng lực của giáo viên đã có một ảnh hưởng tích cực đến chất lượng giáo dục trong cộng đồng. Các giáo viên tham gia eTDP cũng đã chia sẻ với đồng nghiệp những tài liệu từ chương trình cùng những thực tiễn tốt nhất trong việc lập kế hoạch và tổ chức lớp học. Các trường học tại Mauban cũng đã cải thiện thành tích của họ trong Kỳ thi Năng lực Quốc gia. Đây là kỳ thi bao gồm nhiều môn dành cho học sinh Philippines.
• Gói tài trợ đào tạo dành cho giáo viên tham gia các khóa học không chính quy về đổi mới phương pháp sư phạm, thiết kế tài liệu giảng dạy, các kỹ năng hiệu quả trong phòng thí nghiệm (cho giáo viên các ngành khoa học), kỹ năng giao tiếp - tương tác, và sử dụng công nghệ trong dạy học. Các khóa học này được tiến hành trong kỳ nghỉ hè, tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên tham gia mà không bị quá tải công việc.
• Gói tài trợ công nghệ cung cấp máy tính xách tay hoặc netbook, gói dữ liệu di động và phí truy cập internet lên đến 500 pê-sô Philippines mỗi tháng, để người tham gia chương trình có thể sử dụng công nghệ cho mục đích học tập. Một trung tâm khảo thí có tên eLearningVille được thành lập Các chính sách hỗ trợ và khung thể chế Chính phủ đã thiết lập ưu tiên quốc gia cho việc xây dựng một hệ thống học tập hiệu quả nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong Kế hoạch Hành động Quốc gia về Giáo dục cho mọi người, ban hành năm 2015. Một tài liệu khác về chính sách là Kế hoạch Phát triển Philippines giai đoạn 2004-2010, nhấn mạnh tính cấp bách của việc áp dụng
36
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
hiệu quả trong môi trường phải chịu nhiều áp lực.
9. TRUNG TÂM HỌC TẬP CỘNG ĐỒNG Ở THÁI LAN
và mở rộng các lựa chọn học tập linh hoạt và đa dạng nhằm đáp ứng mong đợi của người dân ở mọi lứa tuổi và mọi hoàn cảnh kinh tế xã hội khác nhau. Việc giảm nghèo và nâng cao phúc lợi cho người dân thông qua giáo dục hoà nhập là trọng tâm của Kế hoạch Phát triển Philippines giai đoạn 2011-2016. Mô hình eTDP cũng có thể được nhân rộng ở các lĩnh vực khác để tạo điều kiện cho giáo viên phát triển chuyên môn đều đặn và lâu dài. Điều này rất cần thiết để đảm bảo một nền giáo dục có chất lượng cao.
Kế hoạch Chiến lược năm năm về Phát triển Công nghệ Thông tin và Truyền thông Phục vụ cho Giáo dục, ban hành năm 2008, khuyến khích việc áp dụng kỹ thuật số vào chương trình học nhằm tạo ra môi trường học tập năng động trong các trường học ở Philippines. Việc đào tạo từ xa đã được triển khai trên toàn quốc thông qua Luật Học tập mở và từ xa năm 2014 (RA 10650), trong đó thể chế hoá các chương trình học tập theo phương thức hỗn hợp và từ xa cho giáo dục đại học cũng như nêu bật nhu cầu tổ chức thực hiện việc tập huấn cho giáo viên ứng dụng ICT trong quá trình giảng dạy.
Hướng đi sắp tới Cơ sở hạ tầng dành cho chương trình cần được đầu tư phát triển mạnh mẽ hơn nữa thông qua việc mở rộng liên kết với các đối tác, đặc biệt là với các tổ chức tư nhân và các chính trị gia. Có một thực tế là các giáo viên tham gia chương trình đến từ các vùng sâu vùng xa gặp khó khăn trong việc kết nối internet và khó có được một nguồn điện ổn định để sử dụng máy tính. Họ thường phải đi rất xa để hoàn thành các bài kiểm tra. Do đó, để đạt được thành công trong học tập điện tử, cần phải thiết lập các trung tâm kiểm tra tại địa phương cùng với một hệ thống hỗ trợ học viên ở tầm chiến lược và toàn diện hơn.
Tổng quan Các trung tâm học tập cộng đồng (TTHTCĐ, tiếng Anh community learning centre - viết tắt CLC), được gọi là Kor- Sor-Nor Tambon ở Thái Lan, là những đầu mối quan trọng trong các hoạt động giáo dục không chính quy và phi chính quy nhằm thúc đẩy việc học suốt đời ở các đơn vị hành chính cấp dưới quận/huyện (nhưng trên cấp xã) trên toàn đất nước Thái Lan. Văn phòng Giáo dục Không chính quy và Phi chính quy (ONIE) quản lý các TTHTCĐ này thông qua các văn phòng ở cấp tỉnh và các trung tâm ở cấp huyện. Chương trình không chính quy của họ bao gồm các lĩnh vực về phổ cập văn hóa, giáo dục cơ bản (giáo dục phổ thông và dạy nghề) và giáo dục thường xuyên (ví dụ giáo dục kỹ năng sống, phát triển xã hội, triết lý kinh tế vừa đủ). Các hoạt động giáo dục phi chính quy bao gồm việc thúc đẩy đọc sách thông qua các tài liệu dưới dạng in và số hoá và mang sách đến với người dân thông qua 18.500 nhà sách cộng đồng. Nhóm đối tượng mục tiêu chính là nhóm người ở độ tuổi lao động ở Thái Lan, với độ tuổi từ 15 đến 59, tập trung vào những người trước đây hoặc hiện nay không có cơ hội học tập. Khoảng 3,9 triệu người thuộc các thành phần xã hội khác nhau tham gia các TTHTCĐ, trong đó 1,4 triệu người tham gia hoạt động giáo dục không chính quy và 2,5 triệu người trong các hoạt động học tập phi chính quy.
Chương trình cũng cần phải thiết lập mạng lưới kết nối trực tiếp với các trường chủ quản của các giáo viên đang tham gia để nâng cao nhận thức của lãnh đạo nhà trường về những lợi ích và tác động của chương trình. Các hiệu trưởng sẽ được mời tham dự các buổi thông tin về sáng kiến eTDP và tham gia hỗ trợ bằng cách đồng ý giảm bớt khối lượng công việc cho giáo viên nếu họ tham gia chương trình học.
Thực hiện Có tổng cộng 7.424 TTHTCĐ, thuộc nhiều loại khác nhau tùy vào vị trí địa lý và mục đích lớn của các trung tâm. Nhìn chung TTHTCĐ cung cấp cơ hội học tập suốt đời cho tất cả các thành viên của cộng đồng, dựa trên nhu cầu cụ thể và bối cảnh riêng của từng địa phương. Điều này bao gồm cả việc xem TTHTCĐ là nơi phổ biến học thuyết về Kinh tế vừa đủ và Canh nông theo Lý thuyết mới, thúc đẩy và phát triển dân chủ, và học tập trên nền tảng kỹ thuật số v.v. Ngoài ra, nội dung của chương trình cũng phải được điều chỉnh để tính đến các đặc điểm của phương pháp giảng dạy dành cho khối tiểu học và trung học cũng như tính đến những thay đổi lớn có ảnh hưởng đến hệ thống giáo dục của Philipines khi triển khai chương trình K-12. Các khóa học quản lý thời gian cũng phải được tiến hành để trang bị cho giáo viên các công cụ và kỹ thuật quản lý thời gian và làm việc
37
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
d n a
l i
a h T ,
i
n o ti a c u d E f o y r t s i n M ©
Thực hành trong buổi tập huấn triết lý kinh tế vừa đủ ở Thái Lan
hoạch) - Check (kiểm tra) - Act (hành động dựa trên kết quả kiểm tra), nhằm thu thập dữ liệu để cải tiến quy trình. Giáo viên TTHTCĐ được đào tạo trước khi phân công và được bồi dưỡng tại chức liên quan đến quy trình này cũng như các công việc liên quan khác.
Tầm bao phủ của giáo dục và học tập ở Thái Lan đã tăng lên thông qua việc mở rộng các TTHTCĐ tại mỗi tambon (đơn vị hành chính cấp dưới quận/huyện nhưng trên cấp xã). Trong số 7.424 TTHTCĐ trên toàn quốc, có 7.255 TTHTCĐ cấp tambon ở 76 tỉnh và 169 TTHTCĐ ở cấp khwaeng của Bangkok (đơn vị này tương đương với tambon ở các tỉnh khác). Để hỗ trợ các TTHTCĐ, chính phủ đã cấp 2,1 tỷ Baht (khoảng 60.000 USD) trong năm 2016. Trong giai đoạn đầu thực hiện, 1.680 TTHTCĐ đã được trang bị các thiết bị công nghệ thông tin và một cơ sở dữ liệu quản lý giáo dục để hỗ trợ 1.2 triệu người học.2
2 Kết quả này đạt được là nhờ sự hợp tác giữa Bộ Kinh tế và Xã hội Kỹ thuật số, Bộ Công nghệ Thông tin và Truyền thông và Bộ Giáo dục qua sự kết nối của Văn phòng
Thư ký Thường trực, và Công ty Total Access Communication.
Vào năm 2015, chính phủ đã tuyển dụng 8.672 giáo viên công tác tại các TTHTCĐ, với biên chế hai người cho mỗi TTHTCĐ ở các khu vực lớn. Tất cả đều được đào tạo về quy trình dạy và học, quản lý tri thức, quy hoạch vi mô, xây dựng mạng lưới và liên kết cộng đồng, giám sát cùng với các phương pháp theo dõi và đánh giá. Họ sử dụng một quy trình quản lý cụ thể, được gọi là PDCA (Plan (lập kế hoạch) - Do (thực hiện kế Các thực tiễn tốt của TTHTCĐ bao gồm các chương trình và hoạt động liên quan đến lĩnh vực học tập suốt đời và phát triển bền vững; làm việc với các đối tác trong cộng đồng, và vận dụng các nguồn lực để mở rộng cơ hội cho nhóm dân số mục tiêu. Các TTHTCĐ cũng là một động lực đóng vai trò thúc đẩy tính chủ động của cộng đồng, dựa trên các nguyên tắc của triết lý kinh tế vừa đủ của Thái Lan. Các chủ đề học tập bao gồm quản lý kinh tế gia đình, thực hiện đề án “Tiếp bước Đức Vua” (đề án phát triển do hoàng gia chủ trì) từng được nhà vua quá cố chỉ đạo, và đào tạo nghề trong chương trình Canh nông theo Lý thuyết mới. Việc này mang đến những tác động thực tiễn, có thể thấy được từ trường hợp của những người làm nghề nông áp dụng lý thuyết và kỹ thuật canh tác
38
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
cộng đồng, và cuối cùng là bắt tay vào thực hiện thông qua các dự án và hoạt động vào năm 2016.
mới vào công việc và cuộc sống hàng ngày của họ. Cách tiếp cận này cũng tính đến những biến đổi địa-xã hội của cộng đồng và kết nối với các thành phần phát triển khác của nền kinh tế, với y tế công cộng và với cả xã hội trong một thể thống nhất.
Bộ Giáo dục đã xây dựng 10 chiến lược nhằm cải cách giáo dục và mang lại cơ hội học tập công bằng hơn chiếu theo Luật Giáo dục Quốc gia năm 1999 và những lần sửa đổi tiếp theo (lần hai vào năm 2002 và lần ba năm 2010). Theo Luật này, việc cung ứng giáo dục được dựa trên những nguyên tắc về giáo dục suốt đời cho tất cả mọi người, cũng như những nguyên tắc về sự phát triển không ngừng của tri thức và các tiến trình học tập thông qua sự tham gia của mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng, tổ chức v.v.
Kết quả đạt được Theo báo cáo quốc gia, giáo dục không chính quy và học tập phi chính quy thông qua các TTHTCĐ giúp người dân nâng cao trình độ văn hóa và giúp họ hoàn thành giáo dục trung học cơ sở và trung học phổ thông. Điều này cho phép học sinh và sinh viên đã tốt nghiệp tìm được việc làm và có thu nhập tốt hơn, bên cạnh việc phát triển thêm nhiều kỹ năng sống đáp ứng những thay đổi hiện tại trong xã hội Thái Lan cũng như trên quy mô toàn cầu. Năm 2016 có khoảng 3,9 triệu người từ nhiều thành phần xã hội khác nhau được hưởng lợi từ các TTHTCĐ, trong đó có 1,4 triệu người theo hình thức giáo dục không chính quy và 2,5 triệu người theo hình thức học tập phi chính quy. Những con số này đã vượt mục tiêu được đề ra trong năm.
Luật Thúc đẩy Giáo dục Không chính quy và Phi chính quy năm 2008 là một chính sách quan trọng nhằm phát triển các phương thức giáo dục và học tập thay thế, đã được đề cập trong Luật Giáo dục Quốc gia. Luật này tập trung vào việc ghi nhận các thực tiễn về học tập suốt đời của người dân và đề xuất việc kết hợp các phương thức giáo dục chính quy, không chính quy và phi chính quy; điều này góp phần hiện thực hóa việc nâng cao chất lượng cuộc sống của cá nhân, cộng đồng, xã hội và quốc gia.
Nhìn từ góc độ quốc gia, lợi ích của giáo dục không chính quy và học tập phi chính quy tại các TTHTCĐ được thể hiện trong sự phát triển có hệ thống chương trình giáo dục và học tập suốt đời, vốn là một phần của những sáng kiến phát triển xã hội. Ở cấp độ tambon/khwaeng, có thể thấy rõ được lợi ích của việc này thông qua hệ thống hỗ trợ người học nhằm giúp họ có khả năng học tập chủ động, tăng cường tư duy độc lập, cũng như nhận thức, phân tích và giải quyết vấn đề.
Hướng đi sắp tới Chính sách và thể chế: ONIE chưa có một vị thế pháp lý cho phép triển khai hệ thống quản lý hiệu quả và tham gia vào các quyết định về chính sách và hành chính. Điều này làm cho tiếng nói của cơ quan này bị yếu đi trong các cuộc thảo luận về ngân sách và về việc thực thi luật giáo dục. Với quy mô hiện tại, các TTHTCĐ cần được công nhận và thể chế hóa để có thể hoạt động hiệu quả hơn. Việc tiếp tục thực thi và hỗ trợ chính sách liên quan đến cải cách giáo dục và học tập suốt đời cũng cần được cải thiện. Việc phân cấp và tham gia của tất cả các ngành cần được đẩy mạnh và cho phép việc quản lý linh hoạt hơn. Những thách thức và trở ngại này đã được phản ánh trong Kế hoạch giáo dục quốc gia giai đoạn Phật lịch 2560-2579 (năm 2017-2036), bao gồm các khuyến nghị sau:
Các chính sách hỗ trợ và khung thể chế Theo Kế hoạch Giáo dục Quốc gia (giai đoạn 2017-2036), khung khái niệm chính sách là để tạo ra các cơ hội giáo dục cho tất cả mọi người trong suốt cuộc đời của họ, trong đó chú trọng đến những đối tượng bị thiệt thòi, người khuyết tật và những người sống ở vùng nông thôn và vùng sâu vùng xa. Kế hoạch chiến lược tập trung vào việc cung cấp giáo dục không chính quy và phi chính quy một cách công bằng thông qua các TTHTCĐ sử dụng các nguồn lực của cộng đồng.
ONIE chịu trách nhiệm thực hiện và hỗ trợ việc cung cấp giáo dục không chính quy và học tập phi chính quy thông qua các chiến lược và đầu mối hoạt động tại TTHTCĐ. Cách tiếp cận của ONIE được bắt đầu bằng việc lập một kế hoạch chiến lược, tiếp đến là một kế hoạch hành động để hướng dẫn thực hiện và giám sát, sau nữa là tiến hành một chiến dịch kết nối • Sử dụng tài nguyên: Các cấp quản lý TTHTCĐ cần có biện pháp quản lý nguồn lực hiệu quả hơn. Một giải pháp là phân loại TTHTCĐ dựa trên chất lượng, kết quả giám sát và đánh giá, cũng như mối liên hệ về mặt bối cảnh xã hội, cùng những yếu tố khác. Điều này sẽ hỗ trợ việc phân phối nguồn lực công bằng hơn và nâng cao các tiêu chuẩn xét về ngân sách, cơ sở vật chất, giáo viên và đội ngũ nhân viên.
39
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
i
a d o b m a C
, t r o p S d n a h t u o Y ,
i
n o ti a c u d E f o y r t s i n M ©
Thanh niên ở Campuchia học cách sản xuất đồ thủ công từ cây cọ
• Năng lực và hợp tác: TTHTCĐ và các bên liên quan cần xây dựng chiến lược giảng dạy và học tập tốt hơn, cải thiện nội dung chương trình học, hệ thống đánh giá và khả năng chuyển đổi kết quả giữa các phương thức khác nhau trong hệ thống giáo dục của Thái Lan. Một nền văn hoá học tập cũng cần được phát triển để giúp xác định và áp dụng các mô hình và định hướng mới, trong đó cân nhắc trường hợp của những đối tượng không có cơ hội học tập, giới lao động nhập cư và nhóm dân số có đặc điểm đa dạng về quốc tịch và văn hóa.
10. NGHIÊN CỨU VỀ CÁCH THỨC ĐÁNH GIÁ TRUNG TÂM HỌC TẬP CỘNG ĐỒNG Ở CAMPUCHIA
những người đã hoàn thành các chương trình học chữ và giáo dục tương đương cũng như các thành viên trong cộng đồng muốn học thêm kỹ năng nghề nghiệp. TTHTCĐ đã trở thành một giải pháp quan trọng cho vấn đề phát triển giáo dục thường xuyên ở Campuchia, và trong những năm gần đây, việc thể chế hoá và tích hợp TTHTCĐ vào hệ thống giáo dục quốc dân đang được khẩn trương tiến hành. Chính vì lẽ đó, việc theo dõi và đánh giá hiệu quả hoạt động của các TTHTCĐ với sự tham vấn của các bên liên quan là hết sức cần thiết. Nghiên cứu về cách thức đánh giá TTHTCĐ tạo cơ sở vững chắc để phân tích tình hình hiện tại và xây dựng các chiến lược phát triển và mở rộng TTHTCĐ trong tương lai.
Thực hiện Từ tháng 10/2016 đến tháng 02/2017, Vụ Giáo dục Không chính quy thuộc Bộ Giáo dục, Thanh thiếu niên và Thể thao Campuchia đã tiến hành nghiên cứu đánh giá TTHTCĐ. Mục tiêu của việc đánh giá là để xác định các nhân tố đóng góp vào thực tiễn tốt nhất trong việc thúc đẩy học tập suốt đời thông qua TTHTCĐ.
Tổng quan Trung tâm học tập cộng đồng (TTHTCĐ) ở Campuchia là nơi tổ chức các chương trình học tập không chính quy đa dạng, đáp ứng nhu cầu của địa phương và phù hợp với bối cảnh của cộng đồng. TTHTCĐ được đưa vào hoạt động thí điểm từ năm 1998 đến năm 2000, sau đó nhanh chóng được nhân rộng từ 57 trung tâm vào năm 2006 lên đến 347 trung tâm trong năm 2015/16. Nhóm đối tượng mục tiêu của TTHTCĐ là trẻ em và thanh thiếu niên bỏ học hoặc không được đi học, Nghiên cứu đã khảo sát 454 người từ 23 TTHTCĐ tại hai tỉnh Siem Reap và Battambang. Những người trả lời khảo sát được lựa chọn và phân vào các nhóm: 1) học viên; 2) giáo
40
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
viên dạy nghề; 3) cán bộ quản lý; 4) cán bộ giáo dục không chính quy ở cấp xã; 5) dân làng; 6) trưởng thôn; và 7) chủ tịch xã. Những điểm sau đây được đúc kết từ dữ liệu thu được:
• Nhận thức về học tập suốt đời: Nguồn thông tin chủ yếu về các chương trình phát triển học tập suốt đời đến từ các phương tiện truyền thông đại chúng, các cuộc họp với ban quản lý TTHTCĐ và chính quyền địa phương. nhìn 2030 của Campuchia: Xây dựng một nền kinh tế phát triển bền vững và hài hòa, đồng thời mang tính cạnh tranh. Thông tư số 2429, ban hành năm 2015, về chức năng và hoạt động của các TTHTCĐ đã đưa ra những quy định về cơ sở vật chất và trang thiết bị, trình độ của giáo viên và ban quản lý, chương trình giảng dạy, đối tượng người học, các kỹ năng nghề nghiệp và khung tham chiếu. Thông tư về các chương trình giáo dục không chính quy trong nước quy định nội dung và phương pháp giảng dạy tương ứng.
• Phổ chương trình giáo dục không chính quy ở các TTHTCĐ: Những người tham gia khảo sát cho nhận xét tích cực về các chương trình dạy chữ và dạy cách tạo thu nhập. Trong khi đó, các chương trình giáo dục tương đương, tái hòa nhập giáo dục chính quy, giáo dục kỹ năng sống nhận được đánh giá tương đối thấp.
• Tài liệu dạy và học: Mục khảo sát này nhằm đánh giá sự hiện hữu, mức độ dễ tiếp cận và chất lượng của nguồn tài liệu ở các TTHTCĐ. Đa số người được phỏng vấn cho rằng các tài liệu được sử dụng trong các chương trình dạy và học ở TTHTCĐ có tính sát thực và phù hợp với mục đích học tập và đào tạo. Theo dữ liệu thu thập được, nguồn tài liệu ở các TTHTCĐ tuy hiện hữu nhưng chưa được phong phú.
Bên cạnh đó, chính phủ cũng phát triển một hệ thống chỉ số để giám sát hoạt động và đánh giá tác động của TTHTCĐ. Một chỉ số cốt lõi để đánh giá là tỷ lệ người lớn biết chữ, với mục tiêu nâng tỷ lệ từ 78% vào năm 2014 lên 85% vào năm 2020. Các chỉ số trong tiểu mục liên quan bao gồm phần trăm số người “mù chữ” hoàn thành chương trình dạy chữ và số trẻ em hoàn thành chương trình tái hòa nhập giáo dục chính quy. Các tiểu mục khác ghi nhận số học viên hoàn thành các chương trình đào tạo kỹ năng và chương trình giáo dục tương đương. Ngoài ra, số lượng TTHTCĐ đạt tiêu chuẩn chất lượng và số tỉnh thành có hệ thống thông tin quản lý giáo dục không chính quy (non-formal education management information system - viết tắt NFE-MIS) cũng được theo dõi. Hiện tại ở Campuchia, tất cả các tỉnh thành đều đã có hệ thống NFE- MIS để ghi nhận các chỉ số đánh giá.
• Cảm nhận về TTHTCĐ, giáo viên và ban quản lý của TTHTCĐ: Hầu hết những người tham gia khảo sát cho rằng môi trường học tập ở TTHTCĐ thu hút được người dân. Các giáo viên tại TTHTCĐ được đánh giá là có kinh nghiệm, nhiệt tình trong công tác giảng dạy và có khả năng truyền đạt kiến thức và chuyên môn tốt. Bên cạnh đó, năng lực quản lý và điều hành của ban quản lý TTHTCĐ cũng được đánh giá cao.
Kết quả đạt được Các kết quả của công trình nghiên cứu về những yếu tố góp phần đem lại thành công cho việc phát triển học tập suốt đời thông qua hoạt động của TTHTCĐ ở Campuchia đã được phân tích và phát triển thành các khuyến nghị về phương diện chính sách và thực tiễn. Nghiên cứu đã thu thập và phân tích các dữ liệu liên quan đến tầm quan trọng của giáo dục miễn phí, nguồn tài liệu học tập mở và giáo dục kỹ năng nghề nghiệp nhằm giúp học viên tăng thu nhập, cũng như sự cần thiết của việc phổ biến thông tin và nâng cao nhận thức của công chúng về học tập suốt đời. Từ đó, nghiên cứu này đã đúc kết được những bài học quan trọng trong việc phát triển học tập suốt đời. • Lợi ích và thách thức của việc học tập ở các TTHTCĐ: Bảng câu hỏi khảo sát cũng thu thập thông tin về lợi ích cá nhân mà TTHTCĐ mang lại cũng như những hạn chế trong học tập cần được giải quyết. Các học viên ở TTHTCĐ cho biết những kỹ năng nghề nghiệp học được ở TTHTCĐ đã giúp họ tăng thu nhập và quan trọng nhất là nâng cao phúc lợi của cả cộng đồng. Tuy nhiên, những hạn chế về mặt tài chính như không có quỹ học bổng và quỹ cho vay được cho là những yếu tố tạo nên trở ngại lớn nhất cho các học viên ở TTHTCĐ.
Các kết quả gần đây bao gồm việc đưa vào áp dụng bộ tài liệu hướng dẫn quản lý TTHTCĐ, bộ tiêu chuẩn chất lượng dành cho TTHTCĐ (năm 2016) kèm theo hướng dẫn triển khai thực hiện. Khóa đào tạo nâng cao năng lực cho ban quản lý TTHTCĐ hiện đang được thiết kế và sẽ sớm được tổ chức. Các chính sách hỗ trợ và khung thể chế Chính sách đầu tiên trong Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2014-2018 là đảm bảo việc xây dựng một nền giáo dục chất lượng, hòa nhập và bình đẳng cũng như phát triển học tập suốt đời. Kế hoạch chiến lược này phù hợp với Tầm
41
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
11. CHƯƠNG TRÌNH TRUNG HỌC MỞ Ở
PHILIPPINES
suốt đời và xây dựng quyền làm chủ của địa phương đối với các trung tâm này. Việc tạo lập các nhóm giới thiệu việc làm và chia sẻ kỹ năng giải quyết vấn đề cũng giúp cho các chương trình phát triển học tập suốt đời hiệu quả hơn. Hướng đi sắp tới Nhằm nâng cao sự hòa nhập và chất lượng của các chương trình học tập suốt đời cho tất cả mọi người, Vụ Giáo dục Không chính quy đã lên kế hoạch củng cố chất lượng của hệ thống TTHTCĐ với những việc làm cụ thể như sau:
• Nhận thức của cộng đồng: Tăng cường quảng bá các sự kiện và chiến dịch học tập suốt đời (như Ngày quốc tế biết chữ), đặc biệt chú trọng quảng bá qua truyền miệng trong gia đình và bạn bè, chùa chiền và sử dụng truyền thông trực tuyến (bao gồm cả mạng xã hội).
• Giáo viên và ban quản lý: Nâng cao kiến thức về khái niệm học tập suốt đời cho giáo viên và ban quản lý, bồi dưỡng năng lực lập kế hoạch và triển khai chương trình. Các khoá đào tạo về huy động nguồn lực cũng cần thiết cho ban quản lý.
• Tài liệu: Cải thiện chất lượng và quy trình phân phối tài liệu dạy và học ở các TTHTCĐ. Thư viện và các trung tâm đọc sách cũng cần nhiều tài liệu cập nhật hơn. Chương trình giảng dạy của TTHTCĐ cũng cần được cập nhật để theo kịp sự phát triển của nền kinh tế tri thức.
Tổng quan Chương trình trung học mở (Open High School Programme - viết tắt OHSP) là một chương trình học tập phi truyền thống, được thiết kế dành riêng cho thanh thiếu niên và người lớn đã bỏ học nhằm cung cấp cho họ cơ hội học tập bên ngoài nhà trường chính quy. Được bắt đầu triển khai vào năm 1998, trong khuôn khổ của chương trình giảm tỷ lệ bỏ học, Chính phủ nhắm đến đối tượng là 5 đến 6 triệu người Philippines ở độ tuổi đi học nhưng không thể tham gia các lớp học chính quy vì nhiều lý do khác nhau - vấn đề cá nhân, hoàn cảnh gia đình khó khăn, lịch trình thiếu linh hoạt, nhà ở xa trường học, môi trường cộng đồng không thoải mái hoặc môi trường ở trường học không phù hợp. Bên cạnh đó, OHSP còn đóng vai trò như một biện pháp hiệu quả khắc phục tình trạng quá tải trong nhà trường ở Philippines. Chìa khóa dẫn đến thành công của OHSP nằm ở phương thức truyền đạt kiến thức tỉ mỉ, được thực hiện qua việc kết hợp giữa khóa học từ xa và các lớp học thực hành. Điều này giúp chương trình tiếp cận được nhiều đối tượng người học mục tiêu và giúp họ tiếp tục trau dồi kiến thức và hoàn thành bậc giáo dục trung học. • Đầu tư và nguồn lực: Tăng cường kinh phí đầu tư và nguồn lực cho các TTHTCĐ và các biện pháp có liên quan. Nguồn đầu tư cần được mở rộng hơn từ cả khu vực nhà nước và tư nhân. Hiện nay, ngân sách của chính phủ và các tổ chức liên quan chưa hề dành ra khoản nào để thiết kế một bộ chuẩn về trụ sở của TTHTCĐ. Quỹ cho vay cần được phát triển để hỗ trợ học viên lập nghiệp sau khi hoàn thành chương trình học.
• Quan hệ đối tác: Cần tăng cường hợp tác với các tổ chức phát triển và các tổ chức phi chính phủ trong việc bồi dưỡng năng lực cho các cán bộ và cung cấp hỗ trợ về mặt chuyên môn, qua đó đạt được các mục tiêu phát triển học tập suốt đời. Ngoài ra, cũng cần đẩy mạnh việc kết nối và hợp tác giữa các TTHTCĐ, chính quyền địa phương, các tổ chức ở cơ sở, khu vực tư nhân, những nhà hoạt động cộng đồng và các bên liên quan chủ chốt.
Thực hiện OHSP được áp dụng cho tất cả các trường trung học công lập và tư thục ở Philippines. Để tham gia vào chương trình, các trường phải hoàn thành khóa bồi dưỡng năng lực do Vụ Giáo dục Trung học thuộc Bộ Giáo dục tổ chức. Đây được xem là bước chuẩn bị trước khi trường được công nhận là đối tác chính thức của OHSP. Bên cạnh đó, các trường tham gia phải đảm bảo có đầy đủ cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ cho học viên tham gia học từ xa như thư viện, phòng máy vi tính, phòng thí nghiệm và phòng hội thảo.
• Giám sát: Cải tiến cơ chế theo dõi để dễ dàng xác định, đo lường và phân tích các tiến bộ đã đạt được, từ đó có những giải pháp cải thiện quy trình dạy và học nhanh chóng, hợp lý. Điều này cũng khuyến khích việc học tập ở mọi trình độ và ở nhiều địa điểm khác nhau trong mạng lưới TTHTCĐ thông qua việc chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm của các bên liên quan về phát triển học tập suốt đời.
Ứng viên ghi danh tham dự chương trình học được yêu cầu thực hiện bài kiểm tra đánh giá Khả năng Tự học. Bài kiểm tra đánh giá một số năng lực của ứng viên như khả năng tự định hướng học tập và năng lực đọc qua bài thi đọc phân loại theo cấp độ. Bài thi đọc phân loại theo cấp độ đóng vai trò chủ chốt cho việc xếp lớp. Chương trình học cung cấp nhiều • Thu hút cộng đồng: Đổi mới hoạt động của các TTHTCĐ nhằm nâng cao hình ảnh của các chương trình học tập
42
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
đỡ học viên có hoàn cảnh khó khăn như hỗ trợ miễn phí dụng cụ học tập, nơi ở, các bữa ăn hoặc hỗ trợ việc làm tại trường giúp học viên có khoản thu nhập.
tài liệu đa phương tiện phục vụ cho việc học của học viên và việc giảng dạy được tùy chỉnh theo từng cá nhân, cho phép học viên học với tốc độ phù hợp với khả năng tiếp thu và ghi nhớ thông tin của họ. Với tính năng tùy chỉnh này, học viên có thể xây dựng kế hoạch và lịch học của riêng họ. Học viên của OHSP được cho phép tối đa là sáu năm để hoàn tất chương trình trung học. Việc kết hợp với giáo dục chính quy cũng được cho phép – học viên có quyền vào học ở trường chính quy bất kỳ lúc nào trong giai đoạn theo học OHSP.
OHSP được chính phủ Philippines tài trợ thông qua Bộ Giáo dục. Việc triển khai OHSP do chính phủ Philippines và các tổ chức như cơ quan chính quyền địa phương, Vụ Giáo dục Đại học, Ủy ban Phát triển Kỹ thuật và Giáo dục cùng một số tổ chức phi chính phủ quốc tế và địa phương hợp tác thực hiện. Ở cấp trường, ban chỉ đạo triển khai OHSP bao gồm hiệu trưởng trường, một điều phối viên của chương trình, một chuyên gia tư vấn và các giáo viên hướng dẫn. Trong một số trường hợp, hội phụ huynh và học sinh được thành lập nhằm huy động nguồn tài chính trang trải thù lao cho điều phối viên và giáo viên của chương trình.
Chương trình học chú trọng tầm quan trọng của sự tương tác giữa học viên và giáo viên; ở giai đoạn đầu người học phải đến trường một hoặc hai lần mỗi tuần để gặp giáo viên và làm bài kiểm tra đánh giá về các năng lực cần thiết. Bên cạnh đó, OHSP chỉ cho phép sĩ số tối đa là 20 học viên mỗi lớp, áp dụng đối với tất cả các lớp học; điều này là để tạo điều kiện cho giáo viên đáp ứng nhu cầu học tập của từng cá nhân. Các trường tham gia giảng dạy được khuyến khích thúc đẩy và mở rộng phương thức học tập hỗn hợp. Lịch học các lớp thể dục, âm nhạc, hội họa và khoa học được sắp xếp theo thỏa thuận giữa học viên và giáo viên. Trong nửa đầu của năm học, học viên sắp xếp tham gia lớp học trực tiếp với giáo viên hàng tuần. Tần suất học trực tiếp sẽ giảm dần khi học viên chứng minh được khả năng tự học độc lập một cách bền vững.
Kết quả đạt được OHSP đã mở rộng cơ hội tiếp cận giáo dục trung học và cho thấy sự hiệu quả của nó trong việc phục vụ đối tượng người học là những người bị thiệt thòi tại Philippines. Phần lớn học viên đăng ký OHSP thuộc nhóm có hoàn cảnh khó khăn với thu nhập thấp. OHSP luôn tạo điều kiện tốt nhất cho đối tượng học viên này bằng cách cho phép tùy chỉnh phương pháp học theo từng cá nhân, thời gian học linh động, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ học viên và cơ sở vật chất phục vụ học tập. Những yếu tố này đã giúp giảm thiểu nguy cơ bỏ học. Theo số liệu thống kê từ Bộ Giáo dục, tỷ lệ bỏ học ở bậc trung học giảm từ 8% trong năm học 2004/05 xuống còn 6,1% trong năm 2014/15. Trong ba năm gần đây (các năm học từ 2014 đến 2017), số trường học tham gia giảng dạy OHSP đã tăng từ 252 lên 266 trường. Trong suốt giai đoạn này, số lượng học viên đăng ký tham gia chương trình cũng tăng đáng kể, từ 7.218 lên 19.503 học viên, số lượng học viên tham gia cao nhất là ở lớp 9 vào năm học 2016/17. Về mặt giới tính, trong ba năm vừa qua, số lượng học viên nam tham gia chương trình học luôn cao hơn số lượng học viên nữ (xem Bảng 2.2). Chương trình giảng dạy của OHSP được thiết kế dựa theo Chương trình Giáo dục Cơ bản cải cách của trường trung học chính quy, mặc dù các giáo viên của OHSP được quyền tự do điều chỉnh nội dung của các khóa học sao cho phù hợp với nhu cầu và mong đợi của học viên. Một thành tố quan trọng khác của OHSP, đóng góp vào hiệu suất và hiệu quả của chương trình, là các hỗ trợ dành cho học viên. Học viên của OHSP được mời tham gia các hoạt động văn hoá và chuyến đi thực tế đa dạng do trường tổ chức, nhằm tạo điều kiện để giao lưu và tương tác với các bạn đồng trang lứa. Một số trường tham gia giảng dạy OHSP cũng chủ động đến thăm và động viên những học viên thường xuyên vắng mặt ở lớp, giúp
Năm học
Bảng 2.2. Thống kê học viên tham gia chương trình OHSP
2014 - 2015
Số học viên nam Số học viên nữ Tổng cộng Số trường tham gia giảng dạy
2015 - 2016
252 4.415 2.803 7.218
2016 - 2017
258 4.012 2.600 6.612
Nguồn: Bộ Giáo dục. Số liệu thống kê của năm học 2016-2017 được tính đến ngày 25/05/2017
266 12,144 7.359 19.503
43
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
y t i s r e v i
n U n e p O s e n
i
p p
i l i
h P e h t f o y t i s r e v i
n U ©
Thảo luận nhóm trong chương trình bồi dưỡng năng lực cho giáo viên ở Philippines
Các chính sách hỗ trợ và khung thể chế Việc phát triển các hệ thống giáo dục thay thế và những phương thức học tập linh hoạt đã được đề ra trong Kế hoạch Phát triển Trung hạn của Philippines Giai đoạn 2004-2010. Tài liệu này chỉ ra cách thức để người học có thể dễ dàng chuyển đổi linh hoạt giữa các chương trình giáo dục chính quy, không chính quy và phi chính quy. Kế hoạch Phát triển của Philippines Giai đoạn 2011-2016 hướng đến sự đảm bảo ổn định kinh tế trong nước và chú trọng phát triển xã hội thông qua việc giảm tỷ lệ nghèo và xây dựng nền giáo dục hòa nhập.
Hướng đi sắp tới Một trong những vấn đề cốt lõi nhằm nâng cao chất lượng của OHSP là làm cách nào để phát triển năng lực tự bồi dưỡng của giáo viên, những người tham gia giảng dạy cho các khóa học của OHSP. Để giải quyết vấn đề đó, các khóa đào tạo chuyên sâu dành cho giáo viên và ban quản lý OHSP cần được tổ chức thường xuyên để giúp họ bồi dưỡng năng lực giảng dạy và/hoặc năng lực quản lý, đồng thời nâng cao nhận thức về các thách thức và các vấn đề khác có liên quan đến OHSP. Ngoài ra, đội ngũ của OHSP cũng cần phải được khuyến khích tham gia các chương trình đào tạo cấp bằng về giáo dục mở và từ xa do các trường đại học tổ chức.
12. HỆ THỐNG ĐẠI HỌC MỞ Ở VIỆT NAM
Các trường học tham gia giảng dạy OHSP cần phải được trang bị đầy đủ cơ sở vật chất phục vụ học tập, giúp học sinh học từ xa dễ dàng tiếp cận. Thực tế là nhiều trường học ở Philippines còn hạn chế nguồn lực, ngay cả đối với giáo dục chính quy; vì vậy, cần phải thúc đẩy hợp tác với khu vực tư nhân để nhận được sự hỗ trợ trong việc mua sắm vật tư thiết bị cần thiết phục vụ học tập nhanh chóng và hiệu quả.
Tổng quan Việc cung cấp giáo dục ở Việt Nam cần phải được mở rộng và đa dạng hóa để đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng đa dạng của người dân. Điều này đã dẫn đến sự phát triển và Chính phủ đã thông qua Đạo luật về Hệ thống Trường trung học Mở (RA10665) vào năm 2015, tạo ra khuôn khổ pháp lý cho hệ thống trường trung học mở ở Philippines, yêu cầu các cơ sở giáo dục công lập phải xây dựng các trung tâm học tập làm nền tảng cho hệ thống trường trung học mở, đồng thời kêu gọi các cơ sở giáo dục tư thục tham gia thiết lập các trung tâm tương tự. Kể từ khi đạo luật này được thông qua, số lượng học viên tham gia OHSP và số trường tham gia giảng dạy chương trình đã tăng đáng kể. Đạo luật Giáo dục Mở và Từ xa năm 2014 (RA 10650) và Kế hoạch Chiến lược 5 năm Ứng dụng Công nghệ Thông tin vào Giáo dục (năm 2008) đã hỗ trợ việc tích hợp công nghệ thông tin vào chương trình học tập và đào tạo giáo viên nhằm xây dựng chương trình mở và từ xa. Đạo luật này cũng tạo cơ sở pháp lý cho việc thiết lập cơ sở hạ tầng cần thiết nhằm triển khai việc học tập từ xa tại tất cả cơ sở giáo dục.
44
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
tạo dài hạn hoặc ngắn hạn tùy thuộc vào chủ đề và mục tiêu của khóa học. Phần lớn các chương trình được phối hợp tổ chức với các doanh nghiệp tư nhân và các tổ chức công lập. Họ cũng đã xây dựng được mối quan hệ đối tác chặt chẽ với các cơ quan truyền thông như Đài truyền hình Việt Nam và Đài tiếng nói Việt Nam để phát sóng các chương trình giáo dục, được thiết kế ở định dạng truyền hình và truyền thanh. Bên cạnh đó, các trường đại học mở cũng tích cực hợp tác với các trung tâm giáo dục thường xuyên và trung tâm dạy nghề ở cấp thành phố và cấp tỉnh trên cả nước nhằm mở rộng phạm vi ảnh hưởng và nâng cao nhận thức của công chúng về các cơ hội tham gia học tập từ xa.
nhân rộng mô hình giáo dục mở và từ xa, “tập trung vào việc mở rộng sự tiếp cận đối với giáo dục và đào tạo, giải phóng người học khỏi những giới hạn về không gian và thời gian, và tạo nhiều cơ hội học tập linh hoạt cho các cá nhân và nhóm người học” (UNESCO, 2002, trang 8). Một trường đại học mở sẽ có khả năng tiếp cận sinh viên ở các vùng nông thôn và vùng sâu vùng xa, cũng như phục vụ được một số lượng lớn sinh viên bằng cách sử dụng hệ thống trực tuyến để nâng cao hiệu suất giảng dạy của đội ngũ giảng viên. Đại học Mở Hà Nội và Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh là hai cơ sở giáo dục từ xa lớn nhất ở Việt Nam. Chức năng chính của các trường này là góp phần vào việc xây dựng xã hội học tập. Đây cũng chính là nhiệm vụ của một đề án cấp quốc gia với mục tiêu biến xã hội Việt Nam thành nơi mà mọi công dân đều có cơ hội học tập ở bất cứ độ tuổi nào, bất kỳ lúc nào, bất kỳ ở đâu và ở mọi cấp độ.
Gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cho phép một số trường đại học khác triển khai các chương trình đào tạo từ xa, lấy kinh nghiệm và các khuyến nghị của Đại học Mở Hà Nội và Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh làm nền tảng cho các chương trình phát triển của các trường đại học này. Cho đến hiện tại, đã có 21 cơ sở triển khai giáo dục mở và từ xa ở Việt Nam, cung cấp các khóa học trực tuyến và các khóa học theo phương thức hỗn hợp, với các môn học thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, kinh doanh, kỹ thuật, giáo dục và các lĩnh vực khác.
Kết quả đạt được Giáo dục mở và từ xa đã mang cơ hội học tập đến với một số lượng lớn người dân Việt Nam, giúp họ nâng cao khả năng kiếm việc làm và cải thiện chất lượng cuộc sống. Phần lớn sinh viên tốt nghiệp Đại học Mở Hà Nội được tuyển dụng trong vòng một năm sau khi ra trường; tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm dao động từ 77% đến 100% tùy ngành học.
Thực hiện Trong những năm 1990, Chính phủ Việt Nam đã thành lập hai trường đại học mở là Đại học Mở Hà Nội và Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh với mục tiêu phát triển và thúc đẩy việc giáo dục mở và từ xa ở trong nước. Hai trường đại học này là cơ sở thí điểm để triển khai các khóa học trực tuyến và các khóa học theo hình thức hỗn hợp nhắm đến người học ở mọi lứa tuổi và mọi thành phần xã hội. Hiện nay, hai trường đại học mở này đào tạo các chương trình đại học và sau đại học, cũng như cung cấp cho sinh viên những tài liệu cần thiết để tự học. Điểm đặc biệt của các khóa học nằm ở lịch trình linh hoạt và tính đa dạng của các phương thức dạy và học: học từ xa, học truyền thống (học trực tiếp với giáo viên) và sự kết hợp của cả hai phương thức nêu trên. Sinh viên tham dự các lớp học được tổ chức vào cuối tuần, hoặc là tại trường đại học mà họ đăng ký theo học hoặc là ở một cơ sở giáo dục địa phương trong hệ thống đối tác. Những buổi học này thường là các buổi hướng dẫn, ôn thi và kiểm tra đánh giá. Bên cạnh đó, Đại học Mở Hà Nội cũng chủ động phát triển một nền tảng trực tuyến để mở các khóa đào tạo từ xa. Vào năm 2015, trường đã nhận được nguồn tài trợ phát triển chính thức từ Cục Hợp tác Quốc tế Hàn Quốc để cải thiện cơ sở hạ tầng trực tuyến. Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh cũng đã đưa vào sử dụng nền tảng trực tuyến tương tự với tên gọi eLearning từ năm 2016.
Các chính sách hỗ trợ và khung thể chế Tiếp cận và hòa nhập là những đề tài xuyên suốt trong chính sách giáo dục của Việt Nam. Trên thực tế, Luật Giáo dục của Việt Nam khẳng định ‘Mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nam nữ, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng về cơ hội học tập.’ Điều này được nhắc lại như một lời cam kết trong Chiến lược Phát triển Giáo dục 2011-2020; một trong những mục tiêu của chiến lược là ‘Xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội bình đẳng để ai cũng được học, học suốt đời, đặc biệt đối với người dân tộc thiểu số, người nghèo, con em diện chính sách.’
Hai trường đại học mở đã liên tục đưa vào đào tạo nhiều chương trình chuyên sâu trong các lĩnh vực đa dạng từ học thuật đến kỹ năng nghề. Học viên có thể chọn theo học các chương trình cấp bằng hoặc không cấp bằng, các khóa đào Từ năm 2005 chính phủ đã triển khai Đề án Xây dựng Xã hội Học tập nhằm tạo ra một xã hội học tập trong cả nước, ở đó
45
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
k c o t s r e tt u h S ©
các phương thức học tập không chính quy và phi chính quy, bao gồm giáo dục mở và từ xa, được thúc đẩy và cùng phát triển với giáo dục chính quy. Đề án này là nỗ lực chung của tất cả các bộ, trong đó Bộ Giáo dục và Đào tạo, và Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội đóng vai trò điều phối. Khung đề án này hiện đang trong giai đoạn hai (2012-2020). Chính phủ đã thành lập ban chỉ đạo quốc gia về xây dựng xã hội học tập, tập trung vào việc đem lại nhiều cơ hội học tập suốt đời cho người dân và dự định sẽ hỗ trợ việc mở rộng các khóa đào tạo từ xa trên cả nước. Nhu cầu cấp bách về cải thiện các kỹ năng nghề nghiệp và bồi dưỡng chuyên môn thường xuyên đã được ghi nhận trong Chiến lược Phát triển Nguồn nhân lực 2011-2020. Các nguyên tắc hướng dẫn để phát triển và đẩy mạnh giáo dục từ xa cũng đã được nêu trong Chiến lược Phát triển Công nghệ Thông tin và Truyền thông.
hiện đại hóa công nghệ và cơ sở hạ tầng cho đào tạo từ xa cần phải được thực hiện bằng cách tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước và tăng cường hợp tác với các tổ chức tư nhân, phi chính phủ và các cơ sở giáo dục. Việc nâng cao nhận thức của các nhà hoạch định chính sách, các nhà lãnh đạo địa phương và các cơ sở giáo dục đại học về lợi ích của các chương trình phát triển học tập suốt đời, các phương thức dạy và học đa dạng và các hình thức giáo dục không chính quy và phi chính quy cũng là một việc làm cần thiết. Giá trị bằng cấp của giáo dục thay thế cần phải được công nhận tương đương với giáo dục chính quy và hai trường đại học mở sẽ đóng vai trò chủ chốt trong việc xây dựng các công cụ và cơ chế để đánh giá và xác nhận kết quả học tập trong giáo dục không chính quy và phi chính quy. Các trường đại học có chương trình đào tạo từ xa được khuyến khích tổ chức các hoạt động hợp tác với các trường đại học trong nước và quốc tế, nhằm chia sẻ kinh nghiệm và thực tiễn tốt nhất, thực hiện nghiên cứu khoa học cũng như tổ chức các hội thảo và hội nghị về những thách thức và triển vọng cho giáo dục mở và từ xa. Hướng đi sắp tới Nhìn chung, hệ thống trường đại học mở luôn nỗ lực nâng cao sự linh hoạt, tính hòa nhập và sự đa dạng để phục vụ cho người học ở mọi trình độ và thành phần xuất thân. Việc
46
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
13. CHƯƠNG TRÌNH HỌC TẬP TRỰC TUYẾN MỞ RỘNG CHO CỘNG ĐỒNG QUỐC TẾ CỦA MALAYSIA
MINISTRY OF EDUCATION MALAYSIA
Malaysia Education Blueprint 2015-2025
(Higher Education)
Tổng quan Trước sự cấp thiết phải cải cách tổng thể nền giáo dục quốc gia để đáp ứng những nhu cầu thay đổi nhanh chóng của thị trường lao động, nhu cầu xã hội, và tiến bộ vượt bậc của công nghệ, Bộ Giáo dục Đại học đã triển khai Bản Thiết kế Tổng thể Giáo dục Malaysia 2015-2025 (Giáo dục Đại học). Bản thiết kế này phác thảo những triển vọng và định hướng phát triển cho ngành giáo dục đại học, nhấn mạnh vào cách tiếp cận tổng thể và có tính đổi mới nhằm thúc đẩy học tập suốt đời trên toàn quốc và đưa chủ đề học tập trực tuyến mở rộng cho cộng đồng quốc tế vào một trong 10 trục chuyển đổi nhận thức sẽ được tiến hành để tạo lập vị thế ưu việt của nền giáo dục đại học Malaysia. Malaysia được xếp thứ bảy trong châu Á xét về tỷ lệ dân số sử dụng internet, do đó đất nước này có tiềm năng trong việc tích hợp công nghệ trực tuyến vào thực tiễn giáo dục. Mục đích của việc tăng cường giáo dục trực tuyến là giúp nhiều người hơn tiếp cận được nền giáo dục chất lượng cao, nâng cao phương pháp giảng dạy dẫn đến kết quả tốt hơn, cũng như phổ biến kiến thức và chuyên môn của Malaysia tới cộng đồng quốc tế.
độ học vấn, điều kiện tài chính hay địa điểm địa lý. Các khóa MOOC được các trường đại học Malaysia xây dựng bao trùm nhiều môn học trong cả hai lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học xã hội và được dạy bằng tiếng Bahasa Malaysia, tiếng Anh hoặc tiếng A-rập. Các khóa học trực tuyến này có thể dễ dàng được tìm thấy trên cổng thông tin Học tập Mở (https://www.openlearning.com/) - kênh chính thức dành cho tất cả các tổ chức giáo dục đại học tại Malaysia. Các khóa MOOC của Malaysia còn có thể được tìm thấy trên các kênh quốc tế như Cousera và EdX. Sự hiện diện của các khóa học trực tuyến của Malaysia trên đấu trường quốc tế giúp các người học từ các quốc gia khác làm quen với nền giáo dục đại học Malaysia. Điều này cũng tăng tính hấp dẫn của quốc gia này như là một địa điểm học tập lý tưởng.
Thực hiện Giáo dục trực tuyến mở rộng cho cộng đồng quốc tế được xem là một phương thức để cung cấp nhiều cơ hội tốt hơn cho học viên linh động học tập thông qua công nghệ thông tin và truyền thông. Bộ Giáo dục Malaysia đã đề ra một chương trình nghị sự nhắm đến mục tiêu tích hợp công nghệ trực tuyến vào giáo dục thông qua nhiều sáng kiến hợp tác với các tổ chức giáo dục đại học. Có ba chiến lược trọng yếu nhằm xây dựng khả năng khai thác công nghệ giáo dục trực tuyến của quốc gia:
• Tích hợp học tập trực tuyến vào chương trình đào tạo. Giáo dục trực tuyến đã trở thành một cấu phần quan trọng trong các khóa học tại trường đại học và có đến 70% số chương trình bắt buộc phải sử dụng mô hình học tập hỗn hợp. Các khóa học đại học phổ biến hiện đang được chuyển thành các khóa MOOC, đi đôi với các điều chỉnh thiết yếu trong phương pháp sư phạm, cách truyền đạt nội dung và phương pháp đánh giá. Hơn nữa, học tập hỗn hợp cũng được khuyến khích nhằm đảm bảo sinh viên sẽ học hỏi được những kỹ năng giúp thay đổi cuộc sống như tư duy độc lập, giải quyết vấn đề, cộng tác đội nhóm và kỹ năng lãnh đạo - những kỹ năng không thể thiếu đối với một người lao động trong thế kỷ 21.
• Xây dựng năng lực qua mạng điện tử. Các phương thức dạy và học mới dành cho giáo dục đại học buộc các trường • Mở các khoá học đại trà trực tuyến mở (massive open online courses - viết tắt MOOC). Bộ Giáo dục khuyến khích và hỗ trợ các trường đại học xây dựng các khóa MOOC cho nhiều môn học khác nhau, tập trung vào những môn có liên quan đến các lĩnh vực chuyên biệt của Malaysia như chuyên ngành tài chính ngân hàng Hồi giáo, nền văn minh Hồi giáo và nền văn minh Châu Á. Các khoá MOOC tại Malaysia không chỉ phục vụ cho sinh viên đại học mà còn nhắm đến các đối tượng học đa dạng hơn, bất kể trình
47
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
a
i s y a
l
a M
,
i
n o ti a c u d E r e h g H
i
f o y r t s i n M ©
Một người phụ nữ đang được tập tuấn cách sử dụng hệ thống cảnh báo sóng thần ở Malaysia
đại học phải nâng cấp cơ sở hạ tầng gồm phần mềm và phần cứng cần thiết cho việc học trực tuyến. Chính vì vậy, Bộ cùng với các tổ chức khác đang hỗ trợ các trường đại học mua thêm thiết bị học tập cần thiết. Ngoài ra, chương trình nghị sự cũng có kế hoạch cải thiện băng thông và độ bao phủ của mạng không dây tại Malaysia để nâng cao năng lực truyền tải video qua mạng và hội đàm từ xa.
Để gia tăng các cơ hội học tập suốt đời và mở nhiều hướng linh hoạt học lên đại học, chính phủ đã cho ra đời Giấy chứng nhận Kiến thức và Kỹ năng đã học không thông qua hệ thống trường lớp (Accreditation of Prior Experiential Learning - viết tắt APEL) do Cục Quản Lý Chất Lượng Malaysia khởi xướng. Trong khuôn khổ của APEL, kỹ năng và năng lực của từng các nhân đều có thể được đánh giá và chứng nhận bất kể họ học được bằng hình thức nào. Ngoài ra, sinh viên có thể nộp đơn xin miễn những mô-đun họ đã có kiến thức và kinh nghiệm trước đó trong các lĩnh vực liên quan. Chính nền tảng vững chắc này về việc ghi nhận và xác nhận kiến thức học trước đó của Malaysia đã tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy và tạo xu hướng chủ đạo cho học tập trực tuyến trở thành một sản phẩm giáo dục đáng tin cậy. ra cơ cấu cải thiện việc học trực tuyến tại các trường đại học Malaysia dựa trên năm tiêu chí chính: cơ sở vật chất, cơ cấu tổ chức, chương trình đào tạo và nội dung, phát triển chuyên môn, và hội nhập văn hóa học tập trực tuyến.
Bản Thiết kế tổng thể về Hội nhập văn hóa Học tập suốt đời cho Malaysia trong giai đoạn 2011-2020 hướng đến việc giải quyết các thách thức trong việc thúc đẩy học tập suốt đời ở cấp quốc gia và vạch ra những nguyên tắc chỉ đạo và hành động để đảm bảo học tập suốt đời có thể phát triển thành công tại Malaysia. Một trong những mục tiêu kinh tế được đề ra trong bản Kế hoạch lần thứ 11 của Malaysia năm 2016 – 2020 chính là rút ngắn sự khác biệt về thu nhập giữa các công dân và cải thiện sinh kế cho dân nghèo bằng cách khơi thông tiềm năng lao động của họ thông qua các hình thức học tập đa dạng: giáo dục chính quy, không chính quy và phi chính quy. Kết quả đạt được Theo báo cáo năm 2016 của Bộ Giáo dục Đại học, 20 trường công lập tại Malaysia đã mở 219 khóa MOOC, với tổng lượng học viên tham gia là 218.806 từ hơn 80 nước khác nhau. Trong cùng năm đó, 53.666 sinh viên năm nhất đã học các khóa MOOC như khóa học bắt buộc tại các trường đại học khác nhau tại Malaysia. Bộ đang đưa ra mục tiêu mỗi trường đại học công lập phải cung cấp 15 khóa học MOOC. Năm 2014, có 5 trường đại học ở Malaysia nằm trong nhóm 500 trường đại học hàng đầu do Bảng xếp hạng đại học thế giới của tổ chức giáo dục Quacquarelli Symonds (Anh Quốc) bình chọn. Thành tích này phần lớn nhờ vào hoạt động tích cực của trường về các khóa học MOOC.
Hướng đi sắp tới Bộ Giáo dục Đại học lên kế hoạch thành lập một Trung tâm Quốc gia về Học tập trực tuyến; trung tâm này sẽ đóng vai trò là một tổ chức hỗ trợ việc xây dựng các khóa học trên nền tảng kỹ thuật số, tạo diễn đàn hỗ trợ các bên liên quan trình bày và chia sẻ những thực tiễn tốt nhất về học tập trực tuyến, đặc biệt là các khóa MOOC. Các trường đại học cần phải tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc để mọi thành Các chính sách hỗ trợ và khung thể chế Bộ Giáo dục Đại học dự định sẽ tiếp tục thúc đẩy việc học thông qua công nghệ thông tin và truyền thông theo các bước và sáng kiến được phác thảo ra trong Bản Thiết kế Tổng thể Giáo dục Malaysia 2015-2025 (Giáo dục Đại học), với mục tiêu đưa giáo dục Malaysia sánh tầm với những chuẩn mực quốc tế cao nhất. Chính sách Quốc gia về Học tập trực tuyến (Dasar e-Pembelajaran Negara - viết tắt DePAN) đưa
48
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
n o ti a c u d E
l
a c i
n h c e T
i
e n u r B f o e t u t ti s n
I
©
Các học viên trong khóa học Khung Năng lực Ngành Công nghiệp tại Brunei Darussalam
năm 2013, chương trình đã đạt được những kết quả tốt đẹp với tỷ lệ ra trường có việc làm hơn 80%. Sự hợp tác giữa các lĩnh vực khác nhau trong giáo dục nghề nghiệp luôn được hỗ trợ bởi tầm nhìn và chính sách quốc gia. ISQ chính là lời đáp cho lời kêu gọi của Quốc vương cần đánh giá lại giáo dục nghề nghiệp và kỹ thuật để lĩnh vực giáo dục này có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu của ngành công nghiệp và thị trường việc làm.
14. CÁC CHỨNG CHỈ KỸ NĂNG CÔNG NGHIỆP
TẠI BRUNEI DARUSSALAM
phần tiềm năng có thể tham gia tích cực vào việc dạy và học trực tuyến. Thêm vào đó, cơ chế chuyển đổi tín chỉ dành cho sinh viên hoàn thành các khóa MOOC cũng sẽ được áp dụng tại tất cả các trường đại học Malaysia nhằm thúc đẩy tính liên thông trong hệ thống giáo dục đại học trên toàn quốc. Ngoài ra, cán bộ giảng dạy nên tham gia các khóa tập huấn về phương pháp giảng dạy, xây dựng nội dung chương trình, và các phương pháp đánh giá khi xây dựng hoặc điều hành một khóa MOOC. Cuối cùng, cần phải tích cực quảng bá học tập trực truyến để nâng cao nhận thức về lợi ích và cơ hội của nó cũng như giúp các trường đại học Malaysia, các học giả cũng như các sinh viên có thể làm quen với công nghệ số trong giáo dục.
Thực hiện Theo Khung Năng lực Ngành năng lượng, ISQ tập hợp những khóa học được thiết kế để đào tạo thanh thiếu niên chưa có việc làm trong sáu nghề sau: thợ lắp ráp, công nhân dàn khoan, thợ hàn, thợ giàn giáo, tài xế xe hạng nặng, họa sĩ thiết kế công nghiệp để họ có thể gia nhập vào ngành công nghiệp. Chương trình này được Bộ Giáo dục, và Vụ Năng lượng và Công nghiệp thuộc văn phòng Thủ tướng (Energy and Industry Department of the Prime Minister’s Office - viết tắt EIDPMO) đồng sáng lập năm 2013, kết hợp tham khảo ngành dầu khí, và được IBTE đưa vào giảng dạy cùng năm đó. Các khóa học ISQ cũng là một cách xây dựng hình ảnh tích cực của ngành đào tạo nghề tại Brunei bằng việc cấp chứng chỉ được quốc tế công nhận, tổ chức các buổi học nghề bổ ích, và hỗ trợ việc làm cho sinh viên tốt nghiệp thông qua việc gặp gỡ thường xuyên với các nhà tuyển dụng.
Tổng quan Một trong những thực tiễn đáng giá về học tập suốt đời tại Brunei chính là sự liên kết giữa nhiều ban ngành – giáo dục, công nghiệp, chính phủ - cùng với cộng đồng trong việc cung cấp giáo dục nghề nghiệp và kỹ thuật. Sự liên kết này được Viện Giáo dục Kỹ thuật Brunei (Institute of Brunei Technical Education - viết tắt IBTE) khởi xướng, một tổ chức chính phủ về giáo dục trên trung học nhằm cung cấp giáo dục thường xuyên dành cho người lớn song song với các chương trình dạy nghề toàn thời gian. Các chương trình tại IBTE được xây dựng dựa trên các tham khảo với ngành công nghiệp để bảo đảm tính tương thích với nhu cầu xã hội và kinh tế của đất nước. Một ví dụ hoàn hảo của các chương trình như vậy là chương trình đào tạo cấp Chứng nhận Kỹ năng Công nghiệp (Industrial Skills Qualification - viết tắt ISQ) dành cho thanh thiếu niên chưa có việc làm. Họ được học một trong sáu nghề trong ngành sản xuất năng lượng, ngành mang lại nguồn thu chính của quốc gia. Kể từ khi chính thức đi vào hoạt động vào Để đăng ký vào các khóa học ISQ, học viên cần phải hoàn thành giáo dục bậc trung học cơ sở hoặc giáo dục phổ thông (xem thêm National Education System for the 21st Century, SPN21, trang 92). Đối tượng học viên của các khóa học ISQ là những cá nhân không thiên về học thuật nhưng giỏi về kỹ năng thực hành. Ngoài ra, những người vừa rời khỏi ghế nhà trường mà theo học ISQ sẽ được nhận học bổng Biasiswa Pendidikan Teknikal dan Vokasional (BPTV – Chương trình Học bổng Giáo dục Nghề nghiệp và Kỹ thuật) do Vụ Kế hoạch và Phát triển Kinh
49
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
tế cấp. Cũng nên lưu ý rằng Chính phủ Brunei cấp học bổng này với ý định giúp những người vừa rời khỏi ghế nhà trường có thể học thêm những kỹ năng nghề nghiệp và kỹ thuật, để hiện thực hoá tầm nhìn của quốc gia về một lực lượng lao động lành nghề và một nền kinh tế tri thức.
dạy nghề, nơi đào tạo ra các chuyên gia, giáo sư và kỹ thuật viên cần thiết trong ngành thương mại và công nghiệp. Vấn đề có tầm quan trọng không kém là Quốc Vương kêu gọi giáo dục nghề nghiệp và kỹ thuật phải phù hợp với yêu cầu của công nghiệp và Ngài ủng hộ hướng “tiếp cận toàn dân” (IBTE, 2016, trang 14) khi mà nhiều ban ngành và cộng đồng cùng chung tay xây dựng và cung cấp giáo dục nghề nghiệp và kỹ thuật.
Hệ thống Giáo dục Quốc gia cho Thế kỷ 21 (SPN21) tập trung vào chương trình đào tạo cân bằng, phù hợp thực tiễn, năng động và khác biệt. Đây là một phần không thể thiếu để cải thiện chất lượng giáo dục nghề nghiệp và kỹ thuật. SPN21 cũng giải thích rõ việc thực thi hệ thống chứng nhận ba cấp độ dành cho giáo dục nghề nghiệp và kỹ thuật cũng như cung cấp các hướng dẫn về quá trình đánh giá kỹ năng cứng và kỹ năng mềm của học viên. Ngoài ra, chính sách này cũng thiết lập cơ chế công nhận quá trình học tập trước đó, đặc biệt là học nghề và kỹ thuật. Khi đã tham gia khóa ISQ, học viên trải qua sáu tháng đầu được đào tạo tại IBTE, sau đó là bốn đến sáu tháng tập huấn và thực tập tại các tổ chức đào tạo đã đăng ký của ngành công nghiệp năng lượng. Tất cả mọi tổ chức đào tạo đều phải được các tổ chức quốc tế công nhận để bằng cấp trao cho học viên tốt nghiệp được công nhận ở các quốc gia khác, tạo điều kiện cho họ có cơ hội làm việc cả trong và ngoài Brunei. Những tổ chức có thẩm quyền công nhận bao gồm Viện Kỹ thuật hàn, Ủy ban Đào tạo Công nghiệp Xây dựng, Hội Liên hiệp Kỹ sư Thiết bị Nâng hạ và Hội đồng thi cấp bằng Giám sát viên Quốc tế ngành Sơn và Hàn. Một phương án khác giúp đảm bảo chất lượng chính là cán bộ giảng dạy phải tham gia các hội thảo phát triển chuyên môn và nâng cao kinh nghiệm làm việc trong ngành công nghiệp thông qua các kỳ thực tập.
Việc triển khai ISQ trùng khớp với Kế hoạch Chiến lược 5 năm Giai đoạn 2013-2018; kế hoạch này đề xuất việc hiện đại hóa giáo dục nghề nghiệp và kỹ thuật tại Brunei và cũng nhấn mạnh những chủ đề bao quát như tái cấu trúc chương trình đào tạo, mở rộng lựa chọn học việc và đổi mới môi trường giảng dạy. Gần cuối kỳ tập huấn, học viên chương trình ISQ sẽ tham gia vào ngày hội việc làm IBTE. Tại sự kiện này, họ có thể gặp gỡ các nhà tuyển dụng chính phủ lẫn phi chính phủ và có cơ hội nhận được lời mời công tác có điều kiện. Với cơ hội này, học viên có thể tìm được một công việc trước khi tốt nghiệp nếu họ đáp ứng đủ mọi tiêu chí mà các nhà tuyển dụng đề ra.
Kết quả đạt được Báo cáo của Nghiên cứu Tình hình Việc làm sau Tốt nghiệp của học viên IBTE cho thấy có 93,2% học viên tốt nghiệp khóa ISQ năm 2014 đã được tuyển dụng. Tuy nhiên, con số này giảm xuống còn 87,4% đối với các học viên nhập học khóa ISQ năm 2015. Nhìn chung, ISQ đã đạt được mục tiêu IBTE đặt ra là 80% học viên có việc làm sau sáu tháng tốt nghiệp.
15. CHIẾN DỊCH KỸ NĂNG CHO TƯƠNG LAI CỦA
SINGAPORE
Hướng đi sắp tới Brunei kỳ vọng số lượng đăng ký học tại các tổ chức giáo dục nghề nghiệp và kỹ thuật sẽ tăng, và lên kế hoạch hỗ trợ về mặt cơ sở hạ tầng và kỹ thuật để giúp những tổ chức này có khả năng tiếp nhận số lượng học viên đông đảo hơn. Số lượng học viên gia tăng đòi hỏi chính phủ phải đảm bảo đủ số lượng cán bộ giảng dạy và hỗ trợ cũng như nâng cao nhận thức của họ về những điểm đổi mới trong giáo dục nghề nghiệp và kỹ thuật. Việc cung cấp liên tục các chương trình ISQ cũng như xem xét và đánh giá kết quả học tập đòi hỏi phải có sự tham gia của nhiều bên liên quan từ các khu vực công và tư.
Thành công của ISQ và các chương trình hợp tác khác với ngành công nghiệp dầu khí đã thúc đẩy việc áp dụng mô hình này vào các ngành công nghiệp khác như công nghiệp xây dựng, công nghiệp dịch vụ khách hàng và du lịch. Tất cả các chương trình này sẽ cùng định hình Khung Năng lực Ngành công nghiệp. Và đây sẽ là bước tiếp nối của Khung Năng lực Ngành công nghiệp Năng lượng, đảm bảo tính phù hợp của đào tạo nghề nghiệp và kỹ thuật đối với nhu cầu của ngành công nghiệp và sự phát triển của quốc gia.
Các chính sách hỗ trợ ISQ và giáo dục nghề nghiệp và kỹ thuật nói chung được hậu thuẫn bởi các chính sách tập trung vào giáo dục và tầm nhìn của quốc gia. Ví dụ, việc các tổ chức ISQ được công nhận chính là một đáp ứng trực tiếp trước nhiệm vụ xây dựng nền giáo dục phổ thông và đại học hàng đầu, kể cả các trường Tổng quan Vào năm 2014, chính phủ Singapore phát động chiến dịch Kỹ năng cho Tương lai, một chiến dịch quốc gia nhằm tạo cơ hội cho công dân Singapore phát triển tối đa tiềm năng bất kể họ ở độ tuổi nào. Chiến dịch này đã đánh dấu một bước tiến mới quan trọng trong việc đầu tư giúp công dân Singapore học tập và phát triển các kỹ năng và làm chủ cuộc đời mình. Chiến dịch này bao gồm nhiều sáng kiến về học tập suốt đời và phát triển kỹ năng cho người dân Singapore trong mọi giai đoạn giáo dục và nghề nghiệp. Một số chương trình nổi bật
50
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
năng đạt được. Trong khi đó, các tổ chức đào tạo trang bị cho nguồn nhân lực những kỹ năng thiết yếu trong công việc trong bối cảnh hiện tại và tương lai. Họ làm việc mật thiết với các đối tác trong ngành công nghiệp để xây dựng và cung cấp chương trình đào tạo có chất lượng cũng như cải tiến và chuyển đổi cách truyền đạt khóa học để giúp việc học tập có thể linh hoạt và dễ tiếp cận.
Chương trình
gồm có Quỹ tín dụng Kỹ năng cho Tương lai, một chương trình tài trợ cho công dân Singapore trong độ tuổi từ 25 tuổi trở lên một khoản tài trợ ban đầu là 500 đô la Singapore dùng để hỗ trợ chi phí cho các khóa học kỹ năng liên quan, và chương trình Vừa làm Vừa học các Kỹ năng cho Tương lai, một chương trình giúp bố trí công việc cho các học viên học nghề đã tốt nghiệp để họ vừa được làm và nhận lương vừa được tập huấn kỹ năng trong quá trình làm việc. Những chương trình này được hỗ trợ nhờ vào sự thành lập của Hội đồng Kinh tế Tương lai. Chiến dịch Kỹ năng cho Tương lai có nhiều chương trình, mỗi chương trình có những nhóm đối tượng khác nhau:
Nhóm đối tượng liên quan
Học viên
•Hướng dẫn dành cho Giáo dục và Nghề nghiệp •Thực tập Tăng cường •Chương trình các Kỹ năng cho Tương lai: Các chương trình Vừa làm Vừa học •Kỹ năng cho Tương lai của tôi (tiến hành theo từng giai đoạn trong năm 2017)
Người học ở độ tuổi trưởng thành
•Chương trình Kỹ năng cho Tương lai: Quỹ tín dụng •Chương trình Kỹ năng cho Tương lai: Phần thưởng Học tập chuyên sâu •Chương trình Kỹ năng cho Tương lai: Học giả •Chương trình Kỹ năng cho Tương lai: Trợ cấp tăng cường cho người làm việc lâu năm •Chương trình Kỹ năng cho Tương lai: Kêu gọi tham gia
Thực hiện Sáng kiến Kỹ năng cho Tương lai được đề xuất nhằm hỗ trợ bước phát triển kinh tế tiếp theo tại Singapore bằng cách cung cấp cơ hội về học tập suốt đời và phát triển kỹ năng cho toàn dân Singapore. Mục đích của chương trình là giúp Singapore tiến đến một nền kinh tế và xã hội tiên tiến, nơi mà các cá nhân có cơ hội nâng cao kiến thức chuyên môn và học tập thành thạo các kỹ năng không chỉ để đáp ứng các yêu cầu trong công việc hiện tại mà còn để thỏa mãn khát khao được hoàn thiện và không ngừng phát triển năng lực, trau giồi kỹ năng để hiện thực hóa những ước vọng cá nhân. Nó còn bao hàm cả tinh thần học tập suốt đời và sự tôn trọng đối với mọi kỹ năng nghề nghiệp, cũng như ghi nhận kỹ năng và sự phát triển của từng cá nhân, bất kể họ thuộc tầng lớp xã hội nào, ở độ tuổi bao nhiêu hay có bằng cấp gì. Chương trình cấp quốc gia này được mở ra dành cho mọi công dân Singapore.
Bốn mục đích chính của chiến dịch Kỹ năng cho Tương lai là:
• Hỗ trợ các cá nhân trong việc đưa ra lựa chọn đúng đắn
Chủ lao động
•Kế hoạch Nhân sự Ngành công nghiệp •Khung kỹ năng •Chương trình Kỹ năng cho Tương lai: Cố vấn Kỹ năng •Chương trình Kỹ năng cho Tương lai: Sáng kiến Phát triển Kỹ năng Lãnh đạo
trong giáo dục, đào tạo và sự nghiệp.
• Phát triển một hệ thống giáo dục và đào tạo tích hợp, chất lượng cao có thể đáp ứng được nhu cầu của nền công nghiệp đang phát triển.
Nhà cung cấp đào tạo
•iN.LEARN 2020 (Sáng kiến đổi mới việc dạy và học) •Kế hoạch Chuyển đổi trong Giáo dục và Đào tạo người lớn
• Đẩy mạnh sự công nhận từ phía các nhà tuyển dụng và tăng cường sự phát triển nghề nghiệp dựa trên kỹ năng và sự thông thạo. • Xây dựng một nền văn hóa hỗ trợ và tôn vinh học tập suốt đời.
Với sự tham gia của nhiều bên liên quan, Kỹ năng cho Tương lai có thể được xem là một “chiến dịch toàn xã hội”. Các cá nhân ở các giai đoạn khác nhau trong quá trình học tập và nghề nghiệp có thể tham gia các chương trình chiến dịch Kỹ năng cho Tương lai để làm chủ việc học của họ, phát triển kỹ năng cá nhân và đáp ứng được nguyện vọng riêng.
Các công ty, hội đoàn công nghiệp và hội liên hiệp có thể giúp phát hiện những kỹ năng còn thiếu trong ngành và cho ý kiến đóng góp giúp định hình các sáng kiến. Về phía các nhà sử dụng lao động, họ có thể hỗ trợ đào tạo nhân viên và công nhận quá trình phát triển nghề nghiệp dựa trên kỹ Một sáng kiến then chốt ở cấp quốc gia trong các chương trình trên là chương trình Kỹ năng cho Tương lai: Quỹ tín dụng, được xây dựng để khuyến khích các cá nhân phát triển kỹ năng và học tập suốt đời. Theo chương trình này, mọi công dân Singapore độ tuổi từ 25 tuổi trở lên đều đủ tư cách để nhận một khoản tài trợ từ chính phủ trị giá 500 đô la Singapore để hỗ trợ chi phí học các khóa học kỹ năng phù hợp. Bên cạnh đó cũng có những trợ cấp cho người trưởng thành độ tuổi từ 40 trở lên để khuyến khích những công dân Singapore đã đi làm lâu năm nâng cấp và cập nhật lại những kỹ năng của mình. Chương trình Kỹ năng cho Tương lai: Kêu gọi Tham gia giúp nhiều người Singapore có thể định hướng lựa chọn cho nghề nghiệp và học tập. Đây là sáng kiến vươn
51
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
chương trình Kỹ năng cho Tương lai, và trong tương lai xa đảm bảo tính cạnh tranh và công việc có chất lượng cho người dân Singapore (Bộ Giáo dục, 2016).
đến cộng đồng nhằm bổ sung những dịch vụ tham vấn và nguồn tài nguyên sẵn có cho người dân Singapore kết hợp với Hiệp hội Nhân dân, Hội đồng Phát triển Cộng đồng, Cơ quan Phát triển Nhân lực Singapore (tên tiếng Anh: Workforce Singapore, hoặc tên cũ: Singapore Workforce Development Agency), và Viện Tuyển dụng và Hỗ trợ Việc làm. Trang Web của chiến dịch Kỹ năng cho Tương lai (www.skillsfuture.sg) cung cấp thông tin chi tiết hơn cho mỗi chương trình.
Hội đồng Kinh tế Tương lai ba bên giám sát sáng kiến Kỹ năng cho Tương lai ở cấp quốc gia. Chủ tịch hội đồng là Bộ trưởng Bộ Tài chính; hội đồng này bao gồm chính phủ, các ngành công nghiệp, hội liên hiệp, và các tổ chức giáo dục và đào tạo từ nhiều ngành khác nhau, mang đến nhiều lĩnh vực chuyên môn đa dạng. Là một cơ quan nhà nước trực thuộc Bộ Giáo dục, SSG có sứ mệnh thúc đẩy chiến dịch Kỹ năng cho Tương lai bằng cách (1) phát triển một hệ thống giáo dục và đào tạo tích hợp, chất lượng cao và đáp ứng nhu cầu, (2) phát triển nền văn hóa học tập suốt đời, hướng đến sự thông thạo các kỹ năng, và (3) tăng cường sự công nhận các kỹ năng từ phía người sử dụng lao động cũng như quyền sở hữu các kỹ năng. Nhiệm vụ của SSG bao gồm việc đào tạo các nhà giáo dục người lớn; hỗ trợ các trung tâm giáo dục người lớn và các tổ chức giáo dục tư nhân; tạo điều kiện tiếp cận đào tạo chất lượng cao, đáp ứng các ngành công nghiệp; và tạo sức mạnh phối hợp giữa đào tạo trước tuyển dụng và giáo dục và đào tạo thường xuyên.
Nhiệm vụ của WSG là đảm bảo duy trì tính cạnh tranh và chất lượng công việc cho người dân Singapore trong tương lai xa. Thuộc Bộ Nhân lực, WSG giám sát về sự chuyển đổi của nhân lực địa phương và ngành công nghiệp để đáp ứng được những thách thức kinh tế đang diễn ra. Cơ quan này thúc đẩy sự phát triển, tính cạnh tranh, tính bao quát và khả năng tìm kiếm việc làm của nguồn nhân lực ở mọi cấp độ. Mối quan tâm chủ yếu của cơ quan này là giúp người lao động đáp ứng được khát vọng nghề nghiệp của họ và có một công việc chất lượng ở mọi thời điểm khác nhau trong cuộc đời, nhưng nó cũng nhấn mạnh vào nhu cầu của các chủ doanh nghiệp và công ty bằng cách hỗ trợ các doanh nghiệp duy trì khả năng cạnh tranh dù với số lượng người lao động ít hơn.
Kết quả đạt được Chương trình Kỹ năng cho Tương lai đang tiến triển rất tốt và nhận được nhiều sự quan tâm hỗ trợ để mở rộng các sáng kiến và chương trình. Tỷ lệ tham gia đào tạo của công dân Singapore trong độ tuổi lao động (từ 15 đến 64) tăng từ 32% lên 42% trong mười năm qua (Bộ Giáo dục, 2017), và ước tính có khoảng 380.000 người dân Singapore hưởng lợi từ các chương trình trong chiến dịch Kỹ năng cho Tương lai trong năm 2016 – cao hơn khoảng 8% so với năm trước. Số lượng địa điểm đào tạo được chính phủ tài trợ cũng tăng thêm 11% so với năm 2015 (Hui, 2017). Báo cáo đánh giá thường niên năm 2016 đã nêu lên nhiều kết quả khả quan của những chương trình mấu chốt như trong Hình 2.3. Chính phủ tin tưởng chiến dịch Kỹ năng cho Tương lai về lâu dài sẽ thay đổi nhận thức về một nền văn hóa học tập suốt đời và nâng cao mức độ thông thạo kỹ năng.
Hướng đi sắp tới Singapore được xem là một trong những quốc gia sở hữu nguồn nhân lực có tay nghề cao nhất thế giới. Với hệ thống giáo dục được xây dựng vững chắc, giáo dục và đào tạo tại Singapore đã tiếp nhận người học ở mọi lứa tuổi, với mọi khả năng và nền tảng học tập trước đó khác nhau (bao gồm cả việc học hỏi thông qua công việc).
Các chính sách hỗ trợ và khung thể chế Tại Singapore, hợp tác giữa Bộ Giáo dục, Bộ Nhân lực ở cấp trung ương rất mạnh. Chính phủ Singapore đã thiết lập Cơ quan Phát triển Nhân lực Singapore (Workforce Development Agency - viết tắt WDA) vào năm 2013 để thúc đẩy học tập suốt đời và tạo ra một nguồn nhân lực Singapore có tính cạnh tranh cao và đáp ứng các yêu cầu mới. Nỗ lực này đòi hỏi phải tăng tốc sự chuyển đổi từ một hệ thống đào tạo kỹ năng cho người lớn theo định hướng của chủ lao động sang một hệ thống lấy cá nhân người học làm trung tâm. Ví dụ, WDA làm việc với các tổ chức đào tạo tư nhân để thành lập những trung tâm giáo dục và đào tạo thường xuyên, cung cấp trực tiếp cho cá nhân những chương trình đào tạo chất lượng được chính phủ tài trợ.
Thành quả này có được là nhờ vào sự hỗ trợ của chính phủ trong việc khuyến khích công chúng nhìn nhận giáo dục như một quá trình xuyên suốt cuộc đời, vượt ra khỏi khuôn khổ của giáo dục chính quy, với mục đích đào tạo kỹ năng và mang lại tiến bộ cho cá nhân thay vì chạy theo bằng cấp. Điều này được hỗ trợ thông qua những nỗ lực như phát triển khung kỹ năng dựa trên từng khu vực và công nhận quá trình học tập dưới mọi hình thức khác nhau trước đó để đảm bảo tính tương hợp của bằng cấp, giúp quá trình học tập của học viên trong một hệ thống bằng cấp này có thể được công nhận trong những hệ thống khác trong cùng một cấu trúc giáo dục và đào tạo chung.
Năm 2016, WDA được tái cấu trúc thành hai cơ quan – cơ quan Phát triển Kỹ năng cho Tương lai Singapore (SkillsFuture Singapore - viết tắt SSG) và cơ quan Phát triển Nhân lực Singapore (Workforce Singapore - viết tắt WSG) – để đảm bảo thực thi hiệu quả hai ưu tiên hàng đầu của quốc gia: Chính sách và chiến lược ở Singapore được định hướng
52
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
Nguồn: www.skillsfuture.sg
Hình 2.3. Báo cáo đánh giá chiến dịch Kỹ năng cho Tương lai năm 2016
thành (Programme for the International Assessment of Adult Competencies - viết tắt PIAAC), đã chỉ ra rằng Singapore có năng lực về học tập suốt đời khá cao so với những quốc gia khác trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Freebody, 2016). theo những kết quả nghiên cứu mạnh mẽ. Viện Giáo dục Người lớn, với tư cách là một đơn vị năng động của SSG, đang nghiên cứu về những chỉ báo đo lường mức độ ảnh hưởng của các chương trình và sáng kiến của chiến dịch Kỹ năng cho Tương lai. Nghiên cứu ban đầu sử dụng số liệu từ Chương trình Đánh giá Quốc tế Năng lực của Người trưởng
53
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
Chương 3: Kết luận và câu hỏi hướng dẫn
phố học tập ‘ và ‘cộng đồng học tập’. Đối với các quốc gia có dân số già, dẫn đến tình trạng dân số trong độ tuổi lao động ngày càng cạn kiệt, cần thiết phải khẳng định sự quan trọng của mỗi cá nhân và phải trao cơ hội cho từng người để phát triển và đóng góp đến mức tối đa. Chương trước đã giới thiệu những thực tiễn chọn lọc được trình bày bởi các chuyên gia đến từ 11 quốc gia tại hội nghị chuyên gia năm 2016 về học tập suốt đời, do SEAMEO CELLL chủ trì với sự hợp tác của UIL. Hội nghị này cũng đề xuất sáu hành động chiến lược để thực hiện dưới đây (nguyên văn các đề xuất này có thể được tìm thấy trong Phụ lục):
1. TẦM NHÌN: XÁC ĐỊNH MỤC ĐÍCH CỦA GIÁO
DỤC VÀ CỦA HỌC TẬP SUỐT ĐỜI
Liệu các nước Đông Nam Á có thể chuyển đổi hệ thống giáo dục của chính họ? Các nhận xét và khuyến nghị dựa trên các báo cáo quốc gia nói trên đã được đúc kết và trình bày dưới đây. Những nhận xét và khuyến nghị này được phân nhóm căn cứ trên các nền tảng của học tập suốt đời: tầm nhìn, chính sách, chất lượng, sự công nhận và đánh giá. Những khuyến nghị có tính chất chung, áp dụng được cho tất cả quốc gia, hoặc đặc biệt đáng chú ý cũng sẽ được nhấn mạnh. Phần cuối của chương này là một số câu hỏi hướng dẫn để sử dụng cho các diễn đàn đối thoại chính sách ở các nước Đông Nam Á.
1. Thực hiện hoạt động so sánh-đối chiếu nhằm xác định những khoảng cách so với SDG 4 để thông tin cho các nhà hoạch định chính sách. 2. Xác định những thiếu sót trong việc thực hiện SDG 4 và thông tin cho các nhà hoạch định chính sách. 3. Tổ chức các hoạt động vận động để thúc đẩy học tập suốt đời. 4. Tiến hành các cuộc đối thoại đa ngành nhằm thúc đẩy học tập suốt đời và tìm kiếm sự ủng hộ từ các cơ quan chính phủ. 5. Tìm bằng chứng về các ích lợi to lớn được thu về từ học tập suốt đời. 6. Nâng cao vai trò của các cấp chính quyền địa phương và có cơ chế khuyến khích để doanh nghiệp thể hiện trách nhiệm xã hội.
Việc chấp nhận khái niệm học tập suốt đời và tiến tới xây dựng một xã hội học tập không đơn giản chỉ là công việc điều chỉnh ngân sách và kế hoạch trong những giai đoạn nhất định. Nó liên quan đến sự thay đổi nhận thức: phải có một nhận thức mới về học tập từ giáo dục mầm non đến giáo dục đại học; và một ý tưởng mới để hỗ trợ những hình thức học tập tự nhiên hoặc phi chính quy khác nhau diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi, bất kể là có nằm trong kế hoạch hay không. Nó có nghĩa là thay đổi sự hiểu biết, cách nghĩ và văn hóa của người dân - cá nhân, cộng đồng, địa phương, giới chuyên môn và doanh nghiệp - và giúp họ hiểu tại sao một hệ thống học tập suốt đời là điều cần thiết cho lợi ích của mọi người và của quốc gia.
Danh mục hành động này cho thấy các ưu tiên mà một sự hợp tác ở cấp khu vực có thể đạt được sự nhất trí khi xây dựng chương trình nghị sự chung về học tập suốt đời và các biện pháp mới để phát triển nó xa hơn nữa. Indonesia, Thái Lan và Việt Nam đang tham gia vào một nghiên cứu khám phá do Viện Giáo dục suốt đời (NILE) của Hàn Quốc chủ trì (NILE và UIL, 2017) về những lợi ích mở rộng của việc tham gia hoạt động tại các trung tâm học tập cộng đồng. Chính phủ Indonesia đã đăng cai tổ chức một loạt các hội thảo về giáo dục cộng đồng, mời chuyên gia đến từ các nước ASEAN. Những hợp tác khu vực như vậy và các cổng thông tin trực tuyến do SEAMEO CELLL, UNESCO và ASEM Lifelong Learning Hub vận hành(3) sẽ cung cấp một cơ hội để trao đổi thông tin về các thực tiễn tốt trong khu vực Đông Nam Á và các khu vực khác. Nhiều quốc gia đã ủng hộ ý tưởng có một chương trình nghị sự chung về học tập suốt đời để làm tài liệu hướng dẫn và định khung.
3 https://www.sea-lllportal.org; www.unescobkk.org/education/literacy-and-lifelong-learning; http://uil.unesco.org/lifelong-learning; http://asemlllhub.org/
Xuyên suốt các nước Đông Nam Á, có một sự nhìn nhận rõ ràng rằng nhu cầu học tập suốt đời sẽ tiếp tục được phát triển, cùng với xu hướng gia tăng tầm quan trọng của những thuật ngữ như ‘xã hội học tập’, ‘vùng miền học tập’, ‘thành Mục đích của việc đón nhận học tập suốt đời là để định hướng: để tạo ra các hệ thống học tập và xã hội học tập năng động, tạo điều kiện cho tất cả mọi người được thụ hưởng sự tiến bộ và phát triển lành mạnh. Đó chính là vấn đề của việc lời nói của một chính phủ đi đôi với những gì họ thực hiện. Đất nước thịnh vượng nhất trong số 11 quốc gia Đông Nam Á là Singapore không hề xác định một chiến lược học tập suốt đời cụ thể nào trên giấy trắng mực đen; tuy nhiên, hệ thống quản trị của nước này cho thấy một định hướng rõ ràng về hình mẫu sinh động của một xã hội thành công quan tâm đến người cao tuổi song song với việc quan tâm đến phát triển kinh tế.
54
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
2. CHÍNH SÁCH: NHỮNG CAM KẾT NHẤT QUÁN VỀ MẶT QUẢN TRỊ ĐỐI VỚI HỌC TẬP SUỐT ĐỜI
tập suốt đời.
Sự nhận thức thấu đáo là yếu tố then chốt để phát triển một sáng kiến học tập suốt đời thành công. Điều này có thể được nhìn thấy ở các quốc gia có mức độ hỗ trợ mạnh mẽ từ chính phủ, và những nơi mà ta thấy nhiều ban ngành của chính phủ ở các cấp quản lý khác nhau, các khu vực tư nhân và thương mại, và xã hội dân sự đều chung tay vào cuộc.
Để chính sách có hiệu lực, cần phải có sự cam kết cùng với các luật hỗ trợ, các quy định và nguồn tài chính. Điều này đòi hỏi một sự am hiểu và ủng hộ học tập suốt đời, một chiến lược hỗ trợ các nhà giáo dục và đội ngũ nhân viên phục vụ giảng dạy, các cơ sở hạ tầng thiết yếu và nguồn tài nguyên giáo dục. Việc đón nhận mà không hạ thấp giá trị của học tập suốt đời phải được hỗ trợ bằng sự phân cấp quản lý đáp ứng nhu cầu và sự đa dạng của từng địa phương, phương thức đánh giá hiệu quả thiết thực và một khung tài nguyên đủ mạnh. Điều này có nghĩa rằng nó phải là một quá trình phát triển có sự tham gia (participatory development process).
Trong nhận thức của một số quốc gia, học tập chính quy được xem là tách biệt với học tập suốt đời. Hệ thống giáo dục không chính quy và giáo dục- đào tạo nghề nghiệp cho thanh thiếu niên và người lớn ở vào vị thế thấp kém hơn giáo dục chính quy. Trong khi đó, một số quốc gia khác thì đã hoàn toàn xác lập nguyên tắc học tập suốt đời mang tính toàn diện. Việc đưa ra một tầm nhìn về học tập suốt đời không nhất thiết bảo đảm rằng người ta đã hiểu đầy đủ về nó hoặc nhận thức đầy đủ về những điều cần phải có của một hệ thống học tập suốt đời đúng nghĩa. Ngược lại, một số quốc gia chưa hề chính thức thông qua bất kỳ định nghĩa nào, nhưng vẫn có thể tư duy và lập kế hoạch theo một cách tiếp cận tổng thể. Các trung tâm học tập cộng đồng (TTHTCĐ) đang thể hiện rõ nét vai trò của chúng là giải pháp cho câu hỏi đến từ ngày càng nhiều quốc gia, đó là làm thế nào để tiếp cận các cộng đồng địa phương - đặc biệt là ở nông thôn, hoặc những vùng xa xôi và thiếu thốn- thông qua một hệ thống học tập suốt đời được tích hợp.
Một cách tiếp cận toàn diện và tích hợp đối với học tập suốt đời vẫn đòi hỏi phải thiết lập các ưu tiên và phân bổ nguồn lực tương ứng. Người ta thiết lập các ưu tiên căn cứ vào những lĩnh vực đang tồn tại bất cập khi đối chiếu mặt bằng giáo dục với kế hoạch phát triển tương lai của một quốc gia. Một số quốc gia tập trung vào các chương trình tập huấn cho phụ nữ vùng nông thôn, một số quốc gia khác cung cấp các hoạt động học tập cho người cao tuổi. Thái Lan hiện đang sử dụng các chương trình học tập suốt đời để giúp người nước ngoài đến sống và làm việc ở quốc gia này. Các nước khác đang đặt ưu tiên vào việc đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, cán bộ giảng dạy và cán bộ quản lý giáo dục không chính quy, qua đó nâng cao chất lượng giảng dạy.
Một ví dụ về việc hiện thực hóa cam kết chính sách bằng các kế hoạch hành động để huy động và tối ưu hóa nguồn lực là quá trình phát triển chính sách có sự tham gia của ba bên: chính phủ, nhân viên và người sử dụng lao động, hoặc là sự tham vấn và phối hợp đa ngành. Sự nhất quán về mục tiêu có thể được kiểm soát bằng cách phân tích các ưu tiên chính sách và phân bổ nguồn lực về con người và tài chính. Bên cạnh việc phân bổ nguồn lực, các khung chính sách và luật pháp của chính phủ còn phải tạo điều kiện cho việc thực hiện các chính sách như tạo cơ sở pháp lý cho sự đóng góp của các doanh nghiệp và trao quyền cho các chính quyền địa phương. Ngoài ra , chính sách và nguồn tài chính để thực thi cần phải Tất cả các nước đều nhấn mạnh nhu cầu tăng cường nhận thức cộng đồng hoặc ‘tiếp thị xã hội’ nhiều hơn đối với học tập suốt đời, và đề cập vai trò lớn hơn của các phương tiện truyền thông (TV, radio và báo chí) và của các nhà lãnh đạo cộng đồng và doanh nghiệp. Thực tế là giáo dục chính quy đang có lợi thế vượt trội so với các phương thức dạy và học khác, chẳng hạn như các chương trình tương đương và các trường đại học mở. Nhiều chương trình “thay thế” này không tiếp cận được nhóm mục tiêu dự kiến hoặc bị xem là ‘có giá trị thấp’; vấn đề này có thể được giải quyết bằng cách định hướng truyền thông. Các nhà lãnh đạo địa phương cũng có thể định hướng tương lai của việc học suốt đời trong các lĩnh vực tương ứng mà họ chịu trách nhiệm. Báo cáo của CHDCND Lào cho biết việc tiếp cận tất cả các lĩnh vực đã thúc đẩy Bộ Giáo dục và Thể thao của họ có một cách nhìn mới mẻ về việc học tập để xét đến tất cả các hình thức học tập khác nhau. Cần có các hoạt động vận động bên ngoài ngành giáo dục trong nỗ lực xác định mục đích xã hội của giáo dục và học
55
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
được bảo đảm nhất quán từ các cấp thành phố / huyện xuống các trường / trung tâm giáo dục. Sự eo hẹp về nguồn lực sẽ ảnh hưởng đến cơ sở hạ tầng nói chung cũng như đến nhân sự của từng lớp học cụ thể và của cả TTHTCĐ. Khi có đủ nguồn lực, các hệ thống này có thể thúc đẩy việc học tập qua lại và việc trao đổi các thực tiễn tốt giữa các địa phương với nhau. Những điều này có thể được tiến hành thuận lợi hơn nếu biết tổ chức phân cấp tốt và nâng cao hiệu lực quản lý ở quy mô nhỏ.
3. CHẤT LƯỢNG: CUNG CẤP CÁC CƠ HỘI HỌC
TẬP CÓ CHẤT LƯỢNG MANG TÍNH HÒA NHẬP VÀ CÔNG BẰNG CHO TẤT CẢ MỌI NGƯỜI
cải thiện đào tạo kỹ năng nghề ở các trường trung học và các chương trình giáo dục tương đương để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động và nâng cao chất lượng dạy và học. Việc sử dụng các công nghệ hiện đại trong giáo dục, ví dụ như thông qua các trường trung học mở ở Philippines và các trường đại học mở ở Malaysia và Việt Nam, được cho là không chỉ để dân chủ hóa việc tiếp cận giáo dục mà còn để cung cấp thêm nhiều trải nghiệm học tập cá nhân hoá, mang tính mô-đun và trực tuyến linh động cho tất cả mọi người. Khuyến nghị được đưa ra là cần phải hỗ trợ cả giáo viên lẫn người học trong việc sử dụng công nghệ.
4. GHI NHẬN KẾT QUẢ TỪ TẤT CẢ CÁC HÌNH
THỨC HỌC TẬP
Một điểm quan trọng nữa là sự công nhận các hình thức học tập đã có từ lâu đời, đôi khi còn được gọi là trí tuệ bản địa. Điều này phản ánh mức độ cao về sự đa dạng văn hoá ở các nước Đông Nam Á, đặc biệt là ở các cộng đồng xa xôi, ở những nơi mà người dân thường phải đối mặt với nhiều thiệt thòi đáng kể. Các nỗ lực để thúc đẩy hòa nhập cần phải lưu ý đến sự cần thiết phải cung cấp thông tin và trao quyền cho những cộng đồng như vậy thông qua một nền giáo dục có chất lượng tốt và sự thừa nhận tầm quan trọng của tri thức bản địa, thay vì gò ép họ vào một mô hình mang tính áp đặt về mặt hành chính. (Pillai, 2015).
Bồi dưỡng năng lực của giáo viên và cán bộ giảng dạy được xem là một ưu tiên ở hầu hết các nước Đông Nam Á. Điều này liên quan đến việc đào tạo giáo sinh và bồi dưỡng, phát triển giáo viên một cách bài bản và hàm ý học tập suốt đời phải được thể hiện xuyên suốt trong nội dung, chương trình và phong cách giảng dạy. Những gì được gọi là ‘chương trình ẩn’ cũng có tầm quan trọng như bản thân sách giáo khoa và các bài thi kiểm tra, đánh giá. Việc dạy học sáng tạo, hướng đến khả năng thích nghi và sự tháo vát - nhằm mục đích tạo ra những công dân và người lao động năng động - sẽ không bao giờ thành công nếu môi trường lớp học là gò bó, cứng nhắc, học sinh thì thụ động vâng lời hoặc giáo viên được xem là những vị thánh trên bục giảng. Đây không phải là cơ sở đáng tin để hình thành các cá thể tự định hướng, tự tin, có thể thực hiện đầy đủ quyền công dân và tham gia tích cực vào các hoạt động phát triển cộng đồng.
Việc công nhận và chuyển đổi tín chỉ học tập là một vấn đề nan giải đối với hệ thống giáo dục đại học ở nhiều nước trong nhiều năm. Các nguyên tắc về sự công bằng và tiếp cận mở là rất rõ ràng, nhưng trong nhiều trường hợp việc thực hiện các nguyên tắc này hoàn toàn không dễ dàng. Ở những nơi không có cơ quan kiểm định cấp quốc gia, việc cung cấp các cơ hội học tập và giáo dục thông qua hệ thống đại học mở hoặc các khoá học đại trà trực tuyến mở (MOOC) được xem là giải pháp chủ yếu để xây dựng công cụ đánh giá và cấp chứng nhận đối với các kết quả học tập đạt được bên ngoài hệ thống giáo dục chính quy.
Một mối quan tâm chung có tầm quan trọng xuyên suốt khu vực này là sự tiếp cận giáo dục cho mọi người: làm sao để các hoạt động học tập suốt đời đến được với mọi người một cách dễ dàng hơn thông qua các phương cách khác nhau. Một trong các phương cách được đề xuất ở nhiều nước chính là thông qua các TTHTCĐ. Phương cách này cung cấp sự hỗ trợ dạy và học phi chính quy tại các địa điểm quen thuộc và gần gũi nơi người dân sinh sống. Sự ủng hộ rộng rãi cho TTHTCĐ trong khu vực là bằng chứng cho thấy nhận thức về tầm quan trọng của việc cung cấp các không gian địa phương cho phép người dân học tập theo nhóm.
Một số nước (như CHDCND Lào và Myanmar) đề xuất việc Có thể nhận thấy sự xung đột được thể hiện trong một số báo cáo quốc gia giữa việc (ưu tiên) công nhận các kết quả học tập diễn ra bên ngoài cũng như bên trong các hệ thống chính quy và nhu cầu cấp bách về việc ngăn ngừa lãng phí và tăng tỷ lệ theo học cũng như nâng cao kết quả học tập ở các
56
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
cấp học phổ thông và dạy nghề. Đối với một số người học, họ hài lòng với lợi ích của giáo dục không chính quy mang tính thực dụng, không cần đem lại chứng chỉ văn bằng - ví dụ như cách nuôi dạy con cái và các mối quan tâm khác của gia đình, hoặc kỹ năng nuôi trồng hoặc kiến thức về sức khỏe. Trong khi đó một số quốc gia lưu ý đến tâm lý ưa chuộng bằng cấp và giáo dục chính quy của cộng đồng. ở phương diện rủi ro và đánh giá: thời đại của giám sát, đánh giá chất lượng và hiệu quả, và đánh giá dựa-vào-giá-trị-đồng- tiền-bỏ-ra. Văn hóa quản lý mới này đã phát triển nhanh chóng, đặc biệt là ở những nước mà sự bao cấp và kiểm soát trực tiếp của nhà nước đã nhường chỗ cho các mối quan hệ đối tác công-tư, những dịch vụ theo hợp đồng thuê ngoài và vai trò ngày càng tăng của khu vực tư nhân trong việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ, kể cả giáo dục.
Một sự xung đột khác đến từ khái niệm TTHTCĐ và các thiết chế học tập phi chính quy khác trong cách nhìn từ hai phía. Theo khái niệm ban đầu thì TTHTCĐ cung cấp thuần túy việc học tập phi chính quy, nhưng thực tế lại có áp lực từ chính phủ cũng như những bên liên quan khác muốn định hướng và đánh giá những thiết chế này theo lăng kính của giáo dục chính quy. Áp lực này làm phai nhạt tầm nhìn của TTHTCĐ là các trung tâm cung cấp việc học tập phi chính quy linh động, nơi người học có thể tùy ý học những gì họ chọn theo cách riêng của họ.
Cho đến nay, các hệ thống và thể chế đều được đánh giá thông qua các biện pháp định lượng. Vấn đề đặt ra với cách đánh giá này là nó không xét đến những kết quả tổng thể và mang tính chất văn hoá, dài lâu và khó-có-thể-đo-lường; mà những lợi ích này thì thậm chí là còn có giá trị hơn nhiều so với những lợi ích xét về mặt hiệu quả ngắn hạn. Các khía cạnh thuộc về văn hóa, tuy khó nhận thấy ngay nhưng lại đem đến sự công nhận và chấp nhận khái niệm học tập suốt đời cốt lõi, có thể bị bỏ quên trong cách đánh giá định lượng. Điều này dẫn đến việc một số thông tin có giá trị sẽ bị mất đi. Các hình thức đánh giá quá trình và có sự tham gia, (formative and participatory forms of assessment) do tiếp nhận thông tin phản hồi và cải tiến một cách liên tục, nên tốt hơn các phương pháp đánh giá tổng kết (summative approaches), mặc dù chúng có xu hướng tốn kém hơn.
5. ĐÁNH GIÁ: THIẾT LẬP MỤC TIÊU VÀ CÁC CHỈ
SỐ ĐỂ THEO DÕI VÀ ĐÁNH GIÁ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI
Một câu hỏi cho tất cả các nước liên quan đến việc công nhận kết quả học tập là sự công nhận này sẽ được xã hội nhìn nhận ra sao và ở mức độ nào, dưới góc nhìn của cá nhân người học. Ở một số khu vực trên thế giới, nơi người ta đã đầu tư rất nhiều công sức để thiết kế các lộ trình, cầu nối và các liên kết khác để chuyển đổi tín chỉ, có vẻ như số trường hợp thành công vẫn còn khá nhỏ, còn con số bị khước từ công nhận thì lớn hơn. (Coles, 2006).
Một số báo cáo nêu ra những thách thức khác liên quan đến việc xác định các đối tượng không được tiếp cận với giáo dục và tìm hiểu nhu cầu học tập của họ. Các nhà nghiên cứu giáo dục tại Philippines, lo ngại về tỉ lệ hoàn thành thấp trong các khóa MOOC và các khóa học eLearning cấp tín chỉ, đề nghị cần nghiên cứu thêm về phương pháp xác định đối tượng người học mục tiêu, cải thiện mô hình giảng dạy và hệ thống hỗ trợ người học. Singapore đang lên kế hoạch nghiên cứu sâu rộng về phát triển nguồn nhân lực giáo dục cho người lớn và phương pháp sư phạm dành cho người lớn để cung cấp thông tin hoạch định chính sách.
Theo dõi và đánh giá (M&E) bao gồm: thiết lập mục tiêu và các chỉ số để đánh giá học tập suốt đời; đánh giá có sự tham gia; công cụ để theo dõi việc thực hiện; và các chỉ số để đánh giá. Các quy trình theo dõi tốt nhất là mang tính quá trình (formative) - tập trung vào việc nâng cao chất lượng chứ không chỉ là đánh giá chất lượng. Mặc dù người ta đã có các chỉ số để theo dõi sự tham gia và hoàn thành trong lĩnh vực giáo dục chính quy và không chính quy, nhiều quốc gia vẫn đang ở trong các giai đoạn sơ khai của việc đánh giá tác động và hiệu quả của học tập suốt đời.
Chúng ta đang sống trong thời đại mà mọi thứ đều được nhìn Một vấn đề khác là độ tin cậy của các đánh giá không chỉ phụ thuộc vào sự lựa chọn chỉ số đúng đắn mà còn vào năng lực thu thập đầy đủ dữ liệu. Mặc dù chúng ta đang nhanh chóng chuyển sang kỷ nguyên của những ‘Dữ liệu lớn’ (Big data) và các phép tính toán siêu phức tạp, công việc thu thập dữ liệu có thể là quá tốn kém và khó khăn, thậm chí là bất cập đối với nhiều quốc gia. Vấn đề không chỉ là dữ liệu nào thì kết quả
57
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
sự về học tập suốt đời tại các quốc gia Đông Nam Á, mời các quốc gia tổ chức đối thoại đa ngành tập trung vào các phương pháp tiếp cận tích hợp và toàn diện đối với giáo dục và học tập suốt đời. Báo cáo này đề xuất các câu hỏi chính sau đây để lựa chọn, tùy thuộc vào bối cảnh của từng quốc gia, nhằm thảo luận bổ sung ở các cấp cơ sở, cấp bộ và cấp quốc gia:
6. CÁC CÂU HỎI ĐỂ THẢO LUẬN
ấy mà còn là tình trạng trút gánh nặng thu thập dữ liệu cho nguồn nhân sự ở cấp thấp nhất đang phục vụ trong hệ thống học tập suốt đời. Tệ hơn nữa là việc thu thập dữ liệu có thể bị yêu cầu phải tiến hành thường xuyên, dưới nhiều hình thức khác nhau, bởi các có cấp thẩm quyền khác nhau cùng hệ thống của họ. Vì vậy, cần lưu ý để việc thu thập dữ liệu không tạo ra những hệ quả bất lợi ở mức độ lớn hơn là những lợi ích mà bản thân công việc theo dõi và đánh giá (M&E) mang lại. Nghiên cứu về nhu cầu học tập suốt đời sẽ cung cấp cơ sở cho việc thiết kế nội dung giảng dạy và học tập cũng như các phương thức và thời gian học tập. Cần tiếp tục khuyến khích và hỗ trợ nghiên cứu thêm về học tập suốt đời. • Cần làm gì để đưa khái niệm học tập suốt đời vào quá trình phát triển và cải cách giáo dục cũng như các kế hoạch quốc gia? Trong bối cảnh của nước ta thì các chính sách và chiến lược về học tập suốt đời cần phục vụ những mục đích nào?
• Trong điều kiện hiện tại về giáo dục và học tập suốt đời ở nước ta, ai là những nhóm người học ưu tiên và chúng ta đang phải đương đầu với những thách thức khẩn cấp và quan trọng nào để đảm bảo giáo dục hòa nhập và công bằng?
• Chúng ta có thể phát triển những chiến lược nào để mở rộng việc cung cấp cơ hội học tập phong phú và đa dạng cùng một lộ trình học tập linh hoạt cho người học?
• Chúng ta có thể xây dựng các cơ chế phối hợp và huy động nguồn lực ra sao để hỗ trợ các sáng kiến về học tập suốt đời?
• Chúng ta có thể làm gì để cung cấp các cơ hội học tập có chất lượng cho cộng đồng địa phương cũng như thông qua hệ thống học tập trực tuyến và các mô hình học tập hỗn hợp?
• Chúng ta có thể làm gì để hỗ trợ công tác giám sát và đánh giá việc học tập suốt đời ở nước ta theo tinh thần của Khung Hành động giáo dục 2030 và Chương trình nghị sự 2030 về Phát triển Bền vững?
Để xây dựng một chương trình nghị sự về học tập suốt đời, các nước Đông Nam Á cần phải hình thành một nhóm các chuyên gia được gọi là các ”tác nhân thay đổi” (change agents) chuyên sâu về học tập suốt đời, những người nghiền ngẫm một cách có hệ thống các kinh nghiệm, vận dụng tốt các chính sách và thực tiễn để lên kế hoạch, tự đánh giá và thực hiện tốt hơn. Điều này phải được thực hiện trong bối cảnh của một thế giới đầy biến động, với tầm nhìn và hy vọng được đề xuất trong Chương trình nghị sự 2030 về Phát triển Bền vững. Chúng ta không chỉ làm việc trên cương vị của các nhà giáo dục, nhà hoạch định và nhà phát triển cộng đồng mà còn với tư cách là công dân của cộng đồng, quốc gia, khu vực và thế giới chung của mọi người. Như lẽ thường thấy, chúng ta cần phải đáp ứng các yêu cầu toàn cầu trong các ngữ cảnh địa phương cụ thể và đa dạng; và kết nối thông qua các mối giao tiếp từ dưới lên và từ trên xuống. Điều này có nghĩa là phải học cách lắng nghe và làm thế nào để cụ thể hóa các chính sách quốc gia sao cho vẫn hướng về mục tiêu chung nhưng mặt khác không làm mất đi tính đa dạng của các địa phương.
SEAMEO CELLL mời độc giả đăng tải kết quả của những cuộc thảo luận này và những diễn biến hoặc thực tiễn mới tại Cổng thông tin trực tuyến về Học tập suốt đời ở Đông Nam Á (https: //www.sea-lllportal.org). Để phát triển và mở rộng đội ngũ các tác nhân thay đổi này, dự án SEAMEO- UNESCO, Hướng đến một chương trình nghị
58
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ ĐỌC THÊM
Anon. 2017. Lifelong learning is becoming an economic imperative. The Economist [online], 14 January. Available at: http://www.economist.
com/node/21714169/print [Accessed 7 July 2017].
ASEAN Secretariat. 2015. Report of the ASEAN Regional Assessment of MDG Achievement and Post-2015 Development Priorities. Jakarta,
ASEAN. Available at: http://www.asean.org/?static_post=report-of-the-asean-regional-assessment-of-mdg-achievement-and-post-2015-
development-priorities [Accessed 7 July 2017].
Coles, M. 2006. A review of international and national developments in the use of qualifications frameworks. Torino, European Training
Foundation. Available at: http://www.etf.europa.eu/web.nsf/pages/A_review_of_international_and_national_developments_in_the_use_
of_qualifications_frameworks [Accessed 7 July 2017].
ILO (International Labour Organization). 2016. ASEAN in transformation: The perspectives of enterprises and students on future work. Geneva,
ILO. Available at: http://www.ilo.org/public/english/dialogue/actemp/downloads/publications/2016/asean_in_transf_2016_r3_persp.pdf
[Accessed 7 July 2017].
Medel-Añonuevo, C. 2001. Practicing lifelong learning in Asia in the 21st century. Hamburg, UNESCO Institute for Lifelong Learning.
Myanmar Ministry of Education. 2017. National education strategic plan 2016–21. Nay Pyi Taw, Government of Myanmar. Available at: http://
resources.mmoe.myanmarexam.org/docs/nesp/NESP_Blueprint_English.pdf [Accessed 7 July 2017].
National Institute for Lifelong Education and UNESCO Institute for Lifelong Learning. 2017. Synthesis report on the state of community learning
centres in six Asian countries: Bangladesh, Indonesia, Mongolia, Republic of Korea, Thailand and Viet Nam. Hamburg, UIL. Available at:
http://unesdoc.unesco.org/images/0024/002475/247555e.pdf [Accessed 7 July 2017].
Norjidi, D. 2017. B$666.5M Allocated to MoE. Article in Borneo Bulletin, March 10 2017. Available at: http://borneobulletin.com.bn/b666-5m-
allocated-moe/ [Accessed 7 July 2017].
Pillai, J. 2015. Learning with intangible heritage for a sustainable future: Guidelines for educators in the Asia-Pacific region. Bangkok, UNESCO.
Available at: http://unesdoc.unesco.org/images/0023/002323/232381e.pdf [Accessed 7 July 2017].
SEAMEO CELLL and UIL. 2016. Towards an ASEAN Lifelong Learning Agenda: Expert Meeting Report. Available at: https://www.sea-lllportal.org/
expert-meeting [Accessed 7 July 2017].
SEAMEO INNOTECH. 2014. Financing lifelong learning for sustainable development in Southeast Asian countries. Quezon City, SEAMEO
INNOTECH. Available at: http://www.seameo-innotech.org/wp-content/uploads/2014/01/01%20Lifelong%20Learning_FINAL.pdf [Accessed
7 July 2017].
Thien, R. 2016. Brunei’s national legislation passes US$4.11b budget. Asia News Network.
UIL, Ministry of Education and Training, Viet Nam and DVV International. 2013. Promoting lifelong learning for all. Advocacy brief adopted
at the workshop on national policy frameworks for lifelong learning in the ASEAN countries. Hanoi, Viet Nam, 10–11 January 2013. Paris,
UNESCO. Available at: http://unesdoc.unesco.org/images/0022/002203/220333e.pdf [Accessed 7 July 2017].
UNESCO. 2002. Open and distance learning: Trends, policy and strategy considerations. Paris, UNESCO. Available at: http://unesdoc.unesco.
org/images/0012/001284/128463e.pdf [Accessed 7 July 2017].
UNESCO. 2015. Rethinking education – Towards a global common good? Paris, UNESCO. Available at http://unesdoc.unesco.org/
images/0023/002325/232555e.pdf [Accessed 7 July 2017].
UNESCO. 2015a. Education 2030 Incheon Declaration and Framework for Action. Paris, UNESCO. Available at: http://unesdoc.unesco.org/
images/0024/002432/243278e.pdf [Accessed 7 July 2017].
UNESCO. 2016b. Education for people and planet: creating sustainable futures for all, Global education monitoring report, 2016. Paris, UNESCO.
Available at http://unesdoc.unesco.org/images/0024/002457/245752e.pdf [Accessed 7 July 2017].
UNESCO. 2017. Reading the past, writing the future: Fifty years of promoting literacy. Paris, UNESCO. http://unesdoc.unesco.org/
images/0024/002475/247563e.pdf [Accessed 7 July 2017].
United Nations Population Fund (UNFPA). 2015. Harnessing Indonesia’s demographic dividend. [Press Release 17 April 2015] Available at: http://
indonesia.unfpa.org/news/2016/09/harnessing-indonesias-demographic-dividend- [Accessed 7 July 2017].
United Nations, Overseas Development Institute and Ipsos Mori. n.d. MYWorld Analytics. Available at: http://data.myworld2015.org [Accessed
7 July 2017].
A. Tài liệu tham khảo tổng quát
59
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
Brunei Darussalam:
Brunei Darussalam Teacher Academy. n.d. Brunei Darussalam Teacher Academy: By Teachers, for Teachers [PowerPoint].
Institute of Brunei Technical Education (IBTE). 2013. Transforming technical and vocational education. White Paper. Available at: https://ibte.
edu.bn/ibte-white-paper/ [Accessed 7 July 2017].
Institute of Brunei Technical Education (IBTE). 2017. An overview of lifelong learning opportunities in Brunei Darussalam. National report for
SEAMEO CELLL/UIL project.
Ministry of Education. 2013. The national education system for the 21st century (SPN21). Available at: http://www.moe.gov.bn/spn21dl/
SPN21%20ENG%20(2013)%20COMPLETE.pdf [Accessed 7 July 2017].
Ministry of Education. 2015. Brunei Darussalam: Education for All 2015 national review. Available at: http://unesdoc.unesco.org/
images/0023/002305/230503e.pdf [Accessed 7 July 2017].
Ministry of Education. Strategic Plan 2012–2017. Available at: http://www.moe.gov.bn/SitePages/Strategic%20Plan%202012-2017.aspx
[Accessed 7 July 2017].
OECD. 2013. Economic outlook for Southeast Asia, China and India 2014. Structural Policy Country Notes: Brunei Darussalam. Washington DC,
World Bank.
Tajuddin, S.Z.K. 2015. Developing school leaders as instructional leaders: BPSSL. [PowerPoint].
Cambodia:
Department of Non-Formal Education, Ministry of Education, Youth and Sport. 2017. National Report on Lifelong Learning through CLCs in
Cambodia. National report for SEAMEO CELLL/UIL project.
Ministry of Education, Youth and Sport. 2016. Community Learning Centers in Cambodia. [PowerPoint] SEAMEO CELLL Expert Meeting, Ho Chi
Minh City, 3–5 October 2016.
Ministry of Education, Youth and Sport. 2016. Education, youth and sport performance in the academic year 2015–2016 and goals for the
academic year 2016–2017. Available at http://www.moeys.gov.kh/en/education-congress-2017/reports.html#.WQWTu8YlGUk [Accessed 7
July 2017].
Indonesia:
Hasbi, M. 2016. Best practises of lifelong learning, gender responsive adult education [PowerPoint]. SEAMEO CELLL Expert Meeting, Ho Chi
Minh City, 3–5 October 2016.
Ministry of Education and Culture. 2017. Gender mainstreaming in education. National report on successful policies and practices in lifelong
learning: Case of Indonesia. National report for SEAMEO CELLL/UIL project.
Ministry of National Development Planning/National Development Planning Agency (BAPPENAS). 2013. Review of a Decade of Gender
Mainstreaming in Education in Indonesia: Summary Report, ACDP 005.
OECD/Asian Development Bank. 2015. Reviews of national policies for education. Education in Indonesia: Rising to the challenge. Paris, OECD.
Lao PDR:
Lao PDR. 2013. National Growth and Poverty Eradication Strategy. Available at: http://www.la.undp.org/content/lao_pdr/en/home/library/
poverty/NGPES.html [Accessed 7 July 2017].
Ministry of Education and Sports. 2016. Presentation of SEAMEO CELLL’s ‘Towards an ASEAN Lifelong Learning Agenda’ project. SEAMEO CELLL
Expert Meeting, Ho Chi Minh City, 3–5 October 2016.
Ministry of Education and Sports. 2016. Successful Policies and Practices for Lifelong Learning in Lao P.D.R. National report for SEAMEO CELLL/
UIL project.
Ministry of Planning and Investment. 2016. 8th Five-year National Socio-Economic Development Plan 2016–2020. Available at: http://www.
la.one.un.org/images/publications/8th_NSEDP_2016-2020.pdf [Accessed by 7 July 2017].
Malaysia:
Ministry of Education. 2015. Malaysia Education Blueprint 2015–2025 (Higher Education). Executive summary. Available at: https://www.
um.edu.my/docs/default-source/about-um_document/media-centre/um-magazine/4-executive-summary-pppm-2015-2025.pdf?sfvrsn=4
[Accessed 7 July 2017].
B. Tài liệu tham khảo theo từng thực tiễn quốc gia
60
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
Ministry of Higher Education. 2017. Country report on lifelong learning: Malaysia. National report for SEAMEO CELLL/UIL project.
Ministry of Higher Education. n.d. Massive Open Online Courses (MOOCs). Available at: https://www.mohe.gov.my/en/student/initiative/mooc
[Accessed 7 July 2017].
Malaysian Qualifications Agency. n.d. APEL handbook for learners. Available at: http://research.utar.edu.my/ipsrweb/doc/APEL%20
HANDBOOK%20FOR%20LEARNERS%20(English%20Version).pdf [Accessed 7 July 2017].
Sahib, S. and Tapsir, S.H. 2015. MOOCs for higher education in Asia and the Pacific. Regional expert meeting on Massive Open Online Courses,
Chengdu, China [PowerPoint]. Available at: http://www.unescobkk.org/fileadmin/user_upload/apeid/HigherEdu/MOOCsHE15/MHEM_
Malaysia.pdf [Accessed 7 July 2017].
Sahib, S. and Tapsir, S.H. 2016. A Strategy for the Next Decade of Malaysian Higher Education [PowerPoint]. Available at: https://www.acu.
ac.uk/events/perspectives/datin-siti-hamisah-presentation [Accessed 7 July 2017].
Myanmar:
Ministry of Education, Department of Adult Education. 2016a. Introduction to the process to develop the alternative education subsector
framework for SEAMEO CELLL’s ‘Towards an ASEAN Lifelong Learning Agenda’ project [PowerPoint]. SEAMEO CELLL Expert Meeting, Ho Chi
Minh City, 3–5 October 2016.
Ministry of Education, Department of Adult Education. 2016b. Providing Quality, Accessible and Equitable Education for Out-of-School Children,
Youth and Adults. [PowerPoint] SEAMEO CELLL Expert Meeting, Ho Chi Minh City, 3–5 October 2016.
Ministry of Education, Department of Adult Education. 2016c. Second Chance Equivalency Programme and Out-of-school Children Initiative
Study in Myanmar (Myanmar NFPE) [PowerPoint]. SEAMEO CELLL Expert Meeting, Ho Chi Minh City, 3–5 October 2016.
Ministry of Education. 2016. National education strategic plan 2016–21. Available at: http://planipolis.iiep.unesco.org/sites/planipolis/files/
ressources/myanmar_nesp-english.pdf [Accessed 7 July 2017].
Philippines:
Bandalaria, M. D. P., Garcia, P.G., Lumanta, M.F. and Danao, A. 2017. Lifelong learning for all: The Philippines’ best practices. A country report on
successful lifelong learning practices in the Philippines. National report for SEAMEO CELLL/UIL project.
Department of Education. 2008. Five-year Information and Communication Technology for Education. Strategic plan. Available at: http://www.
cfo-pso.org.ph/pdf/8thconferencepresentation/day1/ECPangilinan04.pdf [Accessed 7 July 2017].
Midea, C.C. 2008. Open high school program [PowerPoint]. Manilla, Department of Education, Bureau of Secondary Education.
SEAMEO INNOTECH. 2015. Evaluation of the open high school program in the Philippines. Available at: http://www.seameo-innotech.org/wp-
content/uploads/2016/01/OHSP-Final-2015-December-21.pdf [Accessed 7 July 2017].
Suplido, M.L., Rodrigo, M.M. 2016. E-learning in the Philippines [PowerPoint]. SEAMEO CELLL Expert Meeting, Ho Chi Minh City, 3–5 October
2016.
Singapore:
Fang, Tai Jo. 2017. Lifelong learning policies and practices in Singapore. Singapore, Institute for Adult Learning. [National report for SEAMEO
CELLL/UIL project].
Freebody, S., Chee, Z. and Sung. J. 2016. Using PIAAC data to measure lifelong learning. Singapore, Institute for Adult Learning.
Hui, C. 2017. SkillsFuture Singapore’s goal for 2017: Reach more Singaporeans. Channel NewsAsia. Available at: http://www.channelnewsasia.
com/news/singapore/skillsfuture-singapore-s-goal-for-2017-reach-more-singaporeans-7593606 [Accessed 7 July 2017].
Minister of Finance Singapore. 2014. Speech by Mr Tharman Shanmugarathnam, Deputy Prime Minister and Minister for Finance, at the Official
Opening of the Lifelong Learning Institute on 17 September 2014 at the Lifelong Learning Institute. Available at: http://www.mof.gov.sg/
news-reader/articleid/1426/parentId/59/year/2014?category=Speeches [Accessed 7 July 2017].
Minister of Finance Singapore. 2015. Budget speech 2015 – Section C: Developing our people. Available at: http://www.skillsfuture.sg/
speeches.html/budget-speech-2015 [Accessed 7 July 2017].
Ministry of Education. 2016. SkillsFuture Singapore Agency Bill Second Reading Speech. Available at: https://www.moe.gov.sg/news/speeches/
skillsfuture-singapore-agency-bill-second-reading-speech#sthash.Esy2tbeE.dpuf [Accessed 7 July 2017].
Ministry of Education. 2017. Edusave. Available at: https://www.moe.gov.sg/education/edusave [Accessed 7 July 2017].
Ministry of Education. 2017. MOE FY 2017 Committee of Supply Debate Speech by Minister of Education (Higher Education and Skills) Ong
Ye Kung on 7 March 2017. Available at: https://www.moe.gov.sg/news/speeches/moe-fy-2017-committee-of-supply-debate-speech-by-
minister-of-education-higher-education-and-skills-ong-ye-kung [Accessed 7 July 2017].
61
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
Ministry of Manpower. 2016. Refreshed Continuing and Training (CET) masterplan. Available at: http://www.mom.gov.sg/employment-
practices/skills-training-and-development/refreshed-cet-masterplan [Accessed 7 July 2017].
Ministry of Manpower. 2016. Singapore Workforce Development Agency (Amendment) Bill 2016. Second reading speech at parliament on 16
August 2016 at Parliament. Available at: http://www.mom.gov.sg/newsroom/speeches/2016/0816-singapore-workforce-development-
agency-amendment-bill-2016-second-reading-speech-by-mr-lim-swee-say [Accessed 7 July 2017].
OECD. 2010. Singapore: Rapid improvement followed by stronger performance. Paris, OECD. Available at: https://www.oecd.org/countries/
singapore/46581101.pdf [Accessed 7 July 2017].
Singapore Government. Skills Development Fund is Established. Available at: http://eresources.nlb.gov.sg/history/events/98e1b55f-093d-
4d44-b219-d51f6a38c313 [Accessed 7 July 2017].
SkillsFuture Singapore. 2016. New statutory boards to sharpen focus on skills and employment. Available at: http://www.skillsfuture.sg/
factsheet.html/new-statutory-boards-to-sharpen-focus-on-skills-and-employment [Accessed 7 July 2017].
SkillsFuture Singapore. 2017. What’s Your SkillsFuture story? Available at: http://www.skillsfuture.sg/ [Accessed 7 July 2017].
Tong, G. C. 1997. Shaping our future: Thinking schools, learning nation. Speech by Prime Minister Goh Chok Tong at the Opening of the 7th
International Conference on Thinking on 2 June 1997 at the Suntec Convention Center Singapore. Available at: http://ncee.org/wp-content/
uploads/2017/01/Sgp-non-AV-2-PM-Goh-1997-Shaping-Our-Future-Thinking-Schools-Learning-Nation-speech.pdf [Accessed 7 July 2017].
Yang, J. and Yorozu, R. 2015. Building a learning society in Japan, the Republic of Korea and Singapore. Hamburg, UNESCO Institute for Lifelong
Learning.
Thailand:
Office of the Non-formal and Informal Education and Office of the Permanent Secretary, Ministry of Education Thailand. 2017. The Success in
expanding quality lifelong learning opportunities for communities through sub-district CLCs in Thailand. National report for SEAMEO CELLL/
UIL project.
Office of Non-formal and Informal Education, Ministry of Education. 2016. Lifelong Learning Promotion for Community Empowerment through
Sufficiency Economy Philosophy [PowerPoint] SEAMEO CELLL Expert Meeting 3–5 October 2016.
UNESCO. 2015. A Comprehensive Education Review: The Progress of Lifelong Learning and Community Learning Centers in Thailand:
Transforming the Education and Training System to Create Lifelong Learning Societies in Asia and the Pacific. Bangkok, UNESCO.
Timor-Leste:
Alquitran, R. 2016. Timor-Leste national report on successful policies and practices on lifelong learning. policy implementation of the National
Equivalency Programme [PowerPoint]. SEAMEO CELLL Expert Meeting, Ho Chi Minh City, 3–5 October 2016.
Ministry of Education. 2011. National Strategic Plan for Education 2011–2030. Available at: http://www.moe.gov.tl/pdf/NESP2011-2030.pdf
[Accessed 7 July 2017].
Ministry of Education. 2017. Successful Policies and Practices in Lifelong Learning. Focusing on the National Equivalency Education Programme
(Equivalent to Basic Education) in Timor-Leste. National report for SEAMEO CELLL/UIL project.
World Bank. 2016. Timor-Leste Second Chance Education Project. Implementation status and results report. Washington DC, World Bank.
Viet Nam:
Central VALP Office (n.d.). 20 Years of Learning and Talent Promotion, Building and Development. Available at: http://www.hoikhuyenhoc.vn/
modules.php?name=News&op=viewst&sid=4047 [Accessed 7 July 2017].
Central VALP Office. 2017. Updated Charter. Available at: http://www.hoikhuyenhoc.vn/modules.php?name=News&op=viewst&sid=2280
[Accessed 7 July 2017].
Hanoi Open University. 2016. Policies and successes in the construction of a learning society and the promotion of lifelong learning in Viet Nam.
National report for SEAMEO CELLL/UIL project.
Ho Chi Minh City Open University. 2017. Center for Distance Education. Available at: http://en.ou.edu.vn/pages/view/191/Center-for-Distance-
Education-Home [Accessed 7 July 2017].
Ho Chi Minh City Open University. 2017. Recruitment for 2017 Intake Notice. Available at: http://oude.edu.vn/announcement/thông_báo_ve_
viec_tuyen_sinh_dai_hoc_hình_thuc_dào_tao_Tu_xa_nam_2017_429/View/ [Accessed 7 July 2017].
Hoang Yen, N.T. 2012. Building a Learning Society in Vietnam: A Head Start Toward 2020’ [PowerPoint].
Viet, P.M. and Vuong, T.D. 2009. Lifelong learning and the Open University System in Vietnam [PowerPoint].
Vietnam Ministry of Education and Training. 2013. Lifelong Learning Policies and Building a Learning Society in Vietnam [PowerPoint].
62
CÁC THỰC TIỄN HỨA HẸN VỀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
Phụ lục: Các khuyến nghị và hành động chiến lược để triển khai
HƯỚNG ĐẾN MỘT CHƯƠNG TRÌNH NGHỊ SỰ VỀ HTSĐ TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á KHUYẾN NGHỊ/TUYÊN BỐ TẠI CUỘC HỌP SEAMEO- UNESCO (THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NGÀY 4-5/10/2016)
PHẦN MỞ ĐẦU
KHUYẾN NGHỊ Các nước thành viên SEAMEO đề xuất: • Xây dựng chính sách hoặc pháp luật quốc gia để thúc đẩy học tập suốt đời cho tất cả mọi người là một phần không thể tách rời trong sự phát triển kinh tế xã hội của quốc gia và là một thành phần chính của Chương trình Nghị sự về các mục tiêu phát triển bền vững.
• Thiết lập cơ chế phối hợp ở tất cả các cấp thông qua sự tham gia của tất cả các bên liên quan trong lĩnh vực học tập suốt đời.
• Phân bổ đủ nguồn lực tài chính và xây dựng cơ chế để huy động thêm kinh phí và các nguồn lực khác trên cơ sở công nhận lợi ích của việc học tập suốt đời. • Mở rộng các cơ hội học tập phong phú và đa dạng.
ĐỊNH HƯỚNG/HOẠT ĐỘNG CHIẾN LƯỢC ĐỂ THỰC HIỆN 1. Thực hiện so sánh đối chiếu để xác định khoảng cách so với Mục tiêu Phát triển Bền vững 4 và thông báo cho các nhà hoạch định chính sách.
Tài liệu này được xây dựng dựa trên: bản tóm lược các khuyến nghị chính sách thúc đẩy việc học tập suốt đời cho tất cả mọi người được đề xuất bởi Hội thảo về Khung chính sách Quốc gia về Học tập suốt đời tại các nước ASEAN tổ chức tại Hà Nội, Việt Nam vào tháng 1 năm 2013; Tuyên bố ASEAN về Tăng cường Giáo dục cho Trẻ em và Thanh thiếu niên không được đi học của Hội nghị Cấp cao ASEAN tại Viên Chăn, Lào, ngày 6 tháng 9 năm 2016; Bảy Lĩnh vực Ưu tiên của SEAMEO giai đoạn 2015-2035; và Chương trình Nghị sự về Phát triển Bền vững - Giáo dục 2030, với mục tiêu tổng quát là “Đảm bảo giáo dục chất lượng theo hướng công bằng và hòa nhập và thúc đẩy cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người”. 2. Xác định những thiếu sót trong việc thực hiện Mục tiêu
Phát triển Bền vững 4 và thông báo cho các nhà hoạch định chính sách. 3. Tổ chức các hoạt động vận động để thúc đẩy học tập suốt đời.
Cuộc họp chuyên gia của dự án Hướng tới một Chương trình nghị sự về Học tập suốt đời tại các Quốc gia Đông Nam Á do SEAMEO và UNESCO tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh với sự tham dự của 11 quốc gia vào ngày 4 và 5 tháng 10 năm 2016, mong muốn nhận được sự cam kết của các bộ trưởng giáo dục và đối tác của các quốc gia Đông Nam Á về những kết quả và khuyến nghị chính sách sau đây. 4. Tiến hành các cuộc đối thoại đa ngành về thúc đẩy học tập suốt đời và tìm kiếm sự ủng hộ từ các cơ quan chính phủ. 5. Tìm bằng chứng về các ích lợi to lớn thu về từ học tập suốt đời.
6. Nâng cao vai trò của các cấp chính quyền địa phương và có cơ chế khuyến khích để doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội.
Báo cáo này là kết quả của một dự án hướng đến việc xây dựng một chương trình nghị sự về học tập suốt đời ở các quốc gia Đông Nam Á, nhằm mục đích giải quyết những thách thức giáo dục còn tồn tại trong khu vực và đảm bảo ‘một nền giáo dục có chất lượng, mang tính hòa nhập, công bằng và thúc đẩy các cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người’ (Mục tiêu 4 của Chương trình Nghị sự 2030 về Phát triển Bền vững). Thông qua việc chia sẻ các chính sách và thực tiễn hứa hẹn trong việc tích hợp học tập suốt đời vào hệ thống giáo dục từ nhiều góc nhìn, các quốc gia có thể học hỏi lẫn nhau và hiện thực hóa trọn vẹn tầm nhìn của họ về học tập suốt đời.
Ấn phẩm này trình bày những thực tiễn hứa hẹn từ 11 quốc gia, đặc biệt tập trung vào các yếu tố then chốt trong việc thúc đẩy học tập suốt đời cho tất cả mọi người. Những yếu tố này bao gồm các thực tiễn dạy và học mang tính hoà nhập và phù hợp với giới tính, việc công nhận kết quả học tập không chính quy và phi chính quy, việc hợp tác giữa các khu vực phát triển kinh tế và xã hội cũng như các chính sách và chiến lược nhất quán của nhà nước. Báo cáo bao gồm ba phần chính: 1) phản ánh thực trạng về học tập suốt đời trong các tài liệu quốc tế và của các quốc gia trong khu vực, 2) tập hợp các thực tiễn tốt được rút ra từ các báo cáo quốc gia, và 3) đề xuất các khuyến nghị cho chính sách và chương trình thúc đẩy học tập suốt đời. Hy vọng rằng những khuyến nghị này sẽ khơi nguồn thảo luận và tạo tiền đề cho những hướng phát triển mới của khu vực, cả về phương diện chính sách lẫn thực tiễn.